[29]
Cái gì đi tái sanh?
(Lý Vô Ngã)
"Không là một, cũng không
phải khác." -- Thanh Tịnh Đạo
Ngoài
Danh và Sắc, phần tâm linh và phần vật chất, là hai thành phần cấu tạo chúng sanh,
Phật Giáo không chấp nhận có một linh hồn vĩnh cửu hay một bản ngã trường tồn
mà con người đã thọ lãnh một cách bí ẩn, từ một nguồn gốc cũng không kém bí ẩn.
Một linh hồn mà trường cửu tất
nhiên phải bất biến, trước cũng như sau. Nếu linh hồn mà người ta giả định là
phần tinh túy của con người là trường tồn vĩnh cửu thì linh hồn không thể tái
sanh hay hoại diệt, mà ta không thể giải thích vì sao "từ lúc sơ khởi,
linh hồn nầy lại khác biệt rất xa với linh hồn kia."
Để chứng minh rằng có những lạc
thú vô cùng tận trên một thiên đàng vĩnh cửu và cảnh khổ đau vô cùng tận dưới
một địa ngục trường tồn, tức nhiên phải chủ trương có một linh hồn trường cửu.
Bertrand Russell viết :
"Ta phải nói rằng sự phân
biệt cũ kỹ giữa linh hồn và thể xác đã tiêu tan như mây khói, bởi vì vật chất
đã mất tính chất cứng rắn của thể đặc mà tâm cũng mất tính chất tinh thần của
nó. Tâm lý học vừa bắt đầu trở thành một ngành khoa học. Trong tình trạng hiện
hữu của tâm lý học, sự tin tưởng nơi một cái gì trường tồn vĩnh cửu không có cái
nào đòi hỏi khoa học tán trợ" [1].
Theo nhà học giả uyên bác, tác
giả quyển "The Riddle of the Universe":
"Biện chứng Thần Linh Học
chủ trương có một đấng Tạo Hóa thổi vào con người một linh hồn bất diệt (thường
được xem là một phần của Thần Linh). Đó là một câu truyện thần thoại. Biện
chứng Vũ Trụ Luận cho rằng "trật tự luân lý của thế gian" đòi hỏi
phải có một linh hồn trường tồn bất diệt. Đó là giáo điều vô căn cứ. Biện chứng
Chung Quả Luận chủ trương rằng do sự tiến triển không ngừng của con người để
cải thiện vận mạng mình, những khuyết điểm của linh hồn phàm tục phải được cải
tiến mãi mãi trong đời sống và sau kiếp sống. Đó là một lối hiểu sai lầm của
thuyết sinh vật đồng nhân (anthropomorphism) cho rằng tất cả những sinh vật đều
có hành động và tư tưởng như người. Theo biện chứng Đạo Đức Luận, những khuyết
điểm và những tham vọng chưa được thỏa mãn trong đời sống phải được bổ khuyết
và "đền bù một cách công bình và vĩnh viễn" sau kiếp sống. Đó chỉ là
một điều mong ước cuồng nhiệt. Biện chứng Nhân Chủng Luận cho rằng sự tin tưởng
nơi tánh cách bất diệt của linh hồn cũng như sự tin tưởng nơi một đấng Tạo Hóa
là chân lý cố hữu trong toàn thế nhân loại. Đó hiển nhiên là một sai lầm. Biện
chứng Bản Thể Luận chủ trương rằng linh hồn là một thực thể đơn giản, vô hình,
và bất khả phân, tất không thể bị liên quan đến sự vong hoại do cái chết gây
ra. Điều nầy căn cứ trên quan niệm sai lạc về hiện tượng tâm linh. Đó là ảo
mộng của Duy thần luận. Tất cả những biện chứng kể trên cũng như tất cả những
giả thuyết tương tợ về bản ngã đã lâm vào tình trạng nguy ngập trong vòng mười
năm nay và đã bị khoa học chỉ trích và bác bỏ hoàn toàn." [2]
-- Nếu không có chi dưới hình thức linh hồn, chuyển từ kiếp sống nầy sang
kiếp sống khác thì cái gì được tái sanh?
Hỏi như vậy đương nhiên là chấp
nhận có một cái gì tái sanh.
Cách đây vài thế kỷ có lập luận
"Cogito, ergo sum", "tôi tư tưởng, tức là có tôi". Đúng như
vậy. Tuy nhiên, trước tiên phải chứng minh rằng có một cái "tôi",
đang tư tưởng.
Chúng ta nói rằng mặt trời mọc ở
phương Đông và lặn ở phương Tây, mặc dầu ta biết rằng thật sự không phải mặt
trời mọc lên và lặn xuống mà chính là quả địa cầu quay. Chúng ta cũng phải nhìn
nhận rằng ta không thể gõ hai lần đúng y vào một chỗ, mặc dầu bề ngoài là như
vậy. Tất cả đều biến đổi rất nhanh chóng. Không thể có hai khoảnh khắc giống
hệt nhau.
Người Phật tử đồng ý với
Bertrand Russell khi ông nói:
"Hiển nhiên có vài lý do để
chủ trương rằng cái "Tôi" ngày hôm nay và cái "Tôi" ngày
hôm qua là một; và để lấy một thí dụ hiển nhiên hơn nữa, nếu cùng một lúc, tôi
thấy một người và nghe người ấy nói ắt, có cảm giác rằng cái "Tôi"
đang nghe và cái "Tôi" thấy là một." [3]
Cho đến những ngày gần đây các
khoa học gia còn tìm nơi tính cách bất khả phân tán và bất khả diệt của nguyên
tử.
"Với đầy đủ lý lẽ, các nhà
vật lý học đã phân tán hạt nguyên tử ấy ra từng loạt những thành phần nhỏ. Cũng
vì những lý do không kém chánh đáng, các nhà tâm lý khám phá rằng tâm không
phải là một thực thể đồng nhất với cái gì liên tục trường tồn mà là một loạt những
yếu tố kết hợp với nhau trong những liên quan mật thiết nào. Do đó, vấn đề
trường tồn bất diệt trở thành câu hỏi rằng sau khi thể xác kia chết thì những
yếu tố của tâm và những yếu tố của thân có còn tiếp tục liên quan mật thiết với
nhau không?" [4]
Cũng như C. E. M. Joad viết
trong quyển "The Meaning of Life":
"Vật chất đã tan rã dưới
chính mắt chúng ta. Nó không còn ở thể đặc, không còn bền vững trường tồn,
không còn bị những định luật cưỡng chế quy định, và quan trọng hơn tất cả,
không còn được biết là gì."
Vậy, hình như cái được gọi là
nguyên tử "có thể bị phân tán và có thể bị tiêu diệt". Những điện tử
và dương tử cấu thành một nguyên tử "có thể gặp nhau và tiêu diệt lẫn
nhau". Trong lúc ấy, sự bền vững của hai thành phần điện tử và dương tử,
chỉ tựa hồ như sự vững bền của một lượn sóng, không có giới hạn chắc chắn, và
luôn luôn nằm trong tiến trình biến đổi liên tục, cả hai đều thay đổi hình thức
và vị trí."
Theo Đức Giám Mục Berkeley, cái
được gọi nguyên tử là một giả tưởng của siêu hình học và Ngài chủ trương có một
thực chất tinh thần gọi là linh hồn.
Sau khi tìm hiểu cái hồn, Hume
viết như sau:
"Có vài triết gia tư tưởng
rằng trong mỗi chập tư tưởng chúng ta mật thiết ý thức cái gọi là
"Ta" và chúng ta cảm giác rằng cái "Ta" có thật, và thật sự
tồn tại. Các triết gia ấy, ngoài sự hiển nhiên của mọi luận chứng, cũng quả
quyết rằng cái "Ta" hoàn toàn không biến đổi và không thể phân chia.
"Riêng về phần tôi, khi xâm
nhập mật thiết vào cái mà tôi gọi là "Tôi" thì luôn luôn tôi vấp phải
một cảm giác đặc biệt như nóng hay lạnh, sáng hay tối, thương hay ghét, vui
hoặc buồn. Tôi chưa từng bắt gặp cái "Tôi", ngoài những cảm giác ấy,
và chưa hề chiêm nghiệm được cái gì ngoài cảm giác..." [5]
Bergson nói:
"Tất cả mọi tâm thức chỉ
tồn tại trong thời gian sinh hoạt và một trạng thái tâm, nếu không biến đổi thì
không còn là trạng thái nữa. Trạng thái tâm là một sự biến đổi không ngừng. Nếu
sự biến đổi ngưng là trạng thái tâm cũng ngưng. Trạng thái tâm chẳng qua là sự
biến đổi."
Theo nhà tâm lý học trứ danh
Watson:
"Chưa có ai từng sờ đụng
một linh hồn, hay nhìn thấy linh hồn trong một ống thí nghiệm, hay bằng cách gì
khác, để tiếp xúc với linh hồn, như đã từng tiếp xúc với các vật khác trong
phòng thí nghiệm. Tuy nhiên, ngờ vực sự hiện hữu của linh hồn được coi là phản
tôn giáo và có thể bị rơi đầu. Cho đến ngày nay, người có địa vị ưu tú cũng
không dám nêu vấn đề ấy lên." [6]
Đề cập đến vấn đề linh hồn, Giáo
sư James viết:
"Cho đến nay, để giải thích
những sự kiện thật sự có thể chứng minh được về kinh nghiệm của thân thì thuyết
linh hồn là hoàn toàn vô ích. Cho đến nay không ai có thể bị cưỡng bách phải
chấp nhận thuyết ấy vì những lý do khoa học.
"Cái Ta (dùng như một túc
từ) là sự kếp hợp do kinh nghiệm, cấu tạo với sự vật đã được biết một cách
khách quan. Vậy cái Ta (thường dùng như một chủ từ) biết được sự vật ấy không
thể là một sự kết hợp. Không thể dùng cái Ta ấy trong những nhu cầu tâm lý và
xem nó như một thựa thể siêu hình không biến đổi, một linh hồn trường tồn bất
biến.
Cũng như không thể xem nó như một
nguyên lý, một bản ngã siêu việt vượt ra ngoài thời gian. Cái "Ta"
chỉ là một tư tưởng biến đổi từng chập. Không một tư tưởng nào giống chập tư
tưởng trước kế đó, nhưng luôn luôn thuận ưng theo chập tư tưởng trước để cùng
chung hợp lại thành một tư tưởng riêng biệt." [7]
Và giáo sư James kết luận đoạn
sách thích thú về linh hồn như sau: "Chính cái tư tưởng là người tư
tưởng"
Và đó là dư âm của những lời mà
Đức Phật đã dạy từ hơn 2500 trước, trong vùng thung lũng sông Hằng (Ganges).
Phật Giáo dạy một thứ tâm lý học
trong đó không có linh hồn. Phật Giáo chủ trương rằng chúng ta là sự cấu hợp
của hai thành phần Danh và Sắc (nama-rupa), phần tâm linh và phần vật chất, và
hai thành phần nầy ở trong trạng thái luôn luôn biến đổi như một dòng suối
trường lưu bất tức.
Từ ngàn xưa, những nhà hiền
triết Ấn Độ cũng có tin một nguyên tử bất khả phân tán gọi là Paramanu. Theo
quan niệm thời bấy giờ, 36 Paramanu hợp thành một Anu; 36 Anu hợp thành một
Tajjari; 36 Tajjari hợp thành một Ratharenu. Một hạt bụi rất nhỏ mà ta thấy vởn
vơ trong làn ánh sáng, gọi là Ratharenu. Vậy, nếu chia hột bụi kia làm 46.656
phần thì Paramanu là một phần nhỏ ấy (1/46.656).
Theo quan niệm thời bấy giờ thì
Paramanu là đơn vị vi tế nhất của vật chất, không thể phân chia được nữa.
Với nhãn quang siêu phàm, Đức
Phật phân tách Paramanu và tuyên bố rằng Paramanu gồm có những năng lực tương
quan gọi là Paramattha, hay là thành phần chánh yếu của vật chất.
Những Paramattha ấy là Đất
(Pathavi), Nước (Apo), Lửa (Tejo), và Gió (Vayo), gọi là Tứ Đại.
Đất (Pathavi) là thành phần có
đặc tính duỗi ra, thể chất của phần vật chất. Nếu không có thành phần đất
(Pathavi), thì một vật thể không thể chiếm không gian. Hai tánh cách tương đối,
cứng và mềm, là điều kiện của thành phần ấy.
Nước (Apo) là thành phần có đặc
tính làm dính liền lại. Do ngũ quan, ta có thể tiếp xúc với thành phần Đất
(Pathavi), nhưng không thể dùng mắt, tai, mũi, lưỡi và thân để tiếp xúc với
thành phần Nước (Apo) trong vật chất. Chính thành phần nầy làm cho những phân
tử rời rạc của vật thể dính liền lại và cho ta ý niệm hình thể. Khi một vật ở
thể đặc chảy ra thì thành phần Nước (Apo) trong chất lỏng ấy trở nên trội hơn.
Khi một vật ở thể đặc bị phân tán thành bụi, trong mỗi hột bụi tí ti cũng có
chứa thành phần Nước. Hai Paramattha, Đất (Pathavi) và Nước (Apo), trong vật
chất liên quan với nhau thật là mật thiết. Khi thành phần Nước (Apo), có đặc
tánh làm dính liền, tiêu tan, thì thành phần Đất (Pathavi), có đặc tính duỗi ra
cũng không còn.
Lửa (Tejo) là thành phần nóng
trong vật chất. Lạnh cũng là một hình thức của Lửa (Tejo). Cả nóng lẫn lạnh đều
nằm trong thành phần Lửa (Tejo) của vật chất và cả hai đều có năng lực làm cho
vật chất trở nên chín mùi, hay nói cách khác tạo sinh lực cho vật chất. Vật
chất được tồn tại hay bị hư hoại đều do thành phần Lửa. Trái với ba thành phần
khác trong Tứ Đại, Lửa (Tejo), cũng gọi là Utu, có năng lực làm cho vật chất tự
mình hồi sinh.
Gió (Vayo) là thành phần di
động. Chính thành phần Gió (Vayo) trong vật chất tạo nên sự vận chuyển và được
xem là năng lực làm phát sanh hơi nóng.
Sự di động và nhiệt lực trong
phạm vi vật chất cũng tương đương như tâm và nghiệp trong phạm vi tinh thần.
Tứ Đại, Đất-Nước-Lửa-Gió, là
những đơn vị căn bản của vật chất, luôn luôn pha lẫn với bốn chuyển hóa là màu
sắc (vanna), hương (gandha), vị (rasa), và bản chất dinh dưỡng (oja).
Tứ Đại và bốn chuyển hóa luôn
luôn dính liền nhau và liên quan với nhau rất mật thiết. Nhưng trong một loại
vật chất, thành phần nầy có thể trội hơn thành phần khác. Thí dụ như trong đất,
thành phần Đất (Pathavi) trội hơn ba thành phần kia. Trong nước thì thành phần
Nước (Apo) trôi hơn. Trong lửa thì thành phần Lửa (Teio) và trong không khí thì
thành phần Gió (Vajo) trội hơn.
Như vậy, vật chất gồm có những
năng lực và những đặc tính trong trạng thái liên tục biến đổi, luôn luôn trôi
chảy như một dòng suối. Theo Phật Giáo vật chất chỉ tồn tại trong thời gian
bằng 17 lần một chập tư tưởng.[8]
Tâm, thành phần quan trọng hơn
trong guồng máy phức tạp của con người gồm có 52 trạng thái tâm (tâm sở) luôn
luôn biến đổi. Thọ (vedana), hay cảm giác, là một. Tưởng (sanna), hay tri giác,
là một tâm sở khác. 50 tâm sở còn lại gọi chung là Hành (samkhara), hay là
những sinh hoạt có tác ý của tâm. Trong 52 trạng thái tâm, hay tâmn sở, tác ý
(cetana), hay "ý muốn làm" là quan trọng nhất. Tất cả tâm sở đều phát
sanh trong thức (vinnana), hay Tâm.
Theo triết học Phật Giáo, không
có một khoảnh khắc nào mà tâm có thể trống rỗng, nghĩa là không lúc nào không
có một loại tâm duyên theo một đối tượng vật chất hay tinh thần. Thời gian tồn
tại của một loại tâm như vật gọi là chập tư tưởng. Khi một chập tư tưởng diệt,
tức khắc có một chập mới phát sanh. Như vậy, những chập tư tưởng liên tục nối
tiếp, và thời gian tồn tại của một chập tư tưởng thật ngắn, khó mà quan niệm
được.
Mỗi chập tư tưởng gồm ba giai
đoạn (khana): Sanh (uppada), Trụ (thiti), và Diệt (bhanga).
Ngay khi một tư tưởng vừa qua
giai đoạn diệt (bhanga), tức khắc giai đoạn sanh (uppada) của chập tư tưởng kế
khởi lên. Trong tiến trình luôn luôn biến đổi của đời sống, mỗi chập tư tưởng
khi diệt, chuyển tất cả năng lực và tất cả những cảm giác thâu nhận cho chập tư
tưởng kế tiếp. Mỗi chập tư tưởng mới gồm những tiềm năng do chập tư tưởng trước
trao lại và thêm vào đó còn có cài gì khác nữa. Như vậy có sự luân lưu không
ngừng của tâm. Luồng tâm như một dòng suối luôn luôn trôi chảy. Chập tư tưởng
mới không hoàn toàn giống chập tư tưởng trước bởi vì thành phần cấu tạo đã đổi
mới, mà cũng không tuyệt đối là khác bởi vì cả hai cùng nằm trong một luồng
sống, một dòng đời. Không có chúng sanh đồng nhất nhưng có sự đồng nhất trong
tiến trình đời sống của chúng sanh.
Không nên nhận định rằng tâm là
một chuỗi dài những chập tư tưởng riêng biệt, kế tiếp nối liền với nhau, như
một sợi dây xích, hay một đoàn những toa xe lửa nối liền. Trái lại, "nó
liên tục trôi chảy như một dòng sông, luôn luôn tiếp nhận dồi dào những thành
phần mới, từ những chi lưu ngũ quan và luôn luôn cung cấp cho thế gian chung
quanh những tư tưởng mới thâu nhập trên đường đời [9]".
Trong chuỗi dài những trạng thái
tâm, có sự kề nhau nối tiếp mà không có trạng thái chập chồng cái nầy trên cái
kia như có người lầm tưởng. Không có chập tư tưởng đã qua mà còn trở lại. Không
có chập tư tưởng hoàn toàn giống hệt chập qua. Những trạng thái ấy luôn luôn
biến đổi, không thể tồn tại trong hai khoảnh khắc kế tiếp. Hạng phàm nhân còn
lúng túng trong ảo mộng, lầm nhận sự liên tục giả mạo bên ngoài ấy là cái gì
vững bền, vĩnh viễn, không đổi thay, và còn đi xa đến đổi đưa một linh hồn
trường tồn bất biến (giả định là người vừa hành động vừa quan sát hành động)
vào trong cái tâm luôn luôn biến đổi.
Bốn loại hiện tượng tâm linh,
hợp với một hiện tượng vật lý, tạo nên Ngũ Uẩn (pancakkhandha), sự kết hợp vô
cùng phức tạp của năm thành phần cấu tạo một chúng sanh.
Mỗi cá nhân là sự phối hợp của
năm uẩn ấy.
Nhìn ra đại dương ta thấy một
biển nước bao la, những thành phần bé nhỏ trong biển cả là sự kết hợp của nhiều
giọt nước li ti. Trên bờ biển, cát nhiều vô số kể, nhưng ta chỉ thấy một thảm
cát trãi dài trên bãi. Những lượn sóng kế tiếp nhô lên rồi tan ra trên mặt cát,
nhưng một cách chính xác, không có một lượn sóng đồng nhất, bất biến, từ đáy
sâu của biển cả nhô lên để rồi tan mất sự đồng nhất ấy trên bãi cát.
Xem xi-nê, ta thấy cảnh vật di
động trên màn ảnh, nhưng thực ra chỉ có những hình ảnh riêng biệt, liên tục
tiếp diễn theo một tốc độ nào và cho ta cảm giác đang nhìn một hoạt cảnh liên
tục.
Ta không thể nói hương hoa tỏa
ra từ tai hoa, nhụy hoa, hay từ sắc màu của hoa, nhưng mùi thơm là của hoa.
Cùng một thế ấy mỗi cá nhân là
sự kết hợp của năm uẩn.
Toàn thể tiến trình của những
hiện tượng tâm-vật-lý ấy luôn luôn trở thành rồi tan biến, sanh rồi diệt. Đôi
khi Đức Phật dùng danh từ thông thường mà gọi tiến trình ấy là "Ta"
hay atta. Tuy nhiên, đó chỉ là một tiến trình luôn luôn biến đổi chớ không phải
là một thực thể trường tồn bất biến.
Phật Giáo không hoàn toàn phủ
nhận sự hiện hữu của một cá tính theo nghĩa thông thường của nó. Phật Giáo chỉ
phủ nhận - trong định nghĩa cùng tột (Paramatha Saccena, Chân đế) - một chúng
sanh bất biến, một thực thể vĩnh cửu, chớ không phủ nhận có sự liên tục trong
tiến trình.
Danh từ triết học Phật Giáo gọi
một cá nhân là Santati, một sự trôi chảy, một triều lưu, hay sự liên tục. Dòng
triều lưu bất tức hay sự liên tục không ngừng ấy của hiện tượng tâm-vật-lý - do
nghiệp lực tạo điều kiện - đã bắt nguồn từ quá khứ xa xôi mà ta không thể quan
niệm, và sẽ còn liên tục diễn tiến trong tương lai vô tận, ngoại trừ trường hợp
ta áp dụng Bát Chánh Đạo một cách đầy đủ và đúng mức.
Chính dòng triều lưu liên tục
của hiện tượng tâm-vật-lý ất là cái mà các hệ thống tín ngưỡng khác gọi là cái
"Ta" vĩnh cửu hay cái "linh hồn" trường tồn.
-- Nếu không có linh hồn, coi như một thực thể đơn thuần, không biến đổi,
thì cái gì tái sanh?
Theo Phật Giáo, sanh là sự kết
hợp của những uẩn (khandas) hay nhóm, hợp thể (khandhanam patubhavo).
Cũng như sự tái sanh của một
trạng thái vật chất phải do trạng thái trước làm nguyên nhân và tạo điều kiện,
những hiện tượng tâm-vật-lý nầy cũng phát hiện do những nguyên nhân từ trước
khi sanh làm điều kiện. Tiến trình biến đổi hiện tại là kết quả của lòng khao
khát ham muốn duyên theo sự biến đổi trong một kiếp sống trước, và bản năng ham
muốn tự nhiên trong hiện tại sẽ tạo điều kiện cho sự tái sanh sắp đến. Trong
một kiếp sống, tiến trình của đời sống có thể diễn tiến mà không cần có một
thực thể trường tồn di chuyển từ chập tư tưởng nầy sang chập tư tưởng kế, thì
một loạt tiến trình cũng có thể đặc tính mà không cần có một cái gì khác chuyển
từ kiếp nầy sang kiếp khác.
Thuyết tái sanh của Phật Giáo
không phải thuyết chuyển sinh linh hồn, hiểu như có sự di chuyển của một linh
hồn từ thân xác nầy đến cơ thể vật chất khác. Trong sách vua Milinda Vấn Đạo
(Milinda Panha) và Thanh Tịnh Đạo (Visuddhi Magga), Đại Đức Nagasena và Đại Đức
Buddhagosa đã dùng nhiều truyện ngụ ngôn để giúp ta lãnh hội dễ dàng định luật
tái sanh của Phật Giáo.
Câu truyện mồi lửa rất là rõ
ràng. Đời sống xem như một ngọn lửa, và hiện tượng tái sanh như sự mồi lửa từ
cây đèn nầy sang cây đèn khác. Ngọn lửa của đời sống liên tục tiếp diễn, mặc
dầu có sự gián đoạn bộc lộ ra bên ngoài mà ta gọi là cái chết.
Vua Milinda hỏi Đại Đức
Nagasena:
"Kính bạch Đại Đức, phải
chăng có sự tái sanh mà không có gì chuyển sinh thân nầy đến xác thân
khác?"
- Đúng như vậy, sự tái sanh diễn
tiến không cần có cái gì chuyển sinh thân nầy đến thể xác khác?"
- Xin Ngài ban cho một thí dụ.
- Tâu Đại Vương, thí dụ người nọ
dùng lửa của cây đèn nầy để mồi cây đèn kia. Có phải ngọn lửa cây đèn nầy
chuyển sang cây đèn kia không ?
- Kính bạch Ngài, không phải vậy.
- Đúng thế, tâu Đại Vương, tái
sanh diễn tiến không cần có sự di chuyển của một cái gì từ nơi nầy đến nơi
khác.
- Kính bạch Đại Đức, xin Ngài
ban cho một thí dụ khác.
- Tâu Đại Vương, Ngài còn nhớ
không, thửa nhỏ đi học, ông thầy dạy làm thơ đọc cho Ngài nghe vài vần thơ để
Ngài đọc theo đến thuộc lòng.
- Bạch Ngài, có như vậy.
- Vậy, tâu Đại Vương, có phải
lời thơ chuyển từ ông thầy sang trí nhớ của Đại Vương không?
- Bạch Ngài, không.
- Cùng một thế ấy, tâu Đại
Vương, hiện tượng tái sanh diễn tiến mà không cần có cái gì chuyển từ chổ nầy
sang qua nơi khác.
Và Đức vua Milinda hỏi tiếp:
- Kính Bạch Đại Đức, vậy thì cái
gì tiếp nối từ kiếp nầy sang kiếp khác?
- Tâu Đại Vương, chính Danh và
Sắc, phần tâm linh và phần vật chất, cũng được sanh ra trong kiếp sống kế.
- Có phải cũng tâm và thể xác
trước được di chuyển đến và sanh trở lại trong kiếp sống sau không?
-Tâu Đại Vương, không phải chính
tâm và thể xác trong kiếp trước được được sanh trở lại trong kiếp sống nầy. Tuy
nhiên, Danh và Sắc ở kiếp trước đã hành động, gây nhân, tạo nghiệp - thiện hay
ác - và tùy thuộc nơi nghiệp ấy, tâm và thể xác được sanh ra trong kiếp nầy.
- Kính bạch Đại Đức, nếu không
phải chính tâm và thân trước được sanh trở lại trong kiếp kế thì ta có thể
tránh khỏi quả báo của những hành động bất thiện không?
- Nếu không có sự tái sanh thì
ta không còn trả quả của những hành động bất thiện, nhưng tâu Đại Vương, ta đã
tái sanh trong một kiếp sống khác thì tức nhiên phải còn chịu hậu quả của những
hành động quá khứ.
- Kính thỉnh Đại Đức cho một thí
dụ.
- Tâu Đại Vương, cũng như người
nọ bẻ trái xoài của một người khác, bị chủ bắt, nạp cho vua và thưa: "Tâu
Đại Vương, người nầy đã lấy của tôi một trái xoài", và người nọ trả lời:
"Tâu Đại Vương, tôi không có lấy trái xoài của ông ấy. Trái xoài mà tôi bẻ
không phải là trái mà ông ấy đã trồng ra cây xoài. Như vậy tôi không đáng bị
trừng phạt." Vậy, Tâu Đại Vương, người lấy trái xoài có đáng bị phạt
không?
- Kính bạch Đại Đức, dĩ nhiên
người ấy đáng tội.
-Vì lẽ gì?
- Bạch Ngài, dầu có viện lẽ nào
để chạy tôi, người ấy cũng đáng bị phạt vì trài xoài mà người ấy bẻ là do xoài
của ông kia trồng ra cây.
- Cùng một thế ấy, Tâu Đại
Vương, với tâm và thân nầy ta làm một điều gì - thiện hay ác - và do hành động
ấy, một tâm và thân khác được sanh ra trong kiếp mới. Như,vậy, ta không tránh
khỏi sự ràng buộc của nghiệp quá khứ. [10]
Đại Đức Buddhaghosa giải thích
điểm phức tạp nầy bằng những thí dụ như tiếng dội, ánh sáng, con dấu và sự phản
chiếu của mặt gương.
Một văn hào hiện đại cũng giải
thích tiến trình tử-sanh ấy bằng một loạt những quả bi da. [11]
"Thí dụ như, nếu một quả bi
da lăn đến đụng một quả khác đang ở yên một chổ, thì quả lăn tới ngưng lại và
quả bị đụng lại lăn. Không phải quả banh lăn chuyển sang quả banh bị đụng. Nó
vẫn còn nằm lại phía sau, nó chết. Nhưng ta không thể phủ nhận rằng chính sự di
chuyển của nó, sức xung kích của nó, cái kết quả dĩ nhiên, hay cái nghiệp lực
của quả banh trước phát hiện trong quả banh kế, chớ không phải một chuyển động
mới khác được tạo ra."
Cùng một lối ấy - để dùng những
danh từ thông thường - xác thân chết, và nghiệp lực tái sanh trong một cơ thể
khác mà không cần có cái gì di chuyển từ kiếp sống nầy sang kiếp khác. Chúng
sanh mới được sanh ra, không thể hoàn toàn là một, nhưng cũng không tuyệt đối
khác hẳn với chúng sanh vừa chết, bởi vì cả hai cùng nằm trong một luồng
nghiệp. chỉ có sự liên tục của dòng đời, triền miên thay đổi, tiếp diễn trong
một thể xác mới, bất di bất dịch, chuyển sang từ thể xác nầy sang thân khác.
Chú thích:
[1] Religion and Science, trang
132.
[2] Bertrand Russell, The Riddle
of the Universe, trang 166.
[3] Religion and Science, trang
132.
[4] Religion and Science, trang
166.
[5] William James, Principles of
Psychology, trang 351.
[6] Watson, Behaviourism, trang
4.
[7] Principles of Psychology,
trang 215.
[8] Theo các nhà chú giải kinh
điển, nếu chia thời gian của một cái nhoáng ra làm một triệu phần thì thời gian
của một chập tư tưởng còn ngắn hơn là một phần triệu của thời gian một cái
nhoáng.
[9] Xem Compendium of Philosophy
- Introduction, trang 12.
[10] Xem Warren, Budhism in
Translations, trang 234-235.
[11] Xem sách "Buddha and
the Gospel of Budhism", trang 106, của tác giả Dr. Ananda Coomasvami.