[13]
Đời sống hằng ngày của Đức Phật
"Đức Thế Tôn đã tự giác.
Ngài hoằng dương Giáo Pháp
Để giác ngộ kẻ khác."
--
Majjhima Nikaya
Đức Phật
có thể được xem là vị giáo chủ hoạt động tích cực và nhiệt thành nhất trên thế
gian. Ngài luôn luôn bận rộn với công việc đạo pháp trọn ngày, ngoại trừ những
lúc cần phải để ý đến vài nhu cầu vật chất. Chương trình hoạt động của Ngài
được sắp xếp rất có quy củ và mực thước. Đời sống bên trong là hành thiền, tĩnh
tâm và chúng nghiệm hạnh phúc Niết Bàn. Bên ngoài là phục vụ vị tha, nâng đỡ phẩm
hạnh của chúng sanh trong khắp thế gian. Chính Ngài tự giác, rồi tận lực cố
gắng giác ngộ người khác, dẫn dắt chúng sanh ra khỏi mọi phiền lụy của đời
sống.
Hoạt động hằng ngày của Đức Phật
chia làm năm giai đoạn: 1. Buổi sáng. 2. Buổi trưa. 3. Canh đầu. 4. Canh giữa.
5. Canh cuối.
Buổi sáng
Thường ngày, lúc còn tảng sáng
sớm, Đức Phật dùng thiên nhãn để quan sát thế gian, xem có ai cần Ngài tế độ.
Nếu thấy có người cần hỗ trợ tinh thần thì không đợi thỉnh cầu, Ngài tự ý đến
để dẫn dắt người ấy vào chánh đạo. Ngài đi bộ. Nhưng một đôi khi Ngài cũng dùng
phép thần thông bay trên không trung. Thông thường, chính Ngài tự ý đi đến
những người hư hèn ô nhiễm, như tên cướp sát nhân hung tợn Angulimala và quỷ Dạ
Xoa, bạo tàn ác độc. Nhưng cô bé Visakha có tâm đạo nhiệt thành và nhà triệu
phú Anathapindika (Cấp Cô Độc) và những bậc thiện trí như Sariputta (Xá Lợi
Phất) và Moggallana (Mục Kiền Liên) thì tìm đến thọ giáo để được Ngài dẫn dắt.
Trong khi tế độ thế gian, nếu
không có ai thỉnh về trai tăng, Đức Phật - người mà các bậc vua chúa đều tôn
sùng kính nể và khấu đầu đảnh lễ mỗi khi đến trước mặt - đi trì bình khất thực
trên các nẻo đường, khi thì một mình, lúc thì với chúng Tăng. Im lặng đứng
trước cửa từng nhà, không thốt ra một lời, Ngài thọ lãnh vật thực nào mà tâm
trong sạch bố thí của thiện tín hoan hỷ sớt vào bát, rồi trở về chùa. Cho đến
năm tám mươi tuổi, mặc dầu đau ốm bất thường, Ngài vẫn đi trì bình trong thành
Vesali.
Đức Phật thọ thực trước ngọ. Sau
đó chư vị tỳ khưu hợp lại nghe Ngài thuyết một bài Pháp ngắn. Sau thời Pháp,
Đức Phật ban lễ quy y Tam Bảo, truyền Ngũ Giới, và nếu có vị nào đạt đến trình
độ tinh thần đầy đủ, Ngài chỉ dẫn vào Thánh Đạo, Con Đường Giải Thoát. Một vài
vị đến gần để xin đề mục hành thiền thích hợp theo tâm tánh mình. Nếu có lời
thỉnh nguyện, đôi khi Ngài cũng ban hành lễ xuất gia.
Buổi trưa
Sau khi giảng dạy hoặc kêu gọi
chư vị đệ tử, Đức Phật lui về tịnh thất. Nếu muốn, Ngài nằm nghiêng mình bên
mặt và định thần một lát. Lúc dậy, Ngài nhập Đại Bi Định (Maha Karuna Samapatti)
và dùng Phật nhãn [1] quan sát thế gian, nhất là các vị tỳ khưu đã đi vào rừng
sâu hành thiền nơi vắng vẻ và các vị đệ tử khác ở xa, để hướng dẫn và khuyên
dạy. Nếu có một vị ở xa cần được hỗ trợ, Ngài dùng thần thông bay đến nơi để tế
độ rồi trở về tịnh thất.
Vào buổi chiều, thiện tín kéo
đến nghe Pháp. Do Phật nhãn, Ngài nhìn vào khuynh hướng tâm tánh của từng người
trong cử tọa để thuyết Pháp độ một giờ. Mỗi người nghe, dầu tâm tánh và tình
cảm hoàn toàn khác nhau, đều có cảm tưởng rằng bài Pháp của Đức Phật đặc biệt
hướng về mình. Đó là phương pháp giảng dạy của Đức Phật. Ngài thường dùng những
thí dụ, những hình ảnh hay những ngụ ngôn có liên quan đến đời sống hằng ngày
trong nhà để giải thích giáo lý, và Ngài nhắm vào tri thức hơn là tình cảm.
Đối với người thuộc hạng trung
bình, Đức Phật bắt đầu giảng về hạnh bố thí, giới luật và hạnh phúc ở các cảnh
Trời. Đối với người tiến bộ hơn, Ngài đề cập đến những nguy hại của thú vui vật
chất và hạnh phúc của sự từ khước, buông xả, thoát ly. Với các vị đạt đến trình
độ cao thượng, Ngài giảng về pháp Tứ Diệu Đế.
Trong một vài trường hợp hiếm
hoi - như trường hợp Angulimala và bà Khema - Đức Phật dùng oai lực thần thông
để ảnh hưởng đến tâm người nghe.
Giáo Pháp Cao Siêu của Đức Phật
gợi nguồn cảm hứng cho cả lớp đại chúng lẫn hàng trí thức. Một thi sĩ Phật tử
có hát lên những lời tán tụng như sau:
"Đem phỉ lạc đến bậc thiện
trí, tạo kiến thức cho hạng trung bình, và đánh tan đêm tối của người ngu muội,
đây quả thật là ngôn ngữ của tất cả mọi người." [2]
Cả hai lớp người, giàu và nghèo,
cao sang và thấp kém, đều từ bỏ đức tin cũ của mình để hướng về Thông Điệp Hòa
Bình của Đức Phật. Nền đạo pháp (Sasana) sơ sanh bắt đầu với năm vị đạo sĩ như
hột nhân của tế bào, sớm sanh sôi nẩy nở, mở rộng đến hàng triệu người, và một
cách êm thắm, ôn hòa, khắp miền Trung Ấn Độ.
Canh Đầu
Từ sáu giờ đến mười giờ đêm là
khoảng Đức Phật dành riêng để các vị tỳ khưu được tự do thỉnh cầu Ngài rọi sáng
những hoài nghi của mình, hỏi về những điểm phức tạp trong Giáo Pháp, xin đề
mục hành thiền, và lắng nghe thuyết giảng.
Canh Giữa
Từ mười giờ đến hai giờ khuya,
chư Thiên và chư Phạm Thiên là những chúng sanh mà mắt người không thể trông
thấy, từ các cảnh Trời, đến hầu Phật và hỏi Ngài về Giáo Pháp. Trong kinh sách
có một đoạn, thường được nhắc đi lặp lại như sau: "Lúc bấy giờ đêm đã
khuya, một vị Trời có hào quang rực rỡ đến gần Đức Phật, cung kính đảnh lễ và
đứng lại một bên". Nhiều bài kinh và nhiều lời vấn đáp được ghi lại trong
bộ Samyutta Nikaya (Tạp A Hàm).
Canh Cuối
Canh cuối cùng trong đêm, từ hai
giờ khuya đến sáu giờ sáng, được chia làm bốn phần. Trong phần đầu, từ hai đến
ba giờ, Đức Phật đi kinh hành (cankamana). Từ ba đến bốn giờ, Ngài nằm định
thần, nghiêng về phía tay mặt. Từ bốn đến năm giờ, Ngài nhập Đại Bi Định (Maha
Karunasamapatti), và rải tâm Từ đến khắp nơi, làm êm dịu tâm trí tất cả chúng
sanh. Sau đó Ngài quan sát thế gian bằng Phật nhãn xem coi có thể tế độ ai.
Những người đạo hạnh và những người cần đến, dầu ở cách xa thế nào Ngài cũng
nhận ra và, mở lòng bi mẫn, tự ý đến với họ để đem lại sự hỗ trợ cần thiết.
Như vậy, trọn cả ngày, Đức Phật
luôn luôn bận rộn với nhiệm vụ đạo đức. Ngài chỉ ngủ một giờ đồng hồ. Trong hai
giờ tròn, buổi sáng và lúc bình minh, Ngài đượm nhuần toàn thể thế gian với tâm
Từ vô lượng và đem hạnh phúc đến cho hàng triệu chúng sanh. Tự nguyện sống đời
nghèo nàn, đi trì bình khất thực mà không làm phiền đến ai, rày đây mai đó, tám
tháng trời liền trong năm để hoằng khai Diệu Pháp. Ngài không ngừng gia công để
đem lại điều tốt đẹp và hạnh phúc cho tất cả, chí đến ngày nhập diệt, vào năm
tám mươi tuổi thọ.
Chú thích:
[1] Buddhacakkhu, nhãn quan của
một vị Phật, gồm tri kiến về những khuynh hướng (asaya) và những khuynh hướng
ngủ ngầm (asayanusaya nana) và tri kiến về tánh cách dã dượi hay nhiệt thành
sắc bén của ngũ căn, (indriyaparoparyattana nana, những khả năng tinh thần như
niềm tin, sự tinh tấn, chánh niệm, tâm định và trí tuệ).
[2] Satapancasataka, câu 78.