[06]
Kinh Chuyển Pháp Luân - Bài Pháp Đầu Tiên
Con
đường cao thượng nhất là Bát Chánh Đạo.
Chân lý cao thượng nhất là Tứ Đế.
Không luyến ái là trạng thái tâm cao thượng nhất.
Cao thượng nhất trong các loài có hai chân là Đấng Toàn Giác.
-- Kinh
Pháp Cú.
Lời Giới Thiệu
Dân tộc Ấn Độ thời xưa
được nổi danh là đã un đúc được nhiều vị hiền triết và giáo chủ lỗi lạc, mỗi vị
có một quan kiến khác nhau về đời sống và mục tiêu của đời sống. Kinh
Brahmajala Sutta (Pham Võng) của bộ Digha Nikaya (Trường A Hàm) ghi nhận tất cả
sáu mươi hai chủ thuyết triết học khác nhau nổi bật nhất thời bấy giờ.
Một quan kiến cực đoan trái
ngược hẳn với các trào lưu tín ngưỡng lúc ấy là thuyết tuyệt diệt, hay đoạn
kiến, của những người chủ trương sống theo vật chất, cũng gọi là Carvakas, lấy
tên của người sáng lập ra chủ thuyết ấy.
Theo chủ thuyết vật chất này của
thời xưa - danh từ Pali và Sanskrit đều gọi là Lokayata - sau khi chết con
người hoàn toàn tiêu diệt, bỏ lại tất cả mọi năng lực phát nguyên trong đời sống.
Theo họ, chết là hết, là chấm dứt tất cả. Chỉ có thế gian hiện tại là thực
tiễn: "Hãy ăn, uống và tận hưởng mọi lạc thú, vì cái chết đến với tất
cả", hình như là lý tưởng của hệ thống này. Đối với những người này,
"đạo đức là một ảo tưởng, chỉ có khoái lạc là thực tiễn. Chết là mức cuối
cùng của đời sống. Tôn giáo là một thác loạn điên cuồng, một chứng bệnh thần
kinh. Có sự ngờ vực tất cả những gì tốt đẹp, cao cả, trong sạch và bi mẫn. Lý
thuyết của họ chủ trương thỏa mãn dục vọng, lợi kỷ và thô kệch xác nhận ý chí
tục tằn. Không cần phải kiểm soát khát vọng và bản năng bởi vì đó là phần di
sản thiên nhiên của con người."
Một quan kiến khác chủ trương
rằng chỉ có đời sống khắt khe khổ hạnh mới có thể đưa con người đến giải thoát.
Đó là giáo lý thuần túy đạo đức mà những nhà tu khổ hạnh thời bấy giờ bênh vực
một cách mạnh mẽ. Năm vị đạo sĩ theo hầu cận Bồ Tát trong cuộc chiến đấu để
thành đạt Đạo Quả thuộc về thành phần này.
Trước khi chứng đắc Quả vô
thượng, chính Đức Phật cũng thực hành đúng theo tôn chỉ này và khép mình vào
mọi hình thức khắc khổ. Sau sáu năm chiến đấu một cách phi thường, Ngài nhận
định rằng lối tu khổ hạnh quả thật vô ích. Do đó, Ngài thay đổi phương pháp,
theo Trung Đạo. Năm vị đệ tử thân tín thấy vậy mất hết niềm tin, bỏ ra đi và nói
rằng: "Đạo Sĩ Gotama (Cồ Đàm) đã trở lại đời sống xa hoa, đã chấm dứt cố
gắng và đã trở về đời sống tiện nghi phong phú."
Sự bỏ đi bất ngờ này rõ ràng là
một thiếu thốn vật chất quan trọng cho Đức Phật vì trước kia, năm vị hết lòng
hầu cận và chăm lo hỗ trợ Ngài trong mọi cần yếu. Tuy nhiên Bồ Tát vẫn không
sờn lòng. Trái lại, ý chí sắt đá càng vững mạnh, có thể Ngài càng thỏa thích
hơn trong công phu đơn độc chuyên cần cố gắng. Với lòng nhiệt thành không suy
giảm và năng lực phục hồi, Ngài kiên trì tận lực tinh tấn cho đến lúc thành đạt
Chánh Giác, mục tiêu cứu cánh của Ngài.
Bài Pháp Đầu Tiên Của Đức Phật
Bài pháp đầu tiên của đức phật
gọi là Dhammacakka. Phạn ngữ này thường được phiên dịch là "Vương Quốc của
Chân Lý", "Vương Quốc của sự Chánh Đáng", "Bánh Xe Chân
Lý". Theo các nhà chú giải, danh từ Dhamma ở đây có nghĩa là trí tuệ hay
sự hiểu biết, và Cakka là thành lập hay củng cố. Như vậy, Dhammacakka là thành
lập, hay củng cố trí tuệ. Dhammacakkappavattana là "Trình Bày Sự Củng Cố
Trí Tuệ". Dhamma cũng có nghĩa là chân lý và Cakka là bánh xe. Do đó,
Dhamma-cakkappavattana là "Vận Chuyển hay Củng Cố Bánh Xe Chân Lý".
Trong bài Pháp cực kỳ quan trọng
này Đức Phật truyền bá con đường gọi là "Trung Đạo" mà Ngài đã khám
phá, mà cũng là tinh hoa của giáo lý Ngài. Mở đầu bài Pháp, Đức Phật khuyên năm
vị đạo sĩ khổ hạnh nên xa lánh hai lối tu cực đoan là lợi dưỡng và khổ hạnh vì
cả hai không thể dẫn đến trạng thái tuyệt đối Thanh Bình An Lạc và Toàn Giác.
Lợi dưỡng làm chậm trễ tiến bộ tinh thần. Khổ hạnh làm giảm suy trí thức. Ngài
chỉ trích cả hai vì chính bản thân Ngài đã tích cực sống theo lối cực đoan ấy
và kinh nghiệm rằng cả hai đều không dẫn đến mục tiêu cứu cánh. Rồi Ngài vạch
ra con đường vô cùng thực tiễn, hợp lý và hữu ích. Đây là con đường duy nhất
dẫn đến tình trạng trong sạch hoàn toàn và tuyệt đối giải thoát.
Lúc ấy Đức Phật ngự tại vườn Lộc
Giả, Isipatana, gần Benares.
Năm vị đạo sĩ thông minh xuất
chúng -- đã cùng chung sống với Bồ Tát ròng rã sáu năm dài -- là năm chúng sanh
duy nhất trong cảnh người lúc ấy được thính Pháp. Kinh sách ghi rằng có rất
đông những chúng sanh vô hình, như chư Thiên và chư Phạm Thiên, cũng thừa cơ
hội vàng ngọc này đến nghe. Người Phật tử tin rằng ngoài thế gian này, còn có
chúng sanh ở những cảnh giới khác, và cơ thể vật chất (sắc) của những chúng
sanh ấy tế nhị đến đỗi mắt người không thể trông thấy, và tin rằng lúc bấy giờ
chư Thiên và chư Phạm Thiên có thể nhân cơ hội hy hữu, đến nghe bài Pháp đầu
tiên của Đức Phật. Tuy nhiên bài Pháp rõ ràng hướng về năm đạo sĩ.
Mở đầu, Đức Phật dạy nên lánh xa
hai cực đoan. Chính câu Phật ngôn là:
"Có hai cực đoan (anta) mà
người xuất gia (pabbajitena) không nên nương nhờ".
Đức Phật đặc biệt nhấn mạnh hai
danh từ "anta", là mức tột cùng, điều thái quá, cực điểm hay cực
đoan, và "pabbajita" là người từ bỏ thế gian, ly gia cắt ái, người
xuất gia.
Đúng theo danh từ mà Đức Phật
dùng, một cực đoan là liên tục luyến ái, mãi mãi lăn trôi theo nhục dục ngũ
trần (kamasukhallikanuyoga). Đức Phật mô tả cực đoan này là thấp hèn, thô bỉ,
phàm tục, không xứng phẩm hạnh của bậc thánh nhân và vô bổ.
Không nên lầm hiểu rằng như thế
có nghĩa là Đức Phật mong muốn cho tất cả tín đồ từ bỏ mọi thú vui vật chất và
rút vào rừng sâu vắng vẻ, không thọ hưởng đời sống. Ngài không đến đỗi hẹp hòi
như thế.
Dầu người say đắm nhục dục có ảo
kiến thế nào, đối với ai biết điềm tĩnh suy tư, khoái lạc vật chất quả thật là
ngắn ngủi, không khi nào được thỏa mãn trọn vẹn và chỉ đưa đến hậu quả bất
hạnh. Đề cập đến hạnh phúc trần gian, Đức Phật dạy rằng thâu thập tài sản và
hưởng thọ tài sản đã thâu thập, là hai nguồn vui thích của người tại gia cư sĩ.
Tuy nhiên, bậc xuất gia chân chánh không tìm thích thú trong việc chạy theo
những khoái lạc tạm bợ nhất thời ấy. Đôi khi người ta lấy làm ngạc nhiên, không
hiểu vì sao người tu hành lại xa lánh mình. Nguồn hạnh phúc của một hạng người
có thể là tiếng chuông báo động cho những người khác, và đối với hạng người này
chỉ có sự xuất gia, từ khước và xa lánh thế tục là hạnh phúc.
Trái hẳn với lợi dưỡng, cực đoan
kia là một nỗ lực kiên trì trong lối tu khổ hạnh (attakilamathanuyoga). Phê
bình cực đoan này -- mà người thường không thể thực hành được -- Đức Phật dạy
rằng đây là một phương pháp đau khổ, không xứng phẩm hạnh của bậc thánh nhân,
và vô bổ. Khác với cực đoan kia mà Ngài mô tả là thấp hèn, thô bỉ và phàm tục.
Sự loại bỏ ba danh từ trên thật đáng ghi nhận. Thế thường, chỉ có những đạo sĩ
thành thật quyết tâm từ bỏ mọi luyến ái về nhục dục ngũ trần mới khép mình vào
kỷ cương đau khổ này để thành đạt sự giải thoát trọn vẹn ra khỏi những phiền
não của đời sống. Đức Phật đã tự bản thân kinh nghiệm lối tu đau khổ ấy. Ngài
miêu tả nó là vô ích, làm gia tăng đau khổ thay vì suy giảm.
Chư Phật và chư vị A Là Hán được
gọi là Ariya, có nghĩa là những bậc Cao Quý, Thánh Thiện. Như vậy, danh từ thấp
hèn (Anariya, hạ liệt, nghịch nghĩa với Ariya) có thể được phân giải là không
phải phẩm hạnh của chư Phật và chư vị A Là Hán, những người đã vượt lên khỏi
mọi dục vọng.
Attha là sự tốt đẹp cùng tột,
Cực Thiện, đối với người Phật tử, đó là Niết Bàn, sự thoát ly toàn vẹn ra khỏi
mọi phiền lụy. Vậy danh từ vô bổ (anatthasamhita) có thể được phân giải là
"không dẫn đến Cực Thiện, Giải Thoát".
Trước tiên, Đức Phật rọi rõ vấn
đề và làm sáng tỏ các ý niệm sai lầm của những người đang lắng nghe Ngài giảng.
Đến khi tâm sôi động của các vị này đã trở nên sẵn sàng để lãnh hội, Đức Phật
mới thuật lại kinh nghiệm bản thân của Ngài về hai cực đoan này.
Đức Phật dạy rằng Ngài (Như Lai)
nhận thức được điểm sai lầm của hai cực đoan này nên theo con đường ở khoảng
giữa - Trung Đạo. Đạo, hay con đường mới này đó chính Ngài đã khám phá. Đức
Phật gọi hệ thống mới mẻ này là Majjhima Patipada, Trung Đạo.
Để thuyết phục năm vị đệ tử nên
chú tâm đến con đường mới này, Ngài giảng về những lợi ích của nó. Không giống
như hai cực đoan, con đường ở khoảng giữa này đem lại giác ngộ tinh thần và trí
tuệ minh mẫn, thấy được thực tướng của sự vật. Khi tinh thần lắng dịu được sáng
tỏ và trí tuệ được khai thông thì mọi sự vật đều hiện ra trong bối cảnh thật sự
của nó.
Hơn nữa, không giống như hai cực
đoan nói trên, chỉ khích động dục vọng, Trung Đạo này chế ngự mọi thèm khát vật
chất và do đó, dẫn đến bốn Thánh Đạo, thấu triệt Tứ Diệu Đế, và sau cùng chứng
ngộ mục tiêu tối hậu, Niết Bàn.
Bây giờ, "Trung Đạo"
là con đường như thế nào?
Đức Phật giải đáp: "Đó là
Bát Chánh Đạo", con đường có tám chi và Ngài kể ra tám yếu tố ấy trong bài
kinh Chuyển Pháp Luân.
Yếu tố đầu tiên là Chánh Kiến,
điểm then chốt của Phật Giáo. Đức Phật khởi đầu bằng Chánh Kiến, sự hiểu biết
chân chính để phá tan mọi hoài nghi của năm vị đạo sĩ và hướng dẫn các vị ấy
vào con đường chánh. Chánh Kiến đề cập đến sự hiểu biết thực tướng của chính
mình và dẫn đến Chánh Tư Duy, suy niệm chân chánh về đức hạnh không luyến ái
hay khước từ, xuất gia (nekkhamma samkappa), tâm từ (avyapada samkappa), và
tánh ôn hòa (avihimsa samkappa), những đặc điểm đối nghịch với lòng vị kỷ, ác ý
và tánh hung bạo. Chánh Ngữ, có lời nói chân chánh, Chánh Nghiệp, tạo nghiệp
chân chánh, và Chánh Mạng, nuôi mạng chân chánh, là ba yếu tố để toàn thiện
giới đức. Yếu tố thứ sáu là Chánh Tinh Tấn, nỗ lực chân chánh, có liên quan đến
công phu diệt trừ những trạng thái tâm xấu và phát triển những tâm trạng tốt.
Công trình tự thanh lọc có thể được hoàn tất viên mãn bằng cách thận trọng nhìn
trở lại vào bên trong chính mình. Do đó Chánh Niệm, yếu tố thứ bảy, quả thật là
thiết yếu. Tinh Tấn phối hợp với Niệm, tạo nên Chánh Định, tức tâm an trụ vào
một điểm duy nhất, nhất điểm tâm, là yếu tố thứ tám. Tâm an trụ giống như mặt
kiếng được lau chùi bóng láng và mọi vật đều phản ảnh rõ ràng trung thực, không
bị méo mó, không lu mờ.
Mở đầu bài Pháp bằng hai cực
đoan và con đường "Trung Đạo" mà Ngài khám phá, Đức Phật giảng tiếp
Tứ Diệu Đế, bốn Chân Lý Thâm Diệu, với nhiều chi tiết.
Phạn ngữ Sacca, là chân lý, cái
gì thực sự có. Danh từ Bắc Phạn (Sanskrit) tương đương là Satya, một sự kiện
không còn tranh luận nữa. Đức Phật kể ra bốn Chân Lý như vậy, và bốn Chân Lý
này (Tứ Đế) là nền tảng của giáo lý nhà Phật, mật thiết liên quan đến cái gọi
là chúng sanh. do đó, Phật Giáo lấy nhân bản làm trung tâm, lấy con người làm
trụ cột, trái ngược với những tôn giáo lấy thần linh làm trung tâm. Phật Giáo
hướng nội, không hướng ngoại. Dầu chư Phật có xuất hiện trên thế gian hay
không, những Chân Lý ấy vẫn hiện hữu và một vị Phật chỉ khám phá ra nó bằng
cách trực nhận, và truyền dạy lại cho người thế gian còn bị màn vô minh che
lấp. Chân lý là sự thật vĩnh cửu, bất đi bất dịch và không thể bị thời gian
biến đổi. Đức Phật một mình chứng ngộ những Chân Lý này chớ không có sự hỗ trợ
nào của ai khác, và Ngài đã ghi nhận rõ ràng trong bài kinh Chuyển Pháp Luân:
"Đối với các pháp trước kia chưa từng được nghe, nhãn quan, tri kiến, trí
tuệ, giác tuệ, minh sát tuệ, và ánh sáng, phát sanh đến Như Lai." Những
danh từ này rõ thật có ý nghĩa vì nó chứng tỏ đặc tánh nguyên thủy của Giáo
Pháp mới mẻ mà Ngài đã tìm ra. Do đó không thể chứng minh được giả thuyết chủ
trương rằng Phật Giáo là một mức độ trưởng thành tự nhiên của Ấn Độ Giáo, mặc
dầu quả thật có nhiều điểm tương đồng giữa hai tôn giáo.
Danh từ Pali gọi những Chân Lý
này là Ariya Saccani (những chân lý thánh thiện, hay Thánh Đế), vì đây là những
Chân Lý được tìm ra do Đức Phật, là bậc Thánh nhân (Ariya) vĩ đại nhất, hoàn
toàn trong sạch và đã thanh lọc trọn vẹn mọi nhiễm ô.
Thánh Đế đầu tiên (Khổ Đế) đề
cập đến Dukkha - một Phạn ngữ khó phiên dịch được một cách chính xác - mà ta
thường gọi là đau khổ. Đứng về phương diện cảm giác, "du" là khó,
"kha" là chịu đựng, "dukkha" là cái gì làm cho khó chịu
đựng. Hiểu như một chân lý trừu tượng, "Du" là cái gì đáng khinh
miệt, không đáng bám níu. "Kha" là hư vô, rỗng không. Thế gian nằm
trong biển khổ và như vậy là đáng khinh miệt, ghê tởm, không đáng cho ta bám
níu. Thế gian là một ảo ảnh, không có chi là thực tế, do đó thế gian là hư vô,
rỗng không. Vậy, Dukkha là hư vô, không đáng cho ta bám níu.
Hạng người thường chỉ thấy lớp
ngoài của sự vật. Nhưng bậc thánh nhân nhận ra chân tướng của vạn pháp.
Đối với bậc thánh nhân (ariya)
đời sống là đau khổ, không thể sống mà không chịu khổ, vì các Ngài thấy rằng
không thể có hạnh phúc thật sự, vững bền, trong một thế gian huyền ảo, tạm bợ,
chỉ có thể làm cho nhân loại thất vọng.
Mọi người đều phải chịu cảnh
sanh (jati), và do đó, già (jara), bệnh (vyadhi) và cuối cùng chết (marana).
Không ai có thể tránh khỏi bốn nguồn đau khổ ấy.
Điều mong ước mà không được
thành tựu cũng là khổ. Thế thường, ta không muốn sống chung với những vật hay
những vật mình không ưa mà cũng không muốn xa lìa những vật hay những người
thân yêu. Nhưng, điều thiết tha mong mỏi không phải lúc nào cũng được thành tựu
như ý muốn. Trái lại, những cảnh ngộ nghịch lòng hay những điều ít mong mỏi
nhất, lắm khi đến với ta một cách đột ngột. Những trường hợp nghịch cảnh tương
tợ trở thành không thể chịu đựng nổi và đau khổ đến đỗi vài người yếu tánh và
kém hiểu biết phải nghĩ đến quyên sinh cuộc đời, tưởng chừng như chết là giải
quyết được mọi vấn đề đau khổ.
Hạnh phúc thật sự nằm bên trong
chúng ta, và không thể được định nghĩa bằng những danh từ như tài sản, sự
nghiệp, quyền lực, danh vọng, hay chinh phục, xâm lăng. Nếu những điều kể trên
được thâu thập bằng bạo lực, cường quyền hay một cách bất công, hoặc hướng sai
chiều, hay nhìn với tâm luyến ái, nó sẽ trở thành nguyên nhân sanh đau khổ hay
phiền muộn.
Một người thông thường, trung
bình, chỉ biết thọ hưởng dục lạc, và cho đó là cao thượng, là hạnh phúc duy
nhất. Trong sự thỏa mãn nhục dục, chắc chắn có hạnh phúc nhất thời khi mong
chờ, khi thọ hưởng, và khi hồi nhớ các thú vui ấy. Nhưng nó chỉ là tạm bợ và
huyền ảo. Theo Đức Phật, không luyến ái (viragata), hay vươn mình vượt qua khỏi
những khoái lạc vật chất là hạnh phúc cao thượng hơn.
Tóm tắt, chính cơ thể được cấu
tạo này (pancupadanakkandha, do ngũ uẩn phối hợp) là nguyên nhân sanh đau khổ.
Có ba loại ái dục. Đầu tiên,
hình thức ái dục thô kịch nhất là luyến ái theo nhục dục ngũ trần (kamatanha).
Thứ nhì là luyến ái đời sống (bhavatanha), và thứ ba là luyến ái theo trạng
thái vô sanh (vibhavatanha). Theo các bản chú giải thì hai loại ái dục sau là
luyến ái những khoái lạc vật chất có liên quan đến niềm tin rằng vạn vật là
trường tồn vĩnh cửu (sassataditthi, thường kiến) và luyến ái có liên quan đến
sự tin tưởng rằng sau kiếp sống này là hư vô, không còn gì hết (ucchedaditthi,
đoạn kiến). Bhavatanha cũng có nghĩa là luyến ái trong Sắc Giới và Vibhavatanha
là luyến ái trong Vô Sắc Giới, vì Aruparaga (ham muốn đeo níu theo Vô Sắc Giới)
cũng được xem là hai thằng thúc (samyojana, dây trói buộc, cột chúng sanh vào
vòng luân hồi).
Ái dục là một năng lực tinh thần
vô cùng hùng mạnh, luôn luôn ngủ ngầm trong mỗi người và là nguyên nhân chánh
của phần lớn các điều bất hạnh trong đời. Chính ái dục, thô kịch hay vi tế, làm
cho ta bám víu vào đời sống và do đó, dẫn dắt ta mãi mãi phiêu bạt trong vòng
luân hồi.
Những hình thức thô kịch nhất
của ái dục được giảm suy phần nào khi đắc Quả Tư Đà Hàm (Nhất Lai), tầng nhì
trong các tầng thánh, và chỉ được diệt trừ khi đắc Quả A Na Hàm (Bất Lai), tầng
thánh thứ ba. Những hình thức ái dục tế nhị được tận diệt trọn vẹn khi thành
đạt Đạo Quả A La Hán.
Hiểu biết Chân Chánh Chân Lý đầu
tiên (Khổ Đế) dẫn đến tận diệt (pahatabba) ái dục. Rồi Chân Lý thứ nhì (Tập Đế)
đề cập đến thái độ tinh thần của một người bình thường đối với ngũ trần. Chân
Lý thứ ba (Diệt Đế) là có sự chấm dứt trọn vẹn mọi hình thức đau khổ, tức Niết
Bàn, mục tiêu cứu cánh của người Phật tử. Niết Bàn có thể được thành tựu trong
chính kiếp sống hiện tiền, bằng cách tận diệt mọi hình thức ái dục. Niết Bàn
phải được thấu triệt (sacchikatabba) do nhãn quan tinh thần, bằng cách chấm dứt
mọi luyến ái với thế gian bên ngoài.
Khổ Đế - tùy thuộc nơi cái gọi
là chúng sanh và những sắc thái khác nhau của đời sống - phải được thận trọng
nhận thức, phân tách và quan sát (parinneyya). Sự quan sát này dẫn đến tri kiến
thích đáng thực tướng của chính ta.
Nguyên nhân của đau khổ là ái
dục, hay luyến ái (tanha). Đó là Tập Đế, Chân Lý Thâm Diệu thứ nhì.
Kinh Pháp Cú ghi:
"Do ái dục sanh phiền muộn.
Do ái dục sanh lo sợ. Người đã hoàn toàn chấm dứt ái dục không còn phiền muộn,
càng ít lo sợ". (câu 216)
Đức Phật dạy rằng ái dục dẫn đến
sanh-tử, tử-sanh, triền miên, mãi mãi (ponobhavika, dẫn đến tái sanh). Phạn ngữ
này rất đáng được ghi nhận vì có vài học giả cho rằng Đức Phật không hề dạy
thuyết tái sanh. Tập Đế gián tiếp đề cập đến đời sống quá khứ, hiện tại và vị
lai.
Diệt Đế, Chân Lý Thâm Diệu thứ
ba, phải được chứng ngộ bằng cách phát triển (bhavetabba) Bát Chánh Đạo
(Ariyatthangika magga, Bát Thánh Đạo). Bát Chánh Đạo là con đường duy nhất dẫn
ngay đến Đạo Quả Niết Bàn và cũng là Chân Lý Thâm Diệu cuối cùng - Đạo Đế - trong
Tứ Diệu Đế.
Sau khi đã giảng giải Tứ Diệu Đế
một cách tỉ mỉ và rành mạch, Đức Phật kết luận bài Pháp với những lời mạnh mẽ
sau đây: "Hỡi nầy các Tỳ Khưu, ngày nào mà tri kiến tuyệt đối như thực của
Như Lai về Tứ Đế dưới ba sắc thái và mười hai phương thức [1], chưa được hoàn
toàn sáng tỏ thì, cho đến chừng ấy, Như Lai không xác nhận rằng Như Lai đã
chứng ngộ Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác (anuttara sammasambodhi).
"Khi tri kiến tuyệt đối như
thực của Như Lai về Tứ Đế trở nên hoàn toàn sáng tỏ, chỉ đến chừng ấy, Như Lai
mới xác nhận rằng Như Lai đã chứng ngộ Vô Thượng Chánh Đảng Chánh Giác.
"Và lúc ấy phát sanh tri
kiến và tuệ giác: Tâm của Như Lai đã hoàn toàn giải thoát một cách vững chắc,
không còn lay chuyển, và đây là kiếp sống cuối cùng, không còn đời sống nào
khác nữa."
Khi thời Pháp chấm dứt, Kondanna
(Kiều Trần Như), vị đệ tử cao niên nhất trong năm vị, thấu triệt Giáo Pháp và
đắc Quả Tu Đà Hườn, tầng đầu tiên trong bốn tầng Thánh. Ngài chứng ngộ rằng cái
gì đã có sinh ra tức phải hoại diệt - Yam kinci samudayadhammam sabbam tam
nirodha-dhammam.
Lúc Đức Phật chuyển Pháp Luân,
chư Thiên trên quả địa cầu hoan hô:
"Pháp Luân này quả thật
tuyệt diệu! Không có sa môn, bà la môn, chư Thiên, Ma Vương hay Phạm Thiên nào
trên thế gian có thể giảng được. Đức Thế Tôn đã vận chuyển Pháp Luân trong vườn
Lộc Giả, tại Isipatana, gần Benares (Ba La
Nại)."
Nghe vậy chư Thiên và chư Phạm
Thiên trong tất cả các cảnh giới khác của đồng thanh hoan hô.
Một hào quang rực rỡ phát chiếu
rọi sáng thế gian, tỏ hơn hào quang của chư Thiên nhiều.
Ánh sáng của Giáo Pháp làm tỏ
rạng toàn thể dân gian và đem trạng thái thanh bình an lạc và hạnh phúc đến cho
tất cả chúng sanh.
Bài Pháp Đầu Tiên Của Đức Phật
Dhammacakkappavattana Sutta
(Kinh Chuyển Pháp Luân )
Lúc ấy tôi có nghe như thế
này:
Một thời nọ, lúc Đức Thế Tôn ngự
tại vườn Lộc Giả [2], xứ Isipatana [3], gần Benares, Ngài dạy năm vị tỳ khưu
như sau:
"Hỡi nầy các Tỳ Khưu, có
hai cực đoan (anta) mà hàng xuất gia (pabbajitena) phải tránh:
1.- Sự dể duôi trong dục lạc -
là thấp hèn, thô bỉ, phàm tục, không xứng phẩm hạnh của bậc thánh nhân, và vô
ích.
2.- Sự thiết tha gắn bó trong
lối tu khổ hạnh - là đau khổ, không xứng phẩm hạnh của bậc thánh nhân, và vô
ích.
Từ bỏ cả hai cực đoan ấy, Như
Lai [4] đã chứng ngộ "Trung Đạo" (Majjhima Patipada), là con đường
đem lại nhãn quan (cakkhu) và tri kiến (nana) và đưa đến an tịnh (vupasamaya)
[5], trí tuệ cao siêu (abhinnaya) [6], giác ngộ (sambhodhaya) [7], và Niết Bàn.
"Hởi nầy các Tỳ Khưu, con
đường Trung Đạo mà Như Lai đã chứng ngộ, con đường đem lại nhãn quan, tri kiến
và đưa đến an tịnh, trí tuệ cao siêu, giác ngộ và Niết Bàn là gì?
Đó chính là Bát Chánh Đạo (con
đường có tám chi) - là Chánh Kiến (samma ditthi), Chánh Tư Duy (samma
samkappa), Chánh Ngữ (samma vaca), Chánh Nghiệp (samma kammanta), Chánh Mạng
(samma ajiva), Chánh Tinh Tấn (samma vayama), Chánh Niệm (samma sati), và Chánh
Định (samma samadhi). Hỡi này các Tỳ Khưu, đó là "Trung Đạo" mà Như
Lai đã chứng ngộ".
(Đức Phật giảng tiếp):
"Hỡi này các Tỳ Khưu, bây
giờ, đây là Chân Lý Thâm Diệu về sự Khổ (dukkha-ariya-sacca, Khổ
thánh đế):
"Sanh là khổ, già là khổ,
bệnh là khổ, chết là khổ, sống chung với người mình không ưa thích là khổ, xa
lìa những người thân yêu là khổ, mong muốn mà không được là khổ, tóm lại, chấp
thân ngũ uẩn là khổ." [8]
Bây giờ, hỡi này các Tỳ Khưu,
đây là Chân Lý Thâm Diệu về Nguồn Gốc của Đau Khổ (dukkha-samudaya-ariyasacca, Tập
khổ thánh đế). Chính Ái Dục là nguyên nhân đưa đến sự tái sanh
(ponobhavika).
Ái, hợp với tâm thiết tha khao
khát, bám níu cái này hay cái kia (đời sống). Chính là Ái, đeo níu theo nhục
dục ngũ trần (kamatanha), ái đeo níu theo sự sinh tồn (bhavatanha, sanh ái,
luyến ái với ý tưởng cho rằng vạn vật là trường tồn vĩnh cửu), và ái, đeo níu
theo sự không sinh tồn (vibhavatanha, vô sanh ái, luyến ái với ý tưởng cho rằng
sau cái chết là hư vô).
Bây giờ, hỡi này các Tỳ Khưu,
đây là Chân Lý Thâm Diệu về Sự Diệt Khổ (dukkha-nirodha-ariyasacca, Diệt
khổ thánh đế). Đó là xa lánh trọn vẹn và tận diệt chính tâm ái
dục ấy. Đó là sự rời bỏ, sự từ khước, sự thoát ly và sự tách rời ra khỏi tâm ái
dục.
Bây giờ, hỡi này các Tỳ Khưu,
đây là Chân Lý Thâm Diệu về Con Đường dẫn đến sự Diệt Khổ
(dukkha-nirodha-gamini-patipada-ariya-sacca, Đạo diệt khổ thánh đế).
Đó là Bát Chánh Đạo: Chánh Kiến,
Chánh Tư Duy, Chánh Ngữ, Chánh Nghiệp, Chánh Mạng, Chánh Tinh Tấn, Chánh Niệm
và Chánh Định
-I-
(1) "Đây là Khổ Thánh
Đế"
Như vậy, hỡi các Tỳ Khưu, đối
với các pháp chưa từng được nghe trước kia, nhãn quan, tri kiến, trí tuệ, minh
sát tuệ và ánh sáng, phát sanh đến Như Lai.
(2) "Khổ Thánh Đế này phải
được nhận thức (parinneya)."
Như vậy, hỡi các Tỳ Khưu, đối
với các pháp chưa từng được nghe trước kia, nhãn quan, tri kiến, trí tuệ, minh
sát tuệ và ánh sáng, phát sanh đến Như Lai.
(3) "Khổ Thánh Đế này đã
được nhận thức (parinnata)."
Như vậy, hỡi các Tỳ Khưu, đối
với các pháp chưa từng được nghe trước kia, nhãn quan, tri kiến, trí tuệ, minh
sát tuệ và ánh sáng, phát sanh đến Như Lai.
-II-
(1) "Đây là Tập Khổ Thánh
Đế."
Như vậy, hỡi các Tỳ Khưu, đối
với các pháp chưa từng được nghe trước kia, nhãn quan, tri kiến, trí tuệ, minh
sát tuệ và ánh sáng, phát sanh đến Như Lai.
(2) "Tập Khổ Thánh Đế này
phải được tận diệt (pahatabba)."
Như vậy, hỡi các Tỳ Khưu, đối
với các pháp chưa từng được nghe trước kia, nhãn quan, tri kiến, trí tuệ, minh
sát tuệ và ánh sáng, phát sanh đến Như Lai.
(3) "Tập Khổ Thánh Đế này
đã được tận diệt (pahinam)."
Như vậy, hỡi các Tỳ Khưu, đối
với các pháp chưa từng được nghe trước kia, nhãn quan, tri kiến, trí tuệ, minh
sát tuệ và ánh sáng, phát sanh đến Như Lai.
-III-
(1) "Đây là Diệt Khổ Thánh
Đế."
Như vậy, hỡi các Tỳ Khưu, đối
với các pháp chưa từng được nghe trước kia, nhãn quan, tri kiến, trí tuệ, minh
sát tuệ và ánh sáng, phát sanh đến Như Lai.
(2) "Diệt Khổ Thánh Đế này
phải được chứng ngộ (sacchikatabba)."
Như vậy, hỡi các Tỳ Khưu, đối
với các pháp chưa từng được nghe trước kia, nhãn quan, tri kiến, trí tuệ, minh
sát tuệ và ánh sáng, phát sanh đến Như Lai.
(3) "Diệt Khổ Thánh Đế này
đã được chứng ngộ (sacchikatam)."
Như vậy, hỡi các Tỳ Khưu, đối với
các pháp chưa từng được nghe trước kia, nhãn quan, tri kiến, trí tuệ, minh sát
tuệ và ánh sáng, phát sanh đến Như Lai.
-IV-
(1) "Đây là Đạo Diệt Khổ
Thánh Đế"
Như vậy, hỡi các Tỳ Khưu, đối
với các pháp chưa từng được nghe trước kia, nhãn quan, tri kiến, trí tuệ, minh
sát tuệ và ánh sáng, phát sanh đến Như Lai.
(2) "Đạo Diệt Khổ Thánh Đế
này phải được phát triển (bhavetabbam)."
Như vậy, hỡi các Tỳ Khưu, đối
với các pháp chưa từng được nghe trước kia, nhãn quan, tri kiến, trí tuệ, minh
sát tuệ và ánh sáng, phát sanh đến Như Lai.
(3) "Đạo Diệt Khổ Thánh Đế
này đã được phát triển (bhavitam)."
Như vậy, hỡi các Tỳ Khưu, đối
với các pháp chưa từng được nghe trước kia, nhãn quan, tri kiến, trí tuệ, minh
sát tuệ và ánh sáng, phát sanh đến Như Lai.
(Để kết luận thời Pháp, Đức Phật
dạy):
"Hỡi này các Tỳ Khưu, ngày
nào mà tri kiến tuyệt đối như thực của Như Lai về bốn pháp thánh đế, dưới ba
sắc thái và mười hai phương thức [9] chưa được hoàn toàn sáng tỏ thì, cho đến
chừng ấy, Như Lai không xác nhận trước thế gian gồm chư Thiên, Ma Vương và Phạm
Thiên, giữa các chúng sa môn, bà la môn, Trời và người, rằng Như Lai đã chứng
ngộ Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác (anuttaram samma-sambodhim).
Đến khi, hỡi này các Tỳ Khưu,
tri kiến tuyệt đối như thực của Như Lai về bốn pháp thánh đế, dưới ba sắc thái
và mười hai phương thức, đã trở nên hoàn toàn sáng tỏ, chỉ đến chừng ấy, Như
Lai mới xác nhận trước thế gian gồm chư Thiên, Ma Vương và Phạm Thiên, giữa các
chúng sa môn, bà la môn, Trời và người, rằng Như Lai đã chứng ngộ Vô Thượng
Chánh Đẳng Chánh Giác
Và lúc ấy tri kiến và tuệ giác
phát sanh đến Như Lai (nanadassana). Tâm của Như Lai đã hoàn toàn giải thoát
một cách vững chắc, không còn lay chuyển, và đây là kiếp sống cuối cùng, không
còn kiếp sinh tồn nào khác nữa." [10]
Đức Phật giảng như thế ấy và các
vị tỳ khưu lấy làm hoan hỷ tán dương lời dạy của Đức Thế Tôn.
Khi Đức Phật giảng xong thời
Pháp, pháp nhãn (Dhammacakkhu) [11] của Ngài Kondanna (Kiều Trần Như) không còn
vướng bụi, hết bợn nhơ, (và Ngài thấy rằng) "cái gì đã có sanh tức phải
hoại diệt."
Lúc Đức Thế Tôn chuyển Pháp
Luân, chư Thiên trên quả địa cầu hoan hô: "Pháp Luân này quả thật tuyệt
diệu! Không có sa môn, bà la môn, chư Thiên, Ma Vương hay Phạm Thiên nào trên
thế gian có thể giảng được. Đức Thế Tôn đã vận chuyển Pháp Luân này trong vườn
Lộc Giã, tại Isipatana, gần Benares (Ba La
Nại)."
Nghe như vậy, chư Thiên ở các
cung Trời Tứ Đại Thiên Vương, Đạo Lợi, Dạ Ma, Đấu Xuất Đà, Hoá Lạc Thiên, Tha
Hoá Tự Tại, và chư Phạm Thiên ở cõi Phạm Chúng Thiên, Brahma Purohita, Đại Phạm
Thiên, Thiều Quang Thiên, Vô Lượng Quang Thiên, Quang Âm Thiên, Thiều Tịnh
Thiên, Vô Lượng Tịnh Thiên Biến Tịnh Thiên, Quảng Quả Thiên, Vô Tưởng Thiên, Vô
Phiên Thiên, và chư Phạm Thiên ở cảnh giới hoàn toàn tinh khiết, cảnh giới
trường cửu, thanh tịnh, đẹp đẽ, quang đãng và tối thượng, cũng đồng thanh hoan
hô.
Chính ngay trong lúc ấy, trong
khoảnh khắc ấy, tiếng hoan hô thấu đến cảnh Phạm Thiên. Mười ngàn thế giới ấy
đều chuyển động, lung lay và rung chuyển mạnh mẽ.
Một hào quang rực rỡ phát chiếu,
rọi sáng thế gian, sáng tỏ hơn hào quang của chư Thiên nhiều. Đức Thế Tôn nói:
"Kondanna quả đã chứng ngộ, Kondannna quả đã chứng ngộ".
Do đó Ngài Kondannna có tên là
Annata Kondannna.
Vài Nhận Xét về Kinh Chuyển Pháp Luân
1. Phật Giáo căn cứ trên kinh
nghiệm bản thân. như vậy, Phật Giáo hợp lý, không phải là một lý thuyết chỉ dựa
trên suy niệm và luận lý suông.
2. Đức Phật tránh xa những hệ
thống tư tưởng có thế lực thời bấy giờ và trình bày một "Trung Đạo",
hoàn toàn do Ngài tìm ra chớ không dựa vào lập luận của ai.
3. Phật Giáo là một con đường
hay Đạo (magga).
4. Kiến thức thích hợp với lý
trí là điểm then chốt của Phật Giáo.
5. Đức tin mù quáng bị loại trừ,
không còn chỗ đứng trong Phật Giáo.
6. Phật Giáo nhấn mạnh tầm quan
trọng của sự thực hành, thay vì chú trọng đến tín ngưỡng và giáo điều. Tin
tưởng suông vào giáo điều không thể dẫn đến giải thoát.
7. Nghi thức và cúng tế, được
xem là quan trọng trong kinh Phệ Đà (Veda), không có vai trò trong Phật Giáo.
8. Không có Thần Linh để con
người phải khép nép kính sợ.
9. Không có giai cấp trung gian
giữa người và Thần Linh để con người phải rụt rè.
10. Giới (sila), Định (samadhi),
Tuệ (panna) là chánh yếu để thành tựu mục tiêu - Niết Bàn.
11. Nền tảng của Phật Giáo là
bốn Chân Lý (Tứ Diệu Đế) có thể kiểm nhận bằng kinh nghiệm.
12. Tứ Diệu Đế dính liền với con
người.
13. Bốn Chân Lý ấy do chính Đức
Phật khám phá và Ngài đã tìm ra một mình, không nhờ ai. Chính câu Phật ngôn là:
"Bốn Chân Lý này chưa từng được nghe".
14. Đã là Chân Lý thì không thể
biến đổi với thời gian.
15. Khổ Đế, chân lý đầu tiên, đề
cập đến những thành phần cấu tạo bản ngã, hay cái được gọi là cá nhân, và những
giai đoạn khác nhau trong đời sống. Các thành phần này cần phải được phân tách,
xem xét tỉ mỉ và quan sát. Sự quan sát này dẫn đến hiểu biết mình một cách chân
chính.
16. Thấu triệt Chân Lý thứ nhất
(Khổ Đế) một cách hợp lý đưa đến tận diệt nguyên nhân của Khổ, Chân Lý thứ nhì.
Đế này đề cập đến thái độ tâm lý của một người thông thường đối với ngoại cảnh.
17. Chân Lý thứ nhì (Tập Đế) có
liên quan đến một năng lực hùng hậu luôn luôn ngủ ngầm bên trong mỗi người.
18. Chính năng lực tinh thần
hùng hậu ấy - ái dục - là nguyên nhân đưa đến tất cả những điều bất hạnh trong
đời sống.
19. Tập Đế đề cập một cách gián
tiếp đến những kiếp sống quá khứ, hiện tại và tương ai.
20. Như vậy, sự hiện hữu của
chuỗi dài những kiếp sinh tồn đã được Đức Phật biện minh.
21. Do đó, lý nghiệp báo, một hệ
luận của thuyết tái sanh, cùng một lúc, cũng được bao hàm đề cập đến.
22. Hai Chân Lý đầu tiên là tại
thế, thuộc về thế gian (lokiya). Chân Lý thứ ba - chấm dứt đau khổ - mặc dầu
tùy thuộc nơi ta, là siêu thế (lokuttara) và vượt hẳn ra ngoài phạm vì luân lý.
23. Đế thứ ba - thuần túy là sự
tự giác - là một pháp (dhamma) phải được thấu triệt bằng nhãn quan tinh thần
(sacchikatabba).
24. Chân Lý này - Diệt Đế - phải
được chứng ngộ bằng sự siêu thoát hoàn toàn. Đây không phải là trường hợp từ
khước những trần cảnh bên ngoài, mà là dứt bỏ mọi luyến ái ở bên trong đối với
thế gian bên ngoài.
25. Diệt Đế được thành tựu bằng
cách tận diệt trọn vẹn mọi luyến ái. Nhưng phải ghi nhận rằng nếu chỉ có một
việc là tận diệt năng lực tinh thần ấy (luyến ái) thì không đủ để chứng ngộ
Niết Bàn, Chân Lý thứ ba, vì như thế, Niết Bàn sẽ có nghĩa là hư vô. Tuy nhiên,
đạo Quả phải được thành đạt bằng cách tận diệt năng lực ấy vì chính nó trói
buộc chúng sanh vào thế gian (tam giới: Dục, Sắc và Vô Sắc Giới).
26. Niết Bàn không phải được tạo
nên (uppadetabba) mà phải được đạt đến (pattaba). Niết Bàn có thể được thành
tựu ngay trong kiếp sống hiện tại này. Như vậy, có thể hiểu rằng mặc dầu tái
sanh là giáo lý chánh yếu trong Phật Giáo, mục tiêu cứu cánh của Phật Giáo là
chấm dứt tái sanh - không tùy thuộc ở tương lai, vì có thể thành tựu trong kiếp
sống hiện tiền.
27. Đế thứ ba phải được thành
tựu bằng cách trau dồi và phát triển đế thứ tư.
28. Để tận diệt một năng lực
hùng mạnh (ái dục) cần phải vận dụng và phát triển tám yếu tố công hiệu (Bát
Chánh Đạo).
29. Tất cả tám yếu tố đều thuộc
về tinh thần.
30. Tám năng lực tinh thần hùng
mạnh và có tánh cách thiện, phải được tập trung để đánh đổ một năng lực bất
thiện dai dẳng ngủ ngầm bên trong ta.
31. Tuyệt đối tinh khiết, hoàn
toàn thoát ra khỏi mọi tiến trình sanh tử triền miên, một cái tâm không còn
vướng chút ô nhiễm, trạng thái bất diệt (amata), là những phước lành đi kèm
theo cuộc chiến thắng vĩ đại này.
32. Có phải chăng sự giải thoát
này là hoàn hảo hay tuyệt đối tinh khiết?
Quan điểm sau cùng là thích đáng
hơn.
33. Trong mỗi trường hợp, có thể
nêu lên một câu hỏi: Hoàn hảo là gì? Tuyệt đối tinh khiết là gì?
Không có một chúng sanh hay một
thực thể thuần nhất và trường tồn trong Phật Giáo mà chỉ có một luồng tâm xem
như một dòng nước luôn luôn trôi chảy.
Như vậy, đúng hơn, ta phải nói
rằng luồng tâm đã được thanh lọc, trở nên hoàn toàn tinh khiết bằng cách tận
diệt và loại trừ mọi ô nhiễm.
Bài Pháp Thứ Nhì
Anattalakkhana Sutta
(Kinh Vô Ngã Tướng)
[12]
Một thời nọ, lúc Đức Thế
Tôn ngự tại vườn Lộc Giả, xứ Isipitana, gần Benares
(Ba La Nại). Ngài mở lời dạy nhóm năm vị Tỳ Khưu: "Này hỡi các Tỳ
Khưu".
"Bạch Hóa Đức Thế
Tôn", năm vị trả lời.
Rồi Đức Phật truyền dạy như sau:
"Hỡi các Tỳ Khưu, sắc
(rupa) là vô ngã (anatta, không có một linh hồn trường cửu). Hỡi các Tỳ Khưu,
nếu trong đó có linh hồn [13], thì sắc này không phải chịu đau khổ. 'Sắc này
phải như thế này hay sắc này phải không như thế kia' trường hợp tương tự có thể
xảy ra. Nhưng vì sắc này không có linh hồn nên còn phải chịu khổ đau và không
thể có trường hợp (ra lệnh): 'Phải như thế này hay phải không như thế kia'.
"Cùng một thế ấy, thọ
(vedana), tưởng (sanna), hành (samkhara) và thức (vinnana) [14] đều vô ngã.
"Vậy, chư Tỳ Khưu nghĩ thế
nào, sắc này thường còn hay vô thường?
- Bạch Đức Thế Tôn, là vô thường
(anicca).
- Cái gì vô thường là khổ đau
hay hạnh phúc?
- Bạch Đức Thế Tôn, là khổ
(dukkha).
- Vậy, có hợp lý chăng nếu nghĩ
đến cái gì vô thường, khổ và tạm bợ với ý tưởng: 'Cái này của tôi, đây là tôi,
đây là tự ngã của tôi?' [15]
- Bạch Đức Thế Tôn, chắc chắn là
không hợp lý.
- Cùng thế ấy, này hỡi các Tỳ
Khưu, thọ, tưởng, hành, thức đều là vô thường và khổ. Vậy có hợp lý chăng nếu
nghĩ đến những gì vô thường, khổ và tạm bợ với ý tưởng: 'Cái này của tôi, đây
là tôi, đây là tự ngã của tôi?'
- Bạch Đức Thế Tôn, chắc chắn là
không hợp lý.
- Như vậy, này hỡi các Tỳ Khưu,
tất cả các sắc, dầu ở quá khứ, hiện tại hay tương lai, ở bên trong hay ở ngoại
cảnh, thô kịch hay vi tế, thấp hèn hay cao thượng, xa hay gần, phải được nhận
thức với tri kiến chân chánh theo thực tướng của nó: 'Cái này không phải của
tôi (n'etam mama). Đây không phải là tôi (n'eso h'amasmi), cái này không phải
là tự ngã của tôi (na me so atta)'.
Tất cả thọ, tưởng, hành, thức,
dầu ở quá khứ, hiện tại hay vị lai, ở bên trong hay ở ngoại cảnh, thô kịch hay
vi tế, thấp hèn hay cao thượng, xa hay gần, đều phải được nhận thức với tri
kiến chân chánh theo thực tướng của nó: 'Cái này không phải của tôi, đây không
phải là tôi, cái này không phải tự ngã của tôi'.
"Bậc Thánh đệ tử thông suốt
pháp học thấy vậy thì nhàm chán sắc, thọ, tưởng, hành, thức - dứt bỏ, không
luyến ái những gì không đáng được ưa thích và do sự dứt bỏ ấy, giải thoát. Rồi
tri kiến trở nên sáng tỏ: 'Ta đã giải thoát'. Vị ấy thấu hiểu rằng dòng sanh tử
đã chấm dứt, đời sống phạm hạnh đã được thành tựu, những điều cần phải làm đã
được hoàn tất viên mãn, không còn trở lại trạng thái này nữa.
"Đức Thế Tôn giảng giải như
vậy, và các vị Tỳ Khưu lấy làm hoan hỷ, tán dương lời dạy của Ngài".
Khi Đức Phật thuyết xong thời
Pháp, tâm của năm vị Tỳ Khưu đều trở nên hoàn toàn trong sạch, không còn chút ô
nhiễm. [16]
Chú thích:
[1] Ba sắc thái là: a. Tri kiến
về Tứ Đế (Sacca-nana), b. Tri kiến có liên quan đến cơ năng của Tứ Đế
(Kicca-nana) và, c. Tri kiến rằng cơ năng của mỗi đế đã được thành tựu
(Kata-nana). Mỗi đế có ba sắc thái. Vậy, bốn đế gồm tất cả mười hai phương
thức.
[2] Mahavagga tr. 10, Samyutta
Nikaya (Tạp A-Hàm), tập V, trang 420
[3] Hiện nay là Saranath, nơi mà
trong một tiền kiếp, Đức Thế Tôn đã hy sinh mạng sống để cứu một con thỏ cái
đang lâm nạn cùng với một con thỏ con chưa sanh. Trong kiếp sống ấy Bồ Tát có
tên là Saranganatha, người bảo vệ loài nai, do đó tên hiện tại của nơi này là
Sarnath.
[4] "Người đã đến như thế
ấy" hay "Người đã đi như thế ấy". Đức Phật thường dùng hình dung
từ này để tự xưng.
[5] Chế ngự dục vọng.
[6] Chứng ngộ Tứ Diệu Đế.
[7] Thành đạt bốn Đạo và bốn
Quả.
[8] Pancupadanakkhandha (panca +
upadana + khandha). Theo Phật Giáo, cái được gọi là chúng sanh gồm năm nhóm,
hay năm uẩn, là Sắc (Rupa, vật chất), Thọ (Vedana), Tưởng (Sanna), Hành
(Sankhara) và Thức (Vinnana). Đó là năm thành phần tâm-vật-lý cấu tạo một chúng
sanh. Sắc gồm những năng lực và đặc tánh. Tâm gồm những trạng thái tâm
(cetasikas, tâm sở). Có tất cả năm mươi hai tâm sở. Trong năm mươi hai tâm sở
ấy Thọ (Vedana) và Tưởng (Sanna) được kể như hai nhóm riêng biệt. Năm mươi tâm
sở còn lại được gọi chung là Hành (Sankhara)
[9] Có bốn Đế. Mỗi Đế có ba sắc
thái. Vậy tất cả (3x4) là mười hai phương thức.
[10] Ám chỉ A-La-Hán Quả
(Arahatta-phala).
[11] Dhammacakkhu - pháp nhãn -
có nghĩa là một trong ba thánh Đạo, Tu Đà Hườn, Tư Đà Hàm, và A Na Hàm. Lúc ấy
ngài Kiều Trần Như đắc quả Tu Đà Hườn. Về sau các vị kia cũng đắc Tu Đà Hườn
như vậy.
[12] Mahavagga tr.13, Samyutta
Nikaya, Tạp A-Hàm, phần iii, tr. 66
[13] Một thực thể thường còn,
không biến đổi tạo nên do một vị Thần Linh hay phát xuất từ một đại hồn
(Paramatma, tinh hoa của Thần Linh).
[14] Cái được gọi là chúng sanh
gồm năm uẩn. Ngoài năm uẩn ấy không có chúng sanh. Nếu bỏ năm uẩn ra, sẽ không
còn gì tồn tại. Không có linh hồn hay bản ngã trong một uẩn riêng lẻ, không có
linh hồn trong năm uẩn hợp lại, mà linh hồn cũng không có ngoài năm uẩn ấy. Đức
Phật giảng giải giống như đoạn trên khi đề cập đến thọ, tưởng, hành, thức và
cho thấy rằng không có một linh hồn hay bản ngã trong uẩn nào. Ở đây bản dịch
thâu gọn lại.
[15] Vì bị ái dục (tanha) che
lấp, ta suy tưởng sai lầm: "đây là của tôi". Bị ngã mạn (mana), che
lấp ta suy tưởng: "đây là tôi". Bị tà kiến (miccha ditthi) che lấp,
ta suy tưởng: "đây là tự ngã của tôi". Đó là ba quan niệm sai lầm
(mannana).
[16] Đó là: tất cả năm vị đều
đắc Quả A-La-Hán.