III- LUẬN VỀ QUÁN HƠI THỞ
GHI CHÚ DẪN NHẬP
Ba phần đầu (từ i
đến iii) thực ra đã tự rõ nghĩa. Phần i nói đến trạng thái
chung của tâm hiển nhiên gây trở ngại cho định, đến các trạng thái giúp
cho luyện định, và đến các khía cạnh khác nhau của chúng.
Phần ii
đề cập tới những đáp ứng sai lầm tạm thời của tâm khi tập quán hơi thở
làm đình trệ tu tập.
Phần iii
chỉ cách tránh những lầm lỗi nhỏ này và phân tích tỉ mỉ tiến trình chứng
đạt sự nhập định hoàn toàn. Nó kết thúc bằng một bài kệ ca ngợi người
chứng quả vị Arahant qua cách hành trì này. Sau bài kệ ấy là phần chú
giải nói tới nibbana - cứu cánh của toàn thể phần thực hành - tới phẩm
hạnh của đức Phật - tới niềm tin vào trí tuệ toàn giác của Ngài cung cấp
động lực để tăng tiến cho đến khi đạt được thể nghiệm bằng thực chứng cá
nhân và cho đến khi nhu cầu về niềm tin được bỏ đi.
Ba phần này tạo thành một loại
khảo sát và giới thiệu tổng quát trước phần phân tích tỉ mỉ cách hành
trì thực sự, như đã nói khái quát trong các Kinh, được tiến hành ở
Phần iv. Các phần này dựa trên Nhóm B, và tạo thành thí dụ được
triển khai nhiều nhất của phần đó.
Phần iv
- là phần chính của Luận thuyết này - thoạt tiên trông rắc rối nhưng đến
khi xem xét toàn thể Luận thuyết thì thấy có hệ thống và khắng khít
trong tất cả chi tiết và trong những đoạn trùng lắp. Để nhận chân trọn
vẹn giá trị phần này, trước hết cần phải nhớ rằng quán hơi thở là một
trong những phương pháp tu tập bốn Nền Tảng của Quán Niệm nói ở các Kinh
(D kinh số 22, M kinh số 10), nhớ rằng sự tu tập này ở dưới hình thức
không ngừng thực tập quán niệm và hiểu biết rõ ràng tường tận được điều
hướng đúng đắn. Lại nữa, như đã trình bầy, các ‘cặp bốn’ nói đến người
đang thực hành quán niệm ngay bây giờ (như: ‘Vị ấy biết ‘Tôi thở
vào hơi dài’...) và người đang thực tập cho thành tựu định lực, tuệ
giác, đạo lộ trong tương lai, nhưng chưa đạt được (Vị ấy tập như
vầy: ‘Kinh nghiệm toàn thân [hơi thở] tôi sẽ thở vào...). Cuối
cùng, trình tự ‘định, tuệ, chứng đạo lộ’ được theo đúng sát sao và như
thế cung ứng sự nhất quán về cấu trúc đến toàn thể phần này.
Có ghi nhớ những nét đại cương
ấy thì phương án sau trở nên rõ ràng.
Trong hai Nền Tảng đầu đề cập
tới trí hiểu biết ở giây phút hiện tại, chúng ta có:
a)
phân tích cách nhận biết về đối tượng thiền
quán (‘thở vào hơi dài’...) (đđ 194-195);
b)
chỉ cho thấy rằng sự quán tưởng này cũng
chính là phần thực hành Nền Tảng Quán Niệm thứ nhất, đó là ‘Quán Thân’
(đđ 196-198);
c)
chỉ cho thấy rằng, sau khi đạt được định,
quán niệm và hiểu biết rõ ràng tường tận được thực hành cùng một lúc khi
áp dụng tuệ giác (đđ 199-202);
d)
phần kết luận liệt kê các trạng thái hiện
hữu trong khi quán tưởng như thế ở các tầng nhập định kế tiếp nhau (đđ
203-125). Đoạn này rút ra từ Luận Thuyết I đđ 41-43.
Với mười bốn Nền Tảng còn lại
đề cập tới tương lai, phương án quy mô thiết lập nền tảng của định sau
đây được áp dụng khắp luận này:
i.
phân tích cách nhận biết đối tượng của định
(‘Vị ấy tập như vầy ‘Kinh nghiệm toàn thân [hơi thở], tôi sẽ thở
vào’...); sự phân tích này tương ứng với (a) ở trên, nhưng khác đi nhiều
về chi tiết và nội dung;
ii.
chỉ cho thấy nền tảng nào trong bốn Nền
Tảng Quán Niệm đang được thực tập; giống như (b) ở trên;
iii.
phân tích và nói rõ ‘tập’ có nghĩa là gì;
iv.
chỉ cho thấy rằng quán niệm và hiểu biết rõ
ràng tường tận được áp dụng như thế nào; giống như (c) ở trên;
v.
kết luận, giống như (d) ở trên;
Bốn đoạn từ i đến iv
trong năm đoạn vừa nói trên được lập lại đúng theo từng chữ trong mỗi
trường hợp của 14 trường hợp, ngoại trừ một số chữ then chốt được thay
khi cần.
Theo cách này, mỗi một cứ điểm
trong số 16 cứ điểm*
sẽ được bàn riêng cho tới chứng đắc đạo lộ.
*
cứ điểm: 16 cứ điểm
được áp dụng với hơi thở vào và hơi thở ra thì ta có 32 hình thái liệt
kê ở đ. 183 của luận này.
Sáu phần cuối cùng, từ v đến
x, chỉ đưa ra sự phân loại ngắn gọn về các
giai đoạn trí về nhập định (v), về tuệ giác khởi đầu (vi),
về các loại tuệ giác tiếp sau đưa đến sự xuất khởi của Đạo lộ (vii
đến ix) và Quả của Đạo Lộ (x). Các phần này đã được đề cập
chi tiết ở Luận Thuyết I, từ các chương V đến XII.
Các phần chính của luận thuyết
này được giải thích trong Chương VIII của Con Đường Thanh Lọc (Visuddhimagga)
(q.v.).
[III- LUẬN VỀ QUÁN HƠI THỞ]
«Ānāpānassatikathā
»
[Tóm lược]
1. [162] Khi bất cứ ai tu tập
định bằng cách quán hơi thở
[1]
với 16 cứ điểm, có hơn 200 loại trí khởi lên trong vị ấy:
I.
tám loại trí về chướng ngại và tám loại trí
về trợ giúp,
II.
mười tám loại trí về bất toàn,
III.
mười ba loại trí về giữ trong sạch,
IV.
ba mươi hai loại trí trong người thực hành
quán niệm,
V.
hai mươi bốn loại trí nhờ định,
VI.
bẩy mươi hai loại trí nhờ quán thực tánh,
VII.tám loại trí về nhàm chán,
VIII.tám loại trí biết về cái
gì tương thuận với nhàm chán,
IX.
tám loại trí như là làm lắng dịu nhàm chán,
X.
hai mươi mốt loại trí về hạnh phúc giải
thoát.
[Phần i]
2. Tám loại trí về chướng
ngại và tám loại trí về trợ giúp là gì?
3. Ham muốn ái dục là chướng
ngại cho định, xuất ly là trợ giúp cho định.
Sân hận là chướng ngại...,
không sân hận là trợ giúp...
Dã dượi buồn ngủ là chướng
ngại..., nghĩ đến ánh sáng là trợ giúp...
Dao động là chướng ngại...,
không tán loạn là trợ giúp...
Nghi là chướng ngại..., tìm
hiểu rõ hiện tượng là trợ giúp...
Vô minh là chướng ngại..., trí
là trợ giúp...
Tẻ nhạt là chướng ngại..., hoan
hỉ là trợ giúp...
Cũng vậy, tất cả các trạng thái
bất thiện là chướng ngại cho định, tất cả các trạng thái thiện là trợ
giúp cho định.
Đây là tám loại trí về chướng
ngại và tám loại trí về trợ giúp.
4. Khi tâm được điều hướng,
điều hướng khéo, qua 16 khía cạnh này, tâm củng cố các nhất điểm và được
lọc sạch chướng ngại. [163]
Các nhất điểm này là gì?
Xuất ly là nhất điểm, không sân
hận là nhất điểm, nghĩ đến ánh sáng là nhất điểm, không tán loạn là nhất
điểm, tìm hiểu rõ hiện tượng là nhất điểm, trí là nhất điểm, hoan hỉ là
nhất điểm, các trạng thái thiện là nhất điểm.
5. Những chướng ngại này là gì?
Ham muốn ái dục là chướng ngại
cho định, sân hận là chướng ngại, dã dượi buồn ngủ là chướng ngại, dao
động là chướng ngại, nghi là chướng ngại, vô minh là chướng ngại, tẻ
nhạt là chướng ngại, các trạng thái bất thiện là chướng ngại.
Chướng ngại
: chướng ngại theo nghĩa nào?
Chướng ngại theo nghĩa án ngữ
các lối thoát.
Các lối thoát ấy là gì?
Xuất ly là lối thoát cho các
bậc thánh nhân, các bậc thánh nhân được thoát ra nhờ xuất ly: ước muốn
tình dục án ngữ lối thoát đó, và bởi vì con người bị ước muốn tình dục
tạo khó khăn nên không hiểu được lối thoát của thánh nhân dưới hình thức
xuất ly.
Không sân hận..., sân hận...
Nghĩ đến ánh sáng..., dã dượi
buồn ngủ...
Không tán loạn..., dao động...
Tìm hiểu rõ hiện tượng...,
nghi...
Trí..., vô minh...
Hoan hỉ..., tẻ nhạt...
Cũng thế, tất cả các trạng thái
thiện là lối thoát cho các bậc thánh nhân, các bậc thánh nhân được thoát
ra nhờ tất cả các trạng thái thiện: tất cả các trạng thái bất thiện án
ngữ lối thoát đó, và bởi vì con người bị tất cả các trạng thái bất thiện
tạo khó khăn nên không hiểu được lối thoát của thánh nhân dưới hình thức
trạng thái thiện.
[Phần ii]
6. Khi người có tâm được lọc
sạch khỏi những chướng ngại này [164], người ấy tu tập định bằng quán
hơi thở qua mười sáu cứ điểm, mười tám bất toàn sau đây khởi lên trong
vị ấy theo từng chập ngắn ngủi.[2]
Mười tám bất toàn nào khởi lên?
(1) Khi vị ấy chú tâm theo dõi
chặng đầu, chặng giữa và chặng cuối hơi thở vào,[3]
tâm của vị ấy bị phân tán phía trong, và như thế là một ngăn trở cho
định.
(2) Khi vị ấy chú tâm theo dõi
chặng đầu, chặng giữa và chặng cuối hơi thở ra, tâm của vị ấy bị phân
tán phía ngoài, và như thế là một ngăn trở cho định.
(3) Những hành vi khao khát như
hy vọng, tham luyến, hơi thở vào là một ngăn trở cho định.
(4) Những hành vi khao khát như
hy vọng, tham luyến, hơi thở ra là một ngăn trở cho định.
(5) Khi mệt vì thở vào (hơi quá
dài hay quá ngắn), bất kỳ sự mong ngóng hơi thở ra nào đều là một ngăn
trở cho định.
(6) Khi mệt vì thở ra (hơi quá
dài hay quá ngắn), bất kỳ sự mong ngóng hơi thở vào nào đều là một ngăn
trở cho định.[4]
7.
Chú tâm theo dõi hơi thở vào
Và cũng theo dõi hơi thở ra
Bên trong phân tâm sẽ xảy đến
Bên ngoài để phân tâm cuốn hút
Mong ngóng thở ra ở người
Mệt mỏi nhiều vì thở vào,
Mong ngóng thở vào ở người
Mệt mỏi nhiều vì thở ra;
Sáu nhược điểm này của định
Dựa trên quán hơi thở
Sẽ ngăn tâm thoát ra khỏi
Phân tâm do chúng tạo nên;
Và ai không biết về giải thoát
Ắt phải tin lời người khác.
8. (7) Nếu, khi hành giả
hướng tâm chú ý đến dấu hiệu,[5]
tâm của người ấy có thể bị hơi thở vào lay động, đây là một trở ngại cho
định.
(8) Nếu, khi hành giả hướng tâm
chú ý đến hơi thở vào, tâm của người ấy có thể bị dấu hiệu ấy lay động,
đây là một trở ngại cho định.
(9) Nếu, khi hành giả hướng tâm
chú ý đến dấu hiệu, tâm của người ấy có thể bị hơi thở ra lay động, đây
là một trở ngại cho định.
(10) Nếu, khi hành giả hướng
tâm chú ý đến hơi thở ra, tâm của người ấy có thể bị dấu hiệu lay động,
đây là một ngăn trở cho định.
(11) Nếu, khi hành giả hướng
tâm chú ý đến hơi thở vào, tâm của người ấy có thể bị hơi thở ra lay
động, đây là một ngăn trở cho định.
(12) Nếu, khi hành giả hướng
tâm chú ý đến hơi thở ra, tâm của người ấy có thể bị hơi thở vào lay
động, đây là một ngăn trở cho định.
9. [165]
Hướng tâm chú ý đến dấu hiệu
trong khi tâm
Vẫn bị hơi thở vào phân tán;
Hướng tâm chú ý đến hơi thở vào trong khi tâm
Vẫn bị dấu hiệu phân tán;
Hướng tâm chú ý đến dấu hiệu trong khi tâm
Bị hơi thở ra phân tán;
Hướng tâm chú ý đến hơi thở ra trong khi tâm
Bị dấu hiệu phân tán;
Hướng tâm chú ý đến hơi thở vào trong khi tâm
Vẫn bị hơi thở ra phân tán;
Hướng tâm chú ý đến hơi thở ra trong khi tâm
Bị hơi thở vào phân tán;
Sáu nhược điểm này của định
Dựa trên quán hơi thở
Sẽ ngăn tâm thoát ra khỏi
Phân tán do chúng tạo nên;
Và ai không biết về giải thoát
Ắt phải tin lời người khác.
10. (13) Tâm buông theo [hơi
thở] quá khứ bị
[6]
xao lãng thắng thế là một ngăn trở cho định.
(14) Tâm lay động vì ngóng chờ
[hơi thở] tương lai là một ngăn trở cho định.
(15) Tâm giải đãi bị lười biếng
thắng thế là một ngăn trở cho định.
(16) Nỗ lực quá sức, tâm bị dao
động thắng thế là một ngăn trở cho định.
(17) Khi bị lôi cuốn, tâm bị
tham thắng thế là một ngăn trở cho định.
(18) Khi chán ghét, tâm bị sân
hận thắng thế là một ngăn trở cho định.
11.
Tâm nào: săn đuổi quá khứ,
Mong ngóng tương lai, lười biếng,
Nỗ lực quá sức hay bị lôi cuốn,
Hay chán ghét, tâm ấy không được định
Sáu nhược điểm này của định
Dựa trên quán hơi thở
Là như thế khi chúng vấy bẩn tư tưởng người đó
Vị ấy không biết được Tâm Tăng Thượng.
12. (1) Khi theo dõi chặng đầu,
chặng giữa chặng cuối hơi thở vào, tâm hành giả bị phân tán bên trong,
cả thân lẫn tâm vị ấy không yên, bị xáo trộn và dao động. (2) Khi theo
dõi chặng đầu, chặng giữa chặng cuối hơi thở ra, tâm hành giả bị xao
lãng bên ngoài, cả thân lẫn tâm vị ấy không yên, bị xáo trộn và dao
động. (3) Hơi thở vào với hành vi khao khát như hy vọng, tham luyến, cả
thân lẫn tâm vị ấy không yên, bị xáo trộn và dao động. (4) Hơi thở ra
với hành vi khao khát như hy vọng, tham luyến, cả thân... (5) [166] Vì
trong vị ấy mong ngóng hơi thở ra khi mệt vì hơi thở vào [quá dài hay
quá ngắn] cả thân lẫn... (6) Vì trong vị ấy mong ngóng hơi thở vào khi
mệt vì hơi thở ra [quá dài hay quá ngắn] cả thân lẫn... (7) Nếu, khi
hành giả hướng tâm chú ý đến dấu hiệu, tâm của người ấy vẫn bị hơi thở
vào dao động, cả thân lẫn... (8) Nếu, khi hành giả hướng tâm chú ý đến
hơi thở vào, tâm của người ấy vẫn bị dấu hiệu dao động, cả thân lẫn...
(9) Nếu, khi hành giả hướng tâm chú ý đến dấu hiện, tâm của người ấy vẫn
bị hơi thở ra dao động, cả thân lẫn... (10) Nếu, khi hành giả hướng tâm
chú ý đến hơi thở ra, tâm của người ấy vẫn bị dấu hiệu dao động, cả thân
lẫn... (11) Nếu, khi hành giả hướng tâm chú ý đến hơi thở vào, tâm của
người ấy vẫn bị hơi thở ra dao động, cả thân lẫn... (12) Nếu, khi hành
giả hướng tâm chú ý đến hơi thở ra, tâm của người ấy vẫn bị hơi thở vào
dao động, cả thân lẫn... (13) Tâm chạy theo [hơi thở] quá khứ bị phân
tâm thắng thế, cả thân lẫn... (14) Tâm bị dao động vì mong ngóng [hơi
thở] tương lai, cả thân lẫn... (15) Tâm giải đãi bị lười biếng thắng
thế, cả thân lẫn... (16) Nỗ lực quá sức, tâm bị dao động thắng thế cả
thân lẫn... (17) Khi bị lôi cuốn, tâm bị tham công kích cả thân lẫn...
(18) Khi chán ghét, tâm bị sân hận thắng thế cả thân lẫn tâm vị ấy không
yên, bị xáo trộn và dao động.
13.
Người nào mà việc quán hơi thở
Không được tu tập, không toàn thiện,
Thấy xáo trộn trong thân
Tâm vị ấy cũng như thế,
Rồi vị ấy bị dao động trong thân
Trong tâm vị ấy cũng như thế.
Người nào mà việc quán hơi thở
Được tu tập, được toàn thiện,
Thì không xáo trộn trong thân
Tâm vị ấy cũng như thế,
Rồi vị ấy không bị dao động trong thân
Trong tâm vị ấy cũng như thế.
14. Khi tâm được lọc sạch những
chướng ngại này [đề cập ở phần i.] hành giả tu tập định bằng quán hơi
thở qua mười sáu cứ điểm, mười tám bất toàn này khởi lên trong vị ấy
theo từng chập ngắn ngủi.
[Phần iii]
15. Mười ba loại trí về giữ
trong sạch là gì?
(1) Tâm chạy theo [hơi thở] quá
khứ bị phân tán thắng thế: bằng cách tránh điều này vị tỳ kheo tập trung
tâm vào một nơi, như vậy tâm không bị phân tán.
(2) Tâm mong ngóng [hơi thở]
tương lai có thể bị lay động: [167] bằng cách tránh điều này vị tỳ kheo
trấn tĩnh tâm vào một nơi, như thế tâm cũng không bị phân tán.
(3) Tâm giải đãi bị lười biếng
thắng thế: bằng cách cố gắng làm, vị ấy từ bỏ lười biếng, như thế tâm
cũng không bị phân tán.
(4) Nỗ lực quá sức, tâm bị dao
động thắng thế: bằng cách chế ngự, vị ấy từ bỏ dao động, như thế tâm
cũng không bị phân tán.
(5) Khi bị lôi cuốn, tâm bị
tham thắng thế: bằng cách hiểu biết rõ ràng tường tận điều đó, vị tỳ
kheo từ bỏ tham, như thế tâm cũng không bị phân tán.
(6) Khi chán ghét, tâm bị sân
hận thắng thế: bằng cách hiểu biết rõ ràng tường tận điều đó, vị tỳ kheo
từ bỏ sân hận, như thế tâm cũng không bị phân tán.
Tâm được trong sạch, sáng sủa
và đạt được nhất điểm qua sáu khía cạnh này.
16. Những nhất điểm này là gì?
(7) nhất điểm dưới hình thức
thiết lập ý muốn buông bỏ tặng phẩm [khi bố thí],
(8) nhất điểm dưới hình thức
thiết lập biểu tượng của tĩnh lặng [trong khi định],
(9) nhất điểm dưới hình thức
thiết lập đặc tính của diệt (vaya) [trong quán thực tánh],
(10) nhất điểm dưới hình thức
thiết lập đoạn diệt [nirodha] [trong đạo lộ].
17. Nhất điểm dưới hình thức
thiết lập ý muốn buông bỏ tặng phẩm của người nhất quyết từ bỏ. Nhất
điểm dưới hình thức thiết lập biểu tượng của tĩnh lặng của người dồn hết
cho Tâm Tăng Thượng. Nhất điểm dưới hình thức thiết lập đặc tính của
diệt của người thực hành quán thực tánh. Nhất điểm dưới hình thức thiết
lập đoạn diệt vốn của các bậc Thánh.
18. Trong bốn trường hợp đạt
được nhất điểm này, tâm
(11) đi vào tiến trình thanh
lọc của đạo lộ
[7]
(12) được bình thản tăng cường,
(13) được trí thoả mãn.
19. Đoạn đầu, đoạn giữa, đoạn
cuối của sơ thiền là gì?
Tiến trình thanh lọc của đạo lộ
là đoạn đầu, tăng cường bình thản là đoạn giữa và thỏa mãn*
là đoạn cuối của sơ thiền.
* ở
đây, tuy dùng chữ encouragement (khích lệ), nhưng ở Vism IV đ.
113, tỳ kheo Ñāṇamoli đã sửa thành satisfaction (thỏa
mãn). Vì thế, tôi chọn chữ satisfaction để dịch cho phù hợp với
thay đổi này và để thống nhất với sự thỏa mãn vừa mới nói ở đ. 18 (13).
Đoạn 22 sắp tới đây nói đến đặc tính này ở đoạn cuối của sơ thiền.
20. Tiến trình thanh lọc của
đạo lộ là đoạn đầu của sơ thiền: đoạn đầu có mấy đặc tính?
Đoạn đầu có ba đặc tính:
i.
tâm được thanh lọc khỏi các trở ngại của
[cõi thiền] đó;
ii.
vì được thanh lọc, nên tâm tiến đến đoạn
giữa [trạng thái quân bình, vốn là] dấu hiệu của tĩnh lặng;
iii.
vì đã tiến đến, nên tâm đi vào trạng thái
quân bình ấy.
Và vì tâm đã được lọc sạch các
trở ngại của thiền, và bởi vì nó được thanh lọc, nên tâm tiến đến đoạn
giữa [trạng thái quân bình, vốn là] dấu hiệu của tĩnh lặng, và vì đã
tiến đến, nên tâm đi vào trạng thái quân bình ấy, [168] tiến trình thanh
lọc của đạo lộ là đoạn đầu của sơ thiền. Đây là ba đặc tính của đoạn
đầu. Vì thế nên nói rằng sơ thiền tốt đẹp ở đoạn đầu với [ba] đặc tính.
21. Tăng cường bình thản là
đoạn giữa của sơ thiền: đoạn giữa có mấy đặc tính?
Đoạn giữa có ba đặc tính: người
tỳ kheo
iv.
vô can nhìn tâm đã được thanh lọc với lòng
bình thản;
v.
vô can nhìn tâm đã tiến đến tĩnh lặng với
lòng bình thản;
vi.
vô can nhìn sự thiết lập nhất điểm với lòng
bình thản.
Và vì tỳ kheo [bây giờ] vô can
nhìn tâm đã được thanh lọc với lòng bình thản và vô can nhìn tâm đã tiến
đến tĩnh lặng với lòng bình thản và vô can nhìn sự thiết lập nhất điểm
với lòng bình thản, sự tăng cường bình thản đó là đoạn giữa của sơ
thiền. Đây là ba đặc tính của đoạn giữa. Vì thế nên nói rằng sơ thiền
tốt đẹp ở đoạn giữa vốn có [ba] đặc tính.
22. Thỏa mãn là đoạn cuối
của sơ thiền: đoạn cuối có bao nhiêu đặc tính?
Đoạn cuối có bốn đặc tính:
vii.
thỏa mãn theo nghĩa không có sự vượt quá
giữa các trạng thái khởi lên trong đó;
viii.
thỏa mãn theo nghĩa các năng lực gây ảnh
hưởng có tác dụng (hương vị) duy nhất;
ix.
thỏa mãn theo nghĩa nỗ lực thích đáng có
hiệu quả;
x.
thỏa mãn theo nghĩa lập lại;
là thỏa mãn ở đoạn cuối của sơ
thiền. Đây là bốn đặc tính của đoạn cuối. Vì thế nên nói rằng sơ thiền
tốt đẹp ở đoạn cuối vốn có [bốn] đặc tính.
23. Tâm đã đạt tới chu kỳ ba
đoạn [đầu, giữa và cuối] và tốt đẹp theo ba thể thức đó và có 10 đặc
tính như thế cũng có luôn [năm yếu tố của cõi thiền] là hướng tâm về đối
tượng, suy xét đối tượng, hỉ, lạc và cương quyết cũng như [năm năng lực
gây ảnh hưởng và năm lực] tín tấn niệm định và tuệ.
24. Đoạn đầu, đoạn giữa, đoạn
cuối của nhị thiền là gì?
Tiến trình thanh lọc của đạo lộ
là đoạn đầu của nhị thiền, tăng cường bình thản là đoạn giữa và thỏa mãn
là đoạn cuối.
25-28. Tiến trình thanh lọc
của đạo lộ là đoạn đầu của nhị thiền: đoạn đầu có mấy đặc tính?
Đoạn đầu có ba... [lập lại các
đoạn từ 20 đến 23, thay chữ sơ thiền bằng chữ nhị thiền]
[169]
29-33. Đoạn đầu, đoạn giữa,
đoạn cuối của tam thiền là gì? ... [lập lại các đoạn từ 19 đến 23]
34-38. Đoạn đầu, đoạn giữa,
đoạn cuối của tứ thiền là gì? ...
39-58. ... [lập lại cũng cùng
năm đoạn như thế với mỗi phần của 4 chứng đắc cõi vô sắc] ...
59-148. ... [lập lại cũng cùng
năm đoạn như thế với mỗi phần của 18 Tuệ Quán Thực Tánh Chính] ...
149-168. ... [lập lại cũng cùng
năm đoạn như thế với mỗi phần của 4 đạo lộ] ... [170]
[Tỷ dụ Lưỡi Cưa]
169.
Dấu hiệu, thở vào, thở ra không
phải là đối tượng
của một tâm duy nhất;
Người không biết ba điều này
Tu không tăng tiến. [171]
Dấu hiệu, thở vào, thở ra không phải là đối tượng
của một tâm duy nhất;
Người biết rõ ba điều này
Tu có thể tăng tiến.
170. Thế nào là nói ba điều này
không phải là đối tượng của một tâm duy nhất?, tuy chúng không phải là
không được biết tới?, tâm không bị phân tán, vị tỳ kheo thể hiện nỗ lực,
làm phận sự và đạt kết quả đặc biệt?
Giả thử có một thân cây đặt nằm
trên mặt đất bằng, một người dùng cưa cắt nó. Quán niệm của người ấy
được thiết lập nhờ chỗ các răng cưa tiếp xúc với thân cây mà không chú ý
tới sự di chuyển tới lui của các răng cưa ấy, cho dù các răng cưa ấy
không phải là không được người cưa biết tới khi các răng ấy di chuyển
tới lui; và người cưa thể hiện nỗ lực, làm phận sự và đạt kết quả đặc
biệt.
Khi thân cây ấy được đặt nằm
trên mặt đất bằng thì dấu hiệu buộc quán niệm
[8]
cũng thế. Các răng cưa như thế nào, các hơi thở vào và hơi thở ra cũng
thế. Vì quán niệm của người được thiết lập nhờ chỗ các răng cưa tiếp xúc
với thân cây mà không chú ý tới sự di chuyển tới lui của các răng cưa
ấy, cho dù các răng cưa ấy không phải là không được người cưa biết tới
khi các răng cưa ấy di chuyển tới lui; và như vậy người cưa thể hiện nỗ
lực, làm phận sự và đạt kết quả đặc biệt, cũng thế, vị tỳ kheo ngồi, sau
khi lập quán niệm ở đỉnh mũi hay môi trên xong, không chú ý tới sự di
chuyển vào ra của các hơi thở vào và hơi thở ra, cho dù các hơi thở ấy
không phải là không được tỳ kheo biết tới khi các hơi thở vào ra; và như
vậy vị ấy thể hiện nỗ lực, làm phận sự và đạt kết quả đặc biệt.
Nỗ lực
là gì? Thân và tâm của người tinh tấn trở nên dễ điều khiển: đây là nỗ
lực.
Phận sự
là gì? Các bất toàn cần được từ bỏ nơi người tinh tấn, và các tâm hướng
về đối tượng của vị ấy đã được êm dịu: đây là phận sự.
Kết quả đặc biệt
là gì? Ở người tinh tấn, các kết buộc đi tới tình
trạng bị từ bỏ, và các khuynh hướng ngủ ngầm của người ấy đi tới tình
trạng bị diệt trừ: đây là kết quả đặc biệt.
Như vậy, ba điều này không phải
là đối tượng của một tâm duy nhất, [172] tuy chúng không phải là không
được biết tới, tâm không bị phân tán, và vị ấy thể hiện nỗ lực, làm phận
sự và đạt kết quả đặc biệt.
171.
Quán niệm hơi thở vào và
hơi thở ra của người nào
được hoàn hảo, khéo tu tập,
Và mang dần tới tăng trưởng
Theo đúng như lời Phật dạy,
Người đó soi sáng thế giới này
Giống như trăng tròn không mây.[9]
172. Thở vào (āna)
là hơi thở đi vào (assāsa); thở ra (apāna) là hơi
thở đi ra (passāsa)*.[10]
Thiết lập (nền tảng) nhờ hơi thở vào là niệm; thiết lập (nền
tảng) nhờ hơi thở ra là niệm. Khi thở vào niệm được thiết
lập (đặt nền tảng) trong vị ấy; khi thở ra niệm được thiết lập
(đặt nền tảng) trong vị ấy.
*
ở Vism VIII đ. 164
viết là: assāsa là hơi gió đi ra; passāsa là hơi gió đi
vào như đã nói theo chú giải của tạng Luật.
173. Hoàn hảo: hoàn hảo
theo nghĩa phân biệt rõ*
[cõi thiền, tuệ quán và đạo lộ]; hoàn hảo theo nghĩa [các trạng thái
liên kết sau đó] trang bị [lẫn cho nhau]; hoàn hảo theo nghĩa tuyệt hảo.
*
pariggaha.
Xin đọc lại chú thích về chữ này ở Luận I đ. 23.
174. Khéo tu tập: Có bốn
loại tu tập:
i.
tu tập theo nghĩa không có sự vượt quá giữa
các trạng thái khởi lên trong đó; (Luận I 135)
ii.
tu tập theo nghĩa tác dụng (hương vị) duy
nhất của các năng lực gây ảnh hưởng (Luận I 134)
iii.
tu tập theo nghĩa hiệu quả vì nỗ lực thích
đáng;
iv.
tu tập theo nghĩa lập lại;
Bốn loại tu tập này đã được
thuần thục, tạo thành nền tảng, được củng cố, được điêu luyện và đem lại
đồng nhất thể.*
*
Câu: ‘đã được thuần
thục... đồng nhất thể’ tìm thấy ở D ii 103; S ii 274 ff. Có lẽ vì phần
so sánh giữa samaṁ và susamaṁ ở đoạn sắp tới nên bhikkhu
Ñāṇamoli dịch susamāraddhā là brought to very sameness:
‘đem lại đồng nhất thể’. Maurice Walshe dịch chữ này là properly
undertaken (LDB trang 246); Bhikkhu Bodhi dịch là fully perfect
it (CDB I trang 707-8).
‘Được thuần thục’: Ở bất cứ nơi
nào, nếu muốn, vị ấy làm chủ, có quyền lực và hoàn toàn tự tin,*
các trạng thái [tĩnh lặng và quán thực tánh] sẵn sàng để vị ấy hướng
tới, sẵn sàng để vị ấy sử dụng theo ý muốn, sẵn sàng để vị ấy chú tâm
suy xét, sẵn sàng để vị ấy khởi tâm. ‘Được thuần thục’ được nói vì lý do
đó.
*vesārajja:
hoàn toàn tự tin
‘Tạo thành nền tảng’: quán niệm
của vị ấy được thiết lập vững vàng (vững đặt) trên bất cứ nền tảng nào
tâm của vị ấy trụ vào. Tâm của vị ấy trụ vào bất cứ nền tảng nào nơi
quán niệm của vị ấy được thiết lập vững vàng (vững đặt). ‘Tạo thành nền
tảng’ được nói vì lý do đó.
‘Củng cố’, quán niệm của vị ấy
luân chuyển song hành với bất cứ cái gì vị ấy điều tâm tới. Vị ấy điều
tâm tới bất cứ cái gì quán niệm của vị ấy luân chuyển song hành với.
‘Củng cố’ được nói vì lý do đó.
‘Được điêu luyện’: được điêu
luyện theo nghĩa giữ vững, được điêu luyện theo nghĩa trang bị, được
điêu luyện theo nghĩa hoàn hảo. Khi tỳ kheo gìn giữ quán niệm, vị ấy chế
ngự được các trạng thái xấu xa, bất thiện. ‘Được điêu luyện’ được nói vì
lý do đó.
‘Đem lại đồng nhất thể’ (susamāraddhā):
Có bốn loại ‘đem lại đồng nhất thể’: đem lại đồng nhất thể theo nghĩa không
có sự vượt quá giữa các trạng thái khởi lên; đem lại đồng nhất thể theo
nghĩa tác dụng (hương vị) duy nhất của các năng lực gây ảnh hưởng; đem
lại đồng nhất thể theo nghĩa hiệu quả vì nỗ lực thích đáng; đem lại đồng
nhất thể vì chính đáng hủy bỏ (susamugghātattā)*
nhiễm lậu vốn đối nghịch với trạng thái này.
* Bản
của VRI viết là susamūhatattā.
‘Đồng nhất thể’ (susamaṁ):
[11]
Có nhất thể (samaṁ) và đồng nhất thể (susamaṁ). Nhất thể
là gì? Các trạng thái nào khởi lên vốn không lỗi và mang đặc tính giác
ngộ: đây là nhất thể. ‘Đồng nhất thể’ là gì? Đối tượng cho những trạng
thái như đoạn diệt, nibbana: đây là ‘đồng nhất thể’. Nhất thể này và
đồng nhất thể này được biết đến, thấy rõ, nhận ra, được thực chứng, được
thể nghiệm với tuệ; nỗ lực không mệt mỏi được mang lại để toàn thiện (āraddha),
quán niệm đã được thiết lập (đặt nền tảng) không suy giảm, thân được an
tịnh, mát lạnh (asāraddha),*
tâm định nhất điểm. ‘Đem lại đồng nhất thể’ (susamāraddhā) được
nói vì lý do đó.
*
dịch sát: không
cuồng nhiệt. Đọc Peter Masefield, The Itivuttaka, PTS [Oxford,
2000], trang 110.
175. Mang dần tới tăng
trưởng: tăng trưởng chuẩn bị từ trước và sau đó mang đến tăng trưởng
nhờ hơi thở vào dài, tăng trưởng chuẩn bị từ trước và sau đó mang lại
tăng trưởng nhờ hơi thở ra dài, ... [và cứ thế với 32 thể thức, đọc đ.
183 dưới đây, cho đến] ... tăng trưởng chuẩn bị từ trước và sau đó mang
đến tăng trưởng nhờ hơi thở ra dài quán từ bỏ. Tất cả các loại niệm hơi
thở với 16 cứ điểm cũng được chuẩn bị cho tăng trưởng và mang tới tăng
trưởng phụ thuộc vào nhau. ‘Mang dần tới tăng trưởng’ được nói vì lý do
đó.
176. Theo đúng như:
‘Theo đúng như’ có mười nghĩa, đó là, nghĩa của ‘theo đúng như’ là nghĩa
của tự chủ, nghĩa của ‘theo đúng như’ là nghĩa của an tịnh trong tâm,
... là nghĩa của hoàn toàn dập tắt phiền não trong tâm, là nghĩa của trí
trực chứng, ... là nghĩa của hiểu biết trọn vẹn, ... là nghĩa của từ bỏ,
... là nghĩa của tu tập, ... [174] là nghĩa của thực chứng, ... là nghĩa
của chứng ngộ đồng thời, ... nghĩa của ‘theo đúng như’ là nghĩa của củng
cố đoạn tận.
177. Buddha (Bậc Giác
Ngộ): là Thế Tôn, là bậc tự trông cậy vào chính mình*,
không thầy chỉ dạy về những tri kiến chưa từng nghe từ trước,[12]
người tự khám phá (abhisambujjhati) ra chân lý, đạt toàn giác
trong tứ đế, các lực và làm chủ.
*
sayambhū:
tự trông cậy vào chính mình, không mong mỏi ở ai khác. Đây là phẩm tính
của một vị Phật (Đọc PED trang 697; đọc R. C Childers, A Dictionary
of the Pali Language, [Cosmo Publications, New Delhi, 1979] trang
471). Sayambhunā, bậc tự thông hiểu Đạo Pháp, không học từ ai
khác. Đọc T. W. Rhys Davids, F. Max Müller
hiệu đính, The Questions of Milinda, Vol. II, [Low Price
Publications, Delhi, 1996] chú thích 6, trang 6.
Buddha:
Buddha theo nghĩa nào? Ngài là người khám phá (bujjhitar)
ra chân lý, do đó ngài là bậc giác ngộ (buddha). Ngài là người
đánh thức (bodhetar) cuộc đời này, do đó ngài là bậc giác ngộ.
Ngài được giác ngộ nhờ hiểu biết toàn triệt, giác ngộ nhờ thấy biết tất
cả, giác ngộ không dựa vào chỉ dẫn của một ai, giác ngộ vì uy lực,[13]
ngài được giác ngộ bằng phẩm hạnh diệt xong nhiễm lậu, được giác ngộ
bằng phẩm hạnh giải thoát khỏi các đặc tính tất yếu của hiện hữu.*
Ngài hoàn toàn không còn tham, do đó ngài là bậc giác ngộ; Ngài hoàn
toàn không còn sân, do đó ngài là bậc giác ngộ; Ngài hoàn toàn không còn
si, do đó ngài là bậc giác ngộ; Ngài hoàn toàn không còn ô nhiễm, do đó
ngài là bậc giác ngộ; Ngài đã đi trên đạo lộ giải thoát chỉ có một
chiều, do đó ngài là bậc giác ngộ; Ngài một mình khám phá ra giác ngộ
toàn triệt vô thượng, do đó ngài là bậc giác ngộ. Ngài là bậc giác ngộ
vì đã hủy diệt vô minh và chứng đạt giác ngộ.
*
Nirupadhi: giải thoát khỏi các đặc tính tất yếu của hiện hữu,
những gì tất yếu của hiện hữu theo nghĩa rộng nhất của nó (nghĩa hẹp:
không còn luyến ái). Đọc Ñāṇamoli, The Guide, PTS [Oxford,
1977], chú thích 164/12, trang 49. Xin đọc Luận I đ. 18 liệt kê 15 đặc
tính căn bản tất yếu của hiện hữu này.
Buddha:
đây không phải là tên do mẹ đặt ra, do cha đặt ra, do anh đặt ra, do chị
đặt ra, do bạn hữu và những người đồng hành đặt ra, do bà con và thân
quyến đặt ra, do sa môn và brahmans đặt ra, do chư thiên đặt ra: đây là
danh hiệu (lấy) từ sự giải thoát cuối cùng của các bậc Giác Ngộ, các bậc
Thế Tôn, cùng với sự chứng đạt trí toàn giác ở cội cây Giác Ngộ, danh
hiệu ‘bậc Giác Ngộ (Buddha)’ là một (ý niệm) diễn bày dựa trên chứng
ngộ.
178. Đã dạy: Theo đúng
như đức Phật đã dạy, nghĩa của ‘theo đúng như’ là nghĩa của tự chủ,
nghĩa của ‘theo đúng như’ là nghĩa của an tịnh trong tâm, ... [và cứ thế
như ở đ 176 cho đến] nghĩa của ‘theo đúng như’ là nghĩa của củng cố đoạn
tận.
179. Người đó: người đó
là cư sĩ hay đã xuất gia, sống không gia đình.
180. Thế giới: thế giới
tập hợp, ... [lập lại Luận I đ 580 cho đến] Mười tám thế giới: Mười tám
yếu tố.
181. Soi sáng: Sau khi
đã tìm ra nghĩa của ‘theo đúng như’ là nghĩa của tự chủ, [175] vị ấy là
ngôi sao soi sáng, chiếu sáng thế giới này. Sau khi đã tìm ra nghĩa của
‘theo đúng như’ là nghĩa của an tịnh trong tâm,... [và cứ thế như ở đ
176 cho đến]... Sau khi đã tìm ra nghĩa của ‘theo đúng như’ là nghĩa của
củng cố đoạn diệt, vị ấy là ngôi sao soi sáng, chiếu sáng thế giới này.
182. Giống như trăng tròn
không mây: Các ô nhiễm giống như đám mây, trí của bậc thánh giống
như mặt trăng. Người tỳ kheo giống như con của phạm thiên làm chủ trăng
tròn. Khi không có mây, không có sương mù, không có khói bụi do quyền
lực của Thần Nguyệt Thực Rāhu phát ra, mặt trăng rọi sáng, chói
sáng và sáng ngời, người tỳ kheo khi được giải thoát khỏi ô nhiễm cũng
rọi sáng, chói sáng và sáng ngời như thế. ‘Giống như trăng tròn không
mây’ được nói vì lý do đó.
Đây là mười ba loại trí thanh
tẩy.
CHẤM DỨT PHẦN THUẬT KỂ.
[Phần iv]
183. Ba mươi hai loại trí của
người làm việc có quán niệm*
là gì?
*
satokārissa:
người làm việc có quán niệm
[Tóm lược Kinh: 4 nhóm, 16
cứ điểm, 32 hình thái]
Ở đây, một tỳ kheo đi đến cánh
rừng hay đến gốc cây hay đến chỗ trống vắng, ngồi xuống; sau khi đã ngồi
khoanh chân, giữ thẳng thân hình, thiết lập quán niệm trước mặt, luôn
giữ quán niệm vị ấy thở vào, luôn giữ quán niệm vị ấy thở ra.
(1) Đang thở vào hơi dài, vị ấy
biết rõ ‘Tôi thở vào hơi dài’; (2) hay đang thở ra hơi dài, vị ấy biết
rõ ‘Tôi thở ra hơi dài’; (3) Đang thở vào hơi ngắn, vị ấy biết rõ ‘Tôi
thở vào hơi ngắn’; (4) hay đang thở ra hơi ngắn, vị ấy biết rõ ‘Tôi thở
ra hơi ngắn’. (5) Vị ấy tập như vầy: ‘Kinh nghiệm toàn thân [hơi thở],
tôi sẽ thở vào’; (6) Vị ấy tập như vầy: ‘Kinh nghiệm toàn thân [hơi
thở], tôi sẽ thở ra’; (7) Vị ấy tập như vầy: ‘Làm lắng dịu hành vi của
thân, tôi sẽ thở vào’;*
(8) Vị ấy tập như vầy: ‘Làm lắng dịu hành vi của thân, tôi sẽ thở ra’.
*
‘hành vi của thân’
chính là hơi thở vào và hơi thở ra (M i 301). Tuy bắt nguồn từ tâm (cittasamuṭṭhāna),
nhưng hơi thở vẫn được coi là ‘hành vi của thân’ vì sự hiện hữu của nó
có liên hệ mật thiết với cơ thể do nghiệp tạo ra và hơi thở được tạo nên
lấy cơ thể làm phương tiện (Pm 263). Đọc đ. 266.
(9) Vị ấy tập như vầy: ‘Kinh
nghiệm sự hoan hỉ, tôi sẽ thở vào’; (10) Vị ấy tập như vầy: ‘Kinh nghiệm
sự hoan hỉ, tôi sẽ thở ra’; (11) Vị ấy tập như vầy ‘Kinh nghiệm sự an
lạc, tôi sẽ thở vào’; (12) Vị ấy tập như vầy ‘Kinh nghiệm sự an lạc, tôi
sẽ thở ra’. (13) Vị ấy tập như vầy [176] ‘Kinh nghiệm hành vi của tâm,*
tôi sẽ thở vào’; (14) Vị ấy tập như vầy ‘Kinh nghiệm hành vi của tâm,
tôi sẽ thở ra’. (15) Vị ấy tập như vầy ‘Làm lắng dịu hành vi của tâm,
tôi sẽ thở vào’; (16) Vị ấy tập như vầy ‘Làm lắng dịu hành vi của tâm,
tôi sẽ thở ra’.
*
Phẩm Cūḷavedalla trong Bộ Kinh Trung nói: ‘Nhận thức và cảm thọ
thuộc tâm, đây là những trạng thái có liên hệ mật thiết với tâm; đó là
lý do tại sao cảm thọ và nhận thức là ‘hành vi của tâm’’
(M i 301). Chú giải MA nói rằng hành vi của tâm, hành vi của thân có
liên hệ mật thiết với tâm và thân theo nghĩa do tâm, do
thân tạo ra. Đọc Ñāṇamoli và Bhikkhu Bodhi, The Middle
Length Discourses of the Buddha, Wisdom Publications, [Boston,
1995], chú thích 466, trang 1240.
(17) Vị ấy tập như vầy ‘Kinh
nghiệm tâm,*
tôi sẽ thở vào’; (18) Vị ấy tập như vầy ‘Kinh nghiệm tâm, tôi sẽ thở
ra’. (19) Vị ấy tập như vầy ‘Làm tâm hân hoan, tôi sẽ thở vào’2*;
(20) Vị ấy tập như vầy ‘Làm tâm hân hoan, tôi sẽ thở ra’. (21) Vị ấy tập
như vầy ‘Làm tâm định, tôi sẽ thở vào’3*;
(22) Vị ấy tập như vầy ‘Làm tâm định, tôi sẽ thở ra’. (23) Vị ấy tập như
vầy ‘Giải thoát tâm, tôi sẽ thở vào’4*;
(24) Vị ấy tập như vầy ‘Giải thoát tâm, tôi sẽ thở ra’.
*
‘kinh nghiệm tâm’
[cittapaṭisaṁvedī] được hiểu theo bốn jhānas.
2*
‘làm tâm hân hoan’ (abhippamodayaṁcittaṁ) được giải thích là
hoặc chứng hai cõi thiền có hỉ hay khi thể nhập các cõi thiền có tuệ
giác dẫn đến đoạn diệt khởi lên...
3*
‘làm tâm định’
(samādahaṁcittaṁ) để chỉ cho nhập cõi thiền hay sự định tâm ngắn
ngủi khởi lên cùng với tuệ giác.
4* ‘giải
thoát tâm’ (vimocayaṁcittaṁ) có nghĩa là giải thoát tâm khỏi
các chướng ngại và các yếu tố thiền còn thô bằng cách định tâm theo mức
độ tăng dần, và thoát khỏi các lệch lạc trong nhận thức bằng tuệ giác.
Đọc Ñāṇamoli và Bhikkhu Bodhi, sđd, chú thích 1120, trang 1325.
(25) Vị ấy tập như vầy ‘Quán vô
thường, tôi sẽ thở vào’; (26) Vị ấy tập như vầy ‘Quán vô thường, tôi sẽ
thở ra’. (27) Vị ấy tập như vầy ‘Quán hết ham muốn, tôi sẽ thở vào’;
(28) Vị ấy tập như vầy ‘Quán hết ham muốn, tôi sẽ thở ra’. (29) Vị ấy
tập như vầy ‘Quán đoạn diệt, tôi sẽ thở vào’; (30) Vị ấy tập như vầy
‘Quán đoạn diệt, tôi sẽ thở ra’. (31) Vị ấy tập như vầy ‘Quán từ bỏ, tôi
sẽ thở vào’; (32) Vị ấy tập như vầy ‘Quán từ bỏ, tôi sẽ thở ra’. (Vin
iii 70f.; M iii 83; S v 311f.; A v 111).
[Chú
giải về đoạn kinh dẫn nhập]
184. Ở đây: trong nhận
thức này, trong chọn lựa này, trong ưa chuộng này, trong tuyển chọn này,
trong Giáo Pháp này, trong Giới Luật (vinaya) này, trong lãnh vực Giáo
Pháp và Giới Luật này, trong giáo lý này, trong đời sống Phạm Hạnh này,
trong Giáo Huấn của bậc Đạo Sư này. ‘Ở đây’ được nói vì lý do đó.
185. Một tỳ kheo: Một tỳ
kheo là người thế tục rộng lượng hay bậc hữu học hay một Arahant đã
chứng trạng thái không thể đả kích được.
186. Cánh rừng: sau khi
đã đi quá mốc ranh, tất cả đều là rừng.
187. Gốc cây: chỗ ngồi
của tỳ kheo được sửa soạn, hay cái giường, ghế, đệm, chiếu, miếng da hay
mớ cỏ, lá, giạ của tỳ kheo trải ra, chỗ vị ấy đi, đứng, ngồi hay nằm.
188. Trống vắng: nơi
người cư sĩ hay đạo sĩ ít qua lại.
189. Chỗ: nhà, chái nhà,
dinh thự, biệt thự, hang động.
190. Ngồi xuống; sau
khi đã ngồi khoanh chân: vị ấy đã ngồi xuống, sau khi đã ngồi khoanh
chân xong xuôi.
191. Giữ thẳng thân hình:
thân của vị ấy thẳng, đặt định [vững chãi], xếp đặt đâu vào đó.
192. Thiết lập quán niệm
trước mặt vị ấy (parimukhaṁ satiṁ upaṭṭhapetvā): pari
có nghĩa duy trì; mukhaṁ (nđ: cái miệng) có nghĩa lối thoát;
satiṁ (niệm) có nghĩa thiết lập (nền tảng). ’Parimukhaṁ satiṁ
upaṭṭhapetvā’ (quán niệm được thiết lập trước mặt vị ấy) được nói vì
lý do đó.[14]
193. Luôn giữ quán niệm vị
ấy thở vào, luôn giữ quán niệm vị ấy thở ra: [177] vị ấy là người
làm việc có quán niệm theo 32 khía cạnh:
(1) Khi vị ấy biết rõ nhất tâm
và không tán loạn qua thở vào hơi dài, niệm được thiết lập (tạo nền
tảng) trong vị ấy; nhờ vào quán niệm đó và trí đó, vị ấy là người làm
việc có quán niệm. (2) Khi vị ấy biết rõ nhất tâm và không tán loạn qua
thở ra hơi dài... (32) Khi vị ấy biết rõ nhất tâm và không tán loạn qua
thở ra quán từ bỏ, niệm được thiết lập (tạo nền tảng) trong vị ấy; nhờ
vào quán niệm đó và trí đó, vị ấy là người làm việc có quán niệm.
194. Như thế nào là (1) đang
thở vào hơi dài, vị ấy biết rõ ‘Tôi thở vào hơi dài’; (2) hay đang thở
ra hơi dài, vị ấy biết rõ ‘Tôi thở ra hơi dài’?
[Phân tích Trí về Đối Tượng
Quán Tưởng]
195. (a) Vị ấy thở vào một hơi
dài đo bằng khoảng cách. (b) Vị ấy thở ra một hơi dài đo bằng khoảng
cách. (c) Vị ấy thở vào và thở ra những hơi thở vào và hơi thở ra dài đo
bằng khoảng cách. Khi vị ấy thở vào và thở ra những hơi vào dài và hơi
ra dài đo bằng khoảng cách, hăng hái khởi lên.*
(d) Với hăng hái, vị ấy thở vào hơi dài tinh tế hơn trước đo bằng khoảng
cách. (e) Với hăng hái, vị ấy thở ra hơi dài tinh tế hơn trước đo bằng
khoảng cách. (f) Với hăng hái, vị ấy thở vào và thở ra những hơi vào và
ra dài tinh tế hơn trước đo bằng khoảng cách. Khi, với hăng hái, vị ấy
thở vào và thở ra những hơi vào và ra dài tinh tế hơn trước đo bằng
khoảng cách, hân hoan khởi lên. (g) Với hân hoan, vị ấy thở vào hơi dài
tinh tế hơn trước đo bằng khoảng cách. (h) Với hân hoan, vị ấy thở ra
hơi dài tinh tế hơn trước đo bằng khoảng cách. (i) Với hân hoan, vị ấy
thở vào và thở ra những hơi vào và ra dài tinh tế hơn trước đo bằng
khoảng cách. Với hân hoan, khi vị ấy thở vào và thở ra những hơi vào và
ra dài, tinh tế hơn trước đo bằng khoảng cách, tâm của vị ấy quay đi
khỏi những hơi thở dài vào và ra, và bình thản được thiết lập.[15]
*
chando uppajjati: chanda ở đây có nghĩa ý muốn làm, ý muốn
này khởi lên vì thành quả đạt được khi hành thiền tiến triển. Vì thế tôi
dịch là ‘hăng hái khởi lên’. Đọc Ñāṇamoli, The Path of
Purification [BPS, 1991], chú thích 46 trang 783.
[Nền tảng của quán niệm]
196. Những hơi thở vào và hơi
thở ra dài theo chín khía cạnh này là thân thể.
[16]
‘Thiết lập’ (nền tảng) là quán niệm. Quán là trí. Thân là thiết lập (nền
tảng), nhưng nó không phải là quán niệm. Quán niệm vừa là thiết lập (nền
tảng) vừa là quán niệm. Nhờ vào quán niệm và nhờ vào trí, vị ấy quán
thân. Đó là lý do tại sao nói ‘Tu tập nền tảng (thiết lập) quán niệm
dưới hình thức quán thân đúng như thân.[17]
[178]
197. Vị ấy quán:
[18]
Vị ấy quán thân đó như thế nào? Vị ấy quán thân đó vô thường, chứ không
trường tồn; quán khổ não chứ không quán vui sướng; quán không phải là
ngã chứ không quán là ngã; vị ấy đâm ra nhàm chán, hết thích thú; vị ấy
khiến cho lòng tham phai nhạt, không khơi dậy nó; vị ấy làm cho đoạn
diệt, không còn sanh khởi; vị ấy buông bỏ, không nắm giữ. Khi quán vô
thường, vị ấy từ bỏ nhận thức cho là trường tồn; khi quán khổ não, vị ấy
từ bỏ nhận thức cho là vui sướng; khi quán không phải là ngã, vị ấy từ
bỏ nhận thức cho là ngã; khi trở nên nhàm chán, vị ấy hết thích thú; khi
lòng tham của vị ấy phai nhạt, vị ấy từ bỏ tham; khi làm cho đoạn diệt,
vị ấy từ bỏ sanh khởi; khi buông bỏ, vị ấy không còn nắm giữ. Vị ấy quán
thân như thế đấy.
198. Tu tập: có bốn loại
tu tập: tu tập theo nghĩa không có sự vượt quá giữa các trạng thái khởi
lên trong đó; tu tập theo nghĩa tác dụng (hương vị) duy nhất của các
năng lực gây ảnh hưởng; tu tập theo nghĩa hiệu quả của nỗ lực thích đáng
và tu tập theo nghĩa lập lại.
[Bài tập Quán Niệm và Hiểu
Biết Thấu Đáo Tường Tận
*][19]
199. Khi vị ấy biết chắc2*
sự nhất tâm và không tán loạn qua những hơi thở vào dài và hơi thở ra
dài, cảm nghiệm của vị ấy được nhận biết rõ khi chúng khởi lên, được
nhận biết rõ khi chúng xuất hiện (được thiết lập), được nhận biết rõ khi
chúng biến mất;3*
nhận thức của vị ấy được nhận biết rõ khi chúng khởi lên, được nhận biết
rõ khi chúng xuất hiện (được thiết lập), được nhận biết rõ khi chúng
biến mất; sự hướng tâm về đối tượng của vị ấy được nhận biết rõ khi
chúng khởi lên, được nhận biết rõ khi chúng xuất hiện (được thiết lập),
được nhận biết rõ khi chúng diệt đi.
*
sampajāna: hiểu
biết thấu đáo tường tận
có đặc tính là không mơ hồ lẫn lộn. Nhiệm vụ của nó là tìm hiểu (phán
xét). Biểu hiện của nó là xem xét kỹ lưỡng (Vism IV đ. 172).
2*
viditā ;
3*
abbhatthaṁ
200. Cảm nghiệm của vị ấy
được nhận biết rõ khi chúng khởi lên, được nhận biết rõ khi chúng xuất
hiện (được thiết lập), được nhận biết rõ khi chúng biến mất như thế nào?
Sự sanh khởi của cảm nghiệm
được nhận biết rõ theo nghĩa sanh khởi có điều kiện như vầy: Với sự sanh
khởi của vô minh, nên có sự sanh khởi của cảm nghiệm. Sự sanh khởi của
cảm nghiệm được nhận biết rõ theo nghĩa sanh khởi có điều kiện như vầy:
Với sự sanh khởi của khao khát, nên có sự sanh khởi của cảm nghiệm... Sự
sanh khởi của cảm nghiệm được nhận biết rõ theo nghĩa sanh khởi có điều
kiện như vầy: Với sự sanh khởi của hành vi tạo quả, nên có sự sanh khởi
của cảm nghiệm. Sự sanh khởi của cảm nghiệm được nhận biết rõ theo nghĩa
sanh khởi có điều kiện như vầy: Với sự sanh khởi của xúc, nên có sự sanh
khởi của cảm nghiệm. Cũng thế, khi vị ấy thấy được đặc tính của phát
sanh, vị ấy đã nhận biết rõ sự sanh khởi của cảm nghiệm. Sự sanh khởi
của cảm nghiệm được nhận rõ như thế đấy. (so với I đ. 288).
Thế nào là sự xuất hiện (được
thiết lập) của cảm nghiệm được nhận biết rõ? Khi vị ấy suy xét [cảm
nghiệm] là vô thường, sự xuất hiện (thiết lập) của hủy diệt được nhận
rõ; khi vị ấy suy xét cảm nghiệm là khổ não, sự xuất hiện (thiết lập)
của hãi hùng được nhận biết rõ; khi vị ấy suy xét cảm nghiệm không phải
là tự ngã, sự xuất hiện (thiết lập) của tánh không được nhận biết rõ. Sự
xuất hiện (được thiết lập) của cảm nghiệm được nhận biết rõ như thế đấy.
Thế nào là sự biến mất của cảm
nghiệm được nhận rõ? Sự biến mất của cảm nghiệm được nhận biết rõ theo
nghĩa diệt tận có điều kiện như vầy: Với sự diệt tận của vô minh, nên có
sự diệt tận của cảm nghiệm. Sự biến mất của cảm nghiệm được nhận biết rõ
theo nghĩa diệt tận có điều kiện như vầy: Với sự diệt tận của khao khát,
nên có sự diệt tận của cảm nghiệm... [179] Với sự diệt tận của hành vi
tạo quả, nên có sự diệt tận của cảm nghiệm. Sự biến mất của cảm nghiệm
được nhận biết rõ theo nghĩa diệt tận có điều kiện như vầy: Với sự diệt
tận của xúc, nên có sự diệt tận của cảm nghiệm. Cũng thế, khi vị ấy thấy
được đặc tính của biến đổi, vị ấy đã nhận biết rõ sự biến mất của cảm
nghiệm. Sự biến mất của cảm nghiệm được nhận biết rõ là như thế đấy.
Cảm nghiệm của vị ấy được nhận
biết rõ khi chúng khởi lên, được nhận biết rõ khi chúng xuất hiện (được
thiết lập), được nhận biết rõ khi chúng biến mất như thế đấy.
201. Nhận thức được nhận rõ
khi chúng khởi lên, được nhận biết rõ khi chúng xuất hiện (được thiết
lập), được nhận biêt rõ khi chúng biến mất như thế nào?
Sự sanh khởi của nhận thức được
nhận rõ theo nghĩa sanh khởi có điều kiện như vầy: Với sự sanh khởi của
vô minh, nên có sự sanh khởi của nhận thức... Với sự sanh khởi của khao
khát... Với sự sanh khởi của xúc... [và cứ thế như ở đ. 200 cho tới
hết].
202. Hướng tâm về đối tượng
được nhận biết rõ khi chúng khởi lên, được nhận biết rõ khi chúng xuất
hiện (được thiết lập), được nhận biết rõ khi chúng biến mất như thế nào?
Sự sanh khởi của hướng tâm về
đối tượng được nhận biết rõ theo nghĩa sanh khởi có điều kiện như vầy:
Với sự sanh khởi của vô minh, nên có sự sanh khởi của hướng tâm về đối
tượng... Với sự sanh khởi của khao khát... Với sự sanh khởi của hành vi
tạo quả... Với sự sanh khởi của nhận thức... [và cứ thế như ở đ. 200 cho
tới hết]... [180]
[20]
Hướng tâm về đối tượng được
nhận biết rõ khi chúng khởi lên, được nhận biết rõ khi chúng xuất hiện
(được thiết lập), được nhận biết rõ khi chúng biến mất như thế đấy.
[Tổng hợp các Năng Lực Gây
Ảnh Hưởng...]
203. Khi vị ấy biết chắc sự
nhất tâm và không tán loạn qua hơi thở vào dài và hơi thở ra dài, vị ấy
tổng hợp các năng lực gây ảnh hưởng, hiểu rõ lãnh vực của chúng, thể
nhập được ý nghĩa của nhất như;*
vị ấy tổng hợp các lực...; vị ấy tổng hợp các yếu tố tạo thành giác
ngộ... ; vị ấy tổng hợp đạo lộ...;[21]
vị ấy tổng hợp các trạng thái [khác], hiểu rõ lãnh vực của chúng, thể
nhập được ý nghĩa của nhất như.*
*samatthañcapaṭivijjhati:
thể nhập được ý nghĩa của nhất như.
204. Vị ấy tổng hợp các năng
lực gây ảnh hưởng: vị ấy tổng hợp các năng lực gây ảnh hưởng như thế
nào? Vị ấy tổng hợp năng lực gây ảnh hưởng của tín theo nghĩa quyết tâm
của nó, vị ấy tổng hợp năng lực gây ảnh hưởng của tinh tấn theo nghĩa nỗ
lực của nó, vị ấy tổng hợp năng lực gây ảnh hưởng của niệm theo nghĩa
thiết lập (nền tảng) của nó, vị ấy tổng hợp năng lực gây ảnh hưởng của
định theo nghĩa không tán loạn của nó, vị ấy tổng hợp năng lực gây ảnh
hưởng của tuệ theo nghĩa thấy rõ của nó. Người này tổng hợp các năng lực
gây ảnh hưởng ấy trên đối tượng này. ‘Vị ấy tổng hợp các năng lực gây
ảnh hưởng’ được nói vì lý do đó.
205. Vị ấy hiểu rõ lãnh vực
của chúng: đối tượng của vị ấy là lãnh vực của vị ấy; lãnh vực của
vị ấy là đối tượng của vị ấy. Vị ấy hiểu rõ, như thế vị ấy là một người;
hành vi hiểu biết là tuệ tri.[22]
Nhất như:
sự xuất hiện của đối tượng là nhất như, tâm không tán loạn là nhất như,
làm tâm trong sạch là nhất như.
Ý nghĩa:
mang ý nghĩa không lỗi, mang ý nghĩa không nhiễm lậu, mang ý nghĩa giữ
trong sạch, nghĩa tối hậu.
Thể nhập:
vị ấy thể nhập sự xuất hiện (thiết lập) đối tượng, vị ấy thể nhập ý
nghĩa không tán loạn của tâm, vị ấy thể nhập sự cương quyết của tâm, vị
ấy thể nhập sự giữ tâm trong sạch. ‘Thể nhập được ý nghĩa của nhất như’
được nói vì lý do đó.
206. Vị ấy tổng hợp các lực:
Vị ấy tổng hợp các lực như thế nào? Vị ấy tổng hợp tín lực theo nghĩa
không lay chuyển vì bất tin của nó. Vị ấy tổng hợp tấn lực theo nghĩa
không lay chuyển vì lười biếng của nó. Vị ấy tổng hợp niệm lực theo
nghĩa không lay chuyển vì sự xao lãng của nó. Vị ấy tổng hợp định lực
theo nghĩa không lay chuyển vì dao động của nó. Vị ấy tổng hợp tuệ lực
theo nghĩa không lay chuyển vì vô minh của nó. Người này tổng hợp các
lực ấy trên đối tượng này. ‘Vị ấy tổng hợp các lực’ được nói vì lý do
đó.
207. Vị ấy hiểu rõ lãnh vực
của chúng: ... [vân vân... như ở đ. 205 cho đến hết]. [181]
208. Vị ấy tổng hợp các yếu
tố tạo thành giác ngộ: vị ấy tổng hợp các yếu tố tạo thành
giác ngộ như thế nào? Vị ấy tổng hợp yếu tố tạo thành giác ngộ của niệm
theo nghĩa thiết lập (nền tảng) của nó. Vị ấy tổng hợp yếu tố tạo thành
giác ngộ của đi tìm sự thật theo nghĩa tìm hiểu của nó. Vị ấy tổng hợp
yếu tố tạo thành giác ngộ của tinh tấn theo nghĩa nỗ lực của nó. Vị ấy
tổng hợp yếu tố tạo thành giác ngộ của hỉ theo nghĩa chan hòa của nó. Vị
ấy tổng hợp yếu tố tạo thành giác ngộ của tĩnh lặng theo nghĩa an lạc
của nó. Vị ấy tổng hợp yếu tố tạo thành giác ngộ của định theo nghĩa
không tán loạn của nó. Vị ấy tổng hợp yếu tố tạo thành giác ngộ của bình
thản theo nghĩa tư duy*
của nó. Người này tổng hợp các yếu tố tạo thành giác ngộ ấy trên đối
tượng này. ‘Vị ấy tổng hợp các yếu tố tạo thành giác ngộ’ được nói vì lý
do đó.
*
paṭisaṅkhānaṭṭhena:
theo nghĩa tư duy.
209. Vị ấy hiểu rõ lãnh vực
của chúng: ... [vân vân... như ở đ. 205 cho đến hết].
210. Vị ấy tổng hợp đạo lộ:
Vị ấy tổng hợp đạo lộ như thế nào? Vị ấy tổng hợp chánh kiến theo nghĩa
thấy rõ của nó. Vị ấy tổng hợp chánh tư duy theo nghĩa hướng tâm trụ vào
của nó. Vị ấy tổng hợp chánh ngữ theo nghĩa giữ gìn lời nói của
nó.*
Vị ấy tổng hợp chánh hành theo nghĩa nguồn sanh khởi của nó. Vị ấy tổng
hợp chánh mạng theo nghĩa trong sạch của nó. Vị ấy tổng hợp chánh tinh
tấn theo nghĩa nỗ lực của nó. Vị ấy tổng hợp chánh niệm theo nghĩa thiết
lập (nền tảng) của nó. Vị ấy tổng hợp chánh định theo nghĩa không tán
loạn. Người này tổng hợp đạo lộ ấy trên đối tượng này. ‘Vị ấy tổng hợp
đạo lộ’ được nói vì lý do đó.
*
pariggahaṭṭhena:
theo nghĩa giữ gìn lời nói.
211. Vị ấy hiểu rõ lãnh vực
của chúng: ... [vân vân... như ở đ. 205 cho đến hết].
212. Vị ấy tổng hợp các
trạng thái [khác]: Vị ấy tổng hợp các trạng thái [khác] như
thế nào? Vị ấy tổng hợp các năng lực gây ảnh hưởng theo nghĩa ưu thắng
của chúng. Vị ấy tổng hợp các lực theo nghĩa không lay chuyển của chúng.
Vị ấy tổng hợp các yếu tố tạo thành giác ngộ theo nghĩa lối thoát của
chúng. Vị ấy tổng hợp đạo lộ theo nghĩa nhân của chúng. Vị ấy tổng hợp
các nền tảng (thiết lập) quán niệm theo nghĩa thiết lập (nền tảng) của
chúng. Vị ấy tổng hợp chánh tinh tấn theo nghĩa nỗ lực của chúng. Vị ấy
tổng hợp nền tảng của thần thông (con đường dẫn đến năng lực) theo nghĩa
thành tựu của chúng. Vị ấy tổng hợp các sự thực theo nghĩa chân như
(hiện thực) của chúng.
213. Vị ấy tổng hợp tĩnh lặng
theo nghĩa không tán loạn của nó. Vị ấy tổng hợp quán thực tánh theo
nghĩa quán tưởng. Vị ấy tổng hợp tĩnh lặng và quán thực tánh theo nghĩa
tác dụng (hương vị) duy nhất của chúng. Vị ấy tổng hợp sự phối hợp theo
nghĩa không vượt quá của nó.
214. Vị ấy tổng hợp tiến trình
thanh lọc giới theo nghĩa chế ngự của nó. Vị ấy tổng hợp tiến trình
thanh lọc tâm theo nghĩa không tán loạn của nó. Vị ấy tổng hợp tiến
trình thanh lọc quan điểm theo nghĩa thấy rõ của nó. Vị ấy tổng hợp giải
thoát theo nghĩa tiêu dao tự tại của nó. [182] Vị ấy tổng hợp minh trí
theo nghĩa hiểu rõ. Vị ấy tổng hợp tiêu dao tự tại theo nghĩa từ bỏ của
nó. Vị ấy tổng hợp trí hủy diệt theo nghĩa cắt đứt của nó. Vị ấy tổng
hợp trí về không sanh khởi theo nghĩa làm lắng dịu của nó.
215. Vị ấy tổng hợp hăng hái
theo nghĩa nguồn gốc của nó. Vị ấy tổng hợp chú tâm suy xét theo
nghĩa nguồn sanh khởi của nó. Vị ấy tổng hợp xúc theo nghĩa gặp
gỡ của nó. Vị ấy tổng hợp định theo nghĩa tiên phong của nó. Vị
ấy tổng hợp niệm theo nghĩa ưu thắng của nó. Vị ấy tổng hợp
tuệ theo nghĩa cao nhất trong tất cả của nó. Vị ấy tổng hợp tiêu
dao tự tại theo nghĩa cốt lõi của nó. Vị ấy tổng hợp Nibbana,
vốn nhập vào với bất tử, theo nghĩa chấm dứt của nó. Người này tổng hợp
đạo lộ ấy trên đối tượng này. ‘Vị ấy tổng hợp các trạng thái [khác]’
được nói vì lý do đó.
216. Vị ấy hiểu rõ lãnh vực
của chúng: ... [vân vân... như ở đđ 205*
cho đến hết].
*
Nguyên văn: đđ
106-7. Trong Luận III, hai đoạn này không mang cùng nội dung để lập lại.
Tôi đã sửa lại cho đúng (như ở đ. 205).
(ii)
217. Như thế nào là (3) đang
thở vào một hơi ngắn, vị ấy biết rõ ‘Tôi thở vào hơi ngắn’; (4) đang thở
ra một hơi ngắn, vị ấy biết rõ ‘Tôi thở ra hơi ngắn’?
[Phân Tích Đề Mục Quán Tưởng]
218. (a) Vị ấy thở vào một hơi
ngắn đo bằng một chốc ngắn ngủi. (b) Vị ấy thở ra một hơi ngắn đo bằng
một chốc ngắn ngủi. (c) Vị ấy thở vào và thở ra những hơi thở vào ngắn
và những hơi thở ra ngắn đo bằng một chốc ngắn ngủi. Khi vị ấy thở vào
và thở ra những hơi thở vào ngắn và những hơi thở ra ngắn đo bằng một
chốc ngắn ngủi, tinh tấn khởi lên. (d) Với hăng hái, vị ấy thở vào hơi
thở ngắn tinh tế hơn trước đo bằng một chốc ngắn ngủi. (e) ... [và cứ
thế như ở đoạn đ. 195 cho đến hết, thay chữ dài bằng chữ ngắn
và thay chữ khoảng cách bằng một chốc ngắn ngủi].
[Nền tảng của Quán Niệm]
219. Những hơi thở vào và những
hơi thở ra ngắn theo chín khía cạnh là thân thể. Thiết lập (nền tảng) là
quán niệm. Quán là trí. Thân được gọi là thiết lập (nền tảng), nhưng nó
không phải là quán niệm. Quán niệm vừa là thiết lập (nền tảng) [183] vừa
là quán niệm. Nhờ vào quán niệm và nhờ vào trí, vị ấy quán thân. Đó là
lý do tại sao nói ‘Tu tập nền tảng (thiết lập) quán niệm dưới hình thức
quán thân đúng như thân’.
220. Vị ấy quán: ...
[lập lại đ. 197].
221. Tu tập: ... [lập
lại đ. 198].
[Bài tập Quán Niệm và Hiểu
Biết Thấu Đáo Tường Tận]
222-225. Khi vị ấy biết chắc sự
nhất tâm và không phân tán qua những hơi thở vào dài và hơi thở ra dài,
cảm nghiệm của vị ấy được nhận biết rõ khi chúng khởi lên, ... [và cứ
thế như ở đđ 199-202 cho đến hết].
[Tổng hợp các Năng Lực Gây
Ảnh Hưởng...]
226-238. Khi vị ấy biết chắc sự
nhất tâm và không phân tán qua những hơi thở vào dài và hơi thở ra dài,
vị ấy tổng hợp các năng lực gây ảnh hưởng, hiểu rõ lãnh vực của chúng,
thể nhập được ý nghĩa của nhất như; vị ấy tổng hợp các lực, ... [và cứ
thế như ở đđ 199-202 cho đến hết].
(iii)
239. Như thế nào là (5) Vị
ấy tập như vầy: ‘Kinh nghiệm toàn thân [hơi thở], tôi sẽ thở
vào’; (6) Vị ấy tập như vầy: ‘Kinh nghiệm toàn thân [hơi thở],
tôi sẽ thở ra’?
[Phân Tích Đề Mục Quán Tưởng]
240. Thân: có hai loại
thân: thân tâm thức và thân vật thể.
Thân tâm thức là gì? Cảm
nghiệm, nhận thức, chủ ý, xúc, chú tâm suy xét, tâm tánh*
là thân tâm thức, và cái được gọi là hành vi của tâm cũng thế:
những điều này là thân tâm thức.
*
tâm tánh (nāma
= mentality: lề thói, cung cách suy nghĩ)
Thân vật thể là gì? Bốn yếu tố
chính và các yếu tố rút ra từ những yếu tố chính này, hơi thở vào và hơi
thở ra, dấu hiệu buộc [quán niệm], và những gì được gọi là hành vi của
thân cũng thế: đây là thân vật thể.
241. Vị ấy kinh nghiệm các thân
này như thế nào? Khi vị ấy biết chắc sự nhất tâm và không phân tán qua
những hơi thở vào dài, quán niệm của vị ấy được thiết lập (đặt nền
tảng). Nhờ vào quán niệm đó và nhờ vào trí đó, vị ấy kinh nghiệm các
thân này. Khi vị ấy biết chắc sự nhất tâm và không phân tán qua những
hơi thở ra dài, ... qua những hơi thở vào ngắn, ... qua những hơi thở ra
ngắn, ... quán niệm của vị ấy được thiết lập (đặt nền tảng). Nhờ vào
quán niệm đó và nhờ vào trí đó, vị ấy kinh nghiệm các thân này.
242. Khi vị ấy hướng tới, vị ấy
kinh nghiệm các thân này. Khi vị ấy biết rõ, vị ấy kinh nghiệm các thân
này. Khi vị ấy thấy rõ,... duyệt lại,... dứt khoát tâm của mình,... cả
quyết bằng niềm tin,... nỗ lực tinh cần,... thiết lập (đặt nền tảng)
quán niệm,... định tâm,... Khi vị ấy biết rõ bằng tuệ,... Khi vị ấy trực
tiếp chứng biết cái cần được chứng biết trực tiếp,... Khi vị ấy hiểu
biết đầy đủ cái cần được hiểu biết đầy đủ,... [184] Khi vị ấy từ bỏ cái
cần được từ bỏ,... Khi vị ấy tu tập cái cần được tu tập,... Khi vị ấy
thực chứng cái cần được thực chứng, vị ấy kinh nghiệm các thân này. Các
thân này được kinh nghiệm như thế đấy.
[Nền tảng của Quán Niệm]
243. Những hơi thở và và hơi
thở ra trong khi kinh nghiệm toàn thân [hơi thở] là một thân. Thiết lập
(nền tảng) là quán niệm. Quán là trí. Thân đó được gọi là thiết lập (nền
tảng), nhưng nó không phải là quán niệm. Quán niệm vừa là thiết lập (nền
tảng) vừa là quán niệm. Nhờ vào quán niệm và nhờ vào trí đó, vị ấy quán
thân đó. Đó là lý do tại sao nói ‘Tu tập nền tảng (thiết lập) quán niệm
dưới hình thức quán thân đúng như thân’.
244. Vị ấy quán: ...
[lập lại đ. 197].
245. Tu tập: ... [lập
lại đ. 198].
[Tập luyện]
246. Những hơi thở vào và hơi
thở ra trong khi kinh nghiệm toàn thân [hơi thở] là Tiến Trình Thanh Lọc
Giới theo nghĩa chế ngự; những hơi thở vào và ra ấy là Tiến Trình Thanh
Lọc Tâm theo nghĩa không phân tán; những hơi thở vào và ra ấy là Tiến
Trình Thanh Lọc Quan Điểm theo nghĩa chứng thấy. Nghĩa của chế ngự trong
đó là tu tập về Giới Tăng Thượng; nghĩa của không phân tán trong đó là
tu tập về Tâm Tăng Thượng; nghĩa của chứng thấy trong đó là tu tập về
Tuệ Tăng Thượng.
247. Khi chú ý đến ba loại tu
tập này vị ấy tu tập, khi biết rõ chúng, vị ấy tu tập, khi thấy rõ, ...
[và cứ thế như ở đ. 242 cho đến] ... khi vị ấy thực chứng điều cần được
thực chứng, vị ấy tu tập.
[Bài tập Quán Niệm và Hiểu
Biết Thấu Đáo Tường Tận]
248-251. Khi vị ấy biết chắc sự
nhất tâm và không tán loạn qua những hơi thở vào dài và hơi thở ra dài,
trong khi kinh nghiệm toàn thân [hơi thở], cảm nghiệm của vị ấy được
nhận biết rõ khi chúng khởi lên, ... [và cứ thế như ở đđ 199-202 cho đến
hết].
[Tổng hợp các Năng Lực Gây
Ảnh Hưởng...]
252-264. Khi vị ấy biết chắc sự
nhất tâm và không tán loạn qua những hơi thở vào dài và hơi thở ra dài,
trong khi kinh nghiệm toàn thân [hơi thở], vị ấy tổng hợp các năng lực
gây ảnh hưởng, hiểu rõ lãnh vực của chúng, thể nhập được ý nghĩa của
nhất như; vị ấy tổng hợp các lực... [và cứ như thế như ở đđ 203-215 cho
đến hết].
(iv)
265. Như thế nào là (7) Vị
ấy tập như vầy: ‘Làm lắng dịu hành vi của thân, tôi sẽ thở vào’; (8) Vị
ấy tập như vầy: ‘Làm lắng dịu hành vi của thân, tôi sẽ thở ra’?
[Phân Tích Đề Mục Quán Tưởng]
266. Hành vi của thân là
gì? Những hơi thở vào dài là thân; những hơi thở này có liên hệ mật
thiết với cơ thể, là hành vi của thân,[23]
vị ấy tu tập cho lắng dịu, cho ngưng lại, cho tịch lặng những hành vi
của thân này. Những hơi thở ra dài thuộc về thân;... Những hơi thở vào
ngắn thuộc về thân;... Những hơi thở ra ngắn thuộc về thân;... Những hơi
thở vào trong khi kinh nghiệm toàn thân [hơi thở] thuộc về thân;...
Những hơi thở ra trong khi kinh nghiệm toàn thân [hơi thở] thuộc về
thân; những hơi thở này có liên hệ mật thiết với cơ thể, là hành vi của
thân, vị ấy tu tập cho lắng dịu, cho ngưng lại, cho tịch lặng những hành
vi của thân này.
Lúc có những hành vi của thân
như thế vì thân nghiêng phía sau, qua lại, theo mọi hướng, nghiêng phía
trước, dao động, khích động, di chuyển, lay động, [185] vị ấy tu tập như
vầy ‘Làm lắng dịu hành vi của thân, tôi sẽ thở ra’. Lúc có những hành vi
của thân như thế vì thân không nghiêng phía sau, qua lại, theo mọi
hướng, nghiêng phía trước, khích động, thay đổi luôn, di chuyển, lay
động, vắng lặng và tinh tế, vị ấy tu tập như vầy ‘Làm lắng dịu hành vi
của thân, tôi sẽ thở vào’.
Rồi vị tỳ kheo tu tập như vầy
‘Làm lắng dịu hành vi của thân, tôi sẽ thở vào’, vị tỳ kheo tu tập như
vầy ‘Làm lắng dịu hành vi của thân, tôi sẽ thở ra’: nhờ thế, không tạo
ra kinh nghiệm hơi gió, và không tạo ra những hơi thở ra và hơi thở vào,
và không tạo ra quán hơi thở, và không tạo ra định nhờ quán hơi thở, và
kết quả là bậc trí không thâm nhập vào và không xuất khởi từ thành tựu
đó.
Rồi vị tỳ kheo tu tập như vầy
‘Làm lắng dịu hành vi của thân, tôi sẽ thở vào’, vị tỳ kheo tu tập như
vầy ‘Làm lắng dịu hành vi của thân, tôi sẽ thở ra: nhờ thế, tạo ra kinh
nghiệm hơi gió, và có tạo ra những hơi thở ra và hơi thở vào, và có tạo
ra quán hơi thở, và có tạo ra định nhờ quán hơi thở, và kết quả là bậc
trí thâm nhập vào và xuất khởi ra từ thành tựu đó. Như cái gì? Như gõ
cái chiêng. Thoạt tiên, âm thanh thô sượng đục phát ra và [tâm diễn ra]
vì biểu tượng của âm thanh sượng này được nhận biết rõ, chú ý đến, được
quan sát kỹ; và khi âm thanh thô sượng này ngưng, rồi sau đó những âm
thanh yếu ớt xảy ra và [tâm diễn ra] vì biểu tượng
[24]
của âm thanh yếu ớt này được nhận biết rõ, chú ý đến, được quan sát kỹ;
và khi âm thanh yếu ớt này ngưng, thì sau đó tâm xảy ra vì nó có dấu
hiệu của những âm thanh yếu ớt này làm đối tượng - cũng thế, thoạt tiên
những hơi thở vào và hơi thở ra thô xảy ra và [tâm không bị tán loạn] vì
dấu hiệu của những hơi thở vào và hơi thở ra thô được nhận biết rõ, chú
ý đến, được quan sát kỹ; và khi những hơi thở vào và hơi thở ra thô này
ngưng, rồi sau đó những hơi thở vào [186] và hơi thở ra yếu ớt xảy ra và
[tâm không bị phân tán] vì biểu tượng của những hơi thở vào và hơi thở
ra yếu ớt này được nhận biết rõ, chú ý đến, được quan sát kỹ; và khi
những hơi thở vào và hơi thở ra yếu ớt này ngưng, thì sau đó tâm xảy ra
vì nó có dấu hiệu của những những hơi thở vào và hơi thở ra yếu ớt này
làm đối tượng của nó. Nhờ thế, có tạo ra kinh nghiệm hơi gió, và có tạo
ra những hơi thở ra và hơi thở vào, và có tạo ra quán hơi thở, và có tạo
ra định nhờ quán hơi thở, và kết quả là bậc trí thâm nhập vào và xuất
khởi từ thành tựu đó.
[Nền tảng của Quán Niệm]
267. Những hơi thở vào và hơi
thở ra làm lắng dịu hành vi của thân là một thân. Thiết lập (nền tảng)
là quán niệm. Quán là trí. Thân được gọi là thiết lập (nền tảng), nhưng
nó không phải là quán niệm. Quán niệm vừa là thiết lập (nền tảng) vừa là
quán niệm. Nhờ vào quán niệm và nhờ vào trí, vị ấy quán thân đó. Đó là
lý do tại sao nói ‘Tu tập nền tảng (thiết lập) quán niệm dưới hình thức
quán thân đúng như thân’.
268. Vị ấy quán: ...
[lập lại đ 197].
269. Tu tập: ... [lập
lại đ 198].
[Tập luyện]
270-271. Những hơi thở vào và
hơi thở ra trong khi kinh nghiệm toàn thân [hơi thở] là Tiến Trình Thanh
Lọc Giới theo nghĩa chế ngự; ... [lập lại phần còn lại của đđ 246-247
cho đến hết].
[Bài tập Quán Niệm và Hiểu
Biết Thấu Đáo Tường Tận]
272-275. Khi vị ấy biết chắc sự
nhất tâm và không phân tán qua những hơi thở vào dài và hơi thở ra dài
làm lắng dịu hành vi của thân, cảm nghiệm của vị ấy được nhận biết
rõ khi chúng khởi lên,... [và cứ thế như ở đđ 199-202 cho đến hết].
[Tổng hợp các Năng Lực Gây
Ảnh Hưởng...]
276-288. Khi vị ấy biết chắc sự
nhất tâm và không phân tán qua hơi thở vào dài và hơi thở ra dài làm
lắng dịu hành vi của thân, vị ấy tổng hợp các năng lực gây ảnh hưởng,
hiểu rõ lãnh vực của chúng, thấu rõ được ý nghĩa của nhất như; vị ấy
tổng hợp các lực... [và cứ thế như ở đđ 203-206 cho đến hết].
[Kết Luận Đoạn Bốn Câu Thứ
Nhất]
289. Tám loại trí về quán, và
tám loại thiết lập (nền tảng) của quán niệm.
Bốn nền tảng từ Kinh đề cập tới
sự quán tưởng thân đúng như thân.
CHẤM DỨT PHẦN THUẬT KỂ.
(v)
290. (9) Như thế nào là vị
ấy tập như vầy: ‘Cảm nghiệm hoan hỉ, tôi sẽ thở vào’; (10) vị ấy tập như
vầy: ‘Cảm nghiệm hỉ, tôi sẽ thở ra’?
[Phân Tích Đề Mục Quán Tưởng]
291. Hỉ là gì? Khi vị ấy
biết chắc sự nhất tâm và không phân tán qua những hơi thở vào dài, vì hỉ
nên hân hoan khởi lên trong vị ấy... Khi vị ấy biết chắc sự nhất tâm và
không phân tán qua những hơi thở ra dài,... qua những hơi thở vào
ngắn... qua những hơi thở ra ngắn, qua những hơi thở vào trong khi kinh
nghiệm [187] toàn thân [hơi thở],... qua những hơi thở ra trong khi kinh
nghiệm toàn thân [hơi thở] qua những hơi thở vào làm lắng dịu hành vi
của thân, qua những hơi thở ra dài làm lắng dịu hành vi của thân, vì hỉ
nên hân hoan khởi lên trong vị ấy. Bất cứ hỉ nào, hân hoan nào, hành vi
tạo hân hoan nào, sự hoan hỷ nào, vui vẻ nào, khoan khoái nào, thỏa mãn
nào, thơ thới nào, tâm tư thanh thoát nào, là hỉ.[25]
292. Vị ấy kinh nghiệm hỉ như
thế nào? Khi vị ấy biết chắc sự nhất tâm và không phân tán qua những hơi
thở vào dài, quán niệm của vị ấy được thiết lập (đặt nền tảng). Nhờ vào
quán niệm đó và nhờ vào trí đó, vị ấy kinh nghiệm hỉ đó. Khi vị ấy biết
chắc sự nhất tâm và không phân tán qua những hơi thở ra dài,... qua
những hơi thở vào ngắn,... qua những hơi thở ra ngắn,... qua những hơi
thở vào trong khi kinh nghiệm toàn thân [hơi thở],... qua những hơi thở
ra trong khi kinh nghiệm toàn thân [hơi thở], qua những hơi thở vào làm
lắng dịu hành vi của thân, qua những hơi thở ra làm lắng dịu hành vi của
thân, quán niệm của vị ấy được thiết lập (đặt nền tảng). Nhờ vào quán
niệm đó và nhờ vào trí đó, vị ấy kinh nghiệm hỉ đó.
293. Khi vị ấy hướng tới, vị ấy
kinh nghiệm hỉ đó. Khi vị ấy biết rõ, hỉ đó được kinh nghiệm... [và cứ
thế như ở đ. 242 cho đến]... Khi vị ấy thực chứng cái cần được thực
chứng, vị ấy kinh nghiệm hỉ đó. Hỉ đó được kinh nghiệm như thế đấy.
[Nền tảng của Quán Niệm]
294. Qua những hơi thở vào và
hơi thở ra trong khi kinh nghiệm toàn thân [hơi thở] có cảm giác. Thiết
lập (nền tảng) là quán niệm. Quán là trí. Cảm giác là sự thiết lập (nền
tảng), nhưng nó không phải là quán niệm. Quán niệm vừa là thiết lập (nền
tảng) vừa là quán niệm. Nhờ vào quán niệm và nhờ vào trí, vị ấy quán cảm
giác đó. Đó là lý do tại sao nói ‘Tu tập nền tảng (thiết lập) quán niệm
dưới hình thức quán cảm giác đúng như cảm giác’.
295. Vị ấy quán: ...
[lập lại đ. 197].
296. Tu tập: ... [lập
lại đ. 198].
[Tập luyện]
297-298. Những hơi thở vào và
hơi thở ra trong khi kinh nghiệm hỉ là Tiến Trình Thanh Lọc Giới
theo nghĩa chế ngự;... [lập lại những đoạn còn lại của đđ 246-247 cho
đến hết].
[Bài tập Quán Niệm và Hiểu
Biết Thấu Đáo Tường Tận]
299-302. Khi vị ấy biết chắc sự
nhất tâm và không phân tán qua hơi thở vào và hơi thở ra trong khi kinh
nghiệm hỉ, cảm nghiệm của vị ấy được nhận biết rõ khi chúng khởi lên,...
[và cứ thế như ở đđ 199-202 cho đến hết].
[Tổng hợp các Năng Lực Gây
Ảnh Hưởng...]
303-315. Khi vị ấy biết chắc sự
nhất tâm và không phân tán qua hơi thở vào và hơi thở ra trong khi kinh
nghiệm hỉ, vị ấy tổng hợp các năng lực gây ảnh hưởng, hiểu rõ lãnh vực
của chúng, thể nhập được ý nghĩa của nhất như; vị ấy tổng hợp các lực...
[và cứ thế như ở đđ 203-215 cho đến hết].
(vi)
316. (11) Như thế nào là vị
ấy tập như vầy: ‘Cảm nghiệm lạc, tôi sẽ thở vào; (12) vị ấy tập như vầy:
‘Cảm nghiệm lạc, tôi sẽ thở ra’?
[Phân Tích Đề Mục Quán Tưởng]
317. Lạc là gì? Lạc có
hai loại: Lạc thuộc thân và lạc thuộc tâm.
Lạc thuộc thân là gì? Bất cứ sự
khỏe khoắn cơ thể, cơ thể dễ chịu, cơ thể khoẻ khoắn và dễ chịu sanh do
tiếp xúc với thân, chào đón cảm giác dễ chịu sanh từ xúc chạm với thân,
là lạc thuộc thân.[26]
Lạc thuộc tâm là gì? Bất cứ sự
khỏe khoắn tâm tư, tâm tư dễ chịu, tâm tư khoẻ khoắn và dễ chịu sanh do
tiếp xúc với tâm, chào đón cảm thọ dễ chịu sanh từ xúc chạm với tâm, là
lạc thuộc tâm.
318. Vị ấy kinh nghiệm lạc đó
như thế nào? Khi vị ấy biết chắc sự nhất tâm và không phân tán qua những
hơi thở vào dài,... qua những hơi thở ra dài,... qua những hơi thở vào
ngắn... qua những hơi thở ra ngắn, qua những hơi thở vào trong khi kinh
nghiệm toàn thân [hơi thở],... qua những hơi thở ra trong khi kinh
nghiệm toàn thân [hơi thở],... qua những hơi thở vào dài làm lắng dịu
hành vi của thân, qua những hơi thở ra dài làm lắng dịu hành vi của
thân, qua những hơi thở vào trong khi kinh nghiệm lạc,... qua những hơi
thở ra trong khi kinh nghiệm lạc... quán niệm của vị ấy được thiết lập
(đặt nền tảng). Nhờ vào quán niệm đó và nhờ vào trí đó, vị ấy kinh
nghiệm lạc đó.
319. Khi vị ấy hướng tâm tới,
vị ấy kinh nghiệm lạc đó. Khi vị ấy biết rõ,... [và cứ thế như ở đ 242
cho đến]... Khi vị ấy thực chứng cái cần được thực chứng, vị ấy kinh
nghiệm hỉ đó. Hỉ đó được kinh nghiệm như thế đấy.
[Nền tảng của Quán Niệm]
320. Qua hơi thở vào và hơi thở
ra trong khi kinh nghiệm lạc, có cảm nghiệm. Thiết lập (nền tảng) là
quán niệm. Quán là trí. Cảm nghiệm là sự thiết lập (nền tảng), nhưng nó
không phải là quán niệm. Quán niệm vừa là thiết lập (nền tảng) vừa là
quán niệm. Nhờ vào quán niệm và nhờ vào trí, vị ấy quán cảm nghiệm đó.
Đó là lý do tại sao nói ‘Tu tập nền tảng (thiết lập) quán niệm dưới hình
thức quán cảm giác đúng như cảm giác’.
321. Vị ấy quán: ...
[lập lại đ 197].
322. Tu tập: ... [lập
lại đ 198].
[Tập luyện]
323-324. Những hơi thở vào và
hơi thở ra trong khi kinh nghiệm lạc là Tiến Trình Thanh Lọc Giới theo
nghĩa chế ngự;... [lập lại những phần còn lại của đđ 246-247 cho đến
hết].
[Bài tập Quán Niệm và Hiểu
Biết Thấu Đáo Tường Tận]
325-328. Khi vị ấy biết chắc sự
nhất tâm và không phân tán qua hơi thở vào và hơi thở ra trong khi kinh
nghiệm lạc, cảm nghiệm của vị ấy được nhận biết rõ khi chúng khởi
lên,... [và cứ thế như ở đđ 199-202 cho đến hết].
[Tổng hợp các Năng Lực Gây
Ảnh Hưởng...]
329-341. Khi vị ấy biết chắc sự
nhất tâm và không phân tán qua hơi thở vào và hơi thở ra trong khi kinh
nghiệm lạc, vị ấy tổng hợp các năng lực gây ảnh hưởng, hiểu rõ lãnh vực
của chúng, thể nhập được ý nghĩa của nhất như; vị ấy tổng hợp các
lực,... [và cứ thế như ở đđ 203-215 cho đến hết].
(vii)
342. (13) Như thế nào là vị
ấy tập như vầy: ‘Kinh nghiệm hành vi của tâm, tôi sẽ thở vào’; (14) vị
ấy tập như vầy: ‘Kinh nghiệm hành vi của tâm, tôi sẽ thở ra?
[Phân Tích Đề Mục Quán Tưởng]
343. Hành vi của tâm là
gì? Nhận thức và cảm thọ vì những hơi thở vào dài là thuộc tâm; những
thứ này có liên hệ mật thiết với tâm, là những hành vi của tâm.23
Nhận thức và cảm thọ vì những hơi thở ra dài,... những hơi thở vào
ngắn... những hơi thở ra ngắn... những hơi thở vào trong khi kinh nghiệm
toàn thân [hơi thở],... những hơi thở ra trong khi kinh nghiệm toàn thân
[hơi thở],... những hơi thở vào dài làm lắng dịu hành vi của thân, những
hơi thở ra dài làm lắng dịu hành vi của thân, những hơi thở ra trong khi
kinh nghiệm lạc,... những hơi thở vào trong khi kinh nghiệm lạc,...
những hơi thở ra trong khi kinh nghiệm lạc là thuộc tâm; những thứ này
có liên hệ mật thiết với tâm, là những hành vi của tâm. Đây là hành vi
của tâm.
344. Vị ấy kinh nghiệm lạc đó
như thế nào? Khi vị ấy biết chắc sự nhất tâm và không tán loạn qua những
hơi thở vào dài,... những hơi thở ra dài,... những hơi thở vào ngắn...
những hơi thở ra ngắn, những hơi thở vào trong khi kinh nghiệm toàn thân
[hơi thở],... những hơi thở ra trong khi kinh nghiệm toàn thân [hơi
thở],... những hơi thở vào dài làm lắng dịu hành vi của thân, những hơi
thở ra dài làm lắng dịu hành vi của thân, những hơi thở vào trong khi
kinh nghiệm hỉ,... những hơi thở ra trong khi kinh nghiệm hỉ... những
hơi thở vào trong khi kinh nghiệm lạc,... những hơi thở ra trong khi
kinh nghiệm lạc... quán niệm của vị ấy được thiết lập (đặt nền tảng).
Nhờ vào quán niệm đó và nhờ vào trí đó, những hành vi của tâm đó được
kinh nghiệm .
345. Khi vị ấy hướng tâm tới,
những hành vi của tâm đó được kinh nghiệm. Khi vị ấy biết rõ, hỉ đó được
kinh nghiệm... [và cứ thế như ở đ 242 cho đến]... Khi vị ấy thực chứng
cái cần được thực chứng, những hành vi của tâm đó được kinh nghiệm.
Những hành vi của tâm đó được kinh nghiệm như thế đấy.
[Nền tảng của Quán Niệm]
346. Qua hơi thở vào và hơi thở
ra trong khi kinh nghiệm hành vi của tâm đó nên có cảm nghiệm. Thiết lập
(nền tảng) là quán niệm. Quán là trí. Cảm nghiệm là sự thiết lập (nền
tảng), nhưng nó không phải là quán niệm. Quán niệm vừa là thiết lập (nền
tảng) vừa là quán niệm. Nhờ vào quán niệm và nhờ vào trí, vị ấy quán cảm
nghiệm đó. Đó là lý do tại sao nói ‘Tu tập nền tảng (thiết lập) quán
niệm dưới hình thức quán cảm giác đúng như cảm giác’.
347. Vị ấy quán: ...
[lập lại đ 197].
348. Tu tập: ... [lập
lại đ 198].
[Tập luyện]
349-350. Những hơi thở vào và
hơi thở ra trong khi kinh nghiệm hành vi của tâm là Tiến Trình Thanh Lọc
Giới theo nghĩa chế ngự;... [lập lại những đoạn còn lại của đđ 246-247
cho đến hết].
[Bài tập Quán Niệm và Hiểu
Biết Thấu Đáo Tường Tận]
351-354. Khi vị ấy biết chắc sự
nhất tâm và không phân tán qua hơi thở vào và hơi thở ra trong khi kinh
nghiệm hành vi của tâm, các cảm nghiệm của vị ấy được nhận biết rõ khi
chúng khởi lên,... [và cứ thế như ở đđ 199-202 cho đến hết].
[Tổng hợp các Năng Lực Gây
Ảnh Hưởng...]
355-367. Khi vị ấy biết chắc sự
nhất tâm và không phân tán qua hơi thở vào và hơi thở ra trong khi kinh
nghiệm hành vi của tâm, vị ấy tổng hợp các năng lực gây ảnh hưởng, hiểu
rõ lãnh vực của chúng, thấu rõ được ý nghĩa của nhất như; vị ấy tổng hợp
các lực... [và cứ thế như ở đđ 203-215 cho đến hết].
(viii)
368. (15) Như thế nào là vị
ấy tập như vầy: ‘Lắng dịu hành vi của tâm, tôi sẽ thở vào’; (16) vị ấy
tập như vầy: ‘Lắng dịu hành vi của tâm, tôi sẽ thở ra’?
[Phân Tích Đề Mục Quán Tưởng]
369. Hành vi của tâm là
gì? Nhận thức và cảm thọ vì những hơi thở vào dài... những hơi thở ra
dài... những hơi thở vào ngắn... những hơi thở ra ngắn... những hơi thở
vào trong khi kinh nghiệm toàn thân [hơi thở],... những hơi thở ra trong
khi kinh nghiệm toàn thân [hơi thở], những hơi thở vào làm lắng dịu hành
vi của thân, những hơi thở ra làm lắng dịu hành vi của thân, những hơi
thở ra trong khi kinh nghiệm hỉ,... những hơi thở vào trong khi kinh
nghiệm hỉ,... những hơi thở ra trong khi kinh nghiệm lạc,... những hơi
thở vào trong khi kinh nghiệm lạc,... những hơi thở ra trong khi kinh
nghiệm hành vi của tâm,... những hơi thở vào trong khi kinh nghiệm hành
vi của tâm
là thuộc tâm; những thứ này có
liên hệ mật thiết với tâm, là những hành vi của tâm; vị ấy tu tập cho
lắng dịu, cho ngưng lại, cho tịch lặng những hành vi của tâm này.
[Nền tảng của Quán Niệm]
370. Qua hơi thở vào và hơi thở
ra trong khi kinh nghiệm hành vi của tâm đó nên có cảm nghiệm. Thiết lập
(nền tảng) ... Đó là lý do tại sao nói ‘Tu tập nền tảng (thiết lập) quán
niệm dưới hình thức quán cảm giác đúng như cảm giác’.
371. Vị ấy quán: ...
[lập lại đ 197].
372. Tu tập: ... [lập
lại đ 198].
[Tập luyện]
373-374. Những hơi thở vào và
hơi thở ra làm lắng dịu hành vi của tâm là Tiến Trình Thanh Lọc Giới
theo nghĩa chế ngự...
«lập
lại những đoạn còn lại của đđ 246-247 cho đến hết».*
* bản
POD không có những chữ trong ngoặc kép
«»
này. Tôi tiếp nối các đoạn trước để giòng tư tưởng của quý vị không bị
đứt đoạn.
[Bài tập Quán Niệm và Hiểu
Biết Thấu Đáo Tường Tận]
375-378. Khi làm lắng dịu hành
vi của tâm qua những hơi thở vào và hơi thở ra, vị ấy biết rõ sự nhất
tâm và không phân tán, các cảm nghiệm của vị ấy được nhận biết rõ khi
chúng khởi lên...
«và
cứ thế như ở đđ 199-202 cho đến hết».
[Tổng hợp các Năng Lực Gây
Ảnh Hưởng...]
379-391. Khi vị ấy biết chắc sự
nhất tâm và không phân tán qua hơi thở vào và hơi thở ra làm tĩnh lặng
hành vi của tâm, vị ấy tổng hợp các năng lực gây ảnh hưởng...
«và
cứ thế như ở đđ 203-215 cho đến hết».
[Kết luận Đoạn Bốn Câu Thứ
Hai]
392. Tám loại trí về quán, và
tám loại thiết lập (nền tảng) của quán niệm. Bốn nền tảng từ Kinh đề cập
tới quán cảm giác đúng như cảm giác.
(ix)
393. (17) Như thế nào là vị
ấy tập như vầy: ‘Kinh nghiệm tâm, tôi sẽ thở vào; (18) vị ấy tập như
vầy:‘ Kinh nghiệm tâm, tôi sẽ thở ra’?
[Phân Tích Đề Mục Quán Tưởng]
394. Tâm đó là
gì? Có tâm là thức do những hơi thở vào dài;... Có tâm là thức do những
hơi thở vào ngắn;... [và cứ thế với tất cả các hình thái khác cho
đến]... Có tâm là thức do những hơi thở ra làm tĩnh lặng hành vi của
thân; bất cứ thức, ý, sự tạo ý niệm, tâm, sự trong suốt, [190] ý, ý xứ,
năng lực gây ảnh hưởng, thức, tập hợp thức, <yếu tố ý thức do các yếu tố
đã nói ấy tạo ra> nào, là tâm.[27]
*
* Đọc
Như Nhiên, Phân Tích, đ 184 nói về nguyên tố ý & ý thức.
395. Vị ấy kinh nghiệm tâm đó
như thế nào? Khi vị ấy biết chắc sự nhất tâm và không phân tán qua những
hơi thở vào dài,... [và cứ thế với tất cả các hình thái khác cho đến]...
Khi vị ấy biết chắc sự nhất tâm và không phân tán qua hơi thở vào và hơi
thở ra làm lắng dịu hành vi của tâm, quán niệm của vị ấy được thiết lập
(đặt nền tảng). Nhờ vào quán niệm đó và nhờ vào trí đó vị ấy kinh nghiệm
tâm đó.
396. Khi vị ấy hướng tâm tới,
những hành vi của tâm đó được kinh nghiệm. Khi vị ấy biết rõ,... [và cứ
thế như ở đ 242 cho đến]... Khi vị ấy thực chứng cái cần được thực
chứng, vị ấy kinh nghiệm hành vi của tâm đó. Vị ấy kinh nghiệm hành vi
của tâm đó như thế đãy.
[Nền tảng của Quán Niệm]
397. Qua hơi thở vào và hơi thở
ra trong khi kinh nghiệm tâm nên có tâm làm thức. Thiết lập (nền tảng)
là quán niệm. Quán là trí. Tâm làm thức là sự thiết lập (nền tảng),
nhưng nó không phải là quán niệm. Quán niệm vừa là thiết lập (nền tảng)
vừa là quán niệm. Nhờ vào quán niệm đó và nhờ vào trí đó, vị ấy quán tâm
làm thức đó. Đó là lý do tại sao nói ‘Tu tập nền tảng (thiết lập) quán
niệm dưới hình thức quán tâm đúng như tâm’.
398. Vị ấy quán: ...
«lập
lại đ 197».
399. Tu tập: ...
«lập
lại đ 198».
[Tập luyện]
400-402. Những hơi thở vào và
hơi thở ra trong khi kinh nghiệm tâm là Tiến Trình Thanh Lọc Giới theo
nghĩa chế ngự;...
«lập
lại những đoạn còn lại của đđ 246-247 cho đến hết».
[Bài tập Quán Niệm và Hiểu
Biết Thấu Đáo Tường Tận]
402-405. Khi vị ấy biết chắc sự
nhất tâm và không phân tán qua hơi thở vào và hơi thở ra trong khi kinh
nghiệm tâm, các cảm nghiệm của vị ấy được nhận biết rõ khi chúng khởi
lên,... «và
cứ thế như ở đđ 199-202 cho đến hết».
[Tổng hợp các Năng Lực Gây
Ảnh Hưởng...]
406-418. Khi vị ấy biết chắc sự
nhất tâm và không phân tán qua hơi thở vào và hơi thở ra trong khi kinh
nghiệm tâm, vị ấy tổng hợp các năng lực gây ảnh hưởng,...
«hiểu
rõ lãnh vực của chúng, thể nhập được ý nghĩa của nhất như; vị ấy tổng
hợp các lực... và cứ thế như ở đđ 203-215 cho đến hết».
(x)
419. (19) Như thế nào là vị
ấy tập như vầy: ‘Làm tâm hân hoan, tôi sẽ thở vào’; (20) vị ấy tập như
vầy: ‘Làm tâm hân hoan, tôi sẽ thở ra’?
[Phân Tích Đề Mục Quán Tưởng]
420. Làm cho tâm hân hoan
là gì? Khi vị ấy biết chắc sự nhất tâm và không phân tán qua hơi thở
vào, ... [và cứ thế với tất cả các hình thái khác cho đến]... Khi vị ấy
biết chắc sự nhất tâm và không phân tán qua hơi thở ra trong khi kinh
nghiệm tâm, hành vi làm tâm hân hoan khởi lên trong vị ấy. Bất cứ hành
vi tạo hân hoan nào, hoan hỷ nào, vui vẻ nào, khoan khoái nào, thỏa mãn
nào, thơ thới nào, tâm tư thanh thoát nào, là hành vi làm tâm hân hoan.
[Nền tảng của Quán Niệm]
421. Qua hơi thở vào và hơi thở
ra làm tâm hân hoan nên có tâm làm thức. Thiết lập (nền tảng) là quán
niệm... «Quán
là trí. Tâm làm thức là sự thiết lập (nền tảng), nhưng nó không phải là
quán niệm. Quán niệm vừa là thiết lập (nền tảng) vừa là quán niệm. Nhờ
vào quán niệm đó và nhờ vào trí đó, vị ấy quán tâm làm thức đó».
Đó là lý do tại sao nói ‘Tu tập nền tảng (thiết lập) quán niệm dưới hình
thức quán tâm đúng như tâm’.
422. Vị ấy quán: ...
«lập
lại đ 197».
423. Tu tập: ...
«lập
lại đ 198».
[Tập luyện]
424-425. Những hơi thở vào và
hơi thở ra trong khi kinh nghiệm tâm là Tiến Trình Thanh Lọc Giới theo
nghĩa chế ngự;...
«lập
lại những đoạn còn lại của đđ 246-247 cho đến hết».
[Bài tập Quán Niệm và Hiểu
Biết Thấu Đáo Tường Tận]
426-429. Khi vị ấy biết chắc sự
nhất tâm và không phân tán qua hơi thở vào và hơi thở ra làm tâm hân
hoan, các cảm nghiệm của vị ấy được nhận biết rõ khi chúng khởi lên,...
«và
cứ thế như ở đđ 199-202 cho đến hết».
[Tổng hợp các Năng Lực Gây
Ảnh Hưởng...]
430-442. Khi vị ấy biết chắc sự
nhất tâm và không phân tán qua hơi thở vào và hơi thở ra làm tâm hân
hoan, vị ấy tổng hợp các năng lực gây ảnh hưởng,...
«hiểu
rõ lãnh vực của chúng, thấu rõ được ý nghĩa của nhất như; vị ấy tổng hợp
các lực... và cứ thế như ở đđ 203-215 cho đến hết».
(xi)
443. (21) Như thế nào là vị
ấy tập như vầy: ‘Làm tâm định, tôi sẽ thở vào’; (22) vị ấy tập như vầy:
‘Làm tâm định, tôi sẽ thở ra’.?[191]
[Phân Tích Đề Mục Quán Tưởng]
444. Định là gì? Sự nhất
tâm và không phân tán vì những hơi thở vào dài là định... [và cứ thế với
tất cả các hình thái khác cho đến]... Sự nhất tâm và không phân tán vì
những hơi thở ra là định; bất cứ sự ổn cố nào, sự vững chắc nào, sự trụ
vững của tâm, không lao chao, không phân tán, tâm không dao động, tĩnh
lặng, năng lực gây ảnh hưởng của định, định lực, chánh định, là định.
[28]
*
*
Đọc Như Nhiên,
Phân Tích, đ 436, trang 322.
[Nền tảng của Quán Niệm]
445. Qua hơi thở vào và hơi thở
ra làm tâm định nên có tâm làm thức. Thiết lập (nền tảng) là quán
niệm... «Quán
là trí. Tâm làm thức là sự thiết lập (nền tảng), nhưng nó không phải là
quán niệm. Quán niệm vừa là thiết lập (nền tảng) vừa là quán niệm. Nhờ
vào quán niệm đó và nhờ vào trí đó, vị ấy quán tâm làm thức đó».
Đó là lý do tại sao nói ‘Tu tập nền tảng (thiết lập) quán niệm dưới hình
thức quán tâm đúng như tâm’.
446. Vị ấy quán: ...
«lập
lại đ 197».
447. Tu tập: ...
«lập
lại đ 198».
[Tập luyện]
448-449. Những hơi thở vào và
hơi thở ra làm cho tâm định là Tiến Trình Thanh Lọc Giới theo nghĩa chế
ngự;... «lập
lại những đoạn còn lại của đđ 246-247 cho đến hết».
[Bài tập Quán Niệm và Hiểu
Biết Thấu Đáo Tường Tận]
450-453. Khi vị ấy biết chắc sự
nhất tâm và không phân tán qua hơi thở vào và hơi thở ra làm tâm định,
các cảm nghiệm của vị ấy được nhận biết rõ khi chúng khởi lên,...
«và
cứ thế như ở đđ 199-202 cho đến hết».
[Tổng hợp các Năng Lực Gây
Ảnh Hưởng...]
454-466. Khi vị ấy biết chắc sự
nhất tâm và không phân tán qua hơi thở vào và hơi thở ra làm tâm định,
«vị
ấy tổng hợp các năng lực gây ảnh hưởng,... hiểu rõ lãnh vực của chúng,
thể nhập được ý nghĩa của nhất như; vị ấy tổng hợp các lực... và cứ thế
như ở đđ 203-215 cho đến hết».
(xii)
467. (23) Như thế nào là vị
ấy tập như vầy: ‘Giải thoát tâm, tôi sẽ thở vào’; (22) vị ấy tập như
vầy: ‘Giải thoát tâm, tôi sẽ thở ra’?
[Phân Tích Đề Mục Quán Tưởng]
468. Vị ấy tập như vầy ‘Giải
thoát tâm khỏi tham, tôi sẽ thở vào’, vị ấy tập như vầy ‘Giải thoát tâm
khỏi tham, tôi sẽ thở ra’; vị ấy tập như vầy ‘Giải thoát tâm khỏi sân,
tôi sẽ thở vào’, vị ấy tập như vầy ‘Giải thoát tâm khỏi sân, tôi sẽ thở
ra’; vị ấy tập như vầy ‘Giải thoát tâm khỏi si, tôi sẽ thở vào’, vị ấy
tập như vầy ‘Giải thoát tâm khỏi si, tôi sẽ thở ra’; vị ấy tập như vầy
‘Giải thoát tâm khỏi ngã mạn (kiêu hãnh), tôi sẽ thở vào’,... vị ấy tập
như vầy ‘Giải thoát tâm khỏi quan điểm [sai lạc], tôi sẽ thở vào’,... vị
ấy tập như vầy ‘Giải thoát tâm khỏi nghi hoặc, tôi sẽ thở vào’,... vị ấy
tập như vầy ‘Giải thoát tâm khỏi đờ đẫn lười biếng, tôi sẽ thở vào’,...
vị ấy tập như vầy ‘Giải thoát tâm khỏi dao động, tôi sẽ thở vào’,... vị
ấy tập như vầy ‘Giải thoát tâm khỏi tính không biết hổ thẹn, tôi sẽ thở
vào’,... vị ấy tập như vầy ‘Giải thoát tâm khỏi tính không biết ghê sợ
tội lỗi, tôi sẽ thở vào’, vị ấy tập như vầy ‘Giải thoát tâm khỏi tính
không biết ghê sợ tội lỗi, tôi sẽ thở ra’.
[Nền tảng của Quán Niệm]
469. Qua hơi thở vào và hơi thở
ra giải thoát tâm nên có tâm làm thức. Thiết lập (nền tảng) là quán
niệm... «Quán
là trí. Tâm làm thức là sự thiết lập (nền tảng), nhưng nó không phải là
quán niệm. Quán niệm vừa là thiết lập (nền tảng) vừa là quán niệm. Nhờ
vào quán niệm đó và nhờ vào trí đó, vị ấy quán tâm làm thức đó».
Đó là lý do tại sao nói ‘Tu tập nền tảng (thiết lập) quán niệm dưới hình
thức quán tâm đúng như tâm’.
470. Vị ấy quán:...
«lập
lại đ 197».
471. Tu tập:...
«lập
lại đ 198».
[Tập luyện]
472-473. Những hơi thở vào và
hơi thở ra giải thoát tâm là Tiến Trình Thanh Lọc Giới theo nghĩa chế
ngự;... «lập
lại những đoạn còn lại của đđ 246-247 cho đến hết».
[Bài tập Quán Niệm và Hiểu
Biết Thấu Đáo Tường Tận]
474-475. Khi vị ấy biết chắc sự
nhất tâm và không phân tán qua hơi thở vào và hơi thở ra giải thoát tâm,
các cảm nghiệm của vị ấy được nhận biết rõ khi chúng khởi lên,...
«và
cứ thế như ở đđ 199-202 cho đến hết».
[Tổng hợp các Năng Lực Gây
Ảnh Hưởng...]
476-490. Khi vị ấy biết chắc sự
nhất tâm và không phân tán qua hơi thở vào và hơi thở ra giải thoát tâm,
vị ấy tổng hợp các năng lực gây ảnh hưởng,...
«hiểu
rõ lãnh vực của chúng, thể nhập được ý nghĩa của nhất như; vị ấy tổng
hợp các lực... và cứ thế như ở đ 203-215 cho đến hết».
[Kết luận Đoạn Bốn Câu Thứ
Ba]
491. Tám loại trí về quán, và
tám loại thiết lập (nền tảng) của quán niệm.
Bốn nền tảng từ Kinh đề cập tới
sự quán tâm đúng như tâm.
(xiii)
492. (25) Như thế nào là vị
ấy tập như vầy: ‘Quán vô thường, tôi sẽ thở vào’; (26) vị ấy tập như
vầy: ‘Quán vô thường, tôi sẽ thở ra’?
[Phân Tích Đề Mục Quán Tưởng]
493. Vô thường: Vô
thường là gì? Năm tập hợp là vô thường.
Vô thường theo nghĩa nào? Vô
thường theo nghĩa sanh và diệt.
494. Người thấy sự sanh khởi
của năm tập hợp thấy bao nhiêu đặc tính? Người thấy sự diệt tận của năm
tập hợp thấy bao nhiêu đặc tính? Người thấy sự sanh diệt của năm tập hợp
thấy bao nhiêu đặc tính? [192]
Người thấy sự sanh khởi của năm
tập hợp thấy hai mươi lăm đặc tính. Người thấy sự diệt tận của năm tập
hợp thấy hai mươi lăm đặc tính. Người thấy sự sanh diệt của năm tập hợp
thấy năm mươi đặc tính.[29]
495. Vị ấy tập như vầy: ‘Quán
vô thường trong vật thể, tôi sẽ thở vào’; vị ấy tập như vầy: ‘Quán vô
thường trong vật thể, tôi sẽ thở ra’; vị ấy tập như vầy: ‘Quán vô thường
trong cảm nghiệm, tôi sẽ thở vào’;... [và cứ thế với 201 trạng thái còn
lại đã liệt kê ở Luận I đ 5 cho đến]... vị ấy tập như vầy: ‘Quán vô
thường trong già và chết, tôi sẽ thở ra’.
[Nền tảng của Quán Niệm]
496. Qua những hơi thở vào và
hơi thở ra quán tâm nên có các đối tượng của tâm ý. Thiết lập (nền tảng)
là quán niệm. Quán là trí. Các đối tượng của tâm ý là sự thiết
lập (nền tảng), nhưng chúng không phải là quán niệm. Quán niệm vừa là
thiết lập (nền tảng) vừa là quán niệm. Nhờ vào quán niệm đó và nhờ vào
trí đó, vị ấy quán các đối tượng của tâm ý đó. Đó là lý do tại sao nói
‘Tu tập nền tảng (thiết lập) quán niệm dưới hình thức quán các đối tượng
của tâm ý đúng như các đối tượng của tâm ý’.
497. Vị ấy quán:...
«lập
lại đ 197».
498. Tu tập:...
«lập
lại đ 198».
[Tập luyện]
499-500. Những hơi thở vào và
hơi thở ra giải thoát tâm là Tiến Trình Thanh Lọc Giới theo nghĩa chế
ngự;... «lập
lại những đoạn còn lại của đđ 246-247 cho đến hết».
[Bài tập Quán Niệm và Hiểu
Biết Thấu Đáo Tường Tận]
501-504. Khi vị ấy biết chắc sự
nhất tâm và không phân tán qua hơi thở vào và hơi thở ra quán vô thường,
các cảm nghiệm của vị ấy được nhận biết rõ khi chúng khởi lên,...
«và
cứ thế như ở đđ 199-202 cho đến hết».
[Tổng hợp các Năng Lực Gây
Ảnh Hưởng...]
505-517. Khi vị ấy biết chắc sự
nhất tâm và không phân tán qua hơi thở vào và hơi thở ra quán vô thường,
vị ấy tổng hợp các năng lực gây ảnh hưởng,...
«hiểu
rõ lãnh vực của chúng, thể nhập được ý nghĩa của nhất như; vị ấy tổng
hợp các lực... và cứ thế như ở đđ 203-215 cho đến hết».
(xiv)
518. (27) Như thế nào là vị
ấy tập như vầy: ‘Quán hết ham muốn, tôi sẽ thở vào’; (28) vị ấy tập như
vầy: ‘Quán hết ham muốn, tôi sẽ thở ra’?
[Phân Tích Đề Mục Quán Tưởng]
519. Thấy rõ nguy hiểm trong
vật thể, vị ấy có ý muốn làm cho lòng ham muốn vật thể phai nhạt, vị ấy
có niềm tin quả quyết và tâm của vị ấy từ đó dứt khoát; vị ấy tập như
vầy: ‘Quán hết ham muốn vật thể, tôi sẽ thở vào’; vị ấy tập như vầy:
‘Quán hết ham muốn vật thể, tôi sẽ thở ra’. Thấy rõ nguy hiểm trong cảm
nghiệm... [và cứ thế với 201 ý niệm còn lại đã liệt kê ở Luận I đ 5 cho
đến]... Thấy rõ nguy hiểm trong già và chết, vị ấy có nỗ lực làm cho
lòng ham muốn già và chết phai nhạt, vị ấy có quả quyết trong tín và tâm
của vị ấy từ đó dứt khoát; vị ấy tập như vầy: ‘Quán hết ham muốn già và
chết, tôi sẽ thở vào’; vị ấy tập như vầy: ‘Quán hết ham muốn già và
chết, tôi sẽ thở ra’... vị ấy tập như vầy: ‘Quán vô thường trong già và
chết, tôi sẽ thở ra’.
[Nền tảng của Quán Niệm]
520. Qua những hơi thở vào và
hơi thở ra quán hết ham muốn có các đối tượng của tâm ý. Thiết lập (nền
tảng) này
«là
quán niệm. Quán là trí. Các đối tượng của tâm ý là sự thiết lập (nền
tảng), nhưng chúng không phải là quán niệm. Quán niệm vừa là thiết lập
(nền tảng) vừa là quán niệm. Nhờ vào quán niệm đó và nhờ vào trí đó, vị
ấy quán các đối tượng của tâm ý đó».
Đó là lý do tại sao nói ‘Tu tập nền tảng (thiết lập) quán niệm dưới hình
thức quán các đối tượng của tâm ý đúng như các đối tượng của tâm ý’.
[Tập luyện]
521-522. Những hơi thở vào và
hơi thở ra quán hết ham muốn là Tiến Trình Thanh Lọc Giới
«theo
nghĩa chế ngự;... lập lại những đoạn còn lại của đđ 246-247 cho đến hết».
[Bài tập Quán Niệm và Hiểu
Biết Thấu Đáo Tường Tận]
523-526. Khi vị ấy biết chắc sự
nhất tâm và không phân tán qua hơi thở vào và hơi thở ra quán hết ham
muốn, các cảm nghiệm của vị ấy được nhận biết rõ khi chúng khởi lên, ...
«và
cứ thế như ở đđ 199-202 cho đến hết».
[Tổng hợp các Năng Lực Gây
Ảnh Hưởng...]
527-539. Khi vị ấy biết chắc sự
nhất tâm và không phân tán qua hơi thở vào và hơi thở ra quán lòng tham
phai nhạt, vị ấy tổng hợp các năng lực gây ảnh hưởng,...
«hiểu
rõ lãnh vực của chúng, thể nhập được ý nghĩa của nhất như; vị ấy tổng
hợp các lực... và cứ thế như ở đđ 203-215 cho đến hết».
(xv)
540. (29) Như thế nào là vị
ấy tập như vầy: ‘Quán diệt tận, tôi sẽ thở vào’; (30) vị ấy tập như vầy:
‘Quán diệt tận, tôi sẽ thở ra’?
[Phân Tích Đề Mục Quán Tưởng]
541. Thấy rõ nguy hiểm trong
vật thể, vị ấy có ý muốn diệt tận vật thể, vị ấy có niềm tin quả quyết
và tâm của vị ấy từ đó dứt khoát; vị ấy tập như vầy: ‘Quán diệt tận vật
thể, tôi sẽ thở vào’; vị ấy tập như vầy: ‘Quán diệt tận vật thể, tôi sẽ
thở ra’. Thấy rõ nguy hiểm trong cảm nghiệm... [và cứ thế với 201 ý niệm
còn lại đã liệt kê ở Luận I đ 5 cho đến]... Thấy rõ nguy hiểm trong già
và chết, vị ấy có ý muốn diệt tận già và chết, vị ấy có niềm tin quả
quyết và tâm của vị ấy từ đó dứt khoát; vị ấy tập như vầy: ‘Quán diệt
tận của già và chết, tôi sẽ thở vào’; vị ấy tập như vầy: ‘Quán diệt tận
của già và chết, tôi sẽ thở ra’... vị ấy tập như vầy: ‘Quán diệt tận của
già và chết, tôi sẽ thở ra’.
542. Có nguy hiểm trong vô
minh theo bao nhiêu khía cạnh? Vô minh diệt theo bao nhiêu khía
cạnh?
Có nguy hiểm trong vô minh theo
năm khía cạnh. Vô minh diệt theo tám khía cạnh.
Có nguy hiểm trong vô minh theo
năm khía cạnh nào?
Có nguy hiểm trong vô minh theo
nghĩa vô thường; có nguy hiểm trong vô minh theo nghĩa khổ não, theo
nghĩa không phải là ngã,... theo nghĩa thiêu đốt (thống khổ),... có nguy
hiểm trong vô minh theo nghĩa biến đổi. Có nguy hiểm trong vô minh theo
năm khía cạnh này.
Vô minh diệt theo tám khía cạnh
nào?
Vô minh diệt với sự diệt tận
của nguồn gốc, vô minh diệt với sự diệt tận của nguồn sanh khởi,... với
sự diệt tận của sanh,... với sự diệt tận của sanh sản,... với sự diệt
tận của nguyên nhân,... với sự diệt tận của điều kiện,... vô minh diệt
với sự sanh khởi của trí, vô minh diệt với sự xuất hiện của diệt tận. Vô
minh diệt theo tám khía cạnh này.
Sau khi đã thấy rõ nguy hiểm
của vô minh theo năm khía cạnh này, vị ấy có ý muốn làm cho vô minh diệt
tận, vị ấy có niềm tin quả quyết và tâm của vị ấy từ đó dứt khoát; vị ấy
tập như vầy: ‘Quán sự diệt tận của vô minh, tôi sẽ thở vào’; vị ấy tập
như vầy: ‘Quán sự diệt tận của vô minh, tôi sẽ thở ra’.
543. Trong hành vi tạo quả, có
nguy hiểm theo bao nhiêu khía cạnh? Có bao nhiêu ... [và cứ thế như ở đ
542 cho đến] ... vị ấy tập như vầy: ‘Quán sự diệt tận của hành vi tạo
quả, tôi sẽ thở ra’.
544. Có nguy hiểm trong thức
theo bao nhiêu khía cạnh?
545. ... nguy hiểm trong tâm
thức-vật thể...?
546. ... nguy hiểm trong sáu
giác quan...?
547. ... nguy hiểm trong
xúc...?
548. ... nguy hiểm trong cảm
giác...?
549. ... nguy hiểm trong thèm
khát...?
550. ... nguy hiểm trong bám
níu...?
551. ... nguy hiểm trong trở
thành...?
552. ... nguy hiểm trong
sanh...?
553. Có nguy hiểm trong già và
chết theo bao nhiêu khía cạnh? Già và chết diệt theo bao nhiêu khía
cạnh?
Có nguy hiểm trong già và chết
theo năm khía cạnh. Già và chết diệt ... [194]
... ‘Tôi sẽ thở ra quán sự diệt
tận của già và chết’
[Nền tảng của Quán Niệm]
554. Qua những hơi thở vào và
hơi thở ra quán diệt tận nên có các đối tượng của tâm ý. Thiết lập (nền
tảng) này
«
là quán niệm. Quán là trí. Các đối tượng của tâm ý là sự thiết lập (nền
tảng), nhưng chúng không phải là quán niệm. Quán niệm vừa là thiết lập
(nền tảng) vừa là quán niệm. Nhờ vào quán niệm đó và nhờ vào trí đó, vị
ấy quán các đối tượng của tâm ý đó».
Đó là lý do tại sao nói ‘Tu tập nền tảng (thiết lập) quán niệm dưới hình
thức quán các đối tượng của tâm ý đúng như các đối tượng của tâm ý’.
[Tập luyện]
555-556. Những hơi thở vào và
hơi thở ra quán diệt tận là Tiến Trình Thanh Lọc Giới
«theo
nghĩa chế ngự; ... lập lại những đoạn còn lại của đđ 246-247 cho đến hết».
[Bài tập Quán Niệm và Hiểu
Biết Thấu Đáo Tường Tận]
557-560. Khi vị ấy biết chắc sự
nhất tâm và không phân tán qua hơi thở vào và hơi thở ra quán diệt tận
qua, các cảm nghiệm của vị ấy được nhận biết rõ khi chúng khởi lên, ...
«và
cứ thế như ở đđ 199-202 cho đến hết».
[Tổng hợp các Năng Lực Gây
Ảnh Hưởng...]
561-573. Khi vị ấy biết chắc sự
nhất tâm và không phân tán qua hơi thở vào và hơi thở ra quán diệt tận,
vị ấy tổng hợp các năng lực gây ảnh hưởng,...
«hiểu
rõ lãnh vực của chúng, thấu rõ được ý nghĩa của nhất như; vị ấy tổng hợp
các lực... và cứ thế như ở đđ 203-215 cho đến hết».
(xvi)
574. (31) Như thế nào là vị
ấy tập như vầy: ‘Quán buông bỏ, tôi sẽ thở vào; (32) vị ấy tập như vầy:
‘Quán buông bỏ, tôi sẽ thở ra’?
[Phân Tích Đề Mục Quán Tưởng]
575. Buông bỏ: có
hai loại buông bỏ: buông bỏ là dứt bỏ và buông bỏ là sự đi vào (lao
vào).
576. Dứt bỏ vật thể, như thế
buông bỏ là dứt bỏ; tâm đi vào (lao vào) sự diệt tận của vật thể,
nibbana, như thế buông bỏ kể như là sự đi vào (lao vào); vị ấy tập như
vầy: ‘Quán buông bỏ vật thể, tôi sẽ thở vào’, vị ấy tập như vầy: ‘Quán
buông bỏ vật thể, tôi sẽ thở ra’. Dứt bỏ cảm nghiệm, ... [và cứ thế với
201 ý niệm còn lại đã liệt kê ở Luận thuyết I đ 5 cho đến]... ‘Quán
buông bỏ già và chết, tôi sẽ thở ra’.
[Nền tảng của Quán Niệm]
577. Qua những hơi thở vào và
hơi thở ra quán buông bỏ các đối tượng của tâm ý. Thiết lập (nền tảng)
này «là
quán niệm. Quán là trí. Các đối tượng của tâm ý là sự thiết lập (nền
tảng), nhưng chúng không phải là quán niệm. Quán niệm vừa là thiết lập
(nền tảng) vừa là quán niệm. Nhờ vào quán niệm đó và nhờ vào trí đó, vị
ấy quán các đối tượng của tâm ý đó».
Đó là lý do tại sao nói ‘Tu tập nền tảng (thiết lập) quán niệm dưới hình
thức quán các đối tượng của tâm ý đúng như các đối tượng của tâm ý’.
[Tập luyện]
578-579. Những hơi thở vào và
hơi thở ra quán buông bỏ là Tiến Trình Thanh Lọc Giới
«theo
nghĩa chế ngự; ... lập lại những đoạn còn lại của đđ 246-247 cho đến hết».
[Bài tập Quán Niệm và Hiểu
Biết Thấu Đáo Tường Tận]
580-583. Khi vị ấy biết chắc sự
nhất tâm và không phân tán qua hơi thở vào và hơi thở ra quán buông bỏ,
các cảm nghiệm của vị ấy được nhận biết rõ khi chúng khởi lên, ...
«và
cứ thế như ở đđ 199-202 cho đến hết».
[Tổng hợp các Năng Lực Gây
Ảnh Hưởng...]
584-596. Khi vị ấy biết chắc sự
nhất tâm và không phân tán qua hơi thở vào và hơi thở ra quán buông bỏ,
vị ấy tổng hợp các năng lực gây ảnh hưởng,...
«hiểu
rõ lãnh vực của chúng, thể nhập được ý nghĩa của nhất như; vị ấy tổng
hợp các lực... và cứ thế như ở đđ 203-215 cho đến hết».
[Kết luận Đoạn Bốn Câu Thứ
Tư]
597. Tám loại trí về quán, và
tám loại thiết lập (nền tảng) của quán niệm.
Bốn nền tảng từ Kinh đề cập tới
sự quán đối tượng của tâm ý đúng như đối tượng của tâm ý.
Đây là ba mươi hai loại trí
trong những người làm việc có quán niệm.
(v)
598. Hai mươi bốn loại trí
nhờ định là gì?
599. Sự nhất tâm và không phân
tán qua những hơi thở vào dài là định. Sự nhất tâm và không phân tán qua
những hơi thở ra dài là định... [và cứ thế với tất cả hai mươi bốn hình
thái ở ba đoạn bốn câu đầu cho đến]... Sự nhất tâm và không phân tán qua
những hơi thở dài giải thoát tâm là định. Đây là hai mươi bốn loại trí
nhờ định.
(vi)
600. Bảy mươi hai loại trí
nhờ tuệ quán thực tánh là gì [195]?
601. Vì hơi thở vào dài
[30]
có tuệ quán thực tánh theo nghĩa quán vô thường, có tuệ quán thực tánh
theo nghĩa quán khổ đau, có tuệ quán thực tánh theo nghĩa quán không
phải là ngã. Vì hơi thở ra dài... [và cứ thế với tất cả hai mươi bốn
hình thái ở ba đoạn bốn câu đầu cho đến]... Vì hơi thở ra dài giải thoát
tâm có tuệ quán thực tánh theo nghĩa quán vô thường, có tuệ quán thực
tánh theo nghĩa quán khổ đau, có tuệ quán thực tánh theo nghĩa quán
không phải là ngã.
Đây là bẩy mươi hai loại trí
nhờ tuệ quán thực tánh.
(vii)
602. Tám loại trí về nhàm
chán là gì?
603. Khi quán vô thường, hành
giả biết và thấy hơi thở vào đúng như thực, như vậy là có trí về nhàm
chán. Khi quán vô thường, hành giả biết và thấy hơi thở ra đúng như
thực,... khi quán hết ham muốn, hành giả biết và thấy hơi thở vào... hơi
thở ra đúng như thực,... khi quán đoạn diệt, hành giả biết và thấy hơi
thở vào... hơi thở ra đúng như thực,... Khi quán buông bỏ, hành giả biết
và thấy hơi thở vào đúng như thực, như vậy là có trí về nhàm chán. Khi
quán buông bỏ, hành giả biết và thấy hơi thở ra đúng như thực, như vậy
là có trí về nhàm chán.
Đây là tám loại trí về nhàm
chán.
(viii)
604. Tám loại trí tương
thuận với nhàm chán là gì?
605. Tuệ về biểu hiện hãi hùng
do hơi thở vào trong người đang quán vô thường là trí tương thuận với
nhàm chán. Tuệ về biểu hiện hãi hùng do hơi thở ra trong người đang quán
vô thường là trí tương thuận với nhàm chán. Tuệ về biểu hiện hãi hùng do
hơi thở vào trong người đang quán hết ham muốn... [và cứ thế với tám
hình thái còn lại của đoạn bốn câu thứ tư cho đến]... Tuệ về biểu hiện
hãi hùng do hơi thở ra trong người đang quán buông bỏ là trí tương thuận
với nhàm chán.
Đây là tám loại trí tương thuận
với nhàm chán.
(ix)
606. Tám loại trí như là làm
lắng dịu nhàm chán là gì?
607. Tuệ tư duy và điềm tĩnh do
hơi thở vào trong người quán vô thường là trí như là sự lắng dịu nhàm
chán. Tuệ... [và cứ thế với tám hình thái còn lại của đoạn bốn câu thứ
tư cho đến]... Tuệ tư duy và thản nhiên do hơi thở ra trong người quán
vô thường là trí như là sự lắng dịu nhàm chán.
Đây là tám loại trí như là làm
lắng dịu nhàm chán.
(x)
608. Hai mươi mốt loại trí
về hạnh phúc toàn hảo của giải thoát
*
là gì? (cf. I 355ff.)
*
vimuttisukha:
hạnh phúc toàn hảo của giải thoát
609. Với đạo lộ nhập giòng, trí
về hạnh phúc toàn hảo của giải thoát khởi lên do sự từ bỏ và cắt đứt:
1)
quan điểm [sai lạc] cho có bản ngã,
2)
hoài nghi,
3)
hiểu sai về giới và nghi lễ,
4)
khuynh hướng về quan điểm [sai lạc] ngủ
ngầm,
5)
khuynh hướng về hoài nghi ngủ ngầm.
610. Với đạo lộ trở lại một
lần, trí về hạnh phúc toàn hảo của giải thoát khởi lên do sự từ bỏ và
cắt đứt:
6)
kết buộc thô lậu về thèm muốn khoái lạc
giác quan,
7)
kết buộc thô lậu về chống đối,
8)
khuynh hướng ngủ ngầm của kết buộc thô lậu
về thèm muốn khoái lạc giác quan,
9)
khuynh hướng ngủ ngầm của kết buộc thô lậu
về chống đối. [196]
611. Với đạo lộ không trở lại,
trí về hạnh phúc toàn hảo của giải thoát khởi lên do sự từ bỏ và cắt
đứt:
10)
tàn dư của kết buộc về thèm muốn khoái lạc
giác quan,
11)
tàn dư của kết buộc về chống đối,
12)
khuynh hướng ngủ ngầm của tàn dư của kết
buộc về thèm muốn khoái lạc giác quan,
13)
khuynh hướng ngủ ngầm của tàn dư của kết
buộc về chống đối.
612. Với đạo lộ Arahant, trí về
hạnh phúc toàn hảo của giải thoát khởi lên do sự từ bỏ và cắt đứt:
14)
ham muốn hiện hữu cõi sắc giới,
15)
ham muốn hiện hữu cõi vô sắc giới,
16)
ngã mạn (tự hào),
17)
dao động,
18)
vô minh,
19)
khuynh hướng ngã mạn (tự hào) ngủ ngầm,
20)
khuynh hướng ham muốn hiện hữu ngủ ngầm,
21)
khuynh hướng vô minh ngủ ngầm.
Đây là hai mươi mốt loại trí về
hạnh phúc toàn hảo của giải thoát.
Đây là trên hai trăm loại trí
khởi lên trong người tu tập định nhờ quán niệm hơi thở với mười sáu nền
tảng.
CHẤM DỨT LUẬN THUYẾT VỀ QUÁN HƠI THỞ.
[1]
Ānāpānasati - quán hơi thở (= Āna + apāna + sati) :
Ānaṁ là hơi thở đi vào; apānaṁ là hơi thở ra. Tuy nhiên có
người nói ngược lại (PsA 320 Se).
[2]
Bản của PTS, quyển 1, trang 164, I. 2, viết là: khaṇikasamodhānā
ime aṭṭhārasa upakkilesā uppajjanti ‘Khi bất toàn khởi lên, chúng
liên tiếp khởi lên như thế trong từng khoảnh khắc, theo thứ tự chớp
nhoáng, chứ không trong một tâm sát na (PsA 321 Se)
[3]
Với hơi thở vào, chặng đầu là đầu mũi hay môi trên, chặng giữa là quả
tim, và chặng cuối là rốn (PsA 322 Se). Với hơi thở ra thì
kể ngược lại.
[4]
Sau khi kết luận rằng ‘Đề mục thiền quán này phụ thuộc vào luồng hơi
thở qua cánh mũi’, thì ao ước dưới hình thức mong ngóng những hơi thở
thô tiếp tục đi vào là biểu hiện của khao khát làm ngăn trở định vì
thiếu sự ổn định của nhất tâm... Người thở hơi vào quá dài hay quá
ngắn có thể cảm thấy khó chịu vì mệt mỏi thân tâm do hơi thở ấy tạo ra
(PsA 322 Se).
[5]
Dấu hiệu là nơi hơi thở vào và hơi thở ra chạm phải. Vì hơi thở vào và
ra đánh vào đầu mũi người có mũi dài và môi trên người có mũi ngắn’
(PsA 323 Se).
[6]
Đây là ‘Tâm theo dõi hơi thở ra hơi thở vào đã đi quá nơi xúc chạm và
đã đi mất từ chỗ ấy’. Câu kế là ‘Tâm mong đợi và đón chờ hơi thở vào
chưa tới nơi xúc chạm’ (PsA 323 Se)
[7]
PTS quyển I, trang 167, 1. 20 đọc là paṭipadāvisuddhipakkhantaṁ.
Toàn đoạn văn này được bàn ở chương IV , Con Đường Thanh Lọc (trang
148-9).
[8]
‘Dấu hiệu buộc quán niệm’ là đỉnh mũi hay môi trên là nguyên nhân và
là dấu hiệu để buộc quán niệm’ (PsA 328 Se)
[9]
Toàn bài kệ ở Thag 549; hai câu cuối ở Dh 382. đ 182 lấy candimā
(trăng tròn) với nghĩa candi-mant (người làm chủ trăng) như
satimā.
[10]
Đọc ānan ti assāso no passāso, apānan ti passāso no assāso.
Assāsavasena và cứ thế không có đoạn văn mới sau chữ assāso.
[11]
Lối chơi chữ ở samaṁ (nhất thể) liên kết với chữ sammati
(quá khứ phân từ là santo an tịnh) và cũng cách dùng chữ như
thế ở đây với tiếp đầu ngữ saṁ (= hợp lại) xảy ra nhiều lần
trong tác phẩm này. Xem chữ ‘nhất thể’ ở phần danh từ Việt Pāḷi
ở cuối sách.
[12]
Anācariyako pubbe ananussutesu dhammesu.
[13]
Visavitāya: không có trong tự điển của PTS: Đọc Luận Thuyết
XXII đ. 5 (Ps ii 205, PsA 655 ấn bản của PTS); Cf. DhsA 109, DhsAA 65
ấn bản của Vidyodaya: ‘Visavitāyā ti arahatāya’.
[14]
‘Có nghĩa duy trì ’ theo nghĩa được giữ vững. Cái gì được giữ
vững? Lối thoát. Định, khi dựa trên niệm hơi thở, tự nó là lối thoát,
dẫn thẳng tới đạo lộ arahant. Như vậy mới nói ‘có nghĩa lối thoát’.
Nghĩa của ‘lối thoát khỏi sanh tử luân hồi’ được diễn tả bằng nghĩa
của mukha (miệng) ở phía trước. ‘Có ý nghĩa thiết lập’ theo
nghĩa tự tánh. Nghĩa của đoạn này là: Sau khi đã làm cho niệm thành
lối thoát được giữ vững. Nhưng có người nói ‘có nghĩa duy trì’
tượng trưng cho ‘duy trì là ý nghĩa của quán niệm’; và ‘có
nghĩa của lối thoát’ tượng trưng cho ‘cửa vào và ra là nghĩa của
hơi thở vào và hơi thở ra’. Vậy thì điều được ngụ ý chính là: Sau khi
đã thiết lập quán niệm thành lối thoát được giữ vững của hơi thở vào
và hơi thở ra’ (PsA 350-1).
[15]
Có thể thấy sự khác biệt giữa văn phong của Bhadantācariya
Dhammapāla và của Bhadantācariya Mahānāma qua lời bình giải
của hai vị về cùng đoạn văn này. Luận bình của ngài Dhammapāla
về đoạn này được trích dẫn trong Visuddhimagga Chương VIII
(trang 273), còn của ngài Mahānāma tìm thấy trong chú giải của
Paṭisambhidā. Về câu ‘tâm của vị ấy quay đi’, vị sau
nói: Assāsapassāse nissāya paṭibhāganimitte uppajjante
pakati-assāsapassāsato cittaṁ nivattati (Khi biểu tượng tương tự (tợ
tướng) dựa trên hơi thở vào và hơi thở ra khởi lên, tâm quay đi
khỏi những hơi thở vào và hơi thở ra ấy)- PsA 351 Se),
nhưng vị trước nói: ‘Anukkamena assāsapassāsānaṁ ativiya
sukhumatarabhāvappattiyā anupaṭṭhahane vicetabbākārappatteheti tehi
cittaṁ vinivaṭṭati. Keci ‘Bhāvanābalena pana sukhumatarabhāvappatesu
assāsa passāsesu tattha paṭibhāganimitte uppanne pakatiassāsapassāsato
cittaṁ nivattatī’ ti’ (Vào lúc không có biểu hiện nào của hơi thở
vào và hơi thở ra vì đã đạt tới mức rất tinh tế, tâm quay đi khỏi
những hơi thở ấy khi đạt sắc thái đặc biệt như thế người ta phải tự
hỏi những hơi thở ấy có hiện hữu hay không. Nhưng có người nói rằng
khi hơi thở vào và hơi thở ra đã đạt tới trạng thái vi tế hơn dưới ảnh
hưởng của sự phát triển thiền định, thì tâm quay đi khỏi những hơi thở
vào ra bình thường đó ngay khi biểu tượng tương tự khởi lên ở đấy -
VismA 261). Chữ ‘có người - keci ’ trên được dành cho những
người phát biểu ý tưởng nghe qua xa lạ, ở đây Paramatthamañjūsā
(chú giải của quyển Visuddhimagga) có lẽ muốn nói tới lời giải
thích trong Saddhammappakāsinī (chú giải của quyển
Paṭisambhidāmagga) bằng chữ ‘keci ’ này.
[16]
Hơi thở vào và hơi thở ra được coi như những vi tử li ti*
là thân thể theo nghĩa nhóm, và biểu tượng khởi lên nhờ hơi thở vào
bình thường và hơi thở ra bình thường cũng được gọi là ‘biểu tượng’. ‘Thiết
lập quán niệm’: quán niệm được gọi là ‘thiết lập’ (nền tảng) vì,
sau khi đã tiếp nhận đối tượng, quán niệm vẫn ở đấy. ‘Quán là trí
’: có nghĩa quán về thân biểu tượng trong tĩnh lặng và quán thân
tâm thức & thân vật thể trong tuệ quán thực tánh là trí. ‘Thân là
sự thiết lập (nền tảng)’: thân được gọi là thiết lập (nền
tảng) vì quán niệm, sau khi đã tiếp đón nó, vẫn còn ở đó. ‘Nhưng nó
không phải là quán niệm’: thân đó không được gọi là ‘quán niệm’
(PsA 351 Se).
*[kalāpa:
vi tử li ti] (Pm 259).
[17]
‘Quán thân đúng như thân’: thân của nhiều loại, là quán thân
đó. Hay, quán một tấm thân nào đó, chứ không phải quán về bất cứ ý
tưởng nào khác liên quan đến thân đó; không quán về trường tồn, vui
sướng, ngã và cái đẹp trong cái thân vốn vô thường, khổ não, không
phải là ngã và bất tịnh, mà quán thân vô thường, khổ não, không phải
là ngã và bất tịnh. Hay chỉ giản dị quán thân thôi chứ không quán
trong thân đó bất cứ thân nào được giả định là ‘Tôi’, của tôi hay đàn
bà, đàn ông (PsA 352, Se). Đọc thêm MA i 241f.
[19]
Đọc A ii 45 để thấy sự thích đáng của tiểu mục này.
[20]
Do cắt bỏ đi vì trùng lắp, nên sự thay thế chữ xúc bằng chữ
nhận thức bị thiếu mất trong bản của PTS.
[21]
Bản của PTS vol. I trang 180 1.15 viết: samatthañ ca
paṭivijjhati... pe... balāni ca samodhāneti... pe... bojjhaṅge ca
samodhāneti... pe... maggañ ca samodhāneti... pe... dhamme, như sẽ
thấy ở sau.
[22]
Viết là: ārammaṇaṁ. Pajānāti ti puggalo. Pajānanā paññā.
[24]
‘Dấu hiệu là một khía cạnh của những âm thanh đó; và dấu hiệu của âm
thanh không là gì ngoài chính âm thanh đó’. (PsA 358 Se).
[27]
Đọc Dhs đ 6. <Viết là tajjā mano->.
[29]
Đọc Luận thuyết I đ. 285f.
[30]
Viết là Dīghaṁ assāsā aniccato (?); đọc chú giải (PTS ed.
đ. 526) (assāsā ở abl. sing [xuất xứ cách, số ít]).
-ooOoo-