[PHẦN THỨ HAI: VỀ SÓNG ĐÔI
XI- LUẬN VỀ SÓNG ĐÔI *]
«Yuganandhakathā»
* yuganandha: nđ cột lại thành cặp
1. [92] ‘Như vầy tôi nghe. Có một
dạo, tôn giả Ānanda lưu trú ở Kosambi trong vườn Ghosita. Ở
đấy, tôn giả nói với các tỳ kheo như vầy: ‘Này các đạo hữu tỳ kheo’ -
Các tỳ kheo ấy trả lời: ‘Vâng, thưa đạo hữu’. Tôn giả Ānanda
nói:
‘Này các đạo hữu tỳ kheo, bất cứ tỳ
kheo hay tỳ kheo ni nào tuyên bố trước mặt tôi là đã chứng quả
Arahant, sự chứng quả ấy luôn luôn nhờ bốn con đường hay nhờ vào một
trong bốn con đường ấy. Bốn con đường nào?
‘Ở đây vị tỳ kheo tu quán thực tánh
có thiền tĩnh lặng đi trước.*
Làm như thế, con đường
2*
mở ra trong vị ấy. Vị ấy lập lại, tu tập và làm cho phong phú con
đường ấy. Khi làm như thế, các kết buộc của vị ấy bị từ bỏ và các
khuynh hướng ngủ ngầm bị tuyệt diệt.
* samathapubbaṅgamaṁ vipassanaṁ: MA giải thích phương cách này
như sau: ‘Ở đây, vị tỳ kheo đạt cận định hay nhập định; đây là sự tĩnh
lặng. Vị ấy quán thực tánh thấy rằng sự tĩnh lặng và các trạng thái
phụ thuộc vào sự tĩnh lặng đó đều là vô thường, ...; đây là tuệ thấy
thực tánh. Như vậy tĩnh lặng xảy ra trước, quán thực tánh xảy ra sau
(MA 1: 112). Đọc Henepola Gunaratana, The Path of Serenity and
Insight, Motilal Banarsidass Publishers [Delhi, 1994] trang 149.
2* Theo chú giải, con đường này là đạo lộ siêu thế thứ nhất. Đọc F. L.
Woodward, Gradual Sayings II [PTS, 1995] chú thích 1, tr. 162.
‘Lại nữa, vị tỳ kheo tu tập thiền
tĩnh lặng có quán thực tánh đi trước.*
Làm như thế, con đường mở ra trong vị ấy. Vị ấy lập lại, tu tập và làm
cho phong phú con đường ấy. Khi làm như thế, các kết buộc của vị ấy bị
từ bỏ và các khuynh hướng ngủ ngầm bị tuyệt diệt.
*
vipassanāpubbaṅgamaṁ samathaṁ:
MA giải thích phương thức này như sau: ‘Ở đây, vị tỳ kheo quán thực
tánh thấy rằng năm tập hợp làm đối tượng cho bám níu là vô thường...
mà không thiền các loại tĩnh lặng (cận định hay nhập định) như vừa
nói; đây là quán thực tánh. Với sự hoàn tất quán thực tánh ấy, sự nhất
tâm lấy sự xuất ly khỏi các trạng thái xảy ra trong vị ấy làm đối
tượng; đây là sự tĩnh lặng. Như vậy quán thực tánh xảy ra trước, tĩnh
lặng xảy ra sau (MA 1: 113). Đọc Henepola Gunaratana, sđd, trang 149.
Đọc thêm S ii 124.
‘Lại nữa, vị tỳ kheo tu tập thiền
tĩnh lặng và quán thực tánh sóng đôi.*
Làm như thế, con đường mở ra trong vị ấy. Vị ấy lập lại, tu tập và làm
cho phong phú con đường ấy. Khi làm như thế, các kết buộc của vị ấy
[93] bị từ bỏ và các khuynh hướng ngủ ngầm bị tuyệt diệt.
*
Hiển nhiên ở đây, chữ
yuganandha (sóng đôi) có nghĩa là đồng bộ (samasīsa).
Chú giải cắt nghĩa là ‘ở khoảnh khắc chứng nhập vị ấy làm an tịnh các
hành vi tạo quả; ở khoảnh khắc an tịnh các hành vi tạo quả, vị ấy
chứng nhập. Bằng cách nào? Vị ấy chứng nhập thiền thứ nhất. Xuất khỏi
thiền thứ nhất, vị ấy làm an tịnh các hành vi tạo quả và nhập thiền
thứ hai. Xuất khỏi thiền thứ hai, vị ấy... cứ như thế... Đọc F. L.
Woodward, Gradual Sayings II [PTS, 1995], chú thích 1, tr 163.
‘Lại nữa, vì lượng giá quá mức các
thể nghiệm [hiển bầy trong lúc quán tưởng], tâm của vị tỳ kheo bị dao
động. [Về sau], khi
[1]
tâm của vị này bên trong bình lặng trở lại, tái ổn định, phục hồi
trạng thái nhất tâm và được tập trung trở lại.
[2]
Rồi con đường mở ra trong vị ấy. Vị ấy lập lại, tu tập và làm cho
phong phú con đường ấy. Khi làm như thế, các kết buộc của vị ấy bị từ
bỏ và các khuynh hướng ngủ ngầm bị tuyệt diệt.
‘Khi bất cứ tỳ kheo hay tỳ kheo ni
nào tuyên bố trước mặt tôi là đã chứng quả Arahant, sự chứng quả ấy
luôn luôn nhờ bốn con đường hay nhờ vào một trong bốn con đường ấy.’’
(A ii 156)
2. Vị ấy tu quán thực tánh có thiền
tĩnh lặng đi trước như thế nào?
Sự hợp nhất của tâm và không tán
loạn nhờ xuất ly là định. Quán thực tánh theo nghĩa quán vô
thường các trạng thái được tạo nên ở trong, theo nghĩa quán khổ não
các trạng thái được tạo nên ở trong, theo nghĩa quán không phải là ngã
các trạng thái được tạo nên ở trong. Như thế có tĩnh lặng trước và
quán thực tánh sau. Vì thế nên nói ‘Vị ấy tu quán thực tánh có thiền
tĩnh lặng đi trước’.
Vị ấy tu tập:
có bốn loại tu tập: tu tập theo nghĩa không có sự vượt quá giữa các
trạng thái khởi lên ở trong, tu tập theo nghĩa các năng lực gây ảnh
hưởng có tác dụng (hương vị) duy nhất, tu tập theo nghĩa hiệu quả của
nỗ lực thích đáng, tu tập theo nghĩa lập lại.
Con đường mở ra:
Con đường ấy mở ra như thế nào? Chánh kiến theo nghĩa thấy rõ là con
đường mở ra, chánh tư duy theo nghĩa hướng tâm trụ vào là con đường mở
ra, chánh ngữ theo nghĩa giữ gìn lời nói là con đường mở ra, chánh
hành theo nghĩa nguồn sanh khởi là con đường mở ra, chánh mạng theo
nghĩa giữ cho sạch là con đường mở ra, chánh tinh tấn theo nghĩa nỗ
lực là con đường mở ra, chánh niệm theo nghĩa thiết lập là con đường
mở ra và chánh định theo nghĩa không phân tâm là con đường mở ra. Con
đường ấy mở ra là như thế.
Vị ấy lập lại, tu tập và làm cho
phong phú con đường ấy.
Vị ấy lập lại
: Vị ấy lập lại như thế nào? Khi vị ấy chú ý, vị ấy lập lại. Khi vị ấy
biết, vị ấy lập lại. Khi vị ấy thấy rõ,... quán sát,... [94] quyết
tâm,... cả quyết với niềm tin,... nỗ lực tinh cần, ... thiết lập (xây
dựng) quán niệm... định tâm,... Khi vị ấy hiểu bằng tuệ,... Khi vị ấy
chứng biết trực tiếp điều cần được chứng biết trực tiếp,... Khi vị ấy
hiểu trọn vẹn điều cần được hiểu trọn vẹn,... Khi vị ấy từ bỏ cái cần
phải từ bỏ,... Khi vị ấy tu tập điều cần được tu tập,... Khi vị ấy
thực chứng điều cần được thực chứng, vị ấy lập lại. Vị ấy lập lại như
thế đấy.
Vị ấy tu tập:
Vị ấy tu tập như thế nào? Khi vị ấy chú ý, vị ấy tu tập. Khi vị ấy
biết, vị ấy tu tập... [và cứ thế như đoạn trên cho đến]... Khi vị ấy
thực chứng điều cần được thực chứng, vị ấy tu tập. Vị ấy tu tập như
thế đấy.
Vị ấy
làm cho phong phú: Vị ấy làm cho phong phú như thế nào? Khi vị
ấy chú ý, vị ấy làm cho phong phú. Khi vị ấy biết, vị ấy làm cho phong
phú... [và cứ thế như đoạn trên cho đến]... Khi vị ấy thực chứng điều
cần được thực chứng, vị ấy làm cho phong phú. Vị ấy làm cho phong phú
như thế đấy.
Khi làm như thế, các kết buộc của
vị ấy bị từ bỏ và các khuynh hướng ngủ ngầm bị tuyệt diệt.
Các kết buộc của vị ấy bị từ bỏ và các khuynh hướng ngủ ngầm bị tuyệt
diệt như thế nào?
Với đạo lộ nhập giòng: ba kết buộc
bị từ bỏ, đó là: nhận thức [sai lạc] về bản ngã, hoài nghi, diễn giải
sai lạc về giới nghi; và hai khuynh hướng ngủ ngầm, đó là: khuynh
hướng về quan điểm ngủ ngầm và khuynh hướng hoài nghi ngủ ngầm bị
tuyệt diệt.
Với đạo lộ trở lại một lần: hai kết
buộc bị từ bỏ, đó là: kết buộc thô lậu về ham muốn ái dục và kết buộc
thô lậu về đối ngại; và hai khuynh hướng ngủ ngầm, đó là: khuynh hướng
thô lậu ngủ ngầm về ham muốn ái dục, khuynh hướng thô lậu về đối ngại
bị tuyệt diệt.
Với đạo lộ không trở lại: hai kết
buộc bị từ bỏ, đó là: kết buộc còn xót lại về ham muốn ái dục và kết
buộc còn xót lại về đối ngại; [95] và hai khuynh hướng ngủ ngầm, đó
là: khuynh hướng ngủ ngầm còn xót lại về ham muốn ái dục, khuynh hướng
còn xót lại về đối ngại bị tuyệt diệt.
Với đạo lộ arahant: năm kết buộc bị
từ bỏ, đó là: khao khát [làm sanh linh] cõi sắc giới, khao khát [làm
sanh linh] cõi vô sắc giới, ngã mạn (kiêu mạn), dao động, vô minh; và
ba khuynh hướng ngã mạn (kiêu mạn) ngủ ngầm, khuynh hướng khao khát
hiện hữu ngủ ngầm, khuynh hướng vô minh ngủ ngầm bị tuyệt diệt.
Các kết buộc của vị ấy bị từ bỏ và
các khuynh hướng ngủ ngầm bị tuyệt diệt như thế đấy.
3. Sự hợp nhất của tâm và không phân
tâm nhờ không sân hận... [lập lại đ. 2].
4-70. ... [lập lại đ. 2 cho từng
trường hợp sau: các trường hợp đối nghịch với 7 chướng ngại (I đ.
36)], 4 jhanas, 4 chứng đắc vô sắc, 10 đề mục thiền kasinas, 10 tưởng
niệm, 10 loại bất tịnh và 32 hình thái quán niệm hơi thở, cho đến]...
71. Sự hợp nhất của tâm và không
phân tâm nhờ thở ra quán buông bỏ là định. Quán thực tánh...
[và cứ thế như ở đ. 2 cho đến hết].
Vị ấy tu tập quán thực tánh có thiền
tĩnh lặng đi trước là như thế.
72. Vị ấy tu tập thiền tĩnh lặng có
quán thực tánh đi trước như thế nào?
Quán thực tánh theo nghĩa quán vô
thường, theo nghĩa quán khổ não, theo nghĩa quán không phải là ngã. Sự
hợp nhất của tâm và không tán loạn vì những trạng thái phát sanh bên
trong có buông bỏ làm đối tượng cho chúng là định. Như vậy, có
tuệ quán thực tánh trước rồi có tĩnh lặng sau. Vì thế mới nói ‘Vị ấy
tu tập thiền tĩnh lặng có quán thực tánh đi trước’.
Vị ấy tu tập:
... [như ở đ. 2].
Con đường mở ra như thế nào? ...
73. Quán thực tánh theo nghĩa quán
vật thể là vô thường, theo nghĩa quán vật thể là khổ
não, theo nghĩa quán vật thể là không phải là ngã. Sự hợp nhất
của tâm và không phân tâm vì ... [và cứ thế, lập lại đ. 72] ... [97]
74-272. ... [lập lại đ. 72 cho từng
trường hợp của 201 ý niệm còn lại liệt kê ở Luận I đ. 5 cho đến]...
273. Quán thực tánh theo nghĩa quán
già và chết là vô thường... [lập lại đ. 72].
Vị ấy tu tập thiền tĩnh lặng có quán
thực tánh đi trước là như thế.
274. Vị ấy tu tập thiền tĩnh lặng và
quán thực tánh sóng đôi như thế nào?
Vị ấy tu tập thiền tĩnh lặng và quán
thực tánh sóng đôi theo mười sáu khía cạnh: (1) theo nghĩa đối tượng,
(2) theo nghĩa lãnh vực, (3) theo nghĩa từ bỏ, (4) theo nghĩa dứt bỏ,
(5) theo nghĩa ngoi lên, (6) theo nghĩa quay đi, (7) theo nghĩa yên
tịnh, (8) theo nghĩa cao thượng, (9) theo nghĩa giải thoát, (10) theo
nghĩa không phiền não, (11) theo nghĩa vượt qua, (12) theo nghĩa không
có điều kiện để còn sanh tử, (13) theo nghĩa không ước nguyện, (14)
theo nghĩa tánh không, (15) theo nghĩa tác dụng (hương vị) duy nhất,
(16) theo nghĩa không vượt quá và theo nghĩa sóng đôi.
275. (1) Vị ấy tu tập thiền tĩnh
lặng và quán thực tánh sóng đôi theo nghĩa đối tượng như thế nào?
Khi vị ấy từ bỏ dao động thì sự hợp
nhất của tâm và không phân tâm của vị ấy là định có đoạn diệt làm đối
tượng. Khi vị ấy từ bỏ vô minh, thì tuệ quán thực tánh của vị ấy theo
nghĩa quán tưởng có đoạn diệt làm đối tượng cho nó. Như vậy thiền tĩnh
lặng và quán thực tánh theo nghĩa đối tượng có tác dụng (hương vị) duy
nhất sóng đôi nhau, và không vượt quá nhau. Vì thế mới nói ‘vị ấy tu
tập thiền tĩnh lặng và quán thực tánh sóng đôi theo nghĩa đối tượng.’
Vị ấy tu tập: Có bốn loại tu tập:
... [lập lại như ở đ. 2].
Đó là cách vị ấy tu tập thiền tĩnh
lặng và quán thực tánh sóng đôi theo nghĩa đối tượng.
276. (2) Vị ấy tu tập thiền tĩnh
lặng và quán thực tánh sóng đôi theo nghĩa lãnh vực như thế nào?
Khi vị ấy từ bỏ dao động thì sự hợp
nhất của tâm và không phân tâm của vị ấy là định có đoạn diệt làm lãnh
vực của nó. Khi vị ấy từ bỏ vô minh, thì tuệ quán thực tánh của vị ấy
theo nghĩa quán tưởng có đoạn diệt làm lãnh vực của nó. Như vậy thiền
tĩnh lặng và quán thực tánh theo nghĩa lãnh vực có tác dụng (hương vị)
duy nhất, [98] sóng đôi nhau, và không vượt quá nhau. Vì thế mới nói
‘vị ấy tu tập thiền tĩnh lặng và quán thực tánh sóng đôi theo nghĩa
lãnh vực.’
Vị ấy tu tập: ...
277. (3) Vị ấy tu tập thiền tĩnh
lặng và quán thực tánh sóng đôi theo nghĩa từ bỏ như thế nào?
Khi vị ấy từ bỏ nhiễm lậu liên kết
với dao động và từ bỏ các tập hợp [là hậu quả của nhiễm lậu], thì sự
hợp nhất của tâm và không phân tâm của vị ấy là định có đoạn diệt làm
lãnh vực của nó. Khi vị ấy từ bỏ nhiễm lậu liên kết với vô minh và từ
bỏ các tập hợp [là hậu quả của nhiễm lậu], thì tuệ quán thực tánh của
vị ấy theo nghĩa quán tưởng có đoạn diệt làm lãnh vực của nó. Như vậy
thiền tĩnh lặng và quán thực tánh theo nghĩa từ bỏ có tác dụng (hương
vị) duy nhất, sóng đôi nhau, và không vượt quá nhau. Vì thế mới nói
‘vị ấy tu tập thiền tĩnh lặng và quán thực tánh sóng đôi theo nghĩa từ
bỏ.’
Vị ấy tu tập: ...
278. (4) Vị ấy tu tập thiền tĩnh
lặng và quán thực tánh sóng đôi theo nghĩa dứt bỏ như thế nào?
Khi vị ấy dứt bỏ nhiễm lậu liên kết
với dao động và dứt bỏ các tập hợp [là hậu quả của nhiễm lậu], thì sự
hợp nhất của tâm và không phân tâm của vị ấy là định có đoạn diệt làm
lãnh vực của nó. Khi vị ấy dứt bỏ nhiễm lậu liên kết với vô minh và
dứt bỏ các tập hợp [là hậu quả của nhiễm lậu], thì tuệ quán thực tánh
của vị ấy... có đoạn diệt làm lãnh vực của nó. Như vậy thiền tĩnh lặng
và quán thực tánh theo nghĩa dứt bỏ có tác dụng (hương vị) duy nhất,
sóng đôi nhau, và không vượt quá nhau. Vì thế mới nói ‘vị ấy tu tập
thiền tĩnh lặng và quán thực tánh sóng đôi theo nghĩa dứt bỏ.’
Vị ấy tu tập: ...
279. (5) Vị ấy tu tập thiền tĩnh
lặng và quán thực tánh sóng đôi theo nghĩa ngoi lên như thế nào?
Khi vị ấy ngoi lên từ nhiễm lậu liên
kết với dao động và ngoi lên từ các tập hợp [là hậu quả của nhiễm
lậu], thì sự hợp nhất của tâm và không phân tâm của vị ấy là định có
đoạn diệt làm lãnh vực của nó. Khi vị ấy ngoi lên từ nhiễm lậu liên
kết với vô minh và ngoi lên từ các tập hợp [là hậu quả của nhiễm lậu],
thì tuệ quán thực tánh của vị ấy theo nghĩa quán tưởng có đoạn diệt
làm lãnh vực của nó. Như vậy thiền tĩnh lặng và quán thực tánh theo
nghĩa ngoi lên có tác dụng (hương vị) duy nhất, sóng đôi nhau, và
không vượt quá nhau. Vì thế mới nói ‘vị ấy tu tập thiền tĩnh lặng và
quán thực tánh sóng đôi theo nghĩa ngoi lên.’
Vị ấy tu tập: ...
280. (6) Vị ấy tu tập thiền tĩnh
lặng và quán thực tánh sóng đôi theo nghĩa quay đi như thế nào?
Khi vị ấy quay đi từ nhiễm lậu liên
kết với dao động và quay đi từ các tập hợp [là hậu quả của nhiễm lậu],
thì sự hợp nhất của tâm và không phân tâm của vị ấy là định có đoạn
diệt làm lãnh vực của nó. Khi vị ấy quay đi từ nhiễm lậu liên kết với
vô minh và quay đi từ các tập hợp [là hậu quả của nhiễm lậu], thì tuệ
quán thực tánh của vị ấy theo nghĩa quán tưởng có đoạn diệt làm lãnh
vực của nó. Như vậy thiền tĩnh lặng và quán thực tánh theo nghĩa quay
đi có tác dụng (hương vị) duy nhất, sóng đôi nhau, và không vượt quá
nhau. Vì thế mới nói ‘vị ấy tu tập thiền tĩnh lặng và quán thực tánh
sóng đôi theo nghĩa quay đi.’
Vị ấy tu tập: ...
281. (7) Vị ấy tu tập thiền tĩnh
lặng và quán thực tánh sóng đôi theo nghĩa yên tịnh như thế nào?
Khi vị ấy từ bỏ dao động, thì sự hợp
nhất của tâm và không phân tâm của vị ấy là định yên tịnh có đoạn diệt
làm lãnh vực của nó. Khi vị ấy từ bỏ vô minh, [99] thì tuệ quán thực
tánh của vị ấy theo nghĩa quán tưởng là yên tịnh, có đoạn diệt làm
lãnh vực của nó. Như vậy thiền tĩnh lặng và quán thực tánh theo nghĩa
yên tịnh... Vì thế mới nói ‘vị ấy tu tập thiền tĩnh lặng và quán thực
tánh sóng đôi theo nghĩa yên tịnh.’
Vị ấy tu tập: ...
282. (8) Vị ấy tu tập thiền tĩnh
lặng và quán thực tánh sóng đôi theo nghĩa cao thượng như thế nào?
Khi vị ấy từ bỏ dao động, thì sự hợp
nhất của tâm và không phân tâm của vị ấy là định cao thượng có đoạn
diệt làm lãnh vực của nó. Khi vị ấy từ bỏ vô minh, thì tuệ quán thực
tánh của vị ấy theo nghĩa quán tưởng là cao thượng, có đoạn diệt làm
lãnh vực của nó. Như vậy thiền tĩnh lặng và quán thực tánh theo nghĩa
cao thượng... Vì thế mới nói ‘vị ấy tu tập thiền tĩnh lặng và quán
thực tánh sóng đôi theo nghĩa cao thượng.’
Vị ấy tu tập: ...
283. (9) Vị ấy tu tập thiền tĩnh
lặng và quán thực tánh sóng đôi theo nghĩa giải thoát như thế nào?
Khi vị ấy từ bỏ dao động, thì sự hợp
nhất của tâm và không phân tâm của vị ấy là định được giải thoát tự
tại có đoạn diệt làm lãnh vực của nó. Khi vị ấy từ bỏ vô minh, thì tuệ
quán thực tánh của vị ấy theo nghĩa quán tưởng được giải thoát, có
đoạn diệt làm lãnh vực của nó. Như vậy thiền tĩnh lặng và quán thực
tánh theo nghĩa giải thoát... Vì thế mới nói ‘vị ấy tu tập thiền tĩnh
lặng và quán thực tánh sóng đôi theo nghĩa giải thoát.’
Vị ấy tu tập: ...
284. (10) Vị ấy tu tập thiền tĩnh
lặng và quán thực tánh sóng đôi theo nghĩa không phiền não như thế
nào?
Khi vị ấy từ bỏ dao động, thì sự hợp
nhất của tâm và không phân tâm của vị ấy là định được tự tại khỏi
phiền não của khoái lạc giác quan và có đoạn diệt làm lãnh vực của nó.
Khi vị ấy từ bỏ vô minh, thì tuệ quán thực tánh của vị ấy theo nghĩa
quán tưởng được tự tại khỏi phiền não của vô minh, có đoạn diệt làm
lãnh vực của nó. Như vậy thiền tĩnh lặng và quán thực tánh theo nghĩa
tự tại khỏi phiền não... Vì thế mới nói ‘vị ấy tu tập thiền tĩnh lặng
và quán thực tánh sóng đôi theo nghĩa không phiền não.’
Vị ấy tu tập: ...
285. (11) Vị ấy tu tập thiền tĩnh
lặng và quán thực tánh sóng đôi theo nghĩa vượt qua như thế nào?
Khi vị ấy vượt qua nhiễm lậu liên
kết với dao động và vượt qua các tập hợp [là hậu quả của nhiễm lậu],
thì sự hợp nhất của tâm và không phân tâm của vị ấy là định có đoạn
diệt làm lãnh vực của nó. Khi vị ấy vượt qua nhiễm lậu liên kết với vô
minh và vượt qua các tập hợp [là hậu quả của nhiễm lậu], thì tuệ quán
thực tánh của vị ấy theo nghĩa quán tưởng có đoạn diệt làm lãnh vực
của nó. Như vậy thiền tĩnh lặng và quán thực tánh theo nghĩa vượt
qua... Vì thế mới nói ‘vị ấy tu tập thiền tĩnh lặng và quán thực tánh
sóng đôi theo nghĩa vượt qua.’
Vị ấy tu tập: ...
286. (12) Vị ấy tu tập thiền tĩnh
lặng và quán thực tánh sóng đôi theo nghĩa không có điều kiện để
còn sanh tử như thế nào? [100]
Khi vị ấy từ bỏ dao động, thì sự hợp
nhất của tâm và không phân tâm của vị ấy là định được tự tại khỏi tất
cả các điều kiện để còn sanh tử có đoạn diệt làm lãnh vực của nó. Khi
vị ấy từ bỏ vô minh, thì tuệ quán thực tánh của vị ấy theo nghĩa được
tự tại khỏi tất cả các điều kiện để còn sanh tử, có đoạn diệt làm lãnh
vực của nó. Như vậy thiền tĩnh lặng và quán thực tánh theo nghĩa không
có điều kiện để còn sanh tử... Vì thế mới nói ‘vị ấy tu tập thiền tĩnh
lặng và quán thực tánh sóng đôi theo nghĩa không có điều kiện để còn
sanh tử.’
Vị ấy tu tập: ...
287. (13) Vị ấy tu tập thiền tĩnh
lặng và quán thực tánh sóng đôi theo nghĩa không ước nguyện như
thế nào?
Khi vị ấy từ bỏ dao động, thì sự hợp
nhất của tâm và không phân tâm của vị ấy là định được tự tại khỏi tất
cả các ước nguyện có đoạn diệt làm lãnh vực của nó. Khi vị ấy từ bỏ vô
minh, thì tuệ quán thực tánh của vị ấy theo nghĩa được tự tại khỏi tất
cả các ước nguyện, có đoạn diệt làm lãnh vực của nó. Như vậy thiền
tĩnh lặng và quán thực tánh theo nghĩa không ước nguyện... Vì thế mới
nói ‘vị ấy tu tập thiền tĩnh lặng và quán thực tánh sóng đôi theo
nghĩa không ước nguyện.’
Vị ấy tu tập: ...
288. (14) Vị ấy tu tập thiền tĩnh
lặng và quán thực tánh sóng đôi theo nghĩa không như thế nào?
Khi vị ấy từ bỏ dao động, thì sự hợp
nhất của tâm và không phân tâm của vị ấy là định không có tất cả các
diễn giải sai lạc có đoạn diệt làm lãnh vực của nó. Khi vị ấy từ bỏ vô
minh, thì tuệ quán thực tánh của vị ấy theo nghĩa quán là không có tất
cả các diễn giải sai lạc, có đoạn diệt làm lãnh vực của nó. Như vậy
thiền tĩnh lặng và quán thực tánh theo nghĩa không... Vì thế mới nói
‘vị ấy tu tập thiền tĩnh lặng và quán thực tánh sóng đôi theo nghĩa
không.’
Vị ấy tu tập: ...
[3]
289. Như thế nào là tâm của vị tỳ
kheo bị dao động vì lượng giá quá mức các thể nghiệm [hiển bầy trong
lúc quán tưởng]?
Trong khi vị ấy chú tâm suy xét vô
thường, ánh sáng phát ra trong vị ấy. Vị ấy chú tâm hướng đến
ánh sáng như vầy [101] ‘ánh sáng là thể nghiệm [của bậc Thánh]. Phân
tâm vì sự kiện đó chính là dao động. Khi tâm của vị ấy bị dao động vì
lượng giá quá mức, vị ấy không hiểu đúng như thật sự biểu hiện là vô
thường, vị ấy không hiểu đúng như thật sự biểu hiện là khổ não, vị ấy
không hiểu đúng như thật sự biểu hiện là không phải là ngã. Vì vậy mới
nói tâm của vị tỳ kheo bị dao động vì lượng giá quá mức các thể nghiệm
[hiển bầy trong lúc quán tưởng]. [Về sau], khi 1 tâm của vị này bên
trong bình lặng trở lại, tái ổn định, phục hồi trạng thái nhất tâm và
được tập trung trở lại. Rồi con đường mở ra trong vị ấy...
Con đường ấy mở ra như thế nào?...
[lập lại như ở đ. 2]... Con đường mở ra như thế đấy.
... [lập lại như ở đ. 2]...
Các kết buộc của vị ấy bị từ bỏ và
các khuynh hướng ngủ ngầm bị tuyệt diệt như thế đấy.
290. Trong khi vị ấy chú tâm suy xét
vô thường, trí khởi lên trong vị ấy.
291. Trong khi vị ấy chú tâm suy xét
vô thường, hoan hỉ khởi lên...
292. Trong khi vị ấy chú tâm suy xét
vô thường, an tịnh khởi lên...
293. Trong khi vị ấy chú tâm suy xét
vô thường, hạnh phúc toàn hảo khởi lên...
294. Trong khi vị ấy chú tâm suy xét
vô thường, cả quyết khởi lên...
295. Trong khi vị ấy chú tâm suy xét
vô thường, nỗ lực khởi lên...
296. Trong khi vị ấy chú tâm...
an trú khởi lên... bình thản khởi lên...
297. Trong khi vị ấy chú tâm suy xét
vô thường, quyến luyến* khởi lên trong vị ấy. Vị ấy chú tâm tới
nó như vầy ‘Quyến luyến là thể nghiệm [của bậc Thánh]. Phân tâm vì sự
kiện đó là sự dao động. Khi tâm của vị ấy bị dao động vì lượng giá quá
mức, vị ấy không hiểu đúng như thật sự biểu hiện là vô thường, vị ấy
không hiểu đúng như thật sự biểu hiện là khổ não, vị ấy không hiểu
đúng như thật sự biểu hiện là không phải là ngã. Vì vậy mới nói tâm
của vị tỳ kheo bị dao động vì lượng giá quá mức các thể nghiệm [hiển
bầy trong lúc quán tưởng]. [Về sau], khi tâm của vị này bên trong bình
lặng trở lại, tái ổn định, phục hồi trạng thái nhất tâm và được tập
trung trở lại. Rồi con đường mở ra trong vị ấy...
*
Quyến luyến (nikanti)
phát xuất do tuệ quán thực tánh. Khi tuệ quán thực tánh được ánh sáng,
trí, hoan hỉ,... (như đã nói ở đđ. 289-295) trang hoàng lộng lẫy, sự
quyến luyến trông tinh tế an ổn khởi lên trong vị ấy. Quyến luyến phụ
thuộc vào tuệ quán thực tánh, vị này không thể nhận biết rõ quyến
luyến là nhiễm lậu, lại ngộ nhận cho rằng đã chứng đạo, chứng quả; cái
không phải là đạo, không phải là quả lại cho là đạo, là quả nên tiến
trình quán chiếu bị đứt đoạn. Bất toàn này có thể khởi lên. Đọc Vism.
XX 124, đ. 122-124. Đọc thêm chú thích 2* ở đoạn 5743 sắp tới.
Con đường ấy mở ra như thế nào?...
Con đường mở ra như thế đấy.
...
Các kết buộc của vị ấy bị từ bỏ và
các khuynh hướng ngủ ngầm bị tuyệt diệt như thế đấy.
298-306. Trong khi vị ấy chú tâm suy
xét khổ não, ... [lập lại đđ 289-297, thay vô thường bằng
khổ não...
307-315. Trong khi vị ấy chú tâm suy
xét không phải là ngã, ... [lập lại đđ 289-297, thay vô thường
bằng không phải là ngã... [102]...
Các kết buộc của vị ấy bị từ bỏ và
các khuynh hướng ngủ ngầm bị tuyệt diệt như thế đấy.
316-342. Trong khi vị ấy chú tâm suy
xét vật thể là vô thường, ... là khổ não, ... là không phải là
ngã...
343-5714. Trong khi vị ấy chú tâm
suy xét cảm nghiệm là vô thường, ... là khổ não, ... là không
phải là ngã... [và cứ thế với từng trường hợp của 201 ý niệm liệt kê ở
Luận I đ. 5 cho đến]...
5715-5742. Trong khi vị ấy chú tâm
suy xét già và chết là vô thường, ... là khổ não, ... là không
phải là ngã...
Các kết buộc của vị ấy bị từ bỏ và
các khuynh hướng ngủ ngầm bị tuyệt diệt như thế đấy.
Tâm của vị tỳ kheo bị dao động vì
lượng giá quá mức các thể nghiệm [hiển bầy trong lúc quán tưởng] là
như thế đấy.
5743.
Giao động vì ánh
sáng
Vì trí, vì hoan
hỉ,
Vì sự nhẹ nhõm,
dễ chịu
Bởi thế, tâm vị
ấy hoang mang;
Giao động vì cả
quyết,
Nỗ lực, và vững
chãi,
Bình thản trong
hướng tâm *
Và bình thản, và
quyến luyến.
Nhưng khi xét kỹ
và
Hiểu rõ mười thể
nghiệm 2*
này
Vị ấy đối trị
khéo giao động như thế
Thôi không còn
hoang mang.
Giờ đây, nếu bị
phân tâm và vấy nhiễm
[4]
Sự tu tập của
tâm tụt lùi; [103]
Và nếu bị phân
tâm và vấy nhiễm,
Sự tu tập sụt
giảm.
Nếu được thanh
lọc và không vấy nhiễm,
Sự tu tập không
sụt giảm;
Nếu không bị
phân tâm và không vấy nhiễm,
Tu tập sẽ không
tụt lùi.
Như thế tâm vị
ấy không bị phân tán
Vì mười thể
nghiệm 2*
ấy
Có thể hiểu theo
bốn cách
Phân tán hay
không phân tán này của tâm.
* Tác ý liên kết với hướng tâm về ý môn được gọi là ‘bình thản
trong hướng tâm’ vì nó xảy ra khi hướng tâm với cái nhìn vô can [ajjhupekkhana]
(Pm 819). Đọc Ñāṇamoli, The Path of Purification, BPS
[Kandy, 1991], chú thích 37 chương XXI, trang 845.
2* nđ: trạng thái
«phát sanh».
Nếu không thấy đúng như thật, các thể nghiệm bất toàn này trở thành
tai hại như bắt rắn đằng đuôi. Vì:
·nhận
định sai lạc (ánh sáng đã phát sanh trong ta),·ngã
mạn (thật là dễ chịu khi ánh sáng phát sanh),
·tham ái (thích hưởng thụ, quyến luyến ánh sáng ấy),
·coi
ánh sáng ấy (là của tôi, là tôi, là bản ngã của tôi) (M i 135). Cùng
cách hiểu như thế với 9 thể nghiệm còn lại. Nếu suy xét là:
·vô
thường: theo nghĩa sau khi khởi lên, nó không còn nữa: Ánh sáng đã
khởi lên, nhưng nó không bền, được tạo thành, khởi lên theo điều kiện,
phải chịu hủy diệt, tàn lụi, hoại suy, chấm dứt;
·không phải là ngã theo nghĩa không có quyền năng nào có thể ảnh hưởng
nó,
·không xứng ý theo
nghĩa bị sanh diệt áp bức;
·vị
ấy coi ánh sáng đó (không phải của tôi, không là tôi, không là bản ngã
của tôi). Cùng cách hiểu như thế với 9 thể nghiệm còn lại. Đọc thêm
Vism. ch. XX đđ. 125-127.
LUẬN THUYẾT VỀ SÓNG ĐÔI.
[1] Ở đây và trong tất cả ví dụ điển hình (nêu ở A
ii 156 và ở đ. 289 sau đây trong Luận này), nên viết là
dhammuddhaccaviggahitamānaso. Hoti āvuso samayo... Cf. M iii
289.
[3] Trong khi sự giải thích hai đoạn kinh trước đề
cập tới giai đoạn trước khi con đường siêu thế hiển bầy, thì sự giải
thích của đoạn kinh thứ ba chỉ nói tới sát na đạo lộ (PsA 587, ấn
bản PTS). <Như Mahānāma chú thích, trang 588, khía cạnh thứ
15 «theo
nghĩa có tác dụng (hương vị) duy nhất» và khía cạnh thứ 16
«theo nghĩa không vượt quá»,
cũng như «theo
nghĩa»
‘sóng đôi’ cuối cùng, đã được bao gồm trong từng chú thích từ 1-14
nên sau đoạn 288, không có những lời giải thích riêng gì nữa.>
[4] Viết là Vikkhipati c’eva kilissati ca,
và ở trang 103 1.1 cũng thế.
-ooOoo-