[03]
Đạo Quả Phật
"Các
Đấng Như Lai chỉ là những vị thầy"-- Kinh Pháp Cú
Đặc Điểm Của Đức Phật
Sau cuộc chiến đấu kỳ diệu
phi thường kéo dài sáu năm đăng đẳng, không có sự hỗ trợ từ bên ngoài và không
được sự hướng dẫn của một năng lực siêu phàm nào, đơn độc một mình và chỉ nương
nhờ nơi nỗ lực của chính mình, Đạo Sĩ Gotama (Cồ Đàm), lúc ấy ba mươi lăm tuổi,
tận diệt mọi ô nhiễm, chấm dứt mọi tiến trình tham ái và chứng ngộ thực tướng
của vạn pháp, đã trở thành một vị Phật (Buddha), Đấng Chánh Biến Tri, bậc Toàn
Giác. Kể từ ngày ấy, Ngài là Đức Phật Cồ Đàm (Buddha Gotama) [1], một trong
chuỗi dài những vị Phật đã xuất hiện trong quá khứ và sẽ xuất hiện trong tương
lai.
Không phải khi sanh ra Ngài đã
là Phật, mà Ngài trở thành Phật do sự nỗ lực của mình.
Phạn ngữ Buddha
(Phật) xuất nguyên từ căn "Budh", là hiểu biết hay thức tỉnh. Gọi là
Buddha (Phật) vì Ngài hiểu biết đầy đủ Bốn Chân Lý Thâm Diệu Cao Quý (Tứ Diệu
Đế), và từ giấc mơ vô minh Ngài đã thức tỉnh. Chẳng những hoàn toàn thấu triệt,
mà Ngài còn có đủ khả năng truyền bá giáo lý nên cũng gọi là Samma
Sambuddha (Chánh Biến Tri, âm là Tam-Miệu Tam-Bồ-Đề) để phân
biệt với chư Phật Pacceka (Độc Giác, cá nhân, đơn độc) chỉ thấu triệt giáo lý
mà không thể rọi sáng cho kẻ khác, tự giác nhưng không thể giác tha.
Trước khi thành đạt Đạo Quả
Phật, Ngài được gọi là Bồ Tát (Bodhisatta) [2], có nghĩa là người có nguyện
vọng trở thành Phật.
Người muốn đắc Quả Phật phải
trải qua thời kỳ Bồ Tát, một thời kỳ tích cực trau giồi và phát triển những
phẩm hạnh: bố thí, trì giới, từ khước (xuất gia), trí tuệ, tinh tấn, nhẫn nại,
chân thật, quyết định, tâm từ và tâm xả.
Trong một thời kỳ chỉ có một đấng
Chánh Biến Tri. Cũng như có những loại cây, trọn đời chỉ trổ ra một bông, một
hệ thống thế gian (lokadhatu) chỉ có một đấng Chánh Biến Tri.
Đức Phật là chúng sanh duy nhất,
là nhân vật hy hữu, chỉ thật lâu mới có thể xuất hiện trên thế gian, vì lòng bi
mẫn, vì sự tốt đẹp, vì lợi ích và hạnh phúc của chư Thiên và nhân loại. Tôn
vinh Ngài là "Acchariya manussa" vì Ngài là một con người kỳ diệu lạ
thường. Tôn vinh Ngài là "Amatassa data" vì Ngài đã ban bố tình trạng
Bất Diệt. Tôn vinh Ngài là "Varado" vì Ngài là người đã ban bố tình
thương tinh khiết nhất, trí tuệ thâm sâu nhất và chân lý cao siêu nhất. Cũng
tôn vinh Ngài là "Dhammassami" vì Ngài là Pháp Vương, Chúa của Giáo
Pháp (Dhamma).
Như Đức Phật dạy, Ngài là:
"Đấng Như Lai (Tathagata),
bậc Ứng Cúng (Araham), đấng Chánh Biến Tri (Samma Sambuddha), người đã sanh ra
con đường vô sanh, đã sáng tạo con đường chưa được sáng tạo, đã công bố con
đường chưa được công bố, người đã hiểu biết con đường, người đã mục kích con
đường, người đã nhận thức con đường" [3].
Không có vị thầy nào dạy Đức
Phật phương pháp tu học để chứng Đạo Quả Chánh Đẳng Chánh Giác, "Na me
acariyo atthi" [4], "một đạo sư, ta không có", là chính lời của
Đức Phật. Ngài có học với những vị thầy để hiểu biết thế gian pháp [5] nhưng để
đến tầng siêu thế thì không. Chính Ngài tự lực thành đạt trí tuệ trực giác.
Nếu Đức Phật đã nhờ một vị thầy
hay một hệ thống tín ngưỡng nào như Ấn Độ Giáo chẳng hạn -- tôn giáo mà Ngài đã
trưởng thành trong ấy -- để phát triển trí tuệ siêu phàm, thì ắt Ngài không thể
tự gọi là "đạo sư vô song" (aham sattha anuttaro) [6]. Trong bài Pháp
đầu tiên, Ngài tuyên bố rằng ánh sáng đã rọi rõ cho Ngài trong những việc chưa
từng được nghe.
Trong những ngày đầu tiên sau
khi xuất gia tầm đạo, Ngài cố tìm đến sự hướng dẫn của những vị thầy lỗi lạc
nhất thời bấy giờ, nhưng trong giáo huấn của các vị thầy này không tìm thấy
được điều mong mỏi. Tình thế bắt buộc Ngài phải tự mình suy niệm và quay trở
vào bên trong để tìm Chân Lý. Và Ngài đã tìm ra Chân Lý bên trong Ngài. Ngài
theo dõi đến tận mức thâm sâu nhất của dòng tư tưởng, và chứng ngộ Chân Lý cùng
tột, chưa bao giờ từng được nghe và chưa từng được biết. Tuệ giác phát sanh từ
bên trong và rọi sáng những sự vật mà trước kia Ngài chưa từng nghe thấy.
Vì Ngài đã thấu triệt tất cả những
gì cần được biết và đã nắm được cái chìa khóa mở cửa vào mọi kiến thức, nên tôn
Ngài là Sabbannu, bậc Toàn Giác. Đó là trí tuệ siêu phàm mà Ngài đã dày công
trau giồi, trải qua vô lượng tiền kiếp.
Phật Là Ai?
Ngày nọ có người theo đạo Bà La
Môn tên Dona, nhân khi thấy dấu chân của Đức Phật in dưới cát có những đặc điểm
lạ thường, đến gần Ngài và hỏi:
- Phải chăng Ngài là một vị Trời
(Deva)?
- Không, quả thật tôi không phải
là một vị Trời.
- Vậy phải chăng Ngài là một
nhạc công trong cảnh Trời (Gandhabba)?
- Không, tôi không phải là một
nhạc công trong cảnh Trời.
- Vậy Ngài là quỷ Yakka chăng?
- Không, quả thật tôi cũng không
phải là quỷ Yakka.
- Như thế chắc Ngài là người?
- Không, quả thật tôi cũng không
phải là người.
- Vậy, xin cho biết Ngài là ai?
Đức Phật trả lời rằng Ngài đã
tận diệt những pháp trầm luân (hoặc lậu), vốn tạo điều kiện để tái sanh vào
những cảnh Trời, Gandhabba, Yakka hay cảnh người, và thêm:
"Như hoa sen, đẹp đẽ và dễ mến,
Không ô nhiễm bùn dơ nước đục,
Giữa đám bụi trần, ta không vướng chút bợn nhơ.
Như vậy, Ta là Phật." [7]
Đức Phật không hề tự xưng là
hiện thân (avatara) của thần Vishnu, một Thần Linh Ấn Độ Giáo mà kinh
Bhagavadgita đã ca ngợi một cách huyền diệu, sanh ra để bảo vệ sự chân chánh,
tiêu diệt tội lỗi và để thiết lập và củng cố đạo lý (Dharma).
Theo lời dạy của Đức Phật thì có
hằng hà sa số chư Thiên (Deva, cũng gọi là những vị Trời) -- cũng là hạng chúng
sanh, còn phải chịu sanh tử luân hồi -- nhưng không có một Thần Linh Tối
Thượng, với quyền lực siêu thế, kiểm soát vận mạng con người, xuất hiện trên
thế gian từng lúc, dùng hình thức người làm phương tiện. [8]
Đức Phật cũng không bao giờ tự
gọi là "Đấng Cứu Thế" có quyền năng cứu vớt kẻ khác bằng chính sự cứu
rỗi của mình. Ngài thiết tha kêu gọi những ai hoan hỷ bước theo dấu chân Ngài
không nên ỷ lại nơi người khác mà phải tự mình giải thoát lấy mình, bởi vì cả
hai trong sạch và bợn nhơ, cũng đều tùy thuộc nơi chính mình. Ta không thể trực
tiếp làm cho ai trong sạch hay ô nhiễm. [9]
Để minh định rõ ràng mối tương
quan của Ngài đối với hàng môn đệ và để nhấn mạnh tầm quan trọng của sự kiện tự
mình nhận lãnh trọn vẹn trách nhiệm và tự mình nỗ lực kiên trì, Đức Phật minh
bạch dạy rằng:
"Các
con phải tự mình nỗ lực. Các đấng Như Lai chỉ là đạo sư." [10]
Đức Phật chỉ vạch cho ta con
đường và phương pháp mà ta có thể nương theo đó để tự giải thoát ra khỏi mọi
khổ đau của vòng sanh tử và thành tựu mục tiêu cứu cánh. Đi trên con đường và
theo đúng phương pháp cùng không, là phần của người đệ tử chân thành muốn thoát
khỏi những bất hạnh của đời sống.
"Ỷ lại nơi kẻ khác để giải
thoát cho mình là tiêu cực. Nhưng đảm đang lãnh lấy trách nhiệm, chỉ tùy thuộc
nơi mình để tự giải thoát, quả thật là tích cực."
Tùy thuộc nơi người khác là đem
tất cả cố gắng của chúng ta ra quy hàng.
"Hãy tự xem con là hải đảo
của con. Hãy tự xem con là nương tựa của con. Không nên tìm nương tựa nơi ai
khác!" [11]
Các lời lẽ có rất nhiều ý nghĩa
kia mà Đức Phật đã dạy trong những ngày sau cùng của Ngài quả thật mạnh mẽ, nổi
bật và cảm kích. Điều này chứng tỏ rằng cố gắng cá nhân là yếu tố tối cần để
thành tựu mục tiêu. Tìm sự cứu rỗi nơi những nhân vật hảo tâm có quyền năng cứu
thế và khát khao ham muốn hạnh phúc ảo huyền xuyên qua những lời van vái nguyện
cầu vô hiệu quả và nghi thức cúng tế vô nghĩa lý, quả thật là thiển bạc và vô
ích.
Đức Phật là một người như chúng
ta. Ngài sanh ra là một người, sống như một người, và từ giã cõi đời như một
người. Mặc dầu là người, Ngài trở thành một người phi thường, một bậc siêu
nhân, do những cá tính đặc biệt duy nhất của Ngài. Đức Phật đã ân cần nhắc nhở
nhiều lần như vậy và không có điểm nào trong đời sống hoặc trong lời dạy của
Ngài để chúng ta lầm hiểu rằng Ngài là một nhân vật vô sanh bất diệt. Có lời
phê bình rằng lịch sử nhân loại, không hề có vị giáo chủ nào "phi thần
linh hơn Đức Phật, tuy nhiên, cũng không có vị nào có đặc tánh thần linh hơn
Đức Phật" [12]
Trong thời Ngài còn tại thế, Đức
Phật chắc chắn được hàng tín đồ hết lòng tôn kính, nhưng không bao giờ Ngài tự
xưng là Thần Linh.
Tánh Cách Vĩ Đại Của Đức Phật
Sanh ra là một người, sống như
một người, Đức Phật thành đạt trạng thái tối thượng của sự toàn thiện, Đạo Quả
Phật, do sức kiên trì nỗ lực cá nhân. Nhưng Ngài không dành giữ sự liễu ngộ
siêu phàm cho riêng mình mà công bố trước thế gian rằng tâm có khả năng và oai
lực bất khuất. Không khi nào tự hào rằng chỉ có Ngài là người duy nhất đắc Quả
Phật, vì Đạo Quả Phật không phải là ân huệ đặc biệt dành riêng cho một cá nhân
tốt phước nào đã được chọn trước.
Thay vì đặt trên con người một
thần linh vạn năng vô hình và cho con người một địa vị khép nép rụt rè, Đức
Phật chứng minh rằng con người có thể thành đạt trí tuệ cao siêu và Đạo Quả tối
thượng do sự cố gắng của chính mình. Và như vậy, Đức Phật nâng cao phẩm giá con
người. Ngài dạy rằng muốn thoát ra khỏi vòng trầm luân phiền não, chính ta phải
tự mình gia công cố gắng chớ không phải phục tùng, tùy thuộc nơi một thần linh,
hay một nhân vật nào làm trung gian giữa ta và vị thần linh ấy.
Trong thế gian ngã chấp, lấy
mình làm trung tâm của vũ trụ và chạy theo quyền thế, Đức Phật dạy chúng ta lý
tưởng cao quý của sự phục vụ bất cầu lợi. Ngài chống đối tệ đoan phân chia giai
cấp trong xã hội -- chỉ làm trở ngại mức độ tiến hoá của loài người -- và luôn
luôn bênh vực công lý, khuyên dạy bình đẳng giữa người và người. Ngài tuyên bố
rằng cánh cửa đưa vào sự thành công và thạnh vượng phải rộng mở cho tất cả mọi
người, ai cũng như ai, dầu cao thấp, sang hèn, đạo đức hay tội lỗi, nếu người
ấy cố công cải thiện nếp sống, hướng về con đường trong sạch. Ngài nâng đỡ hoàn
cảnh của người phụ nữ, lúc bấy giờ bị xã hội khinh thường, không những bằng
cách nâng phẩm giá của người đàn bà lên đúng tầm quan trọng, mà còn sáng lập
giáo hội đầu tiên trong lịch sử cho hàng phụ nữ. Cũng lần đầu tiên trong lịch
sử nhân loại, Ngài đứng lên cố gắng đánh đổ chế độ mua bán người làm nô lệ.
Ngài bãi bỏ phong tục đem những con vật xấu số ra giết để cúng tế thần linh và
nới rộng tâm Từ, bao trùm luôn cả loài thú.
Không bao giờ Đức Phật cưỡng
bách tín đồ phải làm nô lệ cho giáo lý của mình hay cho chính mình. Những ai
bước theo dấu chân Ngài đều được tự do tư tưởng. Ngài khuyên dạy hàng môn đệ
không nên nhắm mắt chấp nhận những lời của Ngài chỉ vì kính nể, tôn trọng,
nhưng phải xem xét, nghiên cứu, suy niệm cẩn thận cũng như người trí tuệ muốn thử
vàng, phải "đốt, cắt và chà vào đá".
Đức Phật nâng đỡ những bà mẹ bạc
phước như Patacara và Kisagotami bằng những lời khuyên lơn an ủi. Ngài tự tay
chăm sóc những người bệnh hoạn cô đơn như Putigatta Tissa Thera. Ngài giúp đỡ
người nghèo đói và bị bỏ rơi, không noi nương tựa như Rajjumala và Sopaka và
giải cứu những vị này khỏi phải chết oan thê thảm. Đức Phật nâng cao đời sống
đạo đức của hạng người tội lỗi sát nhân như Angulimala và hạng gái giang hồ hư
hỏng như Ambapali. Ngài khuyến khích kẻ yếu, đoàn kết người chia rẽ, đem ánh
sáng đến cho người vô minh tăm tối, dắt dẫn kẻ mê muội lầm đường, nâng đỡ người
thấp kém và tăng cao phẩm giá người cao quý. Người nghèo, người giàu, người
lương thiện và người tội lỗi, tất cả đều quý mến Ngài như nhau. Những bậc vua
chúa tàn bạo độc tài và những vì minh quân chánh trực, những hoàng tử vinh
quang hiển hách và những người sống cuộc đời tối tăm, không ai biết đến, những
nhà triệu phú giàu lòng quảng đại, những vị keo kiết bỏn xẻn, những học giả
khiêm tốn và những người kiêu căng tự đắc, hạng gái giang hồ, hạng người làm
nghề bẩn thỉu, hạng sát nhân, hạng người thường bị khinh bỉ, tất cả đều có
hưởng những lời khuyên dạy đầy trí tuệ và từ bi của Đức Phật. Gương lành cao
quý của Ngài là nguồn gợi cảm, là niềm khích lệ cho tất cả. Ngài là vị đạo sư
giàu lòng bi mẩn và rộng lượng khoan hồng hơn tất cả.
Ý chí sắt đá, trí tuệ cao siêu,
lòng bi mẫn vô biên, đức vị tha phục vụ, sự thoát ly chưa từng có, đời sống
gương mẫu, những phương pháp toàn thiện mà Ngài đã áp dụng để truyền bá giáo
lý, và sự thành công tối hậu của Ngài -- tất cả những yếu tố ấy đã khiến một
phần năm nhân loại tôn thờ Ngài là vị giáo chủ siêu việt nhất tự cổ chí kim.
Để tỏ lòng kính thâm sâu của
mình đối với Đức Phật, Sri Radhakrishnan viết:
"Nơi Đức Phật Gotama (Cồ
Đàm) ta nhận thấy một tinh hoa toàn thiện của người phương Đông. Ảnh hưởng của
Ngài trong tư tưởng và đời sống nhân loại là một kỳ công hy hữu, cho đến nay
không thua kém ảnh hưởng của bất cứ vị giáo chủ nào trong lịch sử. Mọi người
đều sùng kính, tôn Ngài là người đã dựng nên một hệ thống tôn giáo vô cùng cao
thâm huyền diệu. Ngài thuộc về lịch sử tư tưởng thế giới. Ngài là kết tinh của
người thiện trí bởi vì, đứng về phương diện trí thức, chắc chắn Ngài là một
trong những bậc vĩ nhân cao thượng nhất của lịch sử". [13]
Trong quyển "Three Greatest
Men in History", nhà học giả H. G. Wells ghi nhận như sau:
"Nơi Đức Phật ta thấy rõ
ràng là một con người giản dị có tâm đạo nhiệt thành, một mình tự lực phát huy
ánh sáng tươi đẹp, một nhân vật sống, một con người như mọi người chớ không
phải một nhân vật thần thoại ẩn hiện trong nhiều truyền thuyết hoang đường.
Ngài cũng ban bố cho nhân loại lời kêu gọi có tính cách phổ thông. Bao nhiêu
quan niệm của thế hệ tân thời đều tương hợp với giáo lý ấy. Đức Phật dạy rằng
tất cả những gian lao sầu khổ và bất hạnh trong đời đều do lòng ích kỷ sanh ra.
Trước khi có thể trở nên vắng lặng, con người cần phải ngừng sống cho giác quan
mình. Rồi từ đó, vượt lên trên tất cả mọi người, Ngài sống cuộc đời siêu nhiên.
Năm trăm năm trước Chúa Christ (Ki Tô), xuyên qua nhiều ngôn ngữ khác nhau,
Phật Giáo đã kêu gọi con người nên tự quên mình. Đứng về một vài phương diện,
giữa ta (là người Âu) và những nhu cầu của chúng ta và Phật Giáo, có nhiều quan
điểm gần nhau. Đối với tầm quan trọng của con người trong sự phục vụ, Ngài tỏ
ra sáng suốt hơn, và đối với vấn đề trường tồn bất hoại của kiếp nhân sinh,
Ngài ít lúng túng trong biện thuyết mập mờ hơn Chúa Ki Tô."
Thi sĩ Tagore tôn Ngài là bậc Vĩ
Nhân Cao Quý nhất trên thế gian.
Một triết gia người Đan Mạch,
ông Fausboll, tán dương Đức Phật với những lời lẽ như sau:
"Càng hiểu biết Ngài, tôi
càng quý mến Ngài".
Một tín đồ từ tốn của Đức Phật
sẽ nói:
"Càng hiểu biết Ngài, tôi
càng quý mến Ngài. Càng quý mến Ngài, tôi càng hiểu biết Ngài".
Chú thích:
[1] Hàng tín đồ gọi Ngài là Đức
Phật (Buddha), Đức Thế Tôn (Bhagava), Đức Thiện Thệ (Sugata) v.v... Những người
ở đạo khác gọi Ngài là Tôn Giả Cồ Đàm (Bho Gotama), Sa Môn Cồ Đàm (Samana
Gotama) v.v... Khi đề cập đến mình, Đức Phật dùng danh từ "Như Lai"
(Tathagata) có nghĩa là "người đã đến như vậy", "người đã ra đi
như vậy".
[2] Sanskrit: Bodhisatva. Xem
Chương 40 và 41.
[3] Samyutta Nikaya, Tạp A-Hàm
phần 3, trang 66; Kindred Sayings, phần 3, tr.58
[4] Majjhima Nikaya, Trung
A-Hàm, Ariyapariyesana Sutta, số 26
[5] Như Kondanna, Alara Kalama,
Uddaka Ramaputta v.v...
[6] Majjhima Nikaya, Trung
A-Hàm, Kinh Ariyapariyesana Sutta, số 26
[7] Gradual Sayings, phần 2, tr.
44-45. Anguttara Nikaya, Tăng Nhứt A-Hàm, phần 2, tr. 37.
[8] Tuy nhiên, có những vị đạo
sư Ấn Độ Giáo, để khuyến dụ người Phật tử theo tôn giáo mình, đã sai lầm gọi
Đức Phật là hiện thân của một Thần Linh Ấn Độ Giáo, điều mà Đức Phật đã bác bỏ
từ lúc còn tại tiền.
[9] Pháp Cú, 165: Trong sạch hay
ô nhiễm đều tùy nơi ta. Khong ai làm cho người khác trong sạch được.
[10] Pháp Cú, 276
[11] Digha Nikaya - Trường
A-Hàm, Mahaparinibbana Sutta - Kinh Đại Bát Niết Bàn.
[12] Dwight Goddard - Buddhist
Bible, trang 20.
[13] Gautama The Buddha, trang
1.