[11]
Những Đại Thí Chủ trong hàng Vua Chúa
"Quả thật là vũng lầy đầy cạm bẫy hiểm nghèo
ẩn náu dưới mặt nước phẳng lặng hiền từ.
Những lễ bái, vật cúng dường và yến tiệc
của người thí chủ giàu sang,
Cũng tựa hồ như lưỡi gươm sắc bén
đâm sâu vào thịt của người lầm đường lạc nẻo,
khó mà rút ra."
--
Mahalatapilandhana Kassapa Thera Gatha (1053)
Vua Bimbisara (Bình Sa Vương)
Vua Bimbisara (Bình Sa
Vương), trị vì Vương Quốc Magadha (Ma Kiệt Đà), đóng đô tại kinh thành Rajagaha
(Vương Xá), là vị thí chủ đầu tiên của Đức Phật trong hàng vua chúa. Bimbisara
(Bình Sa Vương) lên ngôi lúc mười lăm tuổi, làm vua được năm mươi hai năm.
Khi Thái Tử Siddhattha (Sĩ Đạt
Ta) thoát ly cuộc sống trần tục, một hôm nhà vua trông thấy Ngài, một đạo sĩ
khiêm tốn, đi khất thực trên đường phố của kinh thành Rajagaha. Trông thấy
tướng mạo oai nghi và tư cách trang nghiêm sang trọng của Ngài, vua lấy làm cảm
kích, sai người đi dò thăm. Khi được biết rằng thường bữa, sau khi độ ngọ thì
vị đạo sĩ cao quý ấy ngụ tại Pandavapabbata, vua cùng với tùy tùng đến viếng
đạo sĩ, hỏi thăm người là ai, sanh trưởng ở xứ nào. Đạo sĩ Gotama (Cồ Đàm) trả
lời:
"Ngay phía trước đây, Tâu
Đại Vương, trên vùng Himalaya (Hy Mã Lạp Sơn), trong châu thành Kosala của
những gia tộc cổ kính, một quốc gia truờng thạnh và phong phú, tôi xuất thân từ
triều đại Thái Dương, dòng Sakya (Thích Ca). Tôi không luyến ái, chạy theo nhục
dục ngũ trần. Nhận thức được hiểm họa của thú vui vật chất và thấy an toàn
trong đời sống xuất gia, tôi đi tìm cái gì cao quý nhất và tâm tôi được an lạc.
[1]"
Vua Bimbisara (Bình Sa Vương)
cung thỉnh đạo sĩ Gotama (Cồ Đàm), sau khi chứng ngộ Đạo Quả, sẽ trở lại viếng
thăm Vương Quốc Magadha
(Ma Kiệt Đà).
Đức Phật Trở Lại Gặp Vua Bimbisara (Bình
Sa Vương)
Đúng theo như lời hứa, sau khi
thành đạt Đạo Quả Chánh Đẳng Chánh Giác, Đức Phật cùng đi với các đệ tử A La
Hán từ Gaya đến Rajagaha. Nơi đây Ngài ngự tại diện Suppatittha, trong một rừng
kè.
Tin lành đến tai Vua Bimbisara
(Bình Sa Vương), và lúc bấy giờ danh tiếng của vị giáo chủ vô song đã bay cùng
khắp Vương Quốc. Đức Vua đem theo rất đông quần thần, đi đón mừng Đức Phật. Vua
đến gần, cung kính đảnh lễ Phật và ngồi lại một bên. Còn những người khác,
người thì đảnh lễ một cách cung kính, người thì chào hỏi lễ phép như gặp bạn,
người thì chắp tay xá, người thì tự xưng danh tánh và cũng có người không nói
gì hết, lặng lẽ ngồi xuống. Lúc ấy phần đông dân chúng tôn kính Đức Phật và Đại
Đức Kassapa (Ca Diếp) như nhau, không biết ai là thầy. Đức Phật đọc được tư
tưởng ấy nên hỏi Ngài Kassapa (Ca Diếp) tại sao không thờ Thần Lửa nữa. Đại Đức
Kassapa (Ca Diếp) hiểu ý Đức Phật, giải thích rằng Ngài từ bỏ, không tôn thờ
Thần Lửa nữa vì Ngài chọn con đường đưa tới trạng thái an vui châu toàn, không
ô nhiễm dục vọng, đối nghịch lại những lạc thú trần tục, không bổ ích. Nói
xong, Ngài Kassapa (Ca Diếp) khấu đầu đảnh lễ dưới chân Đức Thế Tôn và xác
nhận: "Bạch hóa Đức Thế Tôn, Ngài là Đạo Sư của con. Con là đệ tử. Bạch
hóa Đức Thế Tôn, Ngài là Đạo Sư của con. Con là đệ tử."
Tất cả mọi người đều hoan hỷ.
Đức Phật nhân cơ hội, thuyết một thời pháp về Túc Sanh Truyện Maha Narada
Kassapa [2], dạy rằng trong một tiền kiếp Ngài là Narada, lúc ấy còn dục vọng,
cũng đã dìu dắt Đại Đức Kassapa (Ca Diếp) một cách tương tợ.
Nghe Đức Phật thuyết giảng, Ánh
Sáng Chân Lý rọi đến mọi người. Đức Vua Bimbisara (Bình Sa Vương) đắc Quả Tu Đà
Hườn, xin quy y Tam Bảo và thỉnh Đức Phật cùng chư vị đệ tử về cung điện thọ
trai ngày hôm sau. Khi mọi người độ ngọ xong, đức vua tỏ ý muốn biết nơi nào
thích hợp để Đức Phật lưu ngụ. Đức Phật trả lời:
"Một nơi hẻo lánh, không xa
mà cũng không gần thành thị để những ai muốn viếng Ngài, có thể đến dễ dàng.
Một nơi mát mẻ, ban ngày không đông đảo ồn ào, ban đêm yên tĩnh, khoảng khoát
và kín đáo, nơi ấy sẽ thích hợp,"
Đức Vua nghĩ rằng khu Trúc Lâm
của mình có thể hội đủ những yếu tố cần thiết ấy nên bạch với Đức Phật xin dâng
lên Đức Phật và chư Tăng khu Rừng Tre lý tưởng này, cũng được gọi là "nơi
trú ẩn của loài sóc". Khu rừng này không có nhà cửa lều cốc cho chư tỳ
khưu, nhưng có nhiều cây to bóng mát và những chỗ ẩn dật kín đáo [3]. Dầu sao,
đó là nơi được dâng cúng đầu tiên đến Đức Phật và chư tăng. Tại ngôi
Veluvanarama (Trúc Lâm Tự) yên tĩnh này Đức Phật nhập Hạ một lần ba năm liên
tiếp và ba lần khác, vào ba Hạ xa cách nhau.
Sau khi quy y, Vua Bimbisara
(Bình Sa Vương) sống đời gương mẫu của một vì vua. Ngài đều đặn nghiêm trì tám
giới (bát quan) trong sáu ngày giới (Uposatha).
Công chúa Kosala Devi, con vua
Maha Kosala và em vua Pasenadi Kosala là chánh hậu của vua Bimbisara (Bình Sa
Vương). Ajatasattu (A Xà Thế) là con bà. Khema, một bà quý phi khác, là một tín
nữ rất tinh tấn nhờ sự khéo léo của đức vua. Về sau bà Khema xuất gia tỳ khưu
ni và trở thành đệ nhất đệ tử của Đức Phật về phái nữ.
Mặc dầu rất mực minh quân và có
tâm đạo nhiệt thành, Vua Bimbisara (Bình Sa Vương) phải chịu quả xấu của tiền
nghiệp, chết một cách thê lương ảm đạm và vô cùng đau đớn.
Hoàng tử Ajatasattu (A Xà Thế)
bị Devadatta (Đề Bà Đạt Đa) xúi giục, âm mưu sát hại vua cha là Bimbisara (Bình
Sa Vương) để chiếm ngôi. Nhưng công việc bại lộ, Ajatasattu bị bắt quả tang, và
người cha đầy lòng bi mẫn không đành xử phạt xứng đáng như quần thần xin, mà
còn nhường ngôi vàng cho hoàng tử, vì thấy con thèm muốn làm vua.
Để trả ơn, vị hoàng tử bất hiếu
vừa lên ngôi liền hạ ngục cha và ra lệnh bỏ đói cho chết dần. Chỉ một mình
hoàng thái hậu được phép vào thăm. Mỗi khi đi, bà giấu đồ ăn trong túi áo đem
cho chồng. A Xà Thế hay được quở trách mẹ. Sau lại, bà giấu trong đầu tóc. A Xà
Thế cũng biết được. Cùng đường, bà tắm rửa sạch sẽ rồi thoa vào mình một thứ đồ
ăn làm bằng mật ong, đường và sữa. Vua gợt lấy món ăn này để nuôi sống. Nhưng
Ajatasattu (A Xà Thế) của bắt được, và cấm hẳn mẹ không cho vào thăm vua cha
nữa.
Lúc ấy Bimbisara (Bình Sa Vương)
cam chịu đói, nhưng lòng không oán trách con.
Ngài đã đắc Quả Tu Đà Hườn nên
thản nhiên, cố gắng đi lên đi xuống kinh thành, chứng nghiệm hạnh phúc tinh
thần.
Thấy cha vẫn vui tươi,
Ajatasattu (A Xà Thế) nhất định giết cho khuất mắt nên hạ lệnh cho người thợ
cạo vào khám, lấy dao bén gọt gót chân vua cha, xát dầu và muối vào rồi hơ trên
lửa nóng cho đến chết.
Khi người cha bất hạnh thấy thợ
cạo đến thì mừng thầm, ngỡ rằng con mình đã ăn năn hối cải, cho người đến cạo
râu tóc để rước về. Trái với sự ước mong của Ngài, anh thợ cạo đến chỉ để thi
hành lệnh dã man của Vua A Xà Thế một cách tàn nhẫn, đem lại cho Ngài một cái
chết vô cùng thê thảm.
Cùng ngày ấy, vợ Ajatasattu (A
Xà Thế) hạ sanh một hoàng nam. Tin lành đến cùng lúc với tin vua cha Bimbisara
(Bình Sa Vương) băng hà trong ngục thất.
Tin chánh hậu hạ sanh hoàng nam
được đọc trước. Nỗi vui mừng của A Xà Thế không sao kể xiết. Cả người cảm nghe
nhẹ nhàng vui sướng. Tình thương của một người cha lần đầu tiên chớm nở trong
lòng, mặn nồng sâu sắc, thấm vô từng khớp xương ống tủy. Đứa con đầu lòng là
một nguồn yêu thương, là cơ hội để cha mẹ thưởng thức một tình tôn giáo mới mẻ
đậm đà, vô cùng trong sạch. Cảm giác đầu tiên của người mới được đứa con đầu lòng
dường như đưa họ vào một cảnh giới kỳ lạ, khiến họ có cảm tưởng rằng máu huyết
mình đã nhỏ giọt ra để nối tiếp mình.
Tức khắc Ajatasattu vội vã chạy
đi tìm người mẹ yêu dấu và hỏi: "Thưa Mẫu Hậu, khi con còn nhỏ, phụ hoàng
có thương con không?"
-- Tại sao con hỏi lạ vậy? Mẹ
tưởng trên thế gian này không tìm đâu ra người cha lành như cha con. Để mẹ
thuật cho con nghe. Lúc mẹ còn mang con trong lòng, ngày nọ mẹ nghe thèm lạ
lùng một món kỳ lạ. Mẹ thèm nút vài giọt máu trong bàn tay mặt của cha con. Mà nào
mẹ dám nói ra. Rồi càng ngày mẹ càng xanh xao, và sau cùng phải thú nhận với
cha con. Khi nghe vậy cha con vui vẻ lấy dao rạch tay cho mẹ hút máu. Lúc ấy
các nhà tiên tri trong triều tiên tri rằng con sẽ là người thù của cha con. Do
đó, tên con là "Ajatasattu", có nghĩa "kẻ thù chưa sanh".
Mẹ có ý định giết con ngay trong lòng, nhưng cha con không cho. Khi sanh con
ra, mẹ nhớ đến lời tiên tri, nên một lần nữa muốn giết con. Một lần nữa, cha
con ngăn cản mẹ.
Một hôm, con có cái nhọt trên
đầu ngón tay, nhức nhối vô cùng, khóc suốt ngày đêm, không ai dỗ được. Cha con
đang cùng bá quan phân xử việc triều đình, nghe vậy cầm lòng không đặng, bế con
trong lòng, và không ngần ngại ngậm ngón tay của con trong miệng, nhè nhẹ nút
cho con đỡ đau. Gớm thay! Cái nhọt bể, máu mủ tuôn ra trong miệng cha con và,
sợ lấy tay ra con sẽ nghe đau, cha con nuốt luôn vào bụng cả mủ lẫn máu! Phải,
người cha hết lòng thương yêu con, vì tình phụ tử đậm đà, nhè nhẹ nuốt hết vừa
máu vừa mủ.
Nghe đến đó Vua Ajatasattu bỗng
đứng phắt dậy, kêu lên như điên: "Hãy chạy mau, thả ra lập tức người cha
yêu quý của trẫm."
Than ôi, người cha yêu quý ấy đã
ra người thiên cổ!
Tin thứ nhì được trao đến tận
tay Vua Ajatasattu. Vua xúc động rơi lệ dầm dề. Bấy giờ ông mới nhận định rằng
chỉ khi bắt đầu làm cha mới biết được tình cha thương con như thế nào.
Vua Bimbisara (Bình Sa Vương)
băng hà và tức khắc tái sanh vào cảnh Trời Catummaharajika (Tứ Đại Thiên Vương)
tên là Janavassabha.
Về sau Vua Ajatasattu (A Xà Thế)
được gặp Đức Phật, trở nên một thiện tín lỗi lạc và tạo nhiều công đức trong
cuộc Kết Tập Tam Tạng lần đầu tiên.
Vua Pasenadi Kosala (Ba Tư Nặc)
Một đạ i thí chủ khác của Đức
Phật trong hàng vua chúa là Vua Pasenadi Kosala, con Vua Maha Kosala, trị vì
vương quốc Kosala, đóng đô tại thành Savatthi. Ông cùng trang tuổi với Đức
Phật, và nhờ tài đức lỗi lạc, may mắn được nối ngôi vàng lúc vua cha còn sanh
tiền [4].
Ông quy y trong những năm đầu
tiên sau khi Đức Phật bắt đầu hoằng dương Giáo Pháp. Kinh Samyutta Nikaya (Tạp
A Hàm) ghi rằng một ngày nọ vua Pasenadi Kosala đến yết kiến Đức Phật và hỏi về
Đạo Quả của Ngài, lúc ấy còn trẻ tuổi.
Đức Phật trả lời:
"Tâu Đại Vương, có bốn
chuyện không nên gạt bỏ hay khinh thường. Đó là một hoàng tử hiếu chiến
(khattiya), một con rắn, lửa và một tỳ khưu. [5]"
Và Đức Phật thuyết một thời Pháp
có ý nghĩa về đề tài này. Khi Đức Phật giảng xong, Vua Pasenadi lấy làm hoan
hỷ, xin thọ lễ quy y Tam Bảo. Kể từ ngày ấy vua trở nên một đệ tử trung kiên
của Đức Phật. Sách ghi rằng có lần nhà Vua khấu đầu đảnh lễ Đức Phật xong, ôm
hôn chân Ngài. Lòng nhiệt thành tôn kính Đức Phật của ông phần lớn cũng do sự
khôn ngoan của bà Chánh Hậu Mallika, rất sùng đạo, thông minh sáng suốt, và học
rành Giáo Lý. Trong nhiều trường hợp, bà dẫn dắt chồng trên đường đạo đức như
một người bạn chân thành.
Ngày kia vua nằm mộng liên tiếp
mười sáu lần và lấy làm bàng hoàng lo ngại [6]. Vị quân sư theo đạo Bà La Môn
bàn mộng, đoán rằng sắp có chuyện chẳng lành xảy đến đức vua và bày cho vua nên
giết trâu bò tế lễ thần linh để tránh họa. Nghe lời, vua truyền sắm sửa mọi
việc để tế thần, một nghi thức vô nhân đạo có thể làm mất mạng sống hàng ngàn
chúng sanh. Hoàng Hậu Mallika nghe tin lật đật can gián và thuyết phục vua nên
đến hầu Đức Phật, xin được giải thích. Vua nghe theo lời, đem các điềm chiêm
bao kể lại với Đức Phật và xin Đức Phật giải thích ý nghĩa. Đức Phật giảng giải
rành rẽ.
Không giống như trường hợp của
vua Bimbisara (Bình Sa Vương), vua Kosala tốt phước, được nghe Đức Phật giảng
rất nhiều bài Pháp. Trong bộ Samyutta Nikaya (Tạp A Hàm) có trọn một phần gọi
là Kosala Samyutta [7] ghi lại những lời Đức Phật dạy Vua Kosala.
Ngày nọ, khi vua đang ngồi hầu
Đức Phật, có vài đạo sĩ đi ngang qua, mình mẩy đầy lông, râu tóc xồm xoàm, móng
tay dài thườn thượt. Vua liền đứng dậy cung kính đảnh lễ và tự giới thiệu:
"Kính bạch chư đạo sĩ, Trẫm là Vua Kosala Pasenadi." Khi các đạo sĩ
đi qua, vua trở lại hầu Phật và bạch Đức Phật các vị ấy có phải chăng là những
vị A La Hán. Đức Phật giải thích rằng một người phàm, còn thích thú trong những
khoái lạc vật chất, khó mà nhận thức được ai đã đắc Quả A La Hán và ai chưa.
Đức Phật dạy:
"Nhờ sự thân cận
(Samvasena) mới biết được giới hạnh (Sila) của một người và, dầu thân cận đi
nữa, cũng phải mất nhiều thì giờ, phải thận trọng quan sát và phải sáng suốt
thông minh. Người lơ đễnh, không sáng suốt thông minh, không đủ thì giờ quan
sát, dầu có thân cận cũng không thể xét đoán đúng. Xuyên qua những cuộc đàm
thoại (samvoharena) ta có thể nhận thức trạng thái trong sạch (soceyyam) của
người khác. Trong tình trạng bất an, rối ren, nghịch cảnh, mới thấy biểu lộ
nghị lực, và trong cuộc thảo luận, mới hiểu được trí tuệ của người khác. Dầu
vậy đi nữa, cũng phải mất nhiều thì giờ, thận trọng quan sát và phải sáng suốt
thông minh."
Để tóm tắt, Đức Phật đọc bài kệ:
"Không phải do lớp trang sức bề ngoài mà con người
được biết rõ.
Trong cái nhìn thoáng qua không thể tin chắc ở sự xét đoán.
Kẻ dể duôi, không giới đức, trong thế gian mênh mông rộng lớn
Có thể sống dưới lớp y đoan trang thanh nhã của người có phẩm hạnh.
Như cái quai nồi bằng đất sét làm giả,
Hay đồng tiền chì, ngoài bọc vàng,
Người đi xa, ẩn nấp dưới lớp hóa trang,
Bên ngoài đẹp đẽ đoan trang.
Còn bên trong thì ô trược. [8]"
Là một quốc vương trị vì một
quốc gia rộng lớn, Vua Kosala không thể tránh chiến tranh, đặc biệt là với các
lân bang. Một lần kia ông phải gây chiến với người cháu, Vua Ajatasattu (A Xà
Thế) và thất bại. Nghe vậy Đức Phật dạy:
"Chiến thắng nuôi dưỡng hận thù.
Kẻ thất bại sống trong khốn khổ.
Nhưng ai từ bỏ chiến thắng và chiến bại
Sống thanh bình an lạc [9]"
Một lần khác, Vua Kosala chiến
thắng và thâu đoạt toàn thể quân đội của Vua Ajatasattu (A Xà Thế), ngoại trừ
nhà vua. Khi nghe được tin ấy, Đức Phật đọc lên những câu kệ sau đây, vẫn có
thể áp dụng trọn vẹn trong thế gian hiện tại, luôn luôn phải lo sợ một cuộc
chiến tàn khốc có thể bùng nổ bất cứ lúc nào:
"Một người có thể cướp bóc người khác,
Cũng như có thể phục vụ người kia.
Nhưng khi bị cướp,
Người kia chiếm đoạt trở lại.
Và cướp bóc, chiếm đoạt, trở đi trở lại không ngừng.
Ngày nào quả xấu chưa đủ duyên để trổ
Người cuồng si cò tưởng tượng:
'Thì giờ đã đến, đây là một dịp may!'
Nhưng khi quả trổ, phải chịu khốn khổ.
Người sát nhân gặp kẻ sát nhân.
Người xâm lăng bị chinh phục.
Kẻ hỗn hào bị chửi mắng,
Người ưa quấy rầy bị phiền nhiễu.
Vậy, theo tiến trình diễn biến của hành vi
Kẻ cướp ắt bị cướp. [10]"
Những lời Đức Phật dạy Vua
Kosala về cách xử sự với hàng phụ nữ cũng có nhiều ý nghĩa bổ ích. Một hôm Vua
Kosala đang hầu chuyện với Đức Phật thì có người đưa tin đến rằng Chánh Hậu
Mallika vừa hạ sanh công chúa. Vua không vui. Ở Ấn độ, thời xưa cũng như ngày
nay vẫn còn ở nhiều nơi, sanh con gái không được xem là một tin lành, vì một
vài lý do ích kỷ như vấn đề của hồi môn chẳng hạn. Trái hẳn với trào lưu tư
tưởng thời bấy giờ, Đức Phật bày tỏ lòng tôn trọng và ca ngợi đức tánh của
người đàn bà qua bốn đặc điểm sau đây:
"Một em bé gái, Tâu ĐạiVương, có thể
Còn quý hơn đứa con trai.
Lúc trưởng thành
Em có thể là người trí tuệ và phẩm hạnh vẹn toàn,
Biết kính nể, tôn trọng mẹ chồng, một người vợ hiền.
Đứa con mà sau này em sẽ mang vào lòng
Có thể làm nên đại sự
Và trị vì một vương quốc vĩ đại.
Đúng vậy, đứa con của người vợ cao thượng
Sẽ trở thành người hướng đạo chân chính
Cho cả một quốc gia."
Trong hàng phụ nữ có người còn
tốt hơn đàn ông. "Itthi hi pi ekacciya seyya" là nguyên văn câu Phật
ngôn. Giữa xã hội Ấn độ thới bấy giờ, trong lúc mà người phụ nữ không bao giờ
được sự kính nể xứng đáng, lời nói cao quý và đầy quả cảm ấy thật là một khích
lệ lớn lao cho nữ giới.
Khi hoàng thái hậu, nội tổ của
Vua Kosala băng hà vào năm 120 tuổi, đức vua lấy làm sầu muộn, đến bạch với Đức
Phật rằng ông có thể đổi bất cứ vật gì của ông để tìm lại sự sống của người mà
ông quý trọng và trìu mến như mẹ. Đức Phật an ủi như sau:
"Tất cả mọi chúng sanh đều
phải chết. Đời sống phải kết cuộc bằng sự chết. Cái chết luôn luôn ở ngay trước
mặt. Cũng như món đồ gốm, dầu hầm chín hay không, đều có thể bể và phải bể một
ngày nào. Đặc tính 'bể' luôn luôn dính liền với món đồ gốm. [11]"
Vua Kosala rất thích nghe Pháp.
Dầu công việc quốc gia đại sự đa đoan thế nào ông cũng cố gắng tìm cơ hội đến
viếng Đức Phật và ắng nghe thuyết giảng. Hai bộ kinh Dhammacetiya [12] và
Kannakatthala [13] Sutta được giảng trong những trường hợp ấy.
Chánh Hậu của Vua Kosala, chết
trước ông, là con gái của một người làm tràng hoa. Chị của Vua Bimbisara (Bình
Sa Vương) là một bà khác. Em gái của ông là chánh hậu của Vua Bimbisara (Bình
Sa Vương), mẹ A Xà Thế.
Vua Kosala có một hoàng tử tên
Vidudabha, về sau nổi loạn chống lại ông. Mẹ của vị hoàng tử ấy là con gái của
Mahanama dòng Sakya (Thích Ca) và bà ngoại của hoàng tử là một nô tỳ. Khi cưới
bà mẹ của Vidudabha, Vua Kosala không biết rằng bà là con của một nô tỳ. Đến
lúc Vidudabha lớn lên, nghe người trong thân tộc Sakya (Thích Ca) nói vậy thì lấy
làm tức giận, quyết định tàn sát hết dòng Sakya (Thích Ca) để trả thù. Vì
Vidudabha, về sau Vua Kosala phải chết một cách thê thảm trong một cái đền
ngoài thành phố. Lúc ấy chỉ có một người tùy tùng đi theo hộ giá.
Vua Kosala băng hà trước ngày
Đức Phật nhập diệt.
Chú thích:
[1] Sutta Nipata, Pabbajja
Sutta.
[2] Xem Chương 7, và Túc Sanh
Truyện số 544.
[3] Phạn ngữ Arama chỉ có nghĩa
là một khu vườn, một khuôn viên. Lúc Đức Phật thọ lãnh vườn này, trên đó không
có xây cất nhà cửa. Ngày nay danh từ Arama được dùng trong ý nghĩa là một tu
viện trong đó có chỗ ở cho các tỳ khưu.
[4] Samyutta Nikaya, phần i,
trang 64. Kindred Sayings, I, trang 94.
[5] Hoàng tử hiếu chiến, dầu trẻ
tuổi, có thể là một đại họa. Con rắn dầu nhỏ bé, có thể rất độc. Một đóm lửa nhỏ
có thể gây hỏa tai khốc liệt. Một vị tỳ khưu trẻ tuổi có thể đắc Quả Thánh hoặc
có pháp học cao siêu, thông suốt Giáo Pháp.
[6] Xem Maha Supina Jataka,
Jataka Translation, quyển I, trang 188-192, số 77.
[7] Samyutta Nikaya, I, 68.
Kindred Sayings, I, trang 94.
[8] Kindred Sayings, phần I,
trang 104-106
[9] Kindred Sayings, phần I,
trang 109-110. Dhammapada, Kinh Pháp Cú, câu 201.
[10] Kindred Sayings, phần I,
trang 110.
[11] Xem Kindred Sayings, phần
I, trang 122.
[12] Majjhima Nikaya, Trung A
Hàm, số 89.
[13] Majjhima Nikaya, Trung A
Hàm, số 90.