[Phụ Bản 3]
Kinh Hạng Cùng Đinh
(Vasala Sutta)
Tôi có
nghe như vầy:
Vào một thuở nọ, Đức Thế Tôn ngự
tại ngôi chùa của Trưởng Giả Anathapindika (Cấp Cô Độc) trong khu rừng Jeta (Kỳ
Viên). Sáng hôm nọ Đức Thế Tôn đắp y mang bát vào thành Savatthi (Xá Vệ) để trì
bình.
Lúc bấy giờ trong nhà của Aggika
Bharadvaja, một người theo đạo Bà La Môn cũng chuẩn bị để dâng cúng vật thực.
Đức Thế Tôn ôm bát đi từ nhà này sang nhà khác trong thành Savatthi và đến gần
nhà của vị bà la môn. Thấy Đức Phật từ xa đến, vị bà la môn nói:
"Hãy đứng lại, này ông thầy
tu! Hãy dừng lại, này ông đạo bần tiện đê hèn! Hãy đứng lại đó, này người cùng
đinh khốn khổ !" [1]
Khi nghe như vậy thì Đức Thế Tôn
ôn tồn nói: Nầy ông bà la môn, ông có biết người cùng đinh là thế nào, hay cái
gì làm cho người ta cùng đinh không?
- Không, quả thật tôi không
biết. Nầy Đức Gotama (Cồ Đàm), tôi không hiểu cùng đinh là thế nào và những gì
làm cho ta là cùng đinh. Xin Đức Gotama hoan hỷ tuyên ngôn chỉ dạy Giáo Pháp
giúp tôi có thể hiểu biết thế nào là cùng đinh và những gì làm cho người ta trở
thành cùng đinh.
- Hãy nghe đây, này ông bà la
môn! Như Lai nói đây, và hãy nhớ lấy nằm lòng.
- Tốt lắm, này Đức Gotama, tôi
nghe đây, ông bà la môn trả lời.
Đức Thế Tôn mở lời tuyên ngôn như
sau: [2]
1. Con người dễ nóng giận, hay
hiềm thù, có nhiều thói hư tật xấu, tánh ưa phỉ báng gièm pha [3], người có
quan kiến sai lầm và bẩm tánh giả dối ưa gạt gẫm phỉnh lừa - hãy biết rằng
người ấy là cùng đinh.
2. Người nào trên thế gian này
làm tổn thương những chúng sanh "sanh một lần" hay những chúng sanh
"sanh hai lần" [4], người không có lòng bi mẫn đối với chúng sanh -
hãy biết rằng người ấy là cùng đinh.
3. Người nào tiêu diệt, vây hãm
thôn xóm và được gọi là người áp chế chinh phục - hãy biết rằng người ấy là
cùng đinh.
4. Dầu trong xóm làng hay trong
rừng hoang, người nào trộm cắp hoặc sang đoạt sở hữu của người khác mà không
được cho đến mình - hãy biết rằng người ấy là cùng đinh.
5. Người nào mang nợ, bỏ trốn,
và khi được hỏi, lại nói ngược, "Nào tôi có thiếu nợ gì đâu" - hãy
biết rằng người ấy là cùng đinh.
6. Người nào vì lòng tham, giết
bạn cùng đồng hành với mình trên đường đi để cướp giật - hãy biết rằng người ấy
là cùng đinh.
7. Người nào được mời ra làm
nhân chứng, nói lời giả dối vì lợi riêng của mình, hay vì lợi ích của ai khác,
hoặc vì để thâu đoạt tài sản - hãy biết rằng người ấy là cùng đinh.
8. Người nào dùng áp lực hãm
hiếp hay dụ dỗ vợ bạn hay họ hàng - hãy biết rằng người ấy là cùng đinh.
9. Người nào giàu có mà không
phụng dưỡng cha mẹ già đã quá tuổi xuân xanh - hãy biết rằng người ấy là cùng
đinh.
10. Người nào đánh đập hay nói
lời phiền nhiễu cha, mẹ, anh, chị, hay nhạc mẫu, nhạc phụ - hãy biết rằng người
ấy là cùng đinh.
11. Người nào mà khi được hỏi về
điều phải, khuyên dạy về điều sai lầm và dạy mà còn giấu kín giữ bí mật - hãy
biết rằng người ấy là cùng đinh.
12. Người nào đã làm điều ác mà
muốn không ai biết, và giấu nhẹm giữ kín - hãy biết rằng người ấy là cùng đinh.
13. Người nào, khi đến nhà người
được đãi đằng với những món ngon vật lạ, đến lượt mình, khi khách đến nhà lại
không tiếp đón phải lẽ - hãy biết rằng người ấy là cùng đinh.
14. Người nào giả dối lường gạt
một vị Bà La Môn, một đạo sĩ ẩn dật, hay một tu sĩ du phương hành khất - hãy
biết rằng người ấy là cùng đinh.
15. Người nào bằng lời nói,
phiền nhiễu một vị Bà La Môn hay một đạo sĩ ẩn dật vào lúc thọ thực, và không
dâng cúng (vật thực) - hãy biết rằng người ấy là cùng đinh.
16. Người nào trên thế gian này,
bị mịt mù che lấp trong vô minh, lại bày điều tiên đoán việc không có, để cầu
mong được gì - hãy biết rằng người ấy là cùng đinh.
17. Người nào tự tâng bốc mình,
khinh rẻ người khác, và trở nên đê hèn vì tánh tự phụ của mình - hãy biết rằng
người ấy là cùng đinh.
18. Người nào có tánh ưa khuấy
nhiễu, tham lam quá độ, ham muốn đê hèn, ích kỷ, lưu manh, không biết hổ thẹn
và ghê sợ tội lỗi - hãy biết rằng người ấy là cùng đinh.
19. Người nào nguyền rủa, mắng
chửi Đức Phật hay một vị đệ tử của Phật, dù là hàng xuất gia hay cư sĩ tại gia
- hãy biết rằng người ấy là cùng đinh.
20. Người nào không phải là một
vị A La Hán mà mạo nhận, tự xưng mình là A La Hán, là kẻ trộm của toàn thể vũ
trụ [6], người ấy là hạng cùng đinh thấp hèn nhất.
Như vậy, những hạng người mà Như
Lai mô tả trên đây quả thật đáng gọi là cùng đinh [7].
21. Không [8] phải do sanh
trưởng là cùng đinh [9], không phải do sanh trưởng là Bà La Môn. Do hành vi là
cùng đinh, do hành vi là Bà La Môn. [10]
22. Hãy biết như vậy do câu
chuyện này: [11] Thuở ấy có Matanga, con một người cùng đinh, người "nấu
thịt chó". [12]
23. Người con tên Matanga này
thành đạt mức vinh quang tuyệt đỉnh rất khó thành đạt, và được nhiều người
thuộc giai cấp chiến sĩ và Bà La Môn hỗ trợ.
24. Đi đến cảnh giới Phạm Thiên
bằng chiếc "xe của thiên đình" [13] trên con đường "xa lộ không
dục vọng" [14], Matanga hiện thân lên [15] cảnh Phạm Thiên, lánh xa mọi
hình thức tham ái. Trạng thái sanh trưởng (trong cảnh cùng đinh) không gây trở
ngại cho sự tái sanh vào cảnh Phạm Thiên.
25. Có những vị Phạm Thiên tái
sanh vào gia đình truyền giáo [16] quen thuộc với kinh kệ (Veda). Những vị này
lắm khi cũng có những hành vi xấu xa tội lỗi.
26. Trong kiếp này các vị ấy bị
khinh khi, kiếp sống tới họ sẽ bị lâm vào cảnh khổ. Sanh trưởng không giúp họ
tránh khỏi phải trái sanh vào khổ cảnh hay gặt hái quả dữ.
27. Do sanh trưởng, người ta
không trở thành cùng đinh, do sanh trưởng, người ta không trở thành Bà La Môn.
Trở thành cùng đinh do hành vi, trở thành Bà La Môn do hành vi.
Khi Đức Thế Tôn dạy như vậy vị
Bà La Môn Aggika Bharadvaja nói:
"Lành thay, Bạch Đức
Gotama! Lành thay, Bạch Đức Gotama! Cũng như người kia dựng lại ngay ngắn một
vật đã bị lật đổ, hay khám phá ra một vật đã được giấu kín, hay vạch đường chỉ
lối cho người lạc bước, hay cầm đèn soi sáng trong đêm tối để cho ai có mắt có
thể trông thấy, Giáo Pháp mà Đức Gotama giảng dạy bằng nhiều phương cách dường
thế ấy.
"Bạch Đức Thế Tôn, nay con
xin quay về nương tựa nơi (quy y với) Đức Gotama, nơi Giáo Pháp và nơi Giáo Hội
Các Vị Đệ Tử của Ngài. Kính xin Đức Gotama từ bi chấp nhận con vào hàng môn đệ
ngay từ ngày này đến giờ phút cuối cùng của đời con".
-oOo-
Chú Giải Bài Kinh Vasala Sutta:
[1] "Những lời lẽ nặng nề,
khiếm nhã của vị Bà La Môn lúc bấy giờ rất trái ngược với thái độ tôn nghiêm
kính cẩn về sau đáng nên được có một lời giải thích. Bản Chú Giải ghi rằng vào
buổi sáng hôm ấy, như thường lệ, Đức Phật dùng oai lực thần thông siêu phàm
nhìn quanh thế gian thì thấy vị Bà La Môn này đủ thuần thục để quy y Tam bảo và
thọ trì Giới Hạnh. Ngài ra đi đặc biệt để gặp ông. Vị Bà La Môn sáng hôm ấy
cũng vừa cúng thần Brahma (Brahma-Puja) xong, tìm một điềm tốt, tức một dấu
hiệu may mắn, thì mắt vị ấy thấy một ông "thầy tu trọc đầu" và một vị
"Sa môn" (Samana), cả hai đều là điềm không may, là dấu hiệu bất
tường, theo sự tin tưởng của người giữ đạo Bà La Môn. Vì lẽ ấy khi thấy Đức
Phật từ xa đến thì ông ta nổi giận, tuôn ra những lời lẽ cộc cằn thô lỗ.
Sau khi nghe những lời hoà nhã
êm dịu của Đức Thế Tôn, được thốt ra với một giọng nói hiền từ, và nhìn thấy
phong độ trầm tĩnh đầy bi mẫn của Đức Bổn Sư thì vị Bà La Môn cảm nghe thẹn
thùng và những lời của ông về sau biểu lộ nỗi niềm ăn năn hối hận." --
(Kassapa Thero).
[2]Vị Bà La Môn nổi cơn phẫn nộ
vì cái mà ông cho là điềm xấu. Đó là mới sáng sớm đã thấy một "thầy tu
trọc đầu". Ông cho đó là điềm bất tường nên nói lên những lời cộc cằn
khiếm nhã.
Đức Phật không bao giờ trả thù
mà lễ độ và trầm tĩnh trả lời, không làm giảm giá trị ông Bà La Môn và cũng
không tự tâng bốc khen ngợi mình. Ngài không nói rằng người nóng nảy lỗ mãng,
ăn nói thô lỗ cộc cằn, quả thật là "cùng đinh" - Vasala - theo đúng
định nghĩa của danh từ, mặc dù người ấy có thể được sanh ra từ trong đầu của
thần Brahma.
Câu trả lời của Đức Thế Tôn làm
cho ông Bà La Môn cảm thấy rằng chính Đức Phật là một vị Bà La Môn trong khi
ông - người được gọi là Bà La Môn - đúng thật là cùng đinh.
[3] Makkha - thường được dịch là
"đạo đức giả", "ngụy thiện", giả dối. Đúng theo ngữ nguyên
là "bôi bỏ cái tốt của người khác".
[4] Nơi đây Đức Thế Tôn dùng
danh dừ "sanh hai lần", theo văn thể thường dùng trong kinh sách Bà
La Môn.
Ekajam-Dvijam, những chúng sanh
"sanh một lần", tức tất cả chúng sanh, loại trừ loại noãn sanh, như
chim chóc hay những loài được sanh ra từ trong trứng. "Sanh hai lần",
một lần trong trứng và một lần nữa trong trứng sanh ra.
[5] A La Hán. Một vị thánh toàn
thiện đã tận diệt mọi ô nhiễm.
[6] "Sabrahmake loke"
theo nghĩa trắng là: trong thế gian cùng với chư Phạm Thiên, tức toàn thể vũ
trụ (Bản Chú Giải).
[7] Trong 20 câu, Đức Phật kể ra
ba mươi bốn loại điều kiện làm cho con người trở thành cùng đinh.
Câu đầu tiên Ngài đề cập đến sáu
loại điều kiện như sân hận v.v...; trong câu thứ nhì, Ngài đề cập đến sự kiện
làm tổn thương chúng sanh khác; thứ ba, đến sự áp bức, chinh phục; thứ tư, đến
sự trộm cắp; thứ năm, đến sự gian lận, nợ nần; thứ sáu, đến sự cướp giựt; thứ
bảy, đến sự làm chứng gian để vụ lợi; thứ tám, đến tánh nết giả dối phản bội;
thứ chín, đến sự không biết ơn cha mẹ; thứ mười, đến sự đánh đập và quấy rầy
những người sống quanh; thứ mười một, đến sự tự lừa dối, lường gạt mình; thứ
mười hai, đến sự gây tội ác và giấu nhẹm, giữ kín trong lòng; thứ mười ba, đến
tánh vô ân bạc nghĩa; thứ mười bốn, đến sự giả dối lường gạt; thứ mười lăm, đến
sự nguyền rủa chửi mắng người tu hành; thứ mười sáu, đến sự gian lận; thứ mười
bảy, đến tánh tự cao, tự đại và khinh rẻ người khác; thứ mười tám, đến bảy điều
kiện như chửi mắng v.v...; thứ mười chín, đến việc xử tồi tệ với Đức Phật và
chư vị đệ tử; thứ hai mươi, giả dối tự xưng mình là bậc A La Hán.
Không xét đoán người qua sự sanh
trưởng mà qua hành vi, bậc Thánh Nhân gọi ba mươi bốn loại người ấy là hạng
người cùng đinh.
[8] Đức Phật nói lên câu này
nhằm đánh tan quan kiến sai lầm mà vị Bà La Môn khư khư cố chấp.
[9] Theo Bản Chú Giải,
"Vasala", cùng đinh, là người bị những đám mưa (vassanto) làm cho
hành động bị ô nhiễm, và Bà La Môn là người quét sạch, đánh tan (bahento) mọi ô
nhiễm bằng những hành động trong sạch. Trong bản dịch này danh từ
"Brahmana" ám chỉ các bậc A La Hán, danh từ "brahmin" thì
chỉ những người trong giai cấp Bà La Môn.
[10] Comp: "Sự sanh trưởng
không làm cho con người thuộc về giai cấp Bà La Môn, cũng không làm cho con
người không phải ở trong giai cấp Bà La Môn.
"Chính đời sống và hành vi
uốn nắn, làm cho con người trở nên thật sự là Bà La Môn.
Cuộc sống uốn nắn làm cho con
người trở nên nông dân, thương gia, nô bộc ;
Cuộc sống uốn nắn làm cho con
người trở nên kẻ trộm cắp, chiến sĩ, quan quyền."
[11] Đức Phật muốn nhắc đến một
câu chuyện trong tiền kiếp xa xôi của Ngài, khi là con một người cùng đinh. Lúc
bấy giờ Ngài tên Matanga, có một cuộc sống đức hạnh phi thường, làm cho mọi
người đều khâm phục và sau đó tái sanh vào cảnh Trời Phạm Thiên. Xem Túc Sanh
Truyện Matanga Jakata, số 497.
[12] Candala, cùng đinh, có
nghĩa là giai cấp thấp hèn; Sopaka có nghĩa là người nấu thịt chó để ăn, ám chỉ
một lối sống thấp kém; và Matanga là tên của con người cùng đinh ấy (Bản Chú
Giải).
[13] Chiếc xe của thiên đình.
Tức là Bát Chánh Đạo, có tác dụng đưa chúng sanh đến cảnh giới Phạm Thiên
(Brahma realm).
[14] Con đường "xa lộ không
dục vọng" là con đường mà các bậc vĩ nhân như Đức Phật v.v... đã đi trên
đó.
[15] Sau khi cơ thể tan rã.
[16] Những vị hằng ngày dấn thân
trong việc học kinh Phệ Đà (Veda).