[V- LUẬN VỀ GIẢI THOÁT]
«Vimokkhakathā
»
Xuất Xứ Kinh
đã đưa ra.
1. [35] ‘Này
các Tỳ kheo, có ba loại giải thoát này. Ba giải thoát nào? Giải thoát vì
tánh không, giải thoát vì không còn điều kiện để sanh tử, giải
thoát vì không ước nguyện.*
Này các Tỳ kheo, đây là ba loại giải thoát. < Không tìm xuất xứ kinh; so
với Vin iii 93. Peṭ 253 nơi tỳ kheo Ñāṇamoli tìm không ra
xuất xứ kinh, bản dịch của tỳ kheo này trang 69>. (ở D iii 219 có ba
samādhis theo loại này).
* Ba khía cạnh giải thoát này của đạo lộ nhập giòng có nibbana làm đối
tượng. Ba khía cạnh ấy là: giải thoát vì không có điều kiện để còn sanh
tử (animittaṁ vimokkha), giải thoát vì vô ước nguyện (appaṇihita
vimokkha) và giải thoát vì tánh không (suññata vimokkha). Đối
tượng ấy (nibbana) được coi như: không có điều kiện hay không có hành vi
tạo quả (animittaṁ), vô ước nguyện (appaṇihita) và tánh
không (suññata). Đọc Nyanatiloka Thera, The Buddha’s Path to
Deliverance [BPS, 2000], đ. 199, trang 201.
2. Hơn nữa, có
sáu mươi tám loại giải thoát. [Cũng như] Giải thoát vì tánh không, giải
thoát vì không còn điều kiện để sanh tử tái diễn, giải thoát vì không
ước nguyện*
[không đếm - kể luôn trong số này].
* không ước nguyện: không còn khao khát, mong muốn...
Có giải thoát
xuất khởi từ bên trong, có giải thoát xuất khởi từ bên ngoài, có giải
thoát xuất khởi theo cả hai cách; [đếm là 3;]
Bốn giải thoát
xuất khởi từ bên trong, bốn giải thoát xuất khởi từ bên ngoài, bốn giải
thoát xuất khởi theo cả hai cách; [đếm 9 - giải thoát đầu tiên của ba bộ
bốn này có luôn 3 loại vừa nói trên;]
Bốn giải thoát
tương thuận với xuất khởi từ bên trong, bốn giải thoát tương thuận với
xuất khởi từ bên ngoài, bốn giải thoát tương thuận với xuất khởi theo cả
hai cách; [đếm 12;]
Bốn giải thoát
là an tịnh xuất khởi từ bên trong, bốn giải thoát là an tịnh xuất khởi
từ bên ngoài, bốn giải thoát là an tịnh xuất khởi theo cả hai cách; [đếm
12;]
Giải thoát
được diễn giải như vầy: có vật thể, vị ấy thấy tỷ dụ điển hình của vật
thể; giải thoát được diễn giải như vầy: không nhận thức đến vật thể bên
trong (bản thân vị ấy), vị ấy thấy tỷ dụ điển hình của vật thể bên
ngoài; giải thoát được diễn giải như vầy: chí hướng vị ấy chỉ nhắm đến
cái cao đẹp;*
giải thoát kể như là chứng đạt cõi không gian vô biên; giải thoát kể như
là chứng đạt cõi thức vô biên; giải thoát kể như là chứng đạt cõi không
có gì; giải thoát kể như là chứng đạt cõi không nhận thức cũng không
phải không nhận thức; giải thoát kể như là chứng đạt cõi diệt nhận thức
và cảm nghiệm. [đếm 8;]
*
subhaṁ: cao đẹp,
nói đến bốn tâm vô lượng. Đọc đ. 20 sắp tới.
Giải thoát
theo thời*,
giải thoát không theo thời2*.
[đếm 2]
*
samayavimokkho;
2*
asamayavimokkho.
Đọc đđ. 25 sắp tới.
Giải thoát tạm
thời*,
giải thoát vĩnh viễn2*.
[đếm 2]
*
sāmayikovimokkho;
2*
asāmayikovimokkho.
Đọc đđ. 27 sắp tới.
Giải thoát suy
chuyển được*,
giải thoát không suy chuyển được2*.
[đếm 2]
*
kuppovimokkho;
2*
akuppovimokkho
Giải thoát có
tính thế tục, giải thoát siêu thế. [đếm 2]
Giải thoát
chịu ảnh hưởng của nhiễm lậu*,
giải thoát không chịu ảnh hưởng của nhiễm lậu2*.
[đếm 2]
*
sāsavovimokkho;
2*
asāsavovimokkho
Giải thoát thế
gian,*
giải thoát xuất thế,2*
giải thoát còn xuất thế hơn là xuất thế.3*
[đếm 3]
*
sāmiso vimokkho,
2*nirāsimo vimokkho,
3*nirāmisānirāmisataro
vimokkho
Giải thoát nhờ
ước nguyện, giải thoát nhờ không ước nguyện,*
giải thoát nhờ ước nguyện đã được lắng dịu. [đếm 2- vì loại thứ 2 đã kể
ở trên rồi]
*
ước nguyện: paṇihito; không ước nguyện: appaṇihito
Giải thoát còn
kết buộc, giải thoát không còn kết buộc. [đếm 2]
Giải thoát dựa
trên nhất như, giải thoát dựa trên sai biệt. [đếm 2] [36] giải thoát
nhận thức, giải thoát trí, giải thoát được diễn giải như thế này: [Tất
cả những gì đã được kinh nghiệm ở đây] có thể trở thành mát lạnh; [đếm
3]
Giải thoát
jhana, giải thoát tâm nhờ không bám níu. [đếm 2]
3. Giải
thoát vì tánh không là gì?
Ở đây, này các
tỳ kheo, một tỳ kheo đi vào khu rừng hay đi đến gốc cây hay đến nơi
trống vắng, nhận xét như vầy: ‘Cái này không có ngã hay không có cái
thuộc về ngã’. Từ đó vị ấy tìm cách không diễn giải sai lạc, như vậy là
giải thoát nhờ tánh không. Đây là giải thoát vì tánh không.
4. Giải
thoát vì không có điều kiện để còn sanh tử*
là gì?
Ở đây, này các
tỳ kheo, một tỳ kheo đi vào khu rừng hay đi đến gốc cây hay đến nơi
trống vắng, nhận xét như vầy: ‘Cái này không có ngã hay không có cái
thuộc về ngã’. Từ đó vị ấy tìm cách làm vắng bặt điều kiện (vô tướng),
như vậy là giải thoát vì không có điều kiện để còn sanh tử. Đây là giải
thoát vì không có điều kiện để còn sanh tử.
*
Đọc chú thích ở Luận I đ.
18.
5. Giải
thoát vì không ước nguyện là gì?
Ở đây, này các
tỳ kheo, một tỳ kheo đi vào khu rừng hay đi đến gốc cây hay đến nơi
trống vắng, nhận xét như vầy: ‘Cái này không có ngã hay không có cái
thuộc về ngã’. Từ đó vị ấy tìm cách không ước nguyện, như vậy là
giải thoát nhờ không ước nguyện. Đây là giải thoát vì tính không ước
nguyện.
6. Giải
thoát xuất khởi [từ nhiễm lậu] bên trong là gì?
Bốn jhanas.
Đây là giải thoát xuất khởi từ bên trong.
7. Giải
thoát xuất khởi [từ đối tượng] bên ngoài là gì?
Bốn chứng đạt
vô sắc giới. Đây là giải thoát xuất khởi từ bên ngoài.
8. Giải
thoát xuất khởi theo cả hai cách là gì?
Bốn đạo lộ cao
quý. Đây là giải thoát xuất khởi theo cả hai cách.
9. Bốn giải
thoát xuất khởi từ bên trong là gì?
Sơ thiền xuất
khởi từ các chướng ngại. Nhị thiền xuất khởi từ hướng tâm về đối tượng
và xoay quanh đối tượng. Tam thiền xuất khởi từ hỉ. Tứ thiền xuất khởi
từ lạc và khổ. Đây là bốn giải thoát tương thuận với xuất khởi từ bên
trong.
10. Bốn
giải thoát xuất khởi từ bên ngoài là gì?
Sự chứng đạt
cõi không gian vô biên xuất khởi từ nhận thức về vật thể, từ nhận thức
về đối kháng và nhận thức về sai biệt. Sự chứng đạt cõi thức vô biên
xuất khởi từ nhận thức về cõi không gian vô biên. Sự chứng đạt cõi không
có gì xuất khởi từ nhận thức về cõi thức vô biên. Sự chứng đạt cõi không
có nhận thức cũng không phải không có nhận thức xuất khởi từ nhận thức
về cõi không có gì. Đây là bốn giải thoát xuất khởi từ bên ngoài.
11. Bốn
giải thoát xuất khởi theo cả hai cách là gì?
Đạo lộ nhập
giòng xuất khởi từ quan điểm [sai lạc] cho là có bản ngã, xuất khởi từ
hoài nghi, xuất khởi từ diễn giải sai lạc về giới luật và về nghi lễ, và
cũng xuất khởi từ khuynh hướng ngủ ngầm đến quan điểm [sai lạc] và đến
hoài nghi, và nó xuất khởi từ nhiễm lậu và từ các tập hợp sanh ra vì
những nhiễm lậu ấy, và nó xuất khởi từ tất cả các dấu hiệu [37] từ bên
ngoài. Đạo lộ trở lại một lần xuất khởi từ những kết buộc thô trược của
ham muốn khoái lạc giác quan và của đối kháng, và xuất khởi từ những
khuynh hướng thô trược ngủ ngầm đến ham muốn khoái lạc giác quan và của
đối kháng và nó xuất khởi từ những nhiễm lậu và từ các tập hợp sanh ra
vì những nhiễm lậu ấy, và nó xuất khởi từ tất cả các dấu hiệu từ bên
ngoài. Đạo lộ không trở lại xuất khởi từ những kết buộc còn xót lại của
ham muốn khoái lạc giác quan và của đối kháng, và xuất khởi từ những
khuynh hướng ngủ ngầm đến ham muốn khoái lạc giác quan và đến đối kháng
còn xót lại, và nó xuất khởi từ những nhiễm lậu và từ các tập hợp sanh
ra vì những nhiễm lậu ấy, và nó xuất khởi từ tất cả các dấu hiệu từ bên
ngoài. Đạo lộ arahant xuất khởi từ ham muốn trở thành [sanh linh] cõi
sắc giới, từ ham muốn trở thành [sanh linh] cõi vô sắc giới, từ ngã mạn
(kiêu hãnh), khao khát hiện hữu và vô minh, và xuất khởi từ những nhiễm
lậu và từ các tập hợp sanh ra vì những nhiễm lậu ấy, và nó xuất khởi từ
tất cả các dấu hiệu từ bên ngoài. Đây là bốn giải thoát xuất khởi theo
cả hai cách.
12. Bốn
giải thoát tương thuận với xuất khởi từ bên trong là gì?
Hướng tâm về
đối tượng và xoay quanh đối tượng và hỉ và sự nhất tâm có mục đích chứng
đạt sơ thiền. Hướng tâm về đối tượng...
nhị thiền... tam thiền... Hướng tâm về đối tượng và xoay quanh đối tượng
và hỉ và sự nhất tâm có mục đích chứng đạt tứ thiền. Đây là bốn giải
thoát tương thuận với xuất khởi từ bên trong.
13. Bốn
giải thoát tương thuận với xuất khởi từ bên ngoài là gì?
Hướng tâm về
đối tượng và xoay quanh đối tượng và hỉ và sự nhất tâm có mục đích chứng
đạt cõi không gian vô biên. Hướng tâm về đối tượng... cõi thức vô biên
... cõi không có gì ... Hướng tâm về đối tượng và xoay quanh đối tượng
và hỉ và lạc sự nhất tâm có mục đích chứng đạt cõi không có nhận thức
cũng không phải không có nhận thức. Đây là bốn giải thoát tương thuận
với xuất khởi từ bên ngoài.
14. Bốn
giải thoát tương thuận với xuất khởi theo cả hai cách là gì?
Quán vô thường
và quán khổ não và quán không phải là ngã có mục đích chứng đạt đạo lộ
nhập giòng. Quán vô thường... đạo lộ trở lại một lần... đạo lộ không trở
lại... Quán vô thường và quán khổ não và quán không phải là ngã có mục
đích chứng đạt đạo lộ arahant. Đây là bốn giải thoát tương thuận với
xuất khởi theo cả hai cách.
15. Bốn
giải thoát như là lắng dịu sự xuất khởi từ bên trong là gì?
Sự thành đạt
sơ thiền hay kết quả của cõi thiền ấy. Sự thành đạt nhị thiền hay kết
quả của cõi thiền ấy. Sự thành đạt tam thiền hay kết quả của cõi thiền
ấy. Sự thành đạt tứ thiền hay kết quả của cõi thiền ấy. Đây là [38] bốn
giải thoát như là lắng dịu sự xuất khởi từ bên trong.
16. Bốn
giải thoát như là lắng dịu sự xuất khởi từ bên ngoài là gì?
Thành đạt sự
chứng đắc cõi không gian vô biên hay kết quả của cõi ấy. Thành đạt sự
chứng đắc cõi thức vô biên hay kết quả của cõi ấy. Thành đạt sự chứng
đắc cõi không có gì hay kết quả của cõi ấy. Thành đạt sự chứng đắc cõi
không có nhận thức cũng không phải không có nhận thức hay kết quả của
cõi thiền ấy. Đây là bốn giải thoát như là lắng dịu sự xuất khởi từ bên
ngoài.
17. Bốn
giải thoát như là lắng dịu sự xuất khởi theo cả hai bên là gì?
Nhập giòng,
quả vị của đạo lộ dự lưu. Trở lại một lần, quả vị của đạo lộ trở lại một
lần. Không trở lại, quả vị của đạo lộ không trở lại. Arahant, quả vị của
đạo lộ arahant. Đây là bốn giải thoát như là lắng dịu sự xuất khởi theo
cả hai bên.
18. Giải
thoát được diễn giải như vầy: có vật thể, vị ấy thấy tỉ dụ về vật thể
là gì?
Ở đây có người
chú ý đến dấu hiệu xanh-đen bên trong người ấy <đó là tóc của người ấy,
PsA>. Người ấy có được nhận thức về xanh-đen. Vị ấy nhận biết kỹ, ghi
nhớ kỹ, phân biệt kỹ
[1]
dấu hiệu đó. Sau khi đã nhận biết kỹ, ghi nhớ kỹ, phân biệt kỹ dấu hiệu
đó, người ấy chú tâm đến dấu hiệu xanh đen bên ngoài. Người ấy có được
nhận thức về xanh-đen. Vị ấy nhận biết kỹ, ghi nhớ kỹ, phân biệt kỹ dấu
hiệu đó. Sau khi đã nhận biết kỹ, ghi nhớ kỹ, phân biệt kỹ dấu hiệu đó,
người ấy chú tâm đến dấu hiệu xanh đen bên ngoài, người ấy lập lại, phát
triển và phong phú nó. Ý niệm sau đây đến với người ấy như vầy: ‘Đây là
vật thể bên trong, bên ngoài và cả hai bên’. Người ấy hiểu rõ vật thể
như thế.
Ở đây có người
chú ý đến dấu hiệu vàng bên trong người ấy...
Ở đây có người
chú ý đến dấu hiệu đỏ bên trong người ấy...
Ở đây có người
chú ý đến dấu hiệu trắng bên trong người ấy... Ý niệm sau đây đến với
người ấy như vầy: ‘Đây là vật thể bên trong, bên ngoài và cả hai bên’.
Người ấy hiểu rõ vật thể như thế.
Giải thoát đã
được diễn giải như vầy: có vật thể, vị ấy thấy tỉ dụ về vật thể là như
thế.
19. Giải
thoát được diễn giải như vầy: Không nhận thức đến vật thể bên trong,vị
ấy thấy tỉ dụ về vật thể bên ngoài là gì?
Ở đây có người
chú ý [39] đến dấu hiệu xanh-đen bên trong người ấy. Người ấy không có
được nhận thức về xanh-đen. Người ấy chú tâm đến dấu hiệu xanh-đen phía
ngoài. Người ấy có được nhận thức về xanh-đen. Vị ấy nhận biết kỹ... Sau
khi đã nhận biết kỹ,... phong phú nó. Ý niệm sau đây đến với người ấy
như vầy: ‘Không có vật thể bên trong, đây là vật thể bên ngoài’. Người
ấy hiểu rõ tỉ dụ điển hình về vật thể.
Ở đây có người
chú ý đến dấu hiệu vàng bên trong...
Ở đây có người
chú ý đến dấu hiệu đỏ bên trong...
Ở đây có người
chú ý đến dấu hiệu trắng bên trong... Ý niệm sau đây đến với người ấy
như vầy: ‘Không có vật thể bên trong, đây là vật thể bên ngoài’. Người
ấy hiểu rõ tỉ dụ điển hình về vật thể.
Giải thoát
được diễn giải như vầy: không nhận thức đến vật thể bên trong, vị ấy
thấy tỉ dụ điển hình của vật thể phía ngoài là như vậy.
20. Giải
thoát được diễn giải như vầy: chí hướng vị ấy chỉ nhắm đến cái cao đẹp
là gì?
Ở đây vị tỳ
kheo sống chan hòa một phương với tâm có từ ái đi kèm. Cũng thế với
phương thứ hai, phương thứ ba, phương thứ bốn; cũng thế với phương trên,
phương dưới, chung quanh; khắp nơi vị ấy sống chan hòa với toàn thế
giới, coi mình giống như tất cả với tâm có từ ái đi kèm, sung mãn, cao
quý, không đo lường được, không sầu não. Nhờ tu tập lòng từ ái, chúng
sanh không ghê gớm (appaṭikkūla).
Ở đây vị tỳ
kheo sống chan hòa một phương với tâm có bi mẫn đi kèm... Nhờ tu tập
lòng bi mẫn, chúng sanh không ghê gớm.
Ở đây vị tỳ
kheo sống chan hòa một phương với tâm có hoan hỉ đi kèm... Nhờ tu tập
lòng hoan hỉ, chúng sanh không ghê gớm.
Ở đây vị tỳ
kheo sống chan hòa một phương với tâm có bình thản đi kèm... Nhờ tu tập
lòng bình thản, chúng sanh không ghê gớm.
Giải thoát
được diễn giải như vầy: chí hướng vị ấy chỉ nhắm đến cái cao đẹp là như
vậy.
21. Giải
thoát kể như là chứng đạt cõi không gian vô biên là gì?
Ở đây nhờ hoàn
toàn vượt qua ý niệm về sắc thể, với sự vắng mặt của ý niệm đối kháng,
không còn chú ý tới sai biệt, [ý thức rõ là] ‘Không gian vô biên’, vị tỳ
kheo nhập vào và trú trong cõi không gian vô biên. Đây là sự giải thoát
kể như là chứng đạt cõi không gian vô biên.
22. Giải
thoát kể như là chứng đạt cõi thức vô biên là gì?
Ở đây nhờ hoàn
toàn vượt qua cõi không gian vô biên, [40] [ý thức rõ là] ‘Thức vô
biên’, vị tỳ kheo nhập vào và trú trong cõi thức vô biên. Đây là sự giải
thoát kể như là chứng đạt cõi thức vô biên.
23. Giải
thoát kể như là chứng đạt cõi không có gì là gì?
Ở đây nhờ hoàn
toàn vượt qua cõi thức vô biên, [ý thức rõ là] ‘Không có gì cả’, vị tỳ
kheo nhập vào và trú trong cõi không có gì. Đây là sự giải thoát kể như
là chứng đạt cõi không có gì.
24. Giải
thoát kể như là chứng đạt cõi không nhận thức cũng không phải không nhận
thức là gì?
Ở đây nhờ hoàn
toàn vượt qua cõi không có gì, [ý thức rõ là] ‘Không có gì cả’, vị tỳ
kheo nhập vào và trú trong cõi không nhận thức cũng không phải không
nhận thức. Đây là sự giải thoát kể như là chứng đạt cõi không nhận thức
cũng không phải không nhận thức.
25. Giải
thoát theo thời*
là gì?
Chứng đạt bốn
jhanas và bốn cõi vô sắc. Đây là giải thoát theo thời.
*
Samayavimutto:
muốn nói tới bậc Nhập Giòng, Trở Lại Một Lần, Không Trở Lại (chú giải
của Pug.). Bậc này, đôi lúc vẫn thể nghiệm tám giai đoạn giải thoát, sau
khi đã thấy rõ các giai đoạn ấy bằng tuệ quán, một số nhiễm lậu của vị
ấy hoàn toàn bị hủy diệt. Đây là giải thoát theo thời. Đọc B. C. Law,
Human Types, PTS [Oxford, 1997], chú thích số 1 trang 4 và đ. 1
trang 17. Đọc M i 197; M iii 111. Nhưng Bhikkhu Bodhi dịch chữ này là
temporary liberation, ‘giải thoát tạm thời’ như ở đoạn 27. Đọc
Ñāṇamoli & Bhikkhu Bodhi, The Middle Length Discourses of the
Buddha, Wisdom Publications [Boston, 1995], chú thích 348, trang
1223.
26. Giải
thoát không theo thời
*
là gì?
Bốn đạo lộ cao
quý, bốn quả vị sa môn và nibbana. Đây là giải thoát không theo thời.
*
Asamayavimutto:
·muốn
nói tới Sukkhavipassaka-khīṇāsavas (là bậc quán các hiện tượng
tâm sinh lý không ngừng thay đổi biểu hiện qua sáu giác quan (mắt,
mũi,... ý) theo kinh Bốn Niệm Xứ đã giảng, nhờ thế chứng thánh đạo. Vị
ấy ‘được giải thoát nhờ tuệ’ (paññāvimuttā kho mayaṁ) nhưng không
có thần thông hay nhập jhānas (S ii 124). Đọc Henepola
Gunaratana, The Path of Serenity and Insight, Motilal Banarsidass
Publishers [Delhi, 1994] trang 147, 199, 200, 212.
· Đọc Bhikkhu Bodhi, The Connected Discourses of the Buddha Vol I,
(S ii 124) trang 615; chú thích 210 trang 785.
·Tuy không đôi khi thể nghiệm tám giai đoạn giải thoát, nhưng sau
khi đã thấy rõ các giai đoạn ấy bằng tuệ quán, các nhiễm lậu của vị ấy
hoàn toàn bị hủy diệt. Đây là giải thoát không (chỉ) theo thời. Thực ra,
tất cả các Ariyas đều được giải thoát tăng thượng như thế. Đọc B. C.
Law, Human Types, PTS [Oxford, 1997], chú thích số 2 trang 4 và
đ. 2 trang 17.
·Đọc
thêm R. C. Childers, A Dictionary of the Pali Language, Cosmo
Publications [New Delhi, 1979] tra thuật ngữ Samatho nói đến
Sukkhavipassaka, trang 429.
27. Giải
thoát tạm thời là gì?
Thành tựu bốn
jhanas và bốn cõi vô sắc. Đây là giải thoát tạm thời.
28. Giải
thoát vĩnh viễn*
là gì?
Bốn đạo lộ cao
quý, bốn quả vị sa môn và nibbana. Đây là giải thoát vĩnh viễn.
*
vĩnh viễn: nđ không tạm thời, pāraṅgato na pacceti tādi : hễ đã
qua sông thì không còn trở lại (Sn 803).
29. Giải
thoát suy chuyển được
* là gì?
Thành tựu bốn
jhanas và bốn cõi vô sắc. Đây là giải thoát suy chuyển được.
*
Kuppadhammo: chỉ
cho cư sĩ, bậc nhập giòng và trở lại một lần đã chứng tám samāpattis
(nhập định). Là những người không chắc chắn hay không củng cố vững vàng
trên đạo lộ. Gọi như thế vì các chướng ngại tâm thức đối nghịch với
trạng thái định (hay nhập định) và tuệ quán chưa bị hoàn toàn chận đứng,
chưa bị xóa bỏ nên sự chứng đắc không tồn tại và sụp đổ. Đọc B. C. Law,
sđd, chú thích số 3, trang 4; đoạn 3 trang 17.
30. Giải
thoát không suy chuyển*
được là gì?
Bốn đạo lộ cao
quý, bốn quả vị sa môn và nibbana. Đây là giải thoát không suy chuyển
được.
*
Akuppadhammo: chỉ
cho bậc không trở lại, đã chứng các samāpattis và cho
khīṇāsavas (người đã tận diệt tất cả nhiễm lậu). Chỉ cho người không
còn lạc lối, chắc chắn, củng cố vững vàng trên đạo lộ. Gọi như thế vì
các chướng ngại cho trạng thái định (hay nhập định) và tuệ quán thực
tánh ba pháp ấn đã hoàn toàn bị chận đứng, bị xóa bỏ, nên sự chứng đắc
không còn bị các cuộc nói chuyện vô ích và hành vi đã làm vì xao lãng
hủy diệt đi. (Chú giải). Đọc B. C. Law, sđd, chú thích số 4, trang 4.
31. Giải
thoát có tính thế tục là gì?
Chứng đạt bốn
jhanas và bốn cõi vô sắc. Đây là giải thoát có tính thế tục.
32. Giải
thoát siêu thế là gì?
Bốn đạo lộ cao
quý, bốn quả vị sa môn và nibbana. Đây là giải thoát siêu thế.
33. Giải
thoát chịu ảnh hưởng của phiền não là gì?
Chứng đạt bốn
jhanas và bốn cõi vô sắc. Đây là giải thoát chịu ảnh hưởng của phiền
não.
34. Giải
thoát không chịu ảnh hưởng của phiền não là gì? [41]
Bốn đạo lộ cao
quý, bốn quả vị sa môn và nibbana. Đây là giải thoát không chịu ảnh
hưởng của phiền não.
35. Giải
thoát thế gian là gì?
Giải thoát
không thể tách rời khỏi thế gian. Đây là giải thoát thế gian.
36. Giải
thoát xuất thế là gì?
Giải thoát
không thể tách rời khỏi xuất thế. Đây là giải thoát xuất thế.
37. Giải
thoát còn xuất thế hơn là xuất thế là gì?
Bốn đạo lộ cao
quý, bốn quả vị sa môn và nibbana. Đây là giải thoát còn xuất thế hơn là
xuất thế.
38. Giải
thoát nhờ ước nguyện là gì?
Chứng đạt bốn
jhanas và bốn cõi vô sắc. Đây là giải thoát nhờ ước nguyện.
39. Giải
thoát nhờ không ước nguyện là gì?
Bốn đạo lộ cao
quý, bốn quả vị sa môn và nibbana. Đây là giải thoát nhờ không ước
nguyện.
40. Giải
thoát nhờ ước muốn đã được lắng dịu là gì?
Sự thành đạt
sơ thiền hay kết quả của cõi thiền ấy... [và cứ thế như ở đ. 15]. Thành
đạt sự chứng đắc cõi không gian vô biên... [và cứ thế như ở đ. 16]. Đây
là giải thoát nhờ lắng dịu ước nguyện.
41. Giải
thoát còn bị kết buộc là gì?
Chứng đạt bốn
jhanas và bốn cõi vô sắc.
42. Giải
thoát không còn bị kết buộc là gì?
Bốn đạo lộ cao
quý, bốn quả vị sa môn và nibbana. Đây là giải thoát không còn bị kết
buộc.
43. Giải
thoát dựa trên nhất như là gì?
Bốn đạo lộ cao
quý, bốn quả vị sa môn và nibbana. Đây là giải thoát dựa trên nhất như.
44. Giải
thoát dựa trên sai biệt là gì?
Chứng đạt bốn
jhanas và bốn cõi vô sắc. Đây là giải thoát dựa trên sai biệt.
45. Giải
thoát nhận thức là gì?
Có thể rằng
một giải thoát nhận thức là mười giải thoát nhận thức và có thể rằng
mười giải thoát nhận thức là một giải thoát nhận thức, đúng theo [mười
loại] đối tượng và [một] tác dụng [giải thoát của nó].
Có thể:
có thể như thế nào?
Trí quán về vô
thường được giải thoát khỏi nhận thức về trường tồn, [42] như thế có
giải thoát về nhận thức. Trí quán về khổ não được giải thoát khỏi nhận
thức về vui sướng, như thế có giải thoát về nhận thức. Trí quán về không
phải là ngã được giải thoát khỏi nhận thức về ngã... Trí quán về nhàm
chán được giải thoát khỏi nhận thức về thích thú... Trí quán về hết ham
muốn được giải thoát khỏi nhận thức về tham... Trí quán về đoạn diệt
được giải thoát khỏi nhận thức về nguồn sanh khởi... Trí quán về buông
bỏ được giải thoát khỏi nhận thức về nắm giữ... Trí quán về không dấu
hiệu được giải thoát khỏi nhận thức về dấu hiệu... Trí quán về không ước
nguyện được giải thoát khỏi nhận thức về ước nguyện... Trí quán về tánh
không được giải thoát khỏi nhận thức về diễn giải sai lạc, như thế có
giải thoát nhận thức.
Có thể rằng
một giải thoát nhận thức là mười giải thoát nhận thức và có thể rằng
mười giải thoát nhận thức là một giải thoát nhận thức, đúng theo đối
tượng và tác dụng là như thế.
Trí quán về vô
thường trong vật thể được giải thoát khỏi nhận thức về trường tồn [của
nó], như thế có giải thoát nhận thức. Trí quán về khổ não trong vật
thể... Trí quán về tánh không trong vật thể được giải thoát khỏi nhận
thức [của nó] như là diễn giải sai lạc... [và cứ thế với các ý niệm của
201 ý niệm còn lại liệt kê ở Luận I đ. 5 cho đến]. Trí quán về vô thường
trong già và chết được giải thoát khỏi nhận thức trường tồn [của nó],
như thế nó là giải thoát về nhận thức. Trí quán về tánh không trong già
và chết được giải thoát khỏi nhận thức [của nó] như là diễn giải sai
lạc, như thế nó là giải thoát về nhận thức.
Có thể rằng
một giải thoát nhận thức là mười giải thoát nhận thức và có thể rằng
mười giải thoát nhận thức là một giải thoát nhận thức, đúng theo đối
tượng và tác dụng là như thế.
46. Giải
thoát trí là gì?
Có thể rằng
một giải thoát của trí là mười giải thoát của trí và có thể rằng mười
giải thoát của trí là một giải thoát của trí, đúng theo đối tượng và tác
dụng.
Có thể:
có thể như thế nào?
Trí biết như
thật kể như là quán vô thường được giải thoát khỏi sự không biết như mơ
hồ về trường cửu, như thế có giải thoát của trí. Trí biết như thật kể
như là quán khổ não được giải thoát khỏi sự không biết như mơ hồ về vui
sướng... Trí biết như thật kể như là quán không phải là ngã được giải
thoát khỏi sự không biết như mơ hồ về ngã... Trí biết như thật kể như là
quán nhàm chán được giải thoát khỏi sự không biết như mơ hồ về thích
thú... Trí biết như thật kể như là quán hết ham muốn [43] được giải
thoát khỏi sự không biết như mơ hồ về tham... Trí biết như thật kể như
là quán đoạn diệt được giải thoát khỏi sự không biết như mơ hồ về nguồn
sinh khởi... Trí biết như thật kể như là quán buông bỏ được giải thoát
khỏi sự không biết như mơ hồ về nắm giữ... Trí biết như thật kể như là
quán không dấu hiệu được giải thoát khỏi sự không biết như mơ hồ về dấu
hiệu... Trí biết như thật kể như là quán ước nguyện được giải thoát khỏi
sự không biết như mơ hồ về ước nguyện... Trí biết như thật kể như là
quán tánh không được giải thoát khỏi sự không biết như mơ hồ về diễn
giải sai lạc, như thế có giải thoát của trí.
Có thể rằng
một giải thoát của trí là mười giải thoát của trí và có thể rằng mười
giải thoát của trí là một giải thoát của trí, đúng theo đối tượng và tác
dụng là như thế.
Trí biết như
thật kể như là quán về vô thường trong vật thể được giải thoát khỏi sự
không biết như mơ hồ về trường tồn, như thế có giải thoát của trí... Trí
biết như thật kể như là quán về tánh không trong vật thể được giải thoát
khỏi sự không biết như mơ hồ về diễn giải sai lạc nó, như thế có giải
thoát của trí... [và cứ thế với các ý niệm của 201 ý niệm còn lại liệt
kê ở Luận I đ. 5 cho đến]... Trí biết như thật kể như là quán vô thường
trong già và chết... Trí biết như thật kể như là quán tánh không trong
già và chết được giải thoát khỏi sự không biết như mơ hồ về diễn giải
sai lạc nó, như thế có giải thoát của trí.
Có thể rằng
một giải thoát về trí là mười giải thoát về trí và có thể rằng mười giải
thoát về trí là một giải thoát về trí, đúng theo đối tượng và tác dụng
là như thế đấy.
47. Giải
thoát được diễn giải như thế này: [tất cả những gì đã được kinh nghiệm ở
đây] có thể trở thành mát lạnh là gì?
Có thể rằng
một giải thoát được diễn giải như vầy: ‘Nó có thể trở thành mát lạnh’ là
mười giải thoát được diễn giải như vầy: ‘Nó có thể trở thành mát lạnh’
và có thể rằng mười giải thoát được diễn giải như vầy ‘Nó có thể trở
thành mát lạnh’ là một giải thoát được diễn giải như vầy: ‘Nó có thể trở
thành mát lạnh’.
Có thể:
có thể như thế nào?
Tính mát lạnh
không thể vượt qua được của trí kể như là quán vô thường được giải thoát
từ thiêu đốt, ám ảnh và âu lo cực độ về trường tồn, như thế có giải
thoát được diễn giải như vầy ‘Nó có thể trở thành mát lạnh’. Tính mát
lạnh không thể vượt qua được của trí kể như là quán khổ não được giải
thoát từ thiêu đốt, ám ảnh và âu lo cực độ về vui sướng, ... Tính mát
lạnh không thể vượt qua được của trí kể như là quán không phải là ngã
được giải thoát từ thiêu đốt, ám ảnh và âu lo cực độ về tự ngã... Tính
mát lạnh không thể vượt qua được của trí kể như là quán nhàm chán [44]
được giải thoát từ thiêu đốt, ám ảnh và âu lo cực độ về thích thú...
Tính mát lạnh không thể vượt qua được của trí kể như là quán hết ham
muốn được giải thoát từ thiêu đốt, ám ảnh và âu lo cực độ về tham...
Tính mát lạnh không thể vượt qua được của trí kể như là quán đoạn diệt
được giải thoát từ thiêu đốt, ám ảnh và âu lo cực độ về nguồn sanh
khởi... Tính mát lạnh không thể vượt qua được của trí kể như là quán
buông bỏ được giải thoát từ thiêu đốt, ám ảnh và âu lo cực độ về bám
giữ... Tính mát lạnh không thể vượt qua được của trí kể như là quán
không dấu hiệu được giải thoát từ thiêu đốt, ám ảnh và âu lo cực độ về
dấu hiệu... Tính mát lạnh không thể vượt qua được của trí kể như là quán
không ước nguyện được giải thoát từ thiêu đốt, ám ảnh và âu lo cực độ về
ước nguyện... Tính mát lạnh không thể vượt qua được của trí kể như là
quán tánh không được giải thoát từ thiêu đốt, ám ảnh và âu lo cực độ về
diễn giải sai lạc, như thế có giải thoát được diễn giải như vầy ‘Nó có
thể trở thành mát lạnh’.
Có thể.. đúng
theo đối tượng và tác dụng là như thế đấy.
Tính mát lạnh
không thể vượt qua được của trí kể như là quán vô thường trong vật thể
được giải thoát từ thiêu đốt, ám ảnh và âu lo cực độ về trường tồn, như
thế có giải thoát được diễn giải như vầy ‘Nó có thể trở thành mát
lạnh’... Tính mát lạnh không thể vượt qua được của trí kể như là quán
tánh không trong vật thể được giải thoát từ thiêu đốt, ám ảnh và âu lo
cực độ về diễn giải nó sai lạc... [và cứ thế với các ý niệm của 201 ý
niệm còn lại liệt kê ở Luận I đ. 5 cho đến]...
Tính mát lạnh
không thể vượt qua được của trí kể như là quán già và chết... Tính mát
lạnh không thể vượt qua được của trí kể như là quán tánh không trong già
và chết được giải thoát từ thiêu đốt, ám ảnh và âu lo cực độ về diễn
giải nó sai lạc, như thế có giải thoát được diễn giải như vầy ‘Nó có thể
trở thành mát lạnh’...
Có thể.. đúng
theo đối tượng và tác dụng là như thế đấy.
Đây là giải
thoát được diễn giải như vầy: [tất cả những gì đã được kinh nghiệm ở
đây] có thể trở thành mát lạnh.
48. Giải
thoát nhờ thiền định*
là gì?
Xuất ly được
thắp sáng lên (jhāyati), như thế nó là thiền định; nó thiêu đốt
ham muốn khoái lạc giác quan, như thế nó là thiền định; việc được thắp
sáng lên (jhāyanto), như thế nó là giải thoát nhờ thiền định;
thiêu đốt (jhāpento), nó được giải thoát, như thế nó là giải
thoát nhờ thiền định; chúng [đó là các trạng thái thiện] đã được thắp
sáng lên (jhāyanti); chúng [đó là] các phiền não bị thiêu đốt (jhāpenti);
vị ấy biết rõ cái được thắp sắng lên (jhāta) và cái bị thiêu đốt
(jhāpa), như thế nó là giải thoát nhờ thiền định. [45]
*jhānavimokkha.
Không sân hận
được thắp sáng lên, ... nó thiêu đốt sân hận...
Nhận thức về
ánh sáng được thắp sáng lên, ... nó thiêu đốt dã dượi buồn ngủ...
Không phân tâm
được thắp sáng lên, ... nó thiêu đốt dao động...
Tìm hiểu hiện
tượng được thắp sáng lên, ... nó thiêu đốt hoài nghi
Trí được thắp
sáng lên, ... nó thiêu đốt vô minh...
Hoan hỉ được
thắp sáng lên, ... nó thiêu đốt tẻ nhạt...
Sơ thiền được
thắp sáng lên, ... nó thiêu đốt các chướng ngại...
Nhị thiền được
thắp sáng lên, ... nó thiêu đốt hướng tâm về đối tượng và xoay quanh đối
tượng...
Tam thiền được
thắp sáng lên, ... nó thiêu đốt hỉ...
Tứ thiền được
thắp sáng lên, ... nó thiêu đốt lạc và khổ...
Sự thành đạt
cõi không gian vô biên...
Sự thành đạt
cõi thức vô biên...
Sự thành đạt
cõi không có gì...
Sự thành đạt
cõi không có nhận thức cũng không phải không có nhận thức...
Đạo lộ nhập
giòng... [so với Luận I đ. 442]
Đạo lộ trở lại
một lần...
Đạo lộ không
trở lại...
Đạo lộ arahant
được thắp sáng lên, như vậy có thiền định; nó thiêu đốt tất cả các phiền
não, như vậy có thiền định; việc được thắp sáng lên, nó được giải thoát,
như thế nó là giải thoát nhờ thiền định; thiêu đốt, nó được giải thoát,
như thế nó là giải thoát nhờ thiền định; chúng [đó là] các trạng thái
thiện đã được thắp sáng lên; vị ấy thiêu đốt chúng [đó là các phiền
não]; vị ấy biết rõ cái được thắp sắng lên và cái bị thiêu đốt, như thế
nó là giải thoát nhờ thiền định.
Đây là giải
thoát nhờ thiền định.
49. Giải
thoát của tâm nhờ không bám níu là gì?
Có thể rằng
một giải thoát của tâm nhờ không bám níu là mười giải thoát của tâm nhờ
không bám níu và có thể rằng mười giải thoát của tâm nhờ không bám níu
là một giải thoát của tâm nhờ không bám níu, đúng theo đối tượng và tác
dụng.
Có thể:
có thể như thế nào?
Trí kể như là
quán vô thường được giải thoát khỏi bám níu về trường tồn, như thế có
giải thoát tâm nhờ không bám níu. Trí kể như là quán khổ não được giải
thoát từ bám níu về vui sướng... Trí kể như là quán không phải là ngã
được giải thoát khỏi bám níu về ngã... Trí kể như là quán nhàm chán được
giải thoát khỏi bám níu về thích thú... Trí kể như là quán hết ham muốn
được giải thoát khỏi bám níu về tham... Trí kể như là quán đoạn diệt
được giải thoát khỏi bám níu về nguồn sanh khởi... Trí kể như là quán
buông bỏ được giải thoát khỏi bám níu về nắm giữ... Trí kể như là quán
không dấu hiệu được giải thoát khỏi bám níu về dấu hiệu... Trí kể như là
quán không ước nguyện [46] được giải thoát từ bám níu về ước nguyện...
Trí kể như là quán tánh không được giải thoát từ bám níu về những diễn
giải sai lạc... như thế có giải thoát tâm nhờ không bám níu.
Có thể.. đúng
theo đối tượng và tác dụng là như thế đấy.
Trí kể như là
quán vô thường trong vật thể được giải thoát khỏi bám níu về trường tồn,
như thế có giải thoát tâm nhờ không bám níu. Trí kể như là quán tánh
không trong vật thể được giải thoát khỏi bám níu như là diễn giải nó sai
lạc... [và cứ thế với các ý niệm của 201 ý niệm còn lại liệt kê ở Luận I
đ. 5 cho đến]... Trí kể như là quán già và chết là vô thường... Trí kể
như là quán già và chết là tánh không được giải thoát khỏi bám níu như
là diễn giải nó sai lạc, như thế có giải thoát tâm nhờ không bám níu.
Có thể.. đúng
theo đối tượng và tác dụng là như thế đấy.
50. Trí quán
vô thường được giải thoát khỏi bao nhiêu loại bám níu?
Trí quán khổ
não được giải thoát khỏi bao nhiêu loại bám níu?
Trí quán không
phải là ngã được giải thoát khỏi bao nhiêu loại bám níu?
Trí quán nhàm
chán được giải thoát khỏi bao nhiêu loại bám níu?
Trí quán hết
ham muốn được giải thoát khỏi bao nhiêu loại bám níu?
Trí quán đoạn
diệt được giải thoát khỏi bao nhiêu loại bám níu?
Trí quán buông
bỏ được giải thoát khỏi bao nhiêu loại bám níu?
Trí quán không
dấu hiệu được giải thoát khỏi bao nhiêu loại bám níu?
Trí quán không
ước nguyện được giải thoát khỏi bao nhiêu loại bám níu?
Trí quán tánh
không được giải thoát khỏi bao nhiêu loại bám níu?
51. Trí quán
vô thường được giải thoát khỏi ba loại bám níu.
Trí quán khổ
não được giải thoát khỏi một loại bám níu.
Trí quán không
phải là ngã được giải thoát khỏi ba loại bám níu.
Trí quán nhàm
chán được giải thoát khỏi một loại bám níu.
Trí quán hết
ham muốn được giải thoát khỏi một loại bám níu.
Trí quán đoạn
diệt được giải thoát khỏi bốn loại bám níu.
Trí quán buông
bỏ được giải thoát khỏi bốn loại bám níu.
Trí quán không
dấu hiệu được giải thoát khỏi ba loại bám níu.
Trí quán không
ước nguyện được giải thoát khỏi một loại bám níu.
Trí quán tánh
không được giải thoát khỏi ba loại bám níu.
52. Trí
quán vô thường được giải thoát khỏi ba loại bám níu nào?
Thoát khỏi bám
lấy nhận thức sai lạc, bám lấy giới luật và nghi lễ, bám lấy chủ trương
cho có ngã. Trí quán vô thường được giải thoát khỏi ba loại bám níu này.
Trí quán
khổ não được giải thoát khỏi một loại bám
níu nào? [47]
Thoát khỏi bám
lấy khoái lạc giác quan. Trí...
Trí quán
không phải là ngã được giải thoát khỏi ba
loại bám níu nào?
Thoát khỏi bám
lấy nhận thức sai lạc, bám lấy giới luật và nghi lễ, bám lấy chủ trương
cho có ngã. Trí...
Trí quán
nhàm chán được giải thoát khỏi một loại
bám níu nào?
Thoát khỏi bám
lấy khoái lạc giác quan. Trí...
Trí quán
hết ham muốn được giải thoát khỏi một loại
bám níu nào?
Thoát khỏi bám
lấy khoái lạc giác quan. Trí...
Trí quán
diệt tận được giải thoát khỏi bốn loại bám
níu nào?
Thoát khỏi bám
lấy khoái lạc giác quan, bám lấy nhận thức sai lạc, bám lấy giới luật và
nghi lễ, bám lấy chủ trương cho có ngã. Trí...
Trí quán
buông bỏ được giải thoát khỏi bốn loại bám
níu nào?
Thoát khỏi bám
lấy khoái lạc giác quan, bám lấy nhận thức sai lạc, bám lấy giới luật và
nghi lễ, bám lấy chủ trương cho có ngã. Trí...
Trí quán
không dấu hiệu được giải thoát khỏi ba
loại bám níu nào?
Thoát khỏi bám
lấy quan điểm sai lạc,
[2]
bám lấy giới luật và nghi lễ, bám lấy chủ trương cho có ngã. Trí...
Trí quán
không ước nguyện được giải thoát khỏi một
loại bám níu nào?
Thoát khỏi bám
lấy khoái lạc giác quan. Trí...
Trí quán
tánh không được giải thoát khỏi ba loại
bám níu nào?
Thoát khỏi bám
lấy nhận thức sai lạc, bám lấy giới luật và nghi lễ, bám lấy chủ trương
cho có ngã. Trí quán về tánh không được giải thoát khỏi ừ ba loại bám
níu này.
53. Trí quán
vô thường, trí quán không phải là ngã, trí quán không dấu hiệu và trí
quán tánh không, bốn loại trí này được giải thoát khỏi ba loại bám níu,
đó là: bám lấy nhận thức sai lạc, bám lấy giới luật và nghi lễ, bám lấy
chủ trương cho có ngã.
Trí quán khổ
não, trí quán nhàm chán, trí quán hết ham muốn và trí quán không ước
nguyện, [48] bốn loại trí này được giải thoát khỏi một loại bám níu, đó
là: bám lấy khoái lạc giác quan.
Trí quán đoạn
diệt, trí quán buông bỏ, hai loại trí này được giải thoát khỏi bốn loại
bám níu, đó là: bám lấy khoái lạc giác quan, bám lấy nhận thức sai lạc,
bám lấy giới luật và nghi lễ, bám lấy chủ trương cho có ngã.
Đây là giải
thoát của tâm nhờ không bám níu.
CHẤM DỨT PHẦN THUẬT KỂ THỨ
NHẤT.
54. Bây giờ,
ba cánh cửa này dẫn tới giải thoát đưa đến lối ra khỏi thế gian [đó là]:
(i) dẫn đến sự thấy rõ tất cả các hành vi tạo nghiệp đều bị giới hạn và
bị vây bủa*
và dẫn đến sự thâm nhập của tâm vào yếu tố2*
không điều kiện, (ii) dẫn đến sự quấy động3*
tất cả các hành vi tạo nghiệp trong tâm và dẫn đến sự thâm nhập của tâm
vào yếu tố không ước nguyện, (iii) dẫn đến sự thấy rõ tất cả các hiện
tượng là xa lạ4*
và dẫn đến sự thâm nhập của tâm vào yếu tố2*
tánh không. Đây là ba cánh cửa dẫn tới giải thoát đưa đến lối ra khỏi
thế gian này.
*
các hành vi tạo nghiệp bị sanh diệt giới hạn và vây bủa,
vì quán vô thường đã giới hạn chúng như vầy: ‘Hành vi tạo nghiệp không
hiện hữu trước khi khởi lên’; khi tìm hiểu về số phận của chúng thì thấy
chúng bị vây bủa như sau: ‘Không vượt quá diệt, sau khi diệt chúng hoàn
toàn tan biến’.
2* Visuddhimagga (Con Đường Thanh Lọc), ch. XV đ. 22 nói yếu tố (dhātu)
là thuật ngữ để chỉ cho những gì không có linh hồn, tự ngã. Yếu tố không
điều kiện (hay: vô tướng giới)
3* quấy động tâm: bằng cách tạo nhu cầu khẩn cấp trong tâm, vì
quán khổ não đòi hỏi ý thức cấp thiết về hành vi tạo nghiệp.
4* thấy rõ các hiện tượng là xa lạ: để quán chúng không phải là
ngã như sau: ‘không phải là Tôi’; ‘không phải của Tôi’. Vism XXI đ. 68.
55. Khi vị ấy
chú tâm suy xét các hành vi tạo quả là vô thường, với vị ấy, các hành vi
đó biểu hiện ra như thế nào? Khi vị ấy chú tâm suy xét các hành vi tạo
quả là khổ não, với vị ấy, các hành vi đó biểu hiện ra như thế nào? Khi
vị ấy chú tâm suy xét các hành vi tạo quả không phải là ngã, với vị ấy,
các hành vi đó biểu hiện ra như thế nào?
Khi vị ấy chú
tâm suy xét các hành vi tạo quả là vô thường, với vị ấy, các hành vi đó
biểu hiện ra sự hoại diệt. Khi vị ấy chú tâm suy xét các hành vi tạo quả
là khổ não, với vị ấy, các hành vi đó biểu hiện ra sự hãi hùng. Khi vị
ấy chú tâm suy xét các hành vi tạo quả không phải là ngã, với vị ấy, các
hành vi đó biểu hiện ra tánh không.
56. Khi vị ấy
chú tâm suy xét vô thường, tâm của vị ấy phong phú*
ở đâu? Khi vị ấy chú tâm suy xét khổ não, tâm của vị ấy phong phú ở đâu?
Khi vị ấy chú tâm suy xét không phải là ngã, tâm của vị ấy phong phú ở
đâu?
*bahulaṁ: phong phú
Khi vị ấy chú
tâm suy xét vô thường, tâm của vị ấy [49] có nhiều cả quyết. Khi vị ấy
chú tâm suy xét khổ não, tâm của vị ấy có nhiều an tịnh. Khi vị ấy chú
tâm suy xét các hành vi tạo quả không phải là ngã, tâm của vị ấy có trí
tuệ rộng lớn.
57. Khi người
có nhiều cả quyết chú tâm suy xét vô thường, người ấy đạt được năng lực
gây ảnh hưởng nào? Khi người có nhiều an tịnh chú tâm suy xét khổ não,
người ấy đạt được năng lực gây ảnh hưởng nào? Khi người có trí tuệ rộng
lớn chú tâm suy xét không phải là ngã, người ấy đạt được năng lực gây
ảnh hưởng nào?
Khi người có
nhiều cả quyết chú tâm suy xét vô thường, người ấy đạt được năng lực gây
ảnh hưởng của tín. Khi người có nhiều an tịnh chú tâm suy xét khổ não,
người ấy đạt được năng lực gây ảnh hưởng định. Khi người có trí tuệ rộng
lớn chú tâm suy xét không phải là ngã, người ấy đạt được năng lực gây
ảnh hưởng của tuệ.
58. (1) Khi
người có nhiều cả quyết chú tâm suy xét vô thường, năng lực gây ảnh
hưởng nào có ưu thắng trong người ấy? (2) Trong sự phát triển, có bao
nhiêu năng lực gây ảnh hưởng tiếp nối năng lực gây ảnh hưởng có ưu thắng
này là những điều kiện cùng hiện hữu, hỗ tương, phụ thuộc, kết hợp,
[3]
có tác dụng (hương vị) duy nhất? (3) Phát triển theo nghĩa nào? (4) Ai
tu tiến?
(5) Khi người
có nhiều an tịnh chú tâm suy xét khổ não, năng lực gây ảnh hưởng nào có
ưu thắng trong người ấy? (6) Trong sự phát triển, có bao nhiêu năng lực
gây ảnh hưởng tiếp nối năng lực gây ảnh hưởng có ưu thắng này là những
điều kiện cùng hiện hữu, hỗ tương, phụ thuộc, kết hợp, có tác dụng
(hương vị) duy nhất? (7) Phát triển theo nghĩa nào? (8) Ai tu tiến?
(9) Khi người
có trí tuệ rộng lớn chú tâm suy xét không phải là ngã, năng lực gây ảnh
hưởng nào có ưu thắng trong người ấy? (10) Trong sự phát triển, có bao
nhiêu năng lực gây ảnh hưởng tiếp nối năng lực gây ảnh hưởng có ưu thắng
này là những điều kiện cùng hiện hữu, hỗ tương, phụ thuộc, kết hợp, có
tác dụng (hương vị) duy nhất? (11) Phát triển theo nghĩa nào? (12) Ai tu
tiến?
(1) Khi người
có nhiều cả quyết chú tâm suy xét vô thường, năng lực gây ảnh hưởng của
tín có ưu thắng trong người ấy. (2) Trong sự phát triển, bốn năng lực
gây ảnh hưởng tiếp nối năng lực gây ảnh hưởng ưu thắng này của tín, là
những điều kiện cùng hiện hữu, hỗ tương, phụ thuộc, kết hợp, có tác dụng
(hương vị) duy nhất. (3) Phát triển theo nghĩa có tác dụng (hương vị)
duy nhất. (4) Ai đeo đuổi đúng cách người ấy tu tiến: không có sự tiến
bộ cho các năng lực gây ảnh hưởng trong người đeo đuổi sai cách.
(5) Khi người
có nhiều an tịnh chú tâm suy xét khổ não, năng lực gây ảnh hưởng của
định có ưu thắng trong người ấy. (6) Trong sự phát triển, bốn năng lực
gây ảnh hưởng kia tiếp nối năng lực gây ảnh hưởng ưu thắng này của định,
là những điều kiện cùng hiện hữu, hỗ tương, phụ thuộc, kết hợp, có tác
dụng (hương vị) duy nhất. (7) Phát triển theo nghĩa có tác dụng (hương
vị) duy nhất. (8) Ai đeo đuổi đúng cách người ấy tu tiến: không có sự
tiến bộ cho các năng lực gây ảnh hưởng trong người đeo đuổi sai cách.
(9) Khi người
có trí tuệ rộng lớn chú tâm suy xét không phải là ngã, năng lực gây ảnh
hưởng của tuệ có ưu thắng trong người ấy. (10) Trong sự phát triển, bốn
năng lực gây ảnh hưởng kia tiếp nối năng lực gây ảnh hưởng ưu thắng này
của tuệ, là những điều kiện cùng hiện hữu, hỗ tương, phụ thuộc, kết hợp,
có tác dụng (hương vị) duy nhất. (11) Phát triển theo nghĩa có tác dụng
(hương vị) duy nhất. (12) Ai đeo đuổi đúng cách người ấy tu tiến: không
có sự tiến bộ cho các năng lực gây ảnh hưởng trong người đeo đuổi sai
cách.
59. (1) Khi
người có nhiều cả quyết chú tâm suy xét vô thường, năng lực gây ảnh
hưởng nào có ưu thắng trong người ấy? (2) Trong sự phát triển, có bao
nhiêu năng lực gây ảnh hưởng tiếp nối năng lực gây ảnh hưởng có ưu thắng
này là những điều kiện cùng hiện hữu, hỗ tương, phụ thuộc, kết hợp, có
tác dụng (hương vị) duy nhất? (3) Vào lúc thấu hiểu, năng lực gây ảnh
hưởng nào có ưu thắng trong người ấy? Trong sự thấu hiểu, có bao nhiêu
năng lực gây ảnh hưởng tiếp nối năng lực gây ảnh hưởng có ưu thắng này
là những điều kiện cùng hiện hữu, hỗ tương, phụ thuộc, kết hợp, có tác
dụng (hương vị) duy nhất? (5) Phát triển theo nghĩa nào? (6) Thấu hiểu
theo nghĩa nào?
(7) Khi người
có nhiều an tịnh chú tâm suy xét khổ não, năng lực gây ảnh hưởng nào có
ưu thắng trong người ấy? (8) Trong sự phát triển... (12) Thấu hiểu theo
nghĩa nào?
(13) Khi người
có trí tuệ rộng lớn chú tâm suy xét không phải là ngã, năng lực gây ảnh
hưởng nào có ưu thắng trong người ấy? (14) Trong sự phát triển... (15)
Thấu hiểu theo nghĩa nào? [51]
(1) Khi người
có nhiều cả quyết chú tâm suy xét vô thường, năng lực gây ảnh hưởng của
tín có ưu thắng trong người ấy. (2) Trong sự phát triển, bốn năng lực
gây ảnh hưởng kia tiếp nối năng lực gây ảnh hưởng có ưu thắng này của
tín là những điều kiện cùng hiện hữu, hỗ tương, phụ thuộc, kết hợp, có
tác dụng (hương vị) duy nhất. (3) Vào lúc thấu hiểu, năng lực gây ảnh
hưởng của tuệ có ưu thắng trong người ấy. Trong sự thấu hiểu, có bốn
năng lực gây ảnh hưởng tiếp nối năng lực gây ảnh hưởng có ưu thắng này
của tuệ là những điều kiện cùng hiện hữu, hỗ tương, phụ thuộc, kết hợp,
có tác dụng (hương vị) duy nhất. (5) Phát triển theo nghĩa có tác dụng
(hương vị) duy nhất. (6) Thấu hiểu theo nghĩa thấy rõ: nên người nào
thấu hiểu, người ấy tu tiến, và người nào tu tiến, người ấy thấu hiểu.
(7) Khi người
có nhiều an tịnh chú tâm suy xét khổ não, năng lực gây ảnh hưởng của
định có ưu thắng trong người ấy. (8) Trong sự phát triển... có tác dụng
(hương vị) duy nhất. (9) Vào lúc thấu hiểu, năng lực gây ảnh hưởng của
tuệ có ưu thắng trong người ấy. (10) Trong sự thấu hiểu... (12) Thấu
hiểu theo nghĩa thấy rõ: nên người nào thấu hiểu, người ấy tu tiến, và
người nào tu tiến, người ấy thấu hiểu.
(13) Khi người
có trí tuệ rộng lớn chú tâm suy xét không phải là ngã, năng lực gây ảnh
hưởng của tuệ có ưu thắng trong người ấy. (14) Trong sự phát triển... có
tác dụng (hương vị) duy nhất. (15) Vào lúc thấu hiểu, năng lực gây ảnh
hưởng của tuệ có ưu thắng trong người ấy. (16) Trong sự thấu hiểu ...
(18) Thấu hiểu theo nghĩa thấy rõ: nên người nào thấu hiểu, người ấy tu
tiến, và người nào tu tiến, người ấy thấu hiểu.
60. (1) Khi
người chú tâm suy xét vô thường, năng lực gây ảnh hưởng nào nổi bật
trong người ấy? Với năng lực gây ảnh hưởng nổi bật nào, người ấy là Bậc
được Giải Thoát bằng Tín?
(2) Khi người
chú tâm suy xét khổ não, năng lực gây ảnh hưởng nào nổi bật trong người
ấy? Với năng lực gây ảnh hưởng nổi bật nào, người ấy là Bậc Thân Chứng?
(3) Khi người
chú tâm suy xét không phải là ngã, năng lực gây ảnh hưởng nào nổi bật
trong người ấy? Với năng lực gây ảnh hưởng nổi bật nào, người ấy là Bậc
Đạt Tuệ Kiến? [52]
(1) Khi người
chú tâm suy xét vô thường, năng lực gây ảnh hưởng của tín nổi bật trong
người ấy. Với năng lực gây ảnh hưởng nổi bật của tín, người ấy là Bậc
được Giải Thoát bằng Tín.*
*Saddhāvimutta. Puggalapaññatti coi vị này giống như
diṭṭhipatta nhưng thêm rằng vị này không lấy tuệ để duyệt xét và
thẩm định lời đức Phật dạy ở bình diện rộng rãi như diṭṭhipatta
đã làm. Đọc B. C. Law, sđd, trang 105. Đọc M i 479. Ñāṇamoli and
Bhikkhu Bodhi, The Middle Length Discourses of the Buddha, chú
thích 706, trang 1272. Đọc Nyanatiloka, The Buddha’s Path to
Deliverance, [BPS, 2000], đ. 200, trang 202. Đọc chú thích về
diṭṭhipatta dưới đây.
(2) Khi người
chú tâm suy xét khổ não, năng lực gây ảnh hưởng của định nổi bật trong
người ấy. Với năng lực gây ảnh hưởng nổi bật của định, người ấy là Bậc
Thân Chứng.*
* bậc Thân Chứng [Kāyasakkhin]: bậc lần đầu tiên tiếp xúc cõi
thiền (vô sắc); rồi sau đó chứng ngộ Nibbāṇa. Mợ nhấn mạnh
rằng để được công nhận là Kāyasakkhin, vị này cần có một trong
những chứng đạt cõi vô sắc kể cả chứng diệt tận nhận thức và
cảm nghiệm (saññāvedayitanirodha). Đọc Ñāṇamoli and
Bhikkhu Bodhi, sđd, chú thích 704, trang 1272. Còn Puggalapaññatti
nói vị này thể nghiệm tám giải thoát, rồi chứng mục đích tối hậu (summum
bonum) là Nibbāṇa. Đọc B. C. Law, sđd, chú thích 3, trang 6.
(3) Khi người
chú tâm suy xét không phải là ngã, năng lực gây ảnh hưởng của tuệ nổi
bật trong người ấy. Với năng lực gây ảnh hưởng nổi bật của tuệ, người ấy
là Bậc đạt Tuệ Kiến.*
*
bậc đạt Tuệ Kiến [diṭṭhipatta]: Chú giải của Puggalapaññatti
cho rằng vị này thấu triệt bốn Sự Thực. Nhờ đã hoàn toàn thấu hiểu bằng
tuệ quán và bằng thực hành giáo pháp của đức Phật và sau khi thấy rõ các
hiện tượng bằng tuệ quán, nên một phần nhiễm lậu bị hủy diệt. Đọc B. C.
Law, sđd, (chú thích số 1, trang 7; đ. 33 trang 22; đ. 2 trang 101,
trang 105). Tuy chưa chứng vô sắc giới, vị này đã lấy tuệ để
duyệt xét và thẩm định lời dạy của đức Phật. Đọc Ñāṇamoli and
Bhikkhu Bodhi, sđd, chú thích 705, trang 1272. So với A iv 451; M i 478.
61. [Vào sát
na chứng quả của đạo lộ thứ nhất] vị ấy đã được giải thoát nhờ có đức
tin (saddhahanto vimutto), như vậy, người ấy là Bậc được Giải
Thoát bằng Tín (Saddhāvimutta); vị ấy đã thực chứng
[4]
[nibbana] bằng cách xúc chạm (tiếp xúc), như vậy, vị ấy là bậc Thân
Chứng; vị ấy đã chứng [nibbana] bằng kiến giải, như vậy, vị ấy là bậc
Tuệ Kiến.
[Vào sát na
chứng quả vị của ba đạo lộ còn lại] vị ấy đã được giải thoát nhờ có đức
tin (saddhahanto vimuccatti), như vậy vị ấy là Bậc Giải Thoát
bằng Tín; vị ấy lần đầu xúc chạm (tiếp xúc) cõi jhana và sau đó thực
chứng đoạn diệt, nibbana, như vậy, vị ấy là bậc Thân Chứng; vì đã biết
rõ, thấy rõ, nhận chân, thực chứng, và thể nghiệm (kinh nghiệm) bằng tuệ
giác rằng hành vi tạo quả là khổ và đoạn diệt là lạc, như vậy, vị ấy là
bậc Tuệ Kiến.
62. Có vị là
bậc Giải Thoát bằng Tín, có vị là bậc Thân Chứng và có vị là bậc Tuệ
Kiến. Có thể là theo đối tượng và theo chức năng, ba vị này là bậc Giải
Thoát bằng Tín, bậc Thân Chứng và bậc Tuệ Kiến.
Có thể:
có thể như thế nào?
(1) Khi người
chú tâm suy xét vô thường, năng lực gây ảnh hưởng của tín nổi bật trong
người ấy; với năng lực gây ảnh hưởng nổi bật của tín, người ấy là bậc
được Giải Thoát bằng Tín. Khi người chú tâm suy xét khổ não, năng lực
gây ảnh hưởng của tín [vẫn] nổi bật trong người ấy; với năng lực gây ảnh
hưởng nổi bật của tín, người ấy là bậc được Giải Thoát bằng Tín. Khi
người chú tâm suy xét không phải là ngã, năng lực gây ảnh hưởng của tín
[vẫn] nổi bật trong người ấy; với năng lực gây ảnh hưởng nổi bật của
tín, người ấy là bậc được Giải Thoát bằng Tín. Đây là ba loại người được
Giải Thoát bằng Tín qua tác dụng của năng lực gây ảnh hưởng của tín là
như thế.
(2) Khi người
chú tâm suy xét khổ não, năng lực gây ảnh hưởng của định nổi bật trong
người ấy; với năng lực gây ảnh hưởng nổi bật của định, người ấy là bậc
Thân Chứng. Khi người chú tâm suy xét không phải là ngã, năng lực gây
ảnh hưởng của định [vẫn] nổi bật trong người ấy; với năng lực gây ảnh
hưởng nổi bật của định, người ấy là bậc Thân Chứng. Khi người chú tâm
suy xét vô thường, năng lực gây ảnh hưởng của tín [vẫn] nổi bật trong
người ấy; với năng lực gây ảnh hưởng nổi bật của tín, người ấy là bậc
Thân Chứng. Đây là ba loại Thân Chứng qua tác dụng của năng lực gây ảnh
hưởng của định là như thế.
(3) Khi người
chú tâm suy xét không phải là ngã, năng lực gây ảnh hưởng của tuệ nổi
bật trong người ấy; với năng lực gây ảnh hưởng nổi bật của tuệ, người ấy
là bậc đạt Tuệ Kiến. [53] Khi người chú tâm suy xét vô thường, năng lực
gây ảnh hưởng của tuệ [vẫn] nổi bật trong người ấy; với năng lực gây ảnh
hưởng nổi bật của tuệ, người ấy là bậc đạt Tuệ Kiến. Khi người chú tâm
suy xét khổ não, năng lực gây ảnh hưởng của tuệ [vẫn] nổi bật trong
người ấy; với năng lực gây ảnh hưởng nổi bật của tuệ, người ấy là bậc
đạt Tuệ Kiến. Đây là ba loại đạt Tuệ Kiến qua tác dụng của năng lực gây
ảnh hưởng của tuệ là như thế.
Có vị là bậc
giải thoát bằng Tín, có vị là bậc Thân Chứng và có vị là bậc Tuệ Kiến.
Có thể là theo đối tượng và theo chức năng, ba vị này là bậc giải thoát
bằng Tín, bậc Thân Chứng và bậc Tuệ Kiến.
Có vị là bậc
được Giải Thoát bằng Tín, có vị là bậc Thân Chứng và có vị là bậc Tuệ
Kiến. có thể là theo đối tượng và theo chức năng, trong ba vị này bậc
Giải Thoát bằng Tín là một, bậc Thân Chứng là người khác và bậc Tuệ Kiến
là một người khác nữa.
Có thể:
có thể như thế nào?
(1) Khi người
chú tâm suy xét vô thường, năng lực gây ảnh hưởng của tín nổi bật trong
người ấy; với năng lực gây ảnh hưởng nổi bật của tín, người ấy là bậc
được Giải Thoát bằng Tín. (2) Khi người chú tâm suy xét khổ não, năng
lực gây ảnh hưởng của định nổi bật trong người ấy; với năng lực gây ảnh
hưởng nổi bật của định, người ấy là bậc Thân Chứng. (3) Khi người chú
tâm suy xét không phải là ngã, năng lực gây ảnh hưởng của tuệ nổi bật
trong người ấy; với năng lực gây ảnh hưởng nổi bật của tuệ, người ấy là
bậc Tuệ Kiến.
Có vị là bậc
được giải thoát bằng Tín, có vị là bậc Thân Chứng và có vị là bậc Tuệ
Kiến. Có thể là theo đối tượng và theo chức năng, trong ba vị này bậc
giải thoát bằng Tín là một, bậc Thân Chứng là người khác và bậc Tuệ Kiến
là một người khác nữa.
63. (1) Khi
người chú tâm suy xét vô thường, năng lực gây ảnh hưởng của tín nổi bật
trong người ấy; với năng lực gây ảnh hưởng nổi bật đó của tín, người ấy
chứng đạo lộ nhập giòng; như vậy vị ấy được gọi là người Hành theo Đức
Tin. Bốn năng lực gây ảnh hưởng kia tiếp nối năng lực gây ảnh hưởng nổi
bật này của tín, là những điều kiện cùng hiện hữu, hỗ tương, phụ thuộc,
kết hợp. Dưới tác dụng của năng lực gây ảnh hưởng của tín, có sự phát
triển trong bốn năng lực gây ảnh hưởng [kia]. Tất cả những ai đã chứng
đạo lộ nhập giòng dưới tác dụng của năng lực gây ảnh hưởng của tín, đều
là những người Hành theo Đức Tin.
Khi người chú
tâm suy xét vô thường, năng lực gây ảnh hưởng của tín nổi bật trong
người ấy; với năng lực gây ảnh hưởng nổi bật đó của tín, người ấy chứng
quả vị nhập giòng; như vậy vị ấy được gọi là người được Giải Thoát bằng
Tín. Bốn năng lực gây ảnh hưởng kia tiếp nối năng lực gây ảnh hưởng nổi
bật này của tín, là những điều kiện cùng hiện hữu, hỗ tương, phụ thuộc,
kết hợp. Dưới tác dụng của năng lực gây ảnh hưởng của tín, bốn năng lực
gây ảnh hưởng [kia] được phát triển, [54] rất phát triển. Tất cả những
ai đã chứng quả vị nhập giòng dưới tác dụng của năng lực gây ảnh hưởng
của tín, đều là những người Giải Thoát bằng Tín.
Khi người chú
tâm suy xét vô thường, năng lực gây ảnh hưởng của tín nổi bật trong
người ấy; với năng lực gây ảnh hưởng nổi bật ấy của tín, người ấy chứng
đạo lộ trở lại một lần...
... quả vị trở
lại một lần được chứng đắc...
... vị ấy
chứng đạo lộ không trở lại...
... quả vị
không trở lại được chứng đắc...
... chứng đạo
lộ arahant... là những vị Hành theo Đức Tin.
Khi người chú
tâm suy xét vô thường, năng lực gây ảnh hưởng của tín nổi bật trong
người ấy; với năng lực gây ảnh hưởng nổi bật đó của tín, vị ấy chứng
được quả vị arahant; như vậy vị ấy được gọi là người được Giải Thoát
bằng Tín... Tất cả những ai đã chứng quả vị arahant dưới tác dụng của
năng lực gây ảnh hưởng của tín đều là những người Giải Thoát bằng Tín.
(2) Khi người
chú tâm suy xét khổ não, năng lực gây ảnh hưởng của định nổi bật trong
người ấy; với năng lực gây ảnh hưởng nổi bật đó của định, đạo lộ nhập
giòng được chứng đắc; như vậy vị ấy được gọi là bậc Thân Chứng. Bốn năng
lực gây ảnh hưởng kia tiếp nối... Dưới tác dụng của năng lực gây ảnh
hưởng của định, có sự phát triển trong bốn năng lực gây ảnh hưởng [kia].
Tất cả những ai đã chứng đạo lộ nhập giòng dưới tác dụng của năng lực
gây ảnh hưởng nổi bật của định đều là những bậc Thân Chứng.
Khi người chú
tâm suy xét khổ não, năng lực gây ảnh hưởng của định nổi bật trong người
ấy; với năng lực gây ảnh hưởng nổi bật đó của định, quả vị nhập giòng
được chứng đắc; như vậy vị ấy được gọi là bậc Thân Chứng. Bốn năng lực
gây ảnh hưởng kia tiếp nối ... Dưới tác dụng của năng lực gây ảnh hưởng
của định, bốn năng lực gây ảnh hưởng [kia] được phát triển, rất phát
triển. Tất cả những ai đã chứng đạo lộ nhập giòng dưới tác dụng của năng
lực gây ảnh hưởng nổi bật của định, đều là những người Thân Chứng.
... vị ấy
chứng đạo lộ trở lại một lần...
... quả vị trở
lại một lần được chứng đắc...
... vị ấy
chứng đạo lộ không trở lại...
... quả vị
không trở lại được chứng đắc...
... vị ấy
chứng đạo lộ arahant... là những vị Thân Chứng.
Khi người chú
tâm suy xét khổ não, năng lực gây ảnh hưởng của định nổi bật trong người
ấy; với năng lực gây ảnh hưởng nổi bật đó của định, quả vị arahant được
thực chứng; như vậy vị ấy được gọi là bậc Thân Chứng... Tất cả những ai
đã chứng quả vị arahant dưới tác dụng của năng lực gây ảnh hưởng của
định, đều là những bậc Thân Chứng.
(3) Khi người
chú tâm suy xét không phải là ngã, năng lực gây ảnh hưởng của tuệ nổi
bật trong người ấy; với năng lực gây ảnh hưởng nổi bật đó của tuệ, vị ấy
chứng đạo lộ nhập giòng; như vậy vị ấy được gọi là bậc Hành theo Dhamma.
Bốn năng lực gây ảnh hưởng kia tiếp nối... Dưới tác dụng của năng lực
gây ảnh hưởng của tuệ, có sự phát triển trong bốn năng lực gây ảnh hưởng
[kia]. [55] Tất cả những ai đã chứng đạo lộ nhập giòng dưới tác
dụng của năng lực gây ảnh hưởng của tuệ đều là những bậc Hành theo
Dhamma.
Khi người chú
tâm suy xét không phải là ngã, năng lực gây ảnh hưởng của tuệ nổi bật
trong người ấy; với năng lực gây ảnh hưởng nổi bật đó của định, quả vị
nhập giòng được chứng đắc; như vậy vị ấy được gọi là bậc Tuệ Kiến. Bốn
năng lực gây ảnh hưởng kia tiếp nối ... Dưới tác dụng của năng lực gây
ảnh hưởng của tuệ, bốn năng lực gây ảnh hưởng [kia] được phát triển, rất
phát triển. Tất cả những ai đã chứng đạo lộ nhập giòng dưới tác dụng của
năng lực gây ảnh hưởng nổi bật của tuệ, đều là những người bậc Tuệ Kiến.
... vị ấy
chứng đạo lộ trở lại một lần...
... quả vị trở
lại một lần được chứng đắc...
... vị ấy
chứng đạo lộ không trở lại...
... quả vị
không trở lại được chứng đắc...
... vị ấy
chứng đạo lộ arahant... là những vị hành theo Dhamma.
Khi người chú
tâm suy xét không phải là ngã, năng lực gây ảnh hưởng của tuệ nổi bật
trong người ấy; với năng lực gây ảnh hưởng nổi bật đó của tuệ, quả vị
arahant được chứng đắc; như vậy vị ấy được gọi là bậc Tuệ Kiến. Bốn năng
lực gây ảnh hưởng kia tiếp nối ... Dưới tác dụng của năng lực gây ảnh
hưởng của tuệ, bốn năng lực gây ảnh hưởng [kia] được phát triển, rất
phát triển. Tất cả những ai đã chứng quả vị arahant dưới tác dụng của
năng lực gây ảnh hưởng của tuệ, đều là những bậc Tuệ Kiến.
64. Tất cả
những ai đã tu tập, đang tu tập, sẽ tu tập, đã thành tựu, đang thành
tựu, sẽ thành tựu, đã chứng tới, đang chứng tới, sẽ chứng tới, đã chứng
đạt, đang chứng đạt, sẽ chứng đạt, đã hiểu rõ, đang hiểu rõ, sẽ hiểu rõ,
đã thực chứng, đang thực chứng, sẽ thực chứng, đã thể nghiệm, đang thể
nghiệm, sẽ thể nghiệm,
[5]
đã làm chủ, đang làm chủ, sẽ làm chủ, đã chu toàn, đang chu toàn, sẽ chu
toàn, đã hoàn toàn tự tin, đang hoàn toàn tự tin, sẽ hoàn toàn tự tin,
xuất ly, là những bậc được giải thoát bằng tín dưới tác dụng của
năng lực gây ảnh hưởng của tín, là những bậc Thân Chứng dưới tác dụng
của năng lực gây ảnh hưởng của định, là những bậc Tuệ Kiến dưới tác dụng
của năng lực gây ảnh hưởng của tuệ.
Tất cả những
ai... không sân hận... [và cứ thế với từng yếu tố đối nghịch với
các chướng ngại còn lại của bẩy chướng ngại]...
Tất cả những
ai... cõi sơ thiền... [và cứ thế với từng cõi thiền còn lại của
bốn cõi thiền và bốn chứng đắc cõi vô sắc]... [56]
Tất cả những
ai... quán vô thường... [và cứ thế với từng tuệ quán còn lại của
mười tám Tuệ Quán Thực Tánh chính]...
Tất cả những
ai... đạo lộ nhập giòng... [và cứ thế với từng đạo lộ còn lại của
bốn đạo lộ]...
Tất cả những
ai... bốn nền tảng của quán niệm...
Tất cả những
ai... bốn chánh tinh tấn...
Tất cả những
ai... bốn nền tảng của thần thông...
Tất cả những
ai... năm năng lực gây ảnh hưởng [của tín, tấn...] ...
Tất cả những
ai... năm lực...
Tất cả những
ai... bẩy yếu tố đưa đến giác ngộ...
Tất cả những
ai... tám thánh đạo...
Tất cả những
ai đã tu tập, đang tu tập, sẽ tu tập, đã thành tựu, đang thành tựu, sẽ
thành tựu, đã chứng tới, đang chứng tới, sẽ chứng tới, đã chứng đạt,
đang chứng đạt, sẽ chứng đạt, đã hiểu rõ, đang hiểu rõ, sẽ hiểu rõ, đã
thực chứng, đang thực chứng, sẽ thực chứng, đã thể nghiệm, đang thể
nghiệm, sẽ thể nghiệm, đã làm chủ, đang làm chủ, sẽ làm chủ, đã chu
toàn, đang chu toàn, sẽ chu toàn, đã hoàn toàn tự tin, đang hoàn toàn tự
tin, sẽ hoàn toàn tự tin, tám giải thoát, là những bậc được giải
thoát bằng tín dưới tác dụng của năng lực gây ảnh hưởng của tín, là
những bậc Thân Chứng dưới tác dụng của năng lực gây ảnh hưởng của định,
là những bậc Tuệ Kiến dưới tác dụng của năng lực gây ảnh hưởng của tuệ.
Tất cả những
ai đã chứng tới, đang chứng tới... sẽ hoàn toàn tự tin... bốn vô ngại
giải, là những bậc được Giải Thoát...
Tất cả những
ai đã hiểu rõ, đang hiểu rõ, sẽ hiểu rõ... sẽ hoàn toàn tự tin... ba
minh, là những bậc được Giải Thoát...
Tất cả những
ai đã tu luyện, đang tu luyện, sẽ tu luyện, đã thể nghiệm, đang thể
nghiệm, sẽ thể nghiệm, đã làm chủ, đang làm chủ, sẽ làm chủ, đã chu
toàn, đang chu toàn, sẽ chu toàn, đã hoàn toàn tự tin, đang hoàn toàn tự
tin, sẽ hoàn toàn tự tin, ba huân tập, là những bậc được
Giải Thoát...
Tất cả những
ai hoàn toàn hiểu rõ khổ đau, người từ bỏ nguốn gốc của khổ đau, người
thực chứng diệt tận, người tu tập đạo lộ, là [57] những người được giải
thoát bằng tín qua tác dụng của năng lực gây ảnh hưởng của tín, là bậc
Thân Chứng qua tác dụng của năng lực gây ảnh hưởng của định, là bậc Tuệ
Kiến qua tác dụng của năng lực gây ảnh hưởng của tuệ.
65. Có sự hiểu
rõ tứ Đế theo bao nhiêu khía cạnh? Vị ấy hiểu rõ tứ Đế theo bao nhiêu
khía cạnh?
Có sự hiểu rõ
tứ Đế theo bốn khía cạnh. Vị ấy hiểu rõ tứ Đế theo bốn khía cạnh.
Vị ấy hiểu rõ
sự thật về khổ bằng sự thấu hiểu của hiểu biết trọn vẹn, vị ấy
hiểu rõ nguồn gốc của khổ bằng sự thấu hiểu từ bỏ, vị ấy hiểu rõ
sự diệt khổ bằng sự thấu hiểu thực chứng, vị ấy hiểu rõ con đường
diệt khổ bằng sự thấu hiểu tu tập. Có sự hiểu rõ bốn Sự Thực theo
bốn khía cạnh này.
Người hiểu rõ
tứ Đế theo bốn khía cạnh này được Giải Thoát bằng Tín dưới tác dụng của
năng lực gây ảnh hưởng của tín, bậc Thân Chứng qua tác dụng của năng lực
gây ảnh hưởng của định, bậc Tuệ Kiến qua tác dụng của năng lực gây ảnh
hưởng của tuệ.
66. Có sự hiểu
rõ tứ Đế theo bao nhiêu khía cạnh? Vị ấy hiểu rõ tứ Đế theo bao nhiêu
khía cạnh?
Có sự hiểu rõ
tứ Đế theo chín khía cạnh. Vị ấy hiểu rõ tứ Đế theo chín khía cạnh.
Vị ấy hiểu rõ
sự thật về khổ bằng sự thấu hiểu của hiểu biết trọn vẹn, vị ấy
hiểu rõ nguồn gốc của khổ bằng sự thấu hiểu từ bỏ, vị ấy hiểu rõ
sự diệt khổ bằng sự thấu hiểu thực chứng, vị ấy hiểu rõ con đường
diệt khổ bằng sự thấu hiểu tu tập. Có sự hiểu rõ tất cả các hiện
tượng bằng trí trực chứng, có sự hiểu rõ tất cả các hành vi tạo
quả bằng sự thấu hiểu của hiểu biết trọn vẹn, có sự hiểu rõ tất
cả các trạng thái bất thiện bằng cách từ bỏ, có sự thấu hiểu bốn
đạo lộ bằng cách tu tập, có sự thấu hiểu đoạn diệt bằng thực
chứng.
Người hiểu rõ
tứ Đế theo chín khía cạnh này là bậc được Giải Thoát bằng Tín dưới tác
dụng của năng lực gây ảnh hưởng của tín, là bậc Thân Chứng qua tác dụng
của năng lực gây ảnh hưởng của định, là bậc Tuệ Kiến qua tác dụng của
năng lực gây ảnh hưởng của tuệ.
CHẤM DỨT PHẦN THUẬT KỂ THỨ
HAI [58]
67. Khi người
chú tâm suy xét các hành vi tạo quả là vô thường, với vị ấy các hành vi
đó xuất hiện như thế nào? Khi người chú tâm suy xét các hành vi tạo quả
là khổ não, với vị ấy các hành vi đó xuất hiện như thế nào? Khi người
chú tâm suy xét hành vi tạo quả không phải là ngã, với vị ấy các hành vi
đó xuất hiện như thế nào?
[6]
Khi người chú
tâm suy xét các hành vi tạo quả là vô thường, với vị ấy các hành vi đó
xuất hiện như hoại diệt. Khi người chú tâm suy xét các hành vi tạo quả
là khổ não, với vị ấy các hành vi đó xuất hiện như sự hãi hùng. Khi
người chú tâm suy xét hành vi tạo quả không phải là ngã, với vị ấy các
hành vi đó xuất hiện như tánh không.
68. Khi vị ấy
chú tâm suy xét vô thường, tâm của vị ấy phong phú ở đâu? Khi vị ấy chú
tâm suy xét khổ não, tâm của vị ấy phong phú ở đâu? Khi vị ấy chú tâm
suy xét không phải là ngã, tâm của vị ấy phong phú ở đâu?
Khi vị ấy chú
tâm suy xét vô thường, tâm của vị ấy có nhiều cả quyết. Khi vị ấy chú
tâm suy xét khổ não, tâm của vị ấy có nhiều an tịnh. Khi vị ấy chú tâm
suy xét không phải là ngã, tâm của vị ấy có nhiều trí tuệ.
69. Khi người
có nhiều cả quyết chú tâm suy xét vô thường, người ấy đạt được giải
thoát nào? Khi người có nhiều an tịnh chú tâm suy xét khổ não, người ấy
đạt được giải thoát nào? Khi người có nhiều trí tuệ chú tâm suy xét
không phải là ngã, người ấy đạt được giải thoát nào?
Khi người có
nhiều cả quyết chú tâm suy xét vô thường, người ấy đạt được giải thoát
không dấu hiệu. Khi người có nhiều an tịnh chú tâm suy xét khổ
não, người ấy đạt được giải thoát vô ước nguyện. Khi người có
nhiều trí tuệ chú tâm suy xét không phải là ngã, người ấy đạt được giải
thoát tánh không.
70. (1) Khi
người có nhiều cả quyết chú tâm suy xét vô thường, giải thoát nào có ưu
thế trong người ấy? (2) Trong sự phát triển, có bao nhiêu giải thoát*
tiếp nối giải thoát có ưu thế này là những điều kiện cùng hiện hữu, hỗ
tương, phụ thuộc, kết hợp, có tác dụng (hương vị) duy nhất? (3) Phát
triển theo nghĩa nào? (4) Ai phát triển?
*ở đây POD viết là faculties là sai. Bản Be viết là:
bhāvanāya kati vimokkhā tādanvayā honti,... ko bhāveti?
Nên tôi đã sửa lại và dịch là giải thoát không những để đúng với
bản Pāḷi mà còn đúng với câu trả lời ở điểm (2) phía dưới.
(5) Khi người
có nhiều an tịnh chú tâm suy xét khổ não, giải thoát nào có ưu thế trong
người ấy? (6) Trong sự phát triển, có bao nhiêu giải thoát*
tiếp nối... (7) Phát triển theo nghĩa nào? (8) Ai phát triển?
*ở đây POD viết là faculties là sai... Tôi đã sửa lại và dịch là
giải thoát không những để đúng với bản Pāḷi mà còn đúng
với câu trả lời ở điểm (6) phía dưới.
(9) Khi người
có nhiều trí tuệ chú tâm suy xét không phải là ngã, giải thoát
nào có ưu thế trong người ấy? (10) Trong sự phát triển có bao nhiêu [59]
giải thoát tiếp nối giải thoát có ưu thế ấy... (11) Phát triển theo
nghĩa nào? (12) Ai phát triển?
(1) Khi người
có nhiều cả quyết chú tâm suy xét vô thường, giải thoát không dấu
hiệu có ưu thế trong người ấy. (2) Trong sự phát triển, có hai giải
thoát*
tiếp nối giải thoát có ưu thế này là những điều kiện cùng hiện hữu, hỗ
tương, phụ thuộc, kết hợp, có tác dụng (hương vị) duy nhất. (3) Phát
triển theo nghĩa có tác dụng (hương vị) duy nhất. (4) Ai đeo đuổi đúng
cách người ấy tu tiến: không có sự tiến bộ cho các giải thoát trong
người đeo đuổi sai cách.
*Bản Be viết là: bhāvanāya dve vimokkhā tādanvayā
honti...
(5) Khi người
có nhiều an tịnh chú tâm suy xét khổ não, giải thoát không ước nguyện
có ưu thế trong người ấy. (6) Trong sự phát triển, có hai giải thoát*
tiếp nối giải thoát có ưu thế này là những điều kiện cùng hiện hữu, hỗ
tương, phụ thuộc, kết hợp, có tác dụng (hương vị) duy nhất. (7) Phát
triển theo nghĩa có tác dụng (hương vị) duy nhất. (8) Ai đeo đuổi đúng
cách người ấy tu tiến: không có sự tiến bộ cho các giải thoát trong
người đeo đuổi sai cách.
* Bản Be viết là: bhāvanāya kati vimokkhā tādanvayā
honti,...
(9) Khi người
có nhiều trí tuệ chú tâm suy xét không phải là ngã, giải thoát
tánh không có ưu thế trong người ấy. (10) Trong sự phát triển, có
hai giải thoát tiếp nối giải thoát có ưu thế này là những điều kiện cùng
hiện hữu, hỗ tương, phụ thuộc, kết hợp, có tác dụng (hương vị) duy nhất.
(11) Phát triển theo nghĩa có tác dụng (hương vị) duy nhất. (12) Ai đeo
đuổi đúng cách người ấy tu tiến: không có sự tiến bộ cho các giải thoát
trong người đeo đuổi sai cách.
71. (1) Khi
người có nhiều cả quyết chú tâm suy xét vô thường, giải thoát nào có ưu
thế trong người ấy? (2) Trong sự phát triển, có bao nhiêu giải thoát
tiếp nối giải thoát có ưu thế này là những điều kiện cùng hiện hữu, hỗ
tương, phụ thuộc, kết hợp, có tác dụng (hương vị) duy nhất? (3) Vào
khoảnh khắc hiểu rõ, giải thoát nào có ưu thế trong vị ấy? (4) Trong sự
hiểu rõ, có bao nhiêu giải thoát tiếp nối giải thoát có ưu thế này là
những điều kiện cùng hiện hữu, hỗ tương, phụ thuộc, kết hợp, có tác dụng
(hương vị) duy nhất? (5) Phát triển theo nghĩa nào? (6) Hiểu rõ theo
nghĩa nào?
(7) Khi người
có nhiều an tịnh chú tâm suy xét khổ não, giải thoát nào có ưu thế trong
người ấy? (8) Trong sự phát triển,... (12) Hiểu rõ theo nghĩa nào? [60]
(13) Khi người
có nhiều trí tuệ chú tâm suy xét không phải là ngã, giải thoát
nào có ưu thế trong người ấy? (14) Trong sự phát triển,... (18) Hiểu rõ
theo nghĩa nào?
(1) Khi người
có nhiều cả quyết chú tâm suy xét vô thường, giải thoát không dấu
hiệu có ưu thế trong người ấy. (2) Trong sự phát triển, có hai giải
thoát tiếp nối giải thoát có ưu thế này là những điều kiện cùng hiện
hữu, hỗ tương, phụ thuộc, kết hợp, có tác dụng (hương vị) duy nhất. (3)
Vào khoảnh khắc hiểu rõ, giải thoát không dấu hiệu có ưu thế
trong vị ấy. (4) Trong sự hiểu rõ, có hai giải thoát tiếp nối giải thoát
có ưu thế này là những điều kiện cùng hiện hữu, hỗ tương, phụ thuộc, kết
hợp, có tác dụng (hương vị) duy nhất. (5) Phát triển theo nghĩa có tác
dụng (hương vị) duy nhất. (6) Hiểu rõ theo nghĩa thấy rõ: nên ai hiểu rõ
người ấy tu tiến, ai tu tiến người ấy hiểu rõ.
(7) Khi người
có nhiều an tịnh chú tâm suy xét khổ não, giải thoát không ước nguyện
có ưu thế trong người ấy. (8) Trong sự phát triển,... (9) Vào khoảnh
khắc hiểu rõ, giải thoát không dấu hiệu có ưu thế trong vị ấy.
(10) Trong sự hiểu rõ... (12) Hiểu rõ theo nghĩa thấy rõ: nên ai hiểu rõ
người ấy tu tiến, ai tu tiến người ấy hiểu rõ.
(13) Khi người
có nhiều trí tuệ chú tâm suy xét không phải là ngã, giải thoát
tánh không có ưu thế trong người ấy. (14) Trong sự phát triển,...
(18) Hiểu rõ theo nghĩa thấy rõ: nên ai hiểu rõ người ấy tu tiến, ai tu
tiến người ấy hiểu rõ.
72. (1) Khi vị
ấy chú tâm suy xét vô thường, giải thoát nào nổi bật lên trong vị
ấy? Với giải thoát nổi bật nào, vị ấy là Bậc Giải Thoát bằng Tín? [61]
(2) Khi vị ấy
chú tâm suy xét khổ não, giải thoát nào nổi bật lên trong vị ấy?
Với giải thoát nổi bật nào, vị ấy là Bậc Thân Chứng?
(3) Khi vị ấy
chú tâm suy xét không phải là ngã, giải thoát nào nổi bật lên
trong vị ấy? Với giải thoát nổi bật nào, vị ấy là Bậc Tuệ Kiến?
(1) Khi vị ấy
chú tâm suy xét vô thường, giải thoát không dấu hiệu nổi
bật lên trong vị ấy. Với giải thoát không dấu hiệu nổi bật, vị ấy
là Bậc Giải Thoát bằng Tín.
(2) Khi vị ấy
chú tâm suy xét khổ não, giải thoát không ước nguyện nổi
bật lên trong vị ấy. Với giải thoát không ước nguyện nổi bật, vị
ấy là Bậc Thân Chứng.
(3) Khi vị ấy
chú tâm suy xét không phải là ngã, giải thoát tánh không
nổi bật lên trong vị ấy. Với giải thoát tánh không nổi bật, vị ấy
là Bậc Tuệ Kiến.
73
*.
[Vào sát na chứng quả của đạo lộ thứ nhất] vị ấy đã được giải thoát nhờ
có đức tin (saddhahanto vimutto), như vậy, người ấy là bậc được
Giải Thoát bằng Tín (Saddhā-vimutto); vị ấy đã thực chứng
[nibbana] bằng cách xúc chạm (tiếp xúc), như vậy, vị ấy là bậc Thân
Chứng; vị ấy đã chứng [nibbana] bằng Tuệ Kiến, như vậy, vị ấy là bậc Tuệ
Kiến.
[7]
[Vào sát na
chứng quả vị của ba đạo lộ còn lại] vị ấy đã được giải thoát nhờ có đức
tin (saddhahanto vimuccatti), như vậy vị ấy là bậc Giải Thoát
bằng Tín; vị ấy lần đầu xúc chạm (tiếp xúc) cõi jhana và sau đó thực
chứng đoạn diệt, nibbana, như vậy, vị ấy là bậc Thân Chứng; vì đã biết
rõ, thấy rõ, nhận chân, thực chứng, và tiếp xúc (thể nghiệm) bằng tuệ
giác rằng hành vi tạo quả là khổ và đoạn diệt là lạc, như vậy, vị
ấy là bậc Tuệ Kiến.
* Đoạn này, thay vì mang số 73, POD ghi là 74. Tôi đã kiểm với bản
Pāḷi và biết rằng POD không bỏ xót đoạn 73. Chỉ ghi số sai, tôi đã
sửa thành đ. 73. Vì ảnh hưởng giây chuyền cho đến hết Luận này, nên các
đoạn kế tiếp cũng đã được sửa thành đđ 74-102 thay vì đđ 75-103 như đã
ghi trong POD.
74. Tất cả
những ai đã tu tập, đang tu tập, sẽ tu tập,... [và cứ thế như ở đ.
64]... sẽ hoàn toàn tự tin, xuất ly, là những bậc được Giải Thoát
bằng Tín dưới tác dụng của giải thoát không dấu hiệu, là những
bậc Thân Chứng dưới tác dụng của giải thoát không ước nguyện, là
những bậc Tuệ Kiến dưới tác dụng của giải thoát tánh không.
[8]
Tất cả những
ai... không sân hận...
... [và cứ thế
như ở đ. 64 cho đến]...
Tất cả những
ai hoàn toàn hiểu rõ khổ đau, người từ bỏ nguốn gốc của khổ đau, người
thực chứng diệt tận, người tu tập đạo lộ, là những người được Giải Thoát
bằng Tín qua tác dụng của giải thoát không dấu hiệu, là những bậc
Thân Chứng dưới tác dụng của giải thoát không ước nguyện, là
những bậc Tuệ Kiến dưới tác dụng của giải thoát tánh không.
75. Có sự hiểu
rõ tứ Đế theo bao nhiêu khía cạnh? Vị ấy hiểu rõ tứ Đế theo bao nhiêu
khía cạnh?[9]
Có sự hiểu rõ
tứ Đế theo bốn khía cạnh. Vị ấy hiểu rõ tứ Đế theo bốn khía cạnh.
Vị ấy hiểu rõ
sự thật về khổ ... [và cứ thế như ở đ. 65 cho đến] [62]... Có sự hiểu rõ
bốn Sự Thực theo bốn khía cạnh này.
Người hiểu rõ
tứ Đế theo bốn khía cạnh này là bậc được Giải Thoát bằng Tín dưới tác
dụng của giải thoát không dấu hiệu, là bậc Thân Chứng dưới tác
dụng của giải thoát không ước nguyện, là bậc Tuệ Kiến dưới tác
dụng của giải thoát tánh không.
76. Có sự hiểu
rõ tứ Đế theo bao nhiêu khía cạnh? Vị ấy hiểu rõ tứ Đế theo bao nhiêu
khía cạnh?
Có sự hiểu rõ
tứ Đế theo chín khía cạnh. Vị ấy hiểu rõ tứ Đế theo chín khía cạnh.
Vị ấy hiểu rõ
sự thật về khổ... [và cứ thế như ở đđ 66 cho đến]... thấu hiểu bốn đạo
lộ bằng cách tu tập, có sự thấu hiểu diệt tận bằng thực chứng.
Người hiểu rõ
tứ Đế theo chín khía cạnh này là bậc được Giải Thoát bằng Tín dưới tác
dụng của giải thoát không dấu hiệu, là bậc Thân Chứng dưới tác
dụng của giải thoát không ước nguyện, là bậc Tuệ Kiến dưới tác
dụng của giải thoát tánh không.
77. Khi chú
tâm suy xét vô thường, vị ấy biết và thấy đúng như thực điều gì?
Có sự thấy đúng như thế nào? Do suy luận từ đó, tất cả các hành vi tạo
nghiệp được thấy rõ là vô thường như thế nào? Nghi ngờ bị từ bỏ ở đâu?
Khi chú tâm
suy xét khổ não, vị ấy biết và thấy đúng như thực điều gì? Có sự
thấy đúng như thế nào? Do suy luận từ đó, tất cả các hành vi tạo nghiệp
được thấy rõ là khổ não như thế nào? Nghi ngờ bị từ bỏ ở đâu?
Khi chú tâm
suy xét không phải là ngã, vị ấy biết và thấy đúng như thực điều
gì? Có sự thấy đúng như thế nào? Do suy luận từ đó, tất cả các hiện
tượng
[10]
được thấy rõ là không phải là ngã như thế nào? Nghi ngờ bị từ bỏ ở đâu?
Khi chú tâm
suy xét vô thường, vị ấy biết và thấy đúng như thực điều kiện
để còn sanh tử.*
Vì vậy mới nói ‘thấy đúng’. Như vậy, từ đó suy luận, tất cả các
hành vi tạo nghiệp được thấy rõ là vô thường. Nghi ngờ bị từ bỏ ở đây.
*
Đọc chú thích của dịch giả ở Luận I đ. 18. Đến đây người đọc hiểu tại
sao Ngài Nyāṇatiloka đề nghị dịch chữ nimitta (nđ: dấu hiệu của
hành vi tạo nghiệp) là điều kiện để còn sanh tử.
Khi chú tâm
suy xét khổ não, vị ấy biết và thấy đúng như thực sự tiếp tục
tái diễn hiện hữu. Vì vậy mới nói ‘thấy đúng’. Như vậy, từ đó
[63] suy luận, tất cả các hành vi tạo nghiệp được thấy rõ là khổ não.
Nghi ngờ bị từ bỏ ở đây.
Khi chú tâm
suy xét không phải là ngã, vị ấy biết và thấy đúng như thực
điều kiện để còn sanh tử và sự tiếp tục tái diễn hiện hữu.
Vì vậy mới nói ‘thấy đúng’. Như vậy, từ đó suy luận, tất cả các
hiện tượng10 được thấy rõ là không phải là ngã. Nghi ngờ bị
từ bỏ ở đây.
78. Trí Biết
Đúng Như Thật, Thấy Đúng và Vượt Qua Nghi Hoặc - ba ý niệm này khác nhau
ở nghĩa và ở tên gọi hay cả ba đồng nghĩa, chỉ khác nhau ở tên gọi?
Trí Biết Đúng
Như Thật, Thấy Đúng và Vượt Qua Nghi Hoặc - ba ý niệm này đồng nghĩa,
chỉ khác nhau ở tên gọi.
79. Khi chú
tâm suy xét vô thường, cái gì hãi hùng xuất hiện trước vị ấy? Khi
chú tâm suy xét khổ não, cái gì hãi hùng xuất hiện trước vị ấy?
Khi chú tâm suy xét không phải là ngã, cái gì hãi hùng xuất hiện
trước vị ấy?
Khi chú tâm
suy xét vô thường, điều kiện để còn sanh tử là cái gì hãi
hùng xuất hiện trước vị ấy. Khi chú tâm suy xét khổ não, sự
tiếp tục tái diễn hiện hữu là cái gì hãi hùng xuất hiện trước vị ấy.
Khi chú tâm suy xét không phải là ngã, điều kiện để còn sanh
tử và sự tiếp tục tái diễn hiện hữu là cái gì hãi hùng
xuất hiện trước vị ấy.
80. Tuệ biết
về sự Xuất Hiện Hãi Hùng, Trí về Hiểm Nguy, Nhàm Chán - các ý niệm này
khác nhau ở nghĩa và ở tên gọi hay cả ba đồng nghĩa, chỉ khác nhau ở tên
gọi?
Tuệ biết về sự
Xuất Hiện Hãi Hùng, Trí về Hiểm Nguy, Nhàm Chán - các ý niệm này đồng
nghĩa, chỉ khác nhau ở tên gọi.
81. Quán
Không phải là ngã và Quán về Tánh Không - các ý niệm này khác
nhau ở nghĩa và ở tên gọi hay cả hai đồng nghĩa, chỉ khác nhau ở tên
gọi?
Quán Không
phải là ngã và Quán về Tánh Không - các ý niệm này đồng
nghĩa, chỉ khác nhau ở tên gọi.
82. Khi chú
tâm suy xét vô thường, sau khi tư duy về điều gì thì có trí khởi
lên trong vị ấy? Khi chú tâm suy xét khổ não, sau khi tư duy về
điều gì thì có trí khởi lên trong vị ấy? Khi chú tâm suy xét không
phải là ngã, sau khi tư duy về điều gì thì có trí khởi lên trong vị
ấy?
Khi chú tâm
suy xét vô thường, sau khi tư duy về điều kiện để còn sanh tử
thì có trí khởi lên trong vị ấy. Khi chú tâm suy xét [64] khổ não,
sau khi tư duy về sự tiếp tục tái diễn hiện hữu thì có trí khởi
lên trong vị ấy. Khi chú tâm suy xét không phải là ngã, sau khi
tư duy về điều kiện để còn sanh tử và sự tiếp tục tái
diễn hiện hữu thì có trí khởi lên trong vị ấy.
83. Ước Muốn
Được Giải Thoát, Quán Tư Duy và Thản Nhiên trước Hành Vi Tạo Quả - các ý
niệm này khác nhau ở nghĩa và ở tên gọi hay cả hai đồng nghĩa, chỉ khác
nhau ở tên gọi?
Ước Muốn Được
Giải Thoát, Quán Tư Duy và Thản Nhiên trước Hành Vi Tạo Quả - các ý niệm
này đồng nghĩa, chỉ khác nhau ở tên gọi.
84. Khi chú
tâm suy xét vô thường, tâm của vị ấy ngoi lên từ cái gì? Tâm của
vị ấy thâm nhập vào đâu?
Khi chú tâm
suy xét khổ não, tâm của vị ấy ngoi lên từ cái gì? Tâm của vị ấy
thâm nhập vào đâu?
Khi chú tâm
suy xét không phải là ngã, tâm của vị ấy ngoi lên từ cái gì? Tâm
của vị ấy thâm nhập vào đâu?
Khi chú tâm
suy xét vô thường, tâm của vị ấy ngoi lên từ điều kiện để còn
sanh tử. Tâm của vị ấy thâm nhập vào trạng thái không có
điều kiện để còn sanh tử.
Khi chú tâm
suy xét khổ não, tâm của vị ấy ngoi lên từ sự tiếp tục tái
diễn hiện hữu. Tâm của vị ấy thâm nhập vào không tiếp tục tái
diễn hiện hữu.
Khi chú tâm
suy xét không phải là ngã, tâm của vị ấy ngoi lên từ điều kiện
để còn sanh tử và sự tiếp tục tái diễn hiện hữu. Tâm
của vị ấy thâm nhập vào không có điều kiện để còn sanh tử, vào
không tiếp tục tái diễn hiện hữu, vào nibbana dưới hình thức đoạn
diệt.
85. Tuệ Xuất
Khởi và Quay Đi từ Bên Ngoài, Trí Chuyển Tánh - các ý niệm này khác nhau
ở nghĩa và ở tên gọi hay cả hai đồng nghĩa, chỉ khác nhau ở tên gọi?
Tuệ Xuất Khởi
và Quay Đi từ Bên Ngoài, Trí Chuyển Tánh - các ý niệm này đồng nghĩa,
chỉ khác nhau ở tên gọi.
86. Khi chú
tâm suy xét vô thường, vị ấy được giải thoát bằng giải thoát nào? Khi
chú tâm suy xét khổ não, vị ấy được giải thoát bằng giải thoát nào? Khi
chú tâm suy xét không phải là ngã, vị ấy được giải thoát bằng giải thoát
nào?
Khi chú tâm
suy xét vô thường, vị ấy được giải thoát bằng giải thoát không có
điều kiện để còn sanh tử. Khi chú tâm suy xét khổ não, vị ấy được
giải thoát bằng giải thoát không ước nguyện. Khi chú tâm suy xét
không phải là ngã, vị ấy được giải thoát bằng giải thoát chân không.
87. Tuệ Xuất
Khởi và Quay Đi từ Cả Hai, Trí Đạo Lộ - các ý niệm này khác nhau ở nghĩa
và ở tên gọi hay cả hai đồng nghĩa, chỉ khác nhau ở tên gọi?
Tuệ Xuất Khởi
và Quay Đi từ Cả Hai, Trí Đạo Lộ - các ý niệm này đồng nghĩa, chỉ khác
nhau ở tên gọi.
88. Ba giải
thoát ấy trong những sát na khác nhau theo bao nhiêu khía cạnh? Ba giải
thoát ấy trong một sát na theo bao nhiêu khía cạnh?
Ba giải thoát
ấy trong những sát na khác nhau theo bốn khía cạnh. Ba giải thoát ấy
trong một sát na theo bẩy khía cạnh.
89. Ba giải
thoát ấy trong những sát na khác nhau theo bốn khía cạnh nào?
Theo nghĩa có
ưu thế, theo nghĩa giữ vững, theo nghĩa hướng dẫn, theo nghĩa lối thoát.
Ba giải thoát
trong những sát na khác nhau theo nghĩa có ưu thế như thế nào?
Khi vị ấy chú
tâm suy xét vô thường, sự giải thoát không có điều kiện để còn sanh
tử có ưu thế; khi vị ấy chú tâm suy xét khổ não, sự giải thoát
không ước nguyện có ưu thế; khi vị ấy chú tâm suy xét không phải
là ngã, sự giải thoát chân không có ưu thế. Ba giải thoát ấy
vào những sát na khác nhau theo nghĩa có ưu thế là như thế.
Ba giải thoát
ấy trong những sát na khác nhau theo nghĩa giữ vững như thế nào?
Khi chú tâm
suy xét vô thường, vị ấy giữ vững tâm dưới ảnh hưởng của giải thoát
không có điều kiện để còn sanh tử. Khi chú tâm suy xét khổ não, vị
ấy giữ vững tâm dưới ảnh hưởng của giải thoát không ước nguyện .
Khi chú tâm suy xét không phải là ngã, vị ấy giữ vững tâm dưới
ảnh hưởng của giải thoát chân không. Ba giải thoát ấy trong những
sát na khác nhau theo nghĩa có vững vàng là như thế.
Ba giải thoát
ấy trong những sát na khác nhau theo nghĩa hướng dẫn như thế nào?
Khi chú tâm
suy xét vô thường, vị ấy hướng dẫn tâm dưới ảnh hưởng của giải thoát
không có điều kiện để còn sanh tử. Khi chú tâm suy xét khổ não, vị
ấy hướng dẫn tâm dưới ảnh hưởng của giải thoát không ước nguyện.
Khi chú tâm suy xét không phải là ngã, vị ấy hướng dẫn tâm dưới ảnh
hưởng của giải thoát chân không. Ba giải thoát ấy trong
những sát na khác nhau theo nghĩa có hướng dẫn là như thế.
Ba giải thoát
ấy trong những sát na khác nhau theo nghĩa lối thoát như thế nào?
Khi chú tâm
suy xét vô thường, [66] vị ấy được đưa tới đoạn diệt, nibbana, dưới ảnh
hưởng của giải thoát không có điều kiện để còn sanh tử. Khi chú
tâm suy xét khổ não, vị ấy được đưa tới đoạn diệt, nibbana, dưới ảnh
hưởng của giải thoát không ước nguyện. Khi chú tâm suy xét không
phải là ngã, vị ấy được đưa tới đoạn diệt, nibbana, dưới ảnh hưởng của
giải thoát chân không. Ba giải thoát ấy trong những sát na khác
nhau theo nghĩa có lối thoát là như thế.
Ba giải thoát
ấy trong những sát na khác nhau theo bốn khía cạnh này.
90. Ba giải
thoát ấy trong một sát na theo bẩy khía cạnh nào?
Theo nghĩa
tổng hợp, theo nghĩa chứng đắc, theo nghĩa thu đạt, theo nghĩa hiểu rõ,
theo nghĩa thực chứng, theo nghĩa thể nghiệm, theo nghĩa chứng ngộ đồng
thời.
Các giải thoát
ấy trong một sát na theo nghĩa tổng hợp, ... theo nghĩa chứng ngộ đồng
thời là thế nào?
Khi chú tâm
suy xét vô thường, vị ấy được giải thoát khỏi điều kiện để còn sanh
tử, như vậy là có giải thoát không có điều kiện để còn sanh tử.
Vị ấy không còn mơ ước gì về cái từ đó vị ấy được giải thoát. Như vậy là
có giải thoát không ước nguyện. Vị ấy không có cái vị ấy không mơ
ước, như vậy là có giải thoát chân không. Vị ấy không có dấu hiệu
của cái vị ấy không có, như vậy là có giải thoát không có điều kiện
để còn sanh tử .
Ba giải thoát
ấy trong một sát na theo nghĩa tổng hợp, ... theo nghĩa chứng ngộ đồng
thời là như thế.
Khi chú tâm
suy xét khổ não, vị ấy được giải thoát khỏi ước nguyện, như vậy
là có giải thoát không ước nguyện. Vị ấy không có cái vị ấy không
mơ ước, như vậy là có giải thoát chân không. Vị ấy không có dấu
hiệu của cái vị ấy không có, như vậy là có giải thoát không có điều
kiện để còn sanh tử. Vị ấy không còn mong ước gì về dấu hiệu
của cái vị ấy không có dấu hiệu, như vậy là có giải thoát không ước
nguyện.
Ba giải thoát
ấy trong một sát na theo nghĩa tổng hợp, ... theo nghĩa chứng ngộ đồng
thời là như thế. [67]
Khi chú tâm
suy xét không phải là ngã, vị ấy được giải thoát khỏi diễn giải sai lạc,
như vậy là có giải thoát chân không. Vị ấy không có dấu hiệu của
cái vị ấy không có, như vậy là có giải thoát không có điều kiện để
còn sanh tử . Vị ấy không còn mong ước gì về dấu hiệu của cái
vị ấy không có, như vậy là có giải thoát không ước nguyện. Vị ấy
không có cái vị ấy không có mơ ước, như vậy là có giải thoát chân
không.
Ba giải thoát
ấy trong một sát na theo nghĩa tổng hợp, ... theo nghĩa chứng ngộ đồng
thời là như thế.
Ba giải thoát
ấy trong một sát na theo bẩy khía cạnh này.
91. Có giải
thoát, có lối dẫn đến, có lối dẫn đến giải thoát, có cái đối nghịch với
giải thoát, có cái tương thuận với giải thoát, có sự quay đi là giải
thoát, có sự tu tập giải thoát, có sự an tịnh của giải thoát.
92. Giải
thoát là gì? Giải thoát chân không, giải thoát không dấu
hiệu, giải thoát không ước nguyện.
93. Giải thoát
chân không là gì?
Trí quán vô
thường là giải thoát chân không vì nó thoát khỏi diễn giải sai
lạc*
là trường tồn. Trí quán khổ não là giải thoát chân không
vì nó thoát khỏi diễn giải sai lạc*
là vui sướng. Trí quán không phải là ngã là giải thoát chân
không vì nó thoát khỏi diễn giải sai lạc*
là ngã. Trí quán nhàm chán là giải thoát chân không vì nó
thoát khỏi diễn giải sai lạc*
là thích thú. Trí quán hết ham muốn là giải thoát chân không
vì nó thoát khỏi diễn giải sai lạc là ham muốn. Trí quán diệt tận là
giải thoát chân không vì nó thoát khỏi diễn giải sai lạc là nguồn
sanh khởi.
*
Ở Vism. XXI 73,
Ñāṇamoli
đã thêm [các hành vi tạo
quả]’ sau diễn giải sai lạc: Trí quán vô thường là giải thoát chân
không vì nó thoát khỏi việc diễn giải sai lạc [các hành vi tạo quả]
là trường tồn...
Trí quán buông
bỏ là giải thoát chân không vì nó thoát khỏi diễn giải sai lạc là
nắm giữ. Trí quán không dấu hiệu là giải thoát chân không vì nó
thoát khỏi diễn giải sai lạc là dấu hiệu. Trí quán không ước nguyện là
giải thoát chân không vì nó thoát khỏi diễn giải sai lạc là ước
nguyện. Trí quán tánh không là giải thoát chân không vì nó thoát
khỏi tất cả các diễn giải sai lạc.
Trí quán vô
thường trong sắc thể là giải thoát chân không vì nó thoát khỏi
diễn giải sai lạc là trường tồn... [và cứ thế với mười quán tưởng về mỗi
ý niệm của 201 ý niệm liệt kê ở Luận I đ. 5 cho đến]... Trí quán tánh
không trong già và chết là giải thoát chân không vì nó thoát khỏi
tất cả các diễn giải sai lạc.
Đây là giải
thoát chân không.
94. Giải thoát
không dấu hiệu là gì?
Trí quán vô
thường là giải thoát không dấu hiệu vì nó thoát khỏi biểu tượng*
là trường tồn. [và cứ thế như ở đ. 93 thay diễn giải sai lạc bằng
dấu hiệu cho tới]... Trí quán không dấu hiệu là giải thoát
không dấu hiệu vì nó thoát khỏi tất cả các dấu hiệu. Trí quán
không ước nguyện là giải thoát không dấu hiệu vì nó thoát
khỏi dấu hiệu kể như là ước nguyện. Trí quán tánh không là giải thoát
không dấu hiệu vì nó thoát khỏi dấu hiệu là diễn giải
sai lạc.
Trí quán vô
thường trong sắc thể là giải thoát không dấu hiệu vì
nó thoát khỏi diễn giải sai lạc là trường tồn... [và cứ thế với mười
quán tưởng về mỗi ý niệm của 201 ý niệm liệt kê ở Luận I đ. 5 cho
đến]... Trí quán tánh không trong già và chết là giải thoát không
dấu hiệu vì nó thoát khỏi tất cả các diễn giải sai lạc.
Đây là giải
thoát không dấu hiệu.
95. Giải thoát
không ước nguyện là gì?
Trí quán vô
thường là giải thoát không ước nguyện vì nó thoát khỏi ước
nguyện *
là trường tồn. [và cứ thế như ở đ. 93 thay diễn giải sai lạc bằng
ước nguyện cho tới]... [69] Trí quán không dấu hiệu là giải thoát
không ước nguyện vì nó thoát khỏi ước nguyện
[11]
là biểu tượng. Trí quán không ước nguyện là giải thoát không
ước nguyện vì nó thoát khỏi tất cả các ước nguyện. Trí quán tánh
không là giải thoát không ước nguyện vì nó thoát khỏi
ước nguyện là diễn giải sai lạc.
Trí quán vô
thường trong sắc thể là giải thoát không ước nguyện vì nó
thoát khỏi ước nguyện là trường tồn... [và cứ thế với mười quán
tưởng về mỗi ý niệm của 201 ý niệm liệt kê ở Luận I đ. 5 cho đến]... Trí
quán tánh không trong già và chết là giải thoát không ước
nguyện vì nó thoát khỏi ước nguyện là diễn giải sai lạc.
Đây là giải
thoát không ước nguyện.
[12]
Đây là giải
thoát.
96. Lối dẫn
đến là gì?
Các trạng thái
thiện, không lỗi góp phần vào giác ngộ và được phát sanh tại đó - đây là
lối dẫn đến.
97. Lối dẫn
đến giải thoát là gì?
Cái gì mà các
trạng thái trên lấy làm đối tượng, đó là đoạn diệt, nibbana - đây là lối
dẫn đến giải thoát.
98. Cái đối
nghịch với giải thoát là gì?
Ba nguồn gốc
bất thiện đối nghịch với giải thoát, ba loại nết hạnh xấu xa đối nghịch
với giải thoát, tất cả các trạng thái bất thiện đối nghịch với giải
thoát. Đây là cái đối nghịch với giải thoát. [70]
99. Cái
tương thuận với giải thoát là gì?
Ba nguồn gốc
thiện tương thuận với giải thoát, ba loại nết hạnh tương thuận với giải
thoát, tất cả các trạng thái thiện tương thuận với giải thoát. Đây là
cái tương thuận với giải thoát.
100. Sự
quay đi là giải thoát là gì?
Quay đi của
nhận thức, quay đi của ý, quay đi của tâm, quay đi của trí, quay đi là
giải thoát, quay đi trong các sự thực.
Người nào nhận
biết người ấy quay đi, ... [và cứ thế, lập lại Luận I đ. 522 cho đến
hết].
Đây là quay đi
là giải thoát.
101. Trau
giồi, tu tập và làm phong phú sơ thiền. Trau giồi, tu tập và làm phong
phú nhị thiền... tam thiền... tứ thiền... chứng đạt cõi không gian vô
biên... chứng đạt cõi thức vô biên... chứng đạt cõi không có gì... chứng
đạt cõi không có nhận thức cũng không phải không có nhận thức... đạo lộ
nhập giòng... đạo lộ trở lại một lần... đạo lộ không trở lại. Trau giồi,
tu tập và làm phong phú đạo lộ arahant. [71] Đây là sự tu tập giải
thoát.
102. Sự an
tịnh như là giải thoát là gì?
Thành đạt hay
kết quả của sơ thiền. Thành đạt hay kết quả của nhị thiền... tam
thiền... tứ thiền... chứng đạt cõi không gian vô biên... chứng đạt cõi
thức vô biên... chứng đạt cõi không có gì... chứng đạt cõi không có nhận
thức cũng không phải không có nhận thức. Quả nhập giòng của đạo lộ nhập
giòng. Quả trở lại một lần của đạo lộ trở lại một lần. Quả không trở lại
của đạo lộ không trở lại. Quả arahant của đạo lộ arahant.
Đây là an tịnh
như là giải thoát.
CHẤM DỨT PHẦN THUẬT KỂ THỨ
BA.
CHẤM DỨT LUẬN THUYẾT VỀ GIẢI
THOÁT
[1]
‘Svāvatthikam avatthāpeti - phân biệt kỹ lưỡng’: avatthika
và avatthāpeti không có trong Tự điển của PTS; nhưng hãy
đọc vavatthapeti.
[2]
Ở đây, bản của PTS, quyển ii, trang 47, 1.21 có chữ kāmūpādānā
là sai.
[3]
Các điều kiện cùng hiện hữu (sahajāta-paccaya)... hiểu theo bộ
Paṭṭhāna.
[4]
Quyển Visuddhimagga (PTS ed. trang 660), trích đoạn này, đọc như sau:
‘phuṭṭhantaṁ sacchikato ti kāyasakkhī diṭṭhattā patto ti
diṭṭhippatto’ được Paramatthamañjūsā chấp nhận, nhưng quyển
Saddhammappakāsinī tán thành câu ‘phuṭṭhattā sacchikato ti
kāyasakkhī diṭṭhattā patto ti diṭṭhippatto’ và đã bình giải tương
xứng.
Quyển
Paramatthamañjūsā nói: ‘Phuṭṭhantaṁ sacchikato’ ti phuṭṭhānaṁ
anantaraṁ phuṭṭhanto; phuṭṭhānaṁ arūpajjhānānaṁ anantaro kālo ti
adhippāyo. Accantasaṁyogo c’etaṁ vacanaṁ. Phuṭṭhānanatarakālaṁ eva
sacchikaraṇūpāyena sacchikātabbaṁ sacchākāsī ti vuttaṁ hoti.
Bhāvanapuṁsakaṁ va etaṁ, yathā ‘ekam antan’ ti. Yo hi arūpajihānena
rūpakāyato nāmakāyekadesato ca vikkhambhanavimokkhena vimutto, tena
nirodhasankhāto vimokkho ālocito pakāsito viya hoti. Tasmā so
sacchikā-tabbaṁ yathā ālocitaṁ nāmakāyena sacchākāsi ti kāyasakkhī ti
vuccati, na tu vimutto ekaccānaṁ āsavānaṁ aparikkhīṇattā. ‘Diṭṭhantaṁ
patto’ ti dassana-sankhātassa sotāpattimaggañāṇakiccassa anantaraṁ
patto ti vuttaṁ hoti; paṭhamaphalato paṭṭhāya hi yāva aggamaggā
diṭṭhippatto ti. Diṭṭhitāppatto ti vā pāṭho:
Catusaccadassanasankhātāya diṭṭhiyā nirodhaṁ patto ti attho.’ (Phuṭṭhantaṁ
sacchikato: kết quả của trạng thái đã được thể nghiệm (phuṭṭh-anto)
là trạng thái kế tiếp xảy ra (anantaraṁ) sau trạng thái đã được
thể nghiệm (kinh nghiệm); điều ngụ ý ở đây là thời gian (kāla)
kế tiếp các cõi thiền vô sắc. Về mặt văn phạm, thuật ngữ này là một
accanta saṁyoga (trạng từ diễn đạt ý nghĩa tiếp liền theo đó).
Điều muốn nói là vị ấy đã thực chứng phút giây kế ngay trạng thái đã
được thể nghiệm, vốn là thời gian phải được thực chứng bằng những
phương tiện đưa đến thực chứng ấy. Nếu không, về mặt văn phạm đây là
danh từ trừu tượng trung tính như ‘ekam antaṁ (ở một bên)’. Vì
người được giải thoát từ thân vật thể
«hay:
tập hợp sắc thể»
nhờ cõi vô sắc và từ một phần của thân tâm thức
«hay:
4 tập hợp tâm»
nhờ sự giải thoát dưới hình thức đè nén thôi như vậy, ở một mức độ nào
đó, đã đặt vào (ālocita), đã chỉ định, loại giải thoát gọi là
diệt tận, nhưng chưa thể nghiệm nó bằng thân. Như vì lấy diệt tận làm
đối tượng, một số nhiễm lậu nào đó sẽ bị tận diệt (khepita), vị
ấy thực chứng sự diệt tận đó. Đó là lý do tại sao vị ấy được gọi là
bậc thân chứng vì vị ấy đã thực chứng điều cần phải thực chứng bằng
thân tâm thức; như thể sự thực chứng ấy đã được đặt định; vị ấy chưa
hoàn toàn giải thoát vì một số nhiễm lậu chưa bị hoàn toàn hủy diệt. ‘Diṭṭhantaṁ
patto’: điều muốn nói ở đây là vị ấy đã thực chứng cái kế cận (anantaraṁ)
với chức năng của trí đạo nhập giòng, cái chức năng được gọi là ‘thấy
rõ’; vì từ quả vị nhập giòng cho đến đạo lộ cao nhất vị ấy được gọi là
bậc Tuệ Kiến (diṭṭhippatto). Một lối viết khác nữa là
diṭṭhitāpatto; nghĩa là vị ấy đã chứng đạt diệt tận nhờ chánh kiến
được gọi là ‘thấy rõ bốn sự thực’ - VismA 851 Be 1910).
Quyển
Saddhammappakāsinī nói: ‘Phuṭṭhattā sacchikato ti kāyasakkhī ti
sukkhavipassekatte sati upacārajjhānaphassassa rūparūpajjhānalābhitte
sati rūparūpajjhānaphassassa phuṭṭhattā nibbānaṁ sacchikato ti
kāyasakkhī ti nāma. Kāyena vuttappakāre jhānaphasse ca nibbāna ca
sakkhī ti vuttaṁ hoti. ‘Diṭṭhippatto’ ti diṭṭhattā patto ti
sotāpattimaggakkhaṇe sampayuttena paññindriyena nibbānassa diṭṭhattā
paccha sotāpattiphalādivasena nibbānaṁ patto ti diṭṭhippatto.
Paññindriyasankhātāya diṭṭhiyā nibbānaṁ patto ti vuttaṁ hoti’. (‘Phuṭṭhattā
sacchikato ti kāyasakkhī: được gọi là ‘bậc thân chứng vì vị ấy đã
thực chứng nibbana vì tiếp xúc (thể nghiệm) với cận thiền (access
jhana) trong trường hợp người chỉ quán thực tánh (sukkha vipassaka:
bare/dry insight worker) đọc chú thích ở Luận V đ. 26; đọc Vism XXI đ.
112 và XXIII đ. 18), hay vì tiếp xúc (thể nghiệm) với jhana sắc thể
hay vô sắc thể trong trường hợp người chứng đạt jhana sắc thể hay vô
sắc thể, sau khi đã được tiếp xúc (được thể nghiệm-phuṭṭhattā);
ở đây ngụ ý vị ấy thực chứng bằng thân trong cả hai trường hợp tiếp
xúc với jhana (thể nghiệm) và nibbana:’Diṭṭhippatto’: vị
ấy đã chứng đạt vì nó đã được thấy rõ. Vì nibbana sau khi đã được thấy
rõ nhờ năng lực gây ảnh hưởng của tuệ được kết hợp vào khoảnh khắc đạo
lộ nhập giòng, vị ấy sau đó chứng nibbana nhờ quả nhập giòng, như thế
vị ấy đã chứng vì tuệ kiến (chứ không phải đạt tới tuệ
kiến); ở đây ngụ ý vị ấy chứng nghiệm nibbana nhờ tuệ kiến gọi là năng
lực gây ảnh hưởng của tuệ- PsA 396).
[5]
Bản của PTS viết là phassitā vā phassanti vā phassissanti vā
(đã thể nghiệm...) nhưng bản của Miến Điện ghi passitā vā...
(đã thấy rõ...).
[6]
Cf. đđ 55f. của Luận Thuyết V này.
[10]
Bản của PTS viết sabbe sankhārā anattato, nhưng bản của Miến
Điện ghi sabbe dhammā anattato (đọc Luận I đ. 220 và Dh 279).
Đọc Như Nhiên, Giải Thoát Bằng Năm Tập Hợp, trang 115, có giải
thích tại sao chữ dhammā được dùng thay cho chữ sankhārā.
[11]
Nên đọc là... nimittato paṇidhiyā muccatī ti... ở quyển II của
PTS, trang 60, 1. 6
[12]
Thiếu câu Ayaṁ appaṇihito vimokkho trong quyển của PTS.
-ooOoo-