[21]
Tính chất của Nghiệp
"Gieo giống nào, gặt giống
nấy." -- Tạp A Hàm
Chúng ta
có phải gặt hái tất cả những nhân đã gieo không? Không nhất thiết phải như thế.
Trong bộ Anguttara Nikaya, Tăng Nhứt A Hàm, Đức Phật dạy:
"Nếu có ai cho rằng con
người phải gặt hái trọn hậu quả theo tất cả những hành động trong quá khứ thì
không thể có đời sống đạo đức, và con người cũng không thể có cơ hội tận diệt
phiền não: Nhưng nếu nói rằng quả phải gặt tương xứng với nhân đã gieo thì ắt
có đời sống đạo đức và con người sẽ có cơ hội dập tắt phiền não." [1]
Như vậy, theo Phật Giáo có thể
uốn nắn, chuyển hoán cái nghiệp, mặc dầu kinh Pháp Cú, câu 127, có dạy:
"Không phải bay lên trời
cao, lặn xuống biển sâu, hay chui vào hang núi, mà ta có thể tìm được nơi nào
trên thế gian nầy để lẫn tránh quả dữ của Nghiệp xấu."
Nếu như phải trả quả của tất cả
những nghiệp đã tạo trong quá khứ thì chúng sanh ắt phải chịu vĩnh viễn sống
trong đau khổ và không thể mong có ngày giải thoát.
Dầu không hoàn toàn làm chủ cái
Nghiệp - vì nhân đã gieo - nhưng ta cũng không tuyệt đối phải bó tay chịu làm
nô lệ. Dầu con người xấu xa đê tiện nhất cũng có thể cố gắng trở nên trong sạch
đạo đức. Chúng ta luôn luôn biến đổi và luôn luôn trở thành một cái gì mới, và
cái mới ấy tùy thuộc chính ta, tùy thuộc nơi hành động của chính ta. Từng giây,
từng phút ta có thể tự cải hoán, làm cho ta trở nên tốt đẹp hơn, cũng như xấu
xa hơn. Dầu người tội lỗi hư hèn nhất cũng không đáng khinh. Trái lại, nên tạo
cho họ một niềm tin tưởng nơi sự cố gắng cải thiện bẩm chất bình sanh của họ.
Nên thương hại họ, biết đâu một lúc nào trong quá khứ ta cũng cùng ở trong tình
trạng với hạng người hư hèn ấy và ta đã tiến bộ. Hôm nay ở một vị trí thấp kém,
họ cũng có thể cố gắng theo ta và có khi tiến trổi hơn ta.
Ai biết được cái nghiệp đã tích
trữ của một người khác?
Angulimala, tên sát nhân lừng
danh khét tiếng một thời, đã giết chết cả ngàn anh em đồng loại, trở thành một
vị A La Hán và thoát khỏi quả dữ của những hành động tàn ác ấy.
Cô Ambapali, một gái giang hồ
biết hồi tâm tu hành cũng đắc Quả A La Hán.
Alavaka, dạ xoa hung tợn thường
ăn thịt người, từ bỏ thói dữ và cố gắng tu tập, cũng đắc Quả Tu Đà Hườn.
Vua Asoka (A-Dục) có tiếng là
hung ác bạo tàn, trở thành một đấng minh quân, đổi những trận giặc xâm lăng
khốc liệt ra những chiến dịch truyền bá đạo lý cao siêu thâm diệu và giáo huấn
từ bi của Đức Phật, để mưu cầu hạnh phúc cho một phần nhân loại:
"Giữa oai danh của trăm
ngàn vua chúa trong lịch sử nhân loại, danh thơm cao quý vừa hùng vĩ vừa dịu
dàng, vừa trong sáng vừa trầm lặng, của Hoàng Đế A Dục chói ngời rực rờ như một
vị sao tỏ rạng."
Đó là một vài trường hợp hiếm
hoi chỉ rằng nhờ ý chí hùng dũng, con người có thể đổi hẳn tâm tánh, từ xấu ra
tốt, từ dữ ra lành.
Trong một vài trường hợp khác,
cũng có thể quả của một nhân yếu mà tái sanh tròn đủ, còn quả của một nhân mạnh
lại được lắng dịu.
Đức Phật dạy:
"Hỡi nầy các Tỳ khưu, người
kia không biết khép mình vào kỹ cương của thân, của đạo lý, của tâm, của trí
tuệ, người kém đạo đức, kém giới hạnh và do đó, sống đau khổ.
"Dầu một hành động tầm
thường của người ấy cũng đủ tạo quả đưa vào cảnh khổ.
" Hỡi nầy các Tỳ khưu,
người nọ có nếp sống kỹ cương về phương diện vật chất cũng như về mặt tinh thần
đạo đức, và trí tuệ, người đạo đức cao thượng, biết làm điều thiện và lấy tâm
Từ vô lượng đối xử với tất cả mọi chúng sanh.
"Người như thế, dầu có một
hành động lầm lạc tầm thường như kể trên, hành động ấy không tạo quả trong hiện
tại hay trong kiếp vị lai. [2]
"Tỷ như có một người kia
sớt một muổng muối vào bát nước. Nầy hỡi các Tỳ khưu, các thầy nghĩ như thế nào?
Nước trong bát có thể trở nên mặn và khó uống không?
- Bạch hóa Đức Thế Tôn, có.
- Tại sao?
- Bạch Đức Thế Tôn, vì nước
trong bát thì ít mà cho vào một muổng muối thì phải mặn.
- Bây giờ, tỷ như người kia đổ
muổng muối ấy xuống sông Hằng (Ganges), nầy
hỡi các Tỳ khưu, các thầy nghĩ sao? Nước sông Hằng có vì muối ấy mà trở nên mặn
và khó uống không?
- Bạch hóa Đức Thế Tôn, không?
- Tại sao?
- Bạch Đức Thế Tôn, vì sông Hằng
rộng lớn, nước nhiều, chỉ bấy nhiêu muối ấy không đủ làm mặn.
- Cũng dường thế ấy, có trường
hợp người kia vì phạm một lỗi nhỏ mà chịu cảnh khổ. Người khác cũng tạo một lỗi
tương tợ nhưng gặt quả nhẹ hơn và sau khi chết, quả kia không trổ sanh nữa, dầu
trổ một cách nhẹ nhàng.
"Có thể có trường hợp người
kia bị bỏ tù vì ăn cắp nửa xu, một xu, hay một trăm đồng xu, và cũng trong
trường hợp người nọ không bị bỏ tù vì nửa xu, một xu, hay một trăm đồng xu.
"Ai bị bỏ tù vì nửa xu, một
xu, hay một trăm xu?
"Khi người ta nghèo khổ,
túng thiếu, bần cùng thì dầu chỉ nửa xu, một xu, hay một trăm đồng xu cũng bị
bỏ tù.
"Ai không bị bỏ tù vì nữa
xu, một xu, hay một trăm đồng xu?
"Khi người ta giàu có, dư
dả, sung túc, thì không bị bỏ tù vì nửa xu, một xu, hay một trăm đồng xu.
"Cùng một thế ấy, có trường
hợp người kia chỉ có một vài hành động bất thiện nhỏ nhặt mà phải lâm vào cảnh
khốn cùng, và có trường hợp người nọ cũng phạm lỗi lầm y như vậy mà không phải
gặt quả nào trong kiếp hiện tại. Hành động bất thiện ấy cũng không có hậu quả
nhỏ nhen nào sau kiếp sống nầy. [3]"
Nguyên Do Vì Sao Đôi Khi Quả Trổ Sanh
Trái Ngược Với Nhân Đã Gieo
Nhân lành tạo quả lành. Nhưng đã
gieo nhân lành rồi còn hối tiếc, đã làm một việc thiện mà còn ăn năn, hối hận,
thì quả trổ sanh không được tương xứng với nhân.
Tích chuyện sau đây là một ví
dụ:
Ngày kia Vua Pasenadi xứ Kosala
đến hầu Đức Phật và bạch rằng:
"Bạch Đức Thế Tôn, tại
thành Savatthi (Xá Vệ) có một nhà triệu phú vừa qua đời mà không có người thừa
kế. Vì lẽ ấy bao nhiêu tài sản của ông, gồm hàng trăm thoi vàng, ngoài số bạc
và của cải khác, đều được bổ xung vào kho. Bạch Đức Thế Tôn, người giàu có lúc
ấy còn sanh tiền sống thật kham khổ, ăn thì chỉ cơm nát với thức ăn thừa và
thiu, mặc thì chỉ dùng vải thô và chỉ gai, còn di chuyển thì chỉ có một chiếc
xe cũ kỹ với con ngựa gầy."
Đức Phật dạy:
"Mặc dầu vậy, trong một
tiền kiếp nhà triệu phú ấy thường để bát cúng dường đến một vị Độc Giác Phật
tên là Taragasikhi. Tuy để bát cúng dường nhưng ông không bao giờ quan tâm đến
công đức ấy. Ông lại có ý hối tiếc vì đã mất của, và tự nghĩ thầm: 'Phải chi ta
để dành vật thực ấy cho người ăn kẻ ở trong nhà còn hơn.' Ngoài ra, ông còn
giết chết một người cháu để sang đoạt gia tài.
"Do quả lành của công đức
bố thí cúng dường, ông tái sanh bảy lần trong cảnh Trời. Cũng do quả lành ấy
ông tái sanh bảy lần làm triệu phú tại thành Savatthi (Xá Vệ) nầy. Vì ông đã
hối tiếc, nghĩ thầm rằng: 'Phải chi ta để dành vật thực ấy cho người ăn kẻ ở
trong nhà còn hơn', nên mặc dầu giàu có, ông không thể toại hưởng sự nghiệp vĩ
đại ấy, không dám ăn ngon, không dám mặc đẹp, luôn luôn lo sợ hết của, không
dám nhờ tiền để tạo tiện nghi cho đời sống vật chất.
"Vì đã giết chết một người
cháu để sang đoạt tài sản, nhà triệu phú độc ác ấy phải chịu đau đớn nhiều năm,
nhiều trăm năm, trong cảnh khổ. Và cũng vì hành động ác độc ấy ông phải chịu
tuyệt dòng liên tiếp trong bảy kiếp, do đó bao nhiêu tài sản của ông phải bị
xung vào quốc khố. [4]"
Nhà triệu phú được một sự nghiệp
vĩ đại nhờ nhân tốt đã gieo. Tuy nhiên đã gieo nhân lành mà còn hối tiếc nên dù
được sự nghiệp lớn lao, ông không được hưởng.
Duyên Hỗ Trợ và Duyên Trở Ngại
Trong sự báo ứng của nghiệp ta
nên biết rằng có những năng lực hỗ trợ, nâng đỡ, tạo điều kiện, trợ duyên cho
quả sớm trổ sanh, và ngược lại cũng có những năng lực kiềm hãm, ngăn chặn,
không cho quả trổ sanh, hay nghịch duyên.
Sự sanh trưởng (gati), thời gian
hay hoàn cảnh (kala), nhân cách hay tướng mạo (upadhi), và sự nỗ lực cố gắng
(payoga) là những năng lực trợ duyên hay nghịch duyên, hỗ trợ hay ngăn cản quả
trổ sanh.
Thí dụ như người kia sanh trưởng
trong một gia đình quý phái, giàu sang, hay trong hoàn cảnh an lành, sự tái
sanh tốt ấy đôi khi là một năng lực ngăn chặn không cho quả dữ trổ sanh.
Trái lại, người nọ sanh trưởng
trong gia đình ghèo khó khốn cùng, hay trong cảnh khổ, sự tái sanh bất hạnh của
người nầy tạo điều kiện thuận tiện cho quả dữ trổ sanh.
Danh từ Phật Giáo gọi những năng
lực ấy là "tái sanh thuận lợi" (gati sampatti) và "tái sanh bất
thuật lợi" (gati vipatti).
Người kia, dầu không phải là
hạng thông minh, mà nhờ có Nghiệp tốt, sanh trưởng trong hoàng tộc thì cũng
được thiên hạ kính nể kiêng vì. Nếu cũng kém thông minh như người ấy mà sanh
trong gia đình túng thiếu bần hàn thì ắt không được kính trọng như vậy.
Đức vua Dutthagamani xứ Tích Lan
gieo nhân xấu vì đã gây chiến tranh chống tộc Tamil, đồng thời cũng tạo nhiều
Nghiệp tốt do các công tác từ thiện có tánh cách tôn giáo và xã hội. Nhờ Nghiệp
Tái Tạo tốt ấy Ngài được tái sanh vào cỏi Trời. Tục truyền rằng đến thời Đức
Phật Di Lạc (Metteya) ra đời, Ngài sẽ trở xuống một lần chót. Nhân bất thiện mà
Ngài đã gieo không trổ quả, nhờ được "tái sanh thuận lợi" trong hoàn
cảnh tốt.
Trường hợp vua Ajatasattu
(A-Xà-Thế) là một thí dụ khác. Phạm trọng tội giết cha, nhưng về sau ông đến
gần Đức Phật và trở nên một vị minh quân có tâm đạo nhiệt thành. Vì mang trọng
giết cha, ông phải tái sanh vào cảnh khổ, và do sự tái sanh bất thuận lợi ấy,
bao nhiêu nhân lành ông đã gieo không đủ duyên hỗ trợ để trổ quả.
Dung mạo đẹp đẽ (upadhi
sampatti) hay xấu xa (upadhi vipatti) là hai yếu tố khác có thể hộ trợ hay gây
trở ngại cho sự báo ứng của Nghiệp.
Nếu nhờ Nghiệp tốt mà người kia
được tái sanh thuận lợi, nhưng bất hạnh phải tật nguyền hay có tướng mạo dung
nhan xấu xí thì cũng không hoàn toàn trọn hưởng phước lành của mình. Một vị
hoàng tử đáng lẽ phải nối ngôi cha để trị vì thiên hạ, nhưng nếu vị ấy tật
nguyền cũng có thể đó là một trở ngại, không được lên ngôi báu.
Trái lại, diện mạo phương phi là
yếu tố giúp thành công. Một đứa trẻ tuy nghèo nhưng mặt mày thông minh sáng sủa
có thể làm cho người khác chú ý đến và gieo ít nhiều thiện cảm đến người khác.
Thời gian hay cơ hội thuận lợi
và bất thuật lợi (kalasampatti và kalavipatti) là hai yếu tố khác có thể ảnh
hưởng đến sự báo ứng của Nghiệp. Thí trong một thiên tai, tất cả đều phải cùng
chung chịu một số phận. Đó là điều kiện bất thuận lợi, trợ duyên cho nghiệp xấu
trổ sanh. Cũng có những điều kiện thuận lợi làm suy giảm năng lực hoặc ngăn
chặn không cho Nghiệp xấu trổ sanh.
Trong các năng lực trợ duyên và
nghịch duyên, hạnh tinh tấn hay sự nỗ lực cố gắng (payoga) là quan trọng hơn
tất cả. Trong sự báo ứng xủa Nghiệp, tình trạng cố gắng hay thiếu cố gắng giữ
một vai trò chánh yếu. Do cố gắng trong hiện tại, ta có thể chuyển Nghiệp, tạo
Nghiệp mới, hoàn cảnh mới, môi trường mới, cả một thế giới mới.
Dầu có điều kiện thuận lợi và được
trợ duyên đầy đủ mà nếu không nỗ lực cố gắng thì chẳng nhưng ta bỏ mất cơ hội
quý báu, mà có khi còn hoang phí cả sự nghiệp, vật chất hay tinh thần.
Nếu bệnh mà không tìm thầy
thuốc. Nếu gặp khó khăn mà không cố gắng giải quyết, không nỗ lực để vượt qua,
thì quả dữ ắt được trợ duyên đầy đủ để trổ sanh. Trái lại, nếu ta tận lực cố
gắng để vượt qua mọi khó khăn, luôn luôn cải thiện hoàn cảnh, tận dụng mọi khả
năng mọi cơ hội hiếm có để vững vàng tiến bộ thật sự, Nghiệp tốt sẽ được trợ
duyên đầy đủ để trổ sanh.
Mặc dầu không hoàn toàn làm nô
lệ cũng không tuyệt đối làm chủ cái Nghiệp, chắc chắn là những yếu tố trợ lực
và nghịch duyên ấy cũng ảnh hưởng phần nào năng lực báo ứng của Nghiệp, do sự
tái sanh, hoàn cảnh, cá tính, cố gắng cá nhân, và những yếu tố tương tợ. Chính
lý Nghiệp Báo đem lại cho người Phật tử sự an ủi, niềm hy vọng, chỗ nương tựa
và khích lệ tinh thần để có thể đảm vững bước trên con đường tiến bộ.
Khi có việc bất chắc xảy đến,
khi gặp trợ ngại, khó khăn, thất bại, và hoàn cảnh bất hạnh, người Phật tử nhận
định rằng mình đang gặt hái giống nào mà trước kia chính mình đã gieo, mình
đang trang trãi một món nợ đã vay lúc nào trong quá khứ.
Tuy nhiên, thay vì phải bó tay
chịu quy hàng hoàn cảnh để cho định luật Nghiệp Báo tự nhiên diễn tiến, người
Phật tử tận lực cố gắng diệt trừ, bứng tận gốc rễ giống cỏ xấu, và gieo trồng
những giống tốt. Tương lai hoàn toàn nằm trong tay ta.
Người tin tưởng lý Nghiệp Báo
không khi nào lên án kẻ hư hèn tội lỗi bởi vì mọi người đều có khả năng và cơ
hội để tự cải thiện bất cứ lúc nào. Người kia dầu phải chịu đau khổ trong hiện
tại nhưng vẫn có hy vọng như mọi người, rằng trong một ngày tươi đẹp nào, chính
mình cũng có thể đạt Đạo Quả cao thượng, an vui hạnh phúc vĩnh cửu trường tồn.
Ta tạo địa ngục cho ta, do chính hành động của ta. Cũng do hành động của chính
ta, ta tạo thiên đàng cho ta.
Một người Phật tử thuần thành và
hiểu biết chắc chắn định luật Nghiệp Báo không khi nào van vái cầu xin được cứu
rỗi. Trái lại, đặt trọn niềm tin nơi chính mình, nơi hạnh tinh tấn của mình, để
được giải thoát. Thay vì bó tay đầu hàng hay vuốt ve tâng bốc một thần lực siêu
nhân nào, người Phật tử đặt trọn niềm tin mình trên ý trí của mình, và không
ngừng hoạt động để tạo an lành cho tất cả.
Niềm tin vững chắc nơi Nghiệp
Báo "nâng cao giá trị của hạnh tinh tấn và kích thích lòng nhiệt
thành", bởi vì lý Nghiệp Báo dạy mỗi người phải lãnh lấy trách nhiệm của
mình.
Đối với người Phật tử sơ cơ,
định luật Nghiệp Báo là một điều răn. Với hạng người trí thức, Nghiệp Báo là
một khích lệ.
Luật Nhân Quả giải thích vấn đề
đau khổ, giải thích tình trạng bí ẩn của cái được gọi là Số Mạng và Tiền Định
của một vài tôn giáo và, trên hết, giải thích hoàn cảnh chênh lệch giũa loài
người, giữa chúng sanh.
Chúng ta là vị kiến trúc sư xây
đắp số phận của chúng ta. Chính ta tạo ra hay tiệu diệt ta. Chính ta tạo thiên
đàng cho ta và cũng chính ta tạo địa ngục cho ta.
Những gì ta nghĩ, nói, và làm,
là của ta. Chính tư tưởng, lời nói và hành động là Nhgiệp. Và Nghiệp đưa ta lên
hay xuống từ kiếp nầy sang kiếp khác, mãi mãi trong vòng luân hồi.
Đức Phật dạy:
"Phước
và tội mà con người tạo ra là những gì mà con người làm chủ, những gì đưa con
người đi, từ nơi nầy...
Là những gì bén gót chạy theo con người như bóng theo hình.
Vậy, từ đây con người hãy tích trữ cái tốt để đem đi nơi khác, trong tương lai.
Hãy tạo một nền tảng vững chắc cho thế gian ngày mai." [5]
Chú thích:
[1] Anguttara Nikaya, Tăng Nhứt
A Hàm, phần 1, trang 249. Xem Warren, "Buddhism in Translations",
trang 218.
[2] Đức Phật muốn ám chỉ các vị A
La Hán.
[3] Aguttara Nikaya, Tăng Nhứt A
Hàm, phần 1, trang 249, Xem Warren, "Buddhism in Translations", trang
218.
[4] Samyutta Nikaya, Tạp A Hàm,
phần i, trang 91. Xem Warren, "Buddhism in Translations", trang 296;
và Grimm, "The Doctrine of the Buddha", trang 248.
[5] Kindred Sayings, phần i,
trang 98.