[XXII
- LUẬN VỀ THẦN THÔNG
(NĂNG LỰC SIÊU NHIÊN)]
«Iddhikathā»
1. [205] Thần thông là gì?
Có bao nhiêu loại thần thông?
Bao nhiêu cõi có thần thông? Bao nhiêu nền tảng?
Bao nhiêu bước?
Bao nhiêu nguồn gốc?
2. Thần thông là gì? Thần thông theo nghĩa thành tựu.
3. Có bao nhiêu loại thần thông? Có mười loại thần
thông; thần thông có bốn cõi, bốn nền tảng, tám bước và mười sáu nguồn
gốc.
4. Mười loại thần thông ấy là gì? (1) thần thông như
là quyết định, (2) thần thông như là biến hình, (3) thần thông như là
[thân] do tâm tạo, (4) thần thông do trí can dự, (5) thần thông do định
can dự, (6) thần thông của các bậc Thánh, (7) thần thông do quả của
nghiệp sanh, (8) thần thông của công đức, (9) thần thông nhờ phù thuật,
(10) thần thông theo nghĩa thành tựu nhờ việc làm đúng thời.
5. Bốn cõi thần thông ấy là gì? Đó là: sơ thiền là
cõi sanh từ cách ly; nhị thiền là cõi hỉ và lạc; tam thiền là cõi bình
thản và lạc, tứ thiền là cõi không khổ cũng không lạc. Bốn cõi thần
thông này dẫn đến thành tựu thần thông, đến thành đạt thần thông, đến sự
biến hóa vì thần thông, đến uy lực của thần thông, đến sự làm chủ thần
thông, đến không sợ hãi*
trong thần thông.
* Vesārajjani.
nguyên văn assurance. Ở Vism. XII đ. 49, Ñāṇamoli sửa
assurance thành fearlessness: không sợ hãi. Đọc chú thích ở
cuối đoạn 12, Luận XXI về chữ này.
6. Bốn nền tảng ấy của thần thông là gì? Ở đây một tỳ
kheo tu tập nền tảng của thần thông có cả hai: định do ý muốn làm và
hành vi tạo tác là nỗ lực. Vị ấy tu tập nền tảng của thần thông có cả
hai: định do tinh tấn và hành vi tạo tác là nỗ lực. Vị ấy tu tập nền
tảng của thần thông có cả hai: định do tâm và hành vi tạo tác là nỗ lực.
Vị ấy tu tập nền tảng của thần thông có cả hai: định do tìm hiểu và hành
vi tạo tác là nỗ lực. Bốn nền tảng của thần thông này dẫn đến thành tựu
thần thông, ... đến không sợ hãi trong thần thông.[1]
7. Tám bước ấy là gì? [206] Nếu vị tỳ kheo đạt định,
đạt nhất tâm do ý muốn làm hỗ trợ, ý muốn làm ấy không phải là định, và
định ấy không phải là ý muốn làm; ý muốn làm là một cái, định là một cái
khác. Nếu vị tỳ kheo đạt định, đạt nhất tâm do tinh tấn hỗ trợ, tinh tấn
ấy không phải là định, và định ấy không phải là tinh tấn; tinh tấn là
một cái, định là một cái khác. Nếu vị tỳ kheo đạt định, đạt nhất tâm do
tâm hỗ trợ, tâm ấy không phải là định, và định ấy không phải là tâm; tâm
là một cái, định là một cái khác. Nếu vị tỳ kheo đạt định, đạt nhất tâm
do tìm hiểu hỗ trợ, tìm hiểu ấy không phải là định, và định ấy không
phải là tìm hiểu; tìm hiểu là một cái, định là một cái khác. Tám bước
đến thần thông đưa đến thành tựu thần thông ... đến không sợ hãi trong
thần thông.
[2]
8. Mười sáu nguồn gốc ấy của thần thông là gì? Tâm
không chán nản là tâm không bị lay động vì lười biếng, do vậy nó bất
động. Tâm không mừng rỡ thơ thới là tâm không bị lay động vì dao dộng,
do vậy nó bất động. Tâm không bị quyến rũ là tâm không bị lay động vì
tham, vì thế nó bất động. Tâm không chán ghét là tâm không bị lay động
vì sân hận, vì thế nó bất động. Tâm độc lập là tâm không bị lay động vì
quan điểm [sai lạc], vì thế nó bất động. Tâm không vướng kẹt thì không
bị lay động vì ước muốn và tham, vì thế nó bất động. Tâm được giải thoát
thì không bị lay động vì ham muốn ái dục, vì thế nó bất động. Tâm không
liên kết*
thì không bị lay động vì nhiễm lậu, vì thế nó bất động. Tâm không chướng
ngại thì không bị lay động vì chướng ngại của nhiễm lậu,
[3]
vì thế nó bất động. Tâm hợp nhất thì không bị lay động vì nhiễm lậu của
sai biệt, vì thế nó bất động. Tâm được tín gìn giữ thì không bị lay động
vì không tin, vì thế nó bất động. Tâm được tinh tấn gìn giữ thì không bị
lay động vì lười biếng, vì thế nó bất động. Tâm được quán niệm gìn giữ
thì không bị lay động vì xao lãng, vì thế nó bất động. Tâm được định gìn
giữ thì không bị lay động vì dao động, vì thế nó bất động. Tâm được tuệ
gìn giữ thì không bị lay động vì vô minh, vì thế nó bất động. Tâm được
chiếu sáng thì không bị lay động vì bóng tối của vô minh, vì thế nó bất
động. Mười sáu nguồn gốc của thần thông này đưa đến thành tựu thần
thông... đến không sợ hãi trong thần thông. [207].
* visaññuttaṁ cittaṁ:
tâm không bị ràng buộc, cột trói.
9. (1) Thần thông là quyết định là gì?
Ở đây một tỳ kheo kinh nghiệm các loại thần thông
(năng lực siêu nhiên); từ một biến thành nhiều, từ nhiều biến thành một;
vị ấy hiện ra rồi biến mất đi; vị ấy đi xuyên qua tường, qua hào lũy,
qua núi không bị trở ngại như qua hư không; vị ấy độn thổ và trồi lên
mặt đất như ở trong nước, đi trên nước mà nước không nứt vỡ như đi trên
đất; chân ngồi xếp bằng vị ấy phi hành như chim giương cánh; tay vị ấy
sờ mó mặt trăng mặt trời là những gì rất vĩ đại và oai lực; vị ấy điều
thân mình bay xa đến cõi trời Phạm Thiên.
Ở đây: trong lãnh
vực quan điểm này, trong lãnh vực chọn lựa này, trong lãnh vực ưa chuộng
hơn này, trong lãnh vực tuyển chọn này, trong Giáo Pháp này, trong Giới
Luật (vinaya) này, trong lãnh vực Giáo Pháp và Giới Luật này,
trong giáo lý này, trong cuộc sống Phạm Hạnh này, trong Giáo Huấn của
bậc Đạo Sư này. ‘Ở đây’ được nói vì lý do đó.
11. Một tỳ kheo: Một tỳ kheo là người thế tục
hữu phước hay bậc hữu học hay một Arahant đã chứng trạng thái không thể
công kích được.
12. Kinh nghiệm các loại thần thông: kinh
nghiệm những khía cạnh khác nhau của thần thông.
13. Từ một biến thành nhiều: từ một, vị ấy
hướng tâm chú ý đến [bản thân] biến thành nhiều hay thành trăm, thành
ngàn, hay một trăm ngàn; sau khi hướng tâm chú ý xong, với trí, vị ấy
quyết định ‘Ta hãy biến thành nhiều’. Vị ấy biến thành nhiều. Như tôn
giả Cūḷa Panthaka từ một, biến thành nhiều, cũng thế người có
thần thông làm chủ được ý, từ một biến thành nhiều.
14. Từ nhiều biến thành một: từ nhiều, vị ấy
hướng tâm chú ý đến [bản thân] biến thành một; sau khi hướng tâm chú ý
xong, với trí, vị ấy quyết định ‘Ta hãy biến thành một’. Vị ấy biến
thành một. Như tôn giả Cūḷa Panthaka từ một, biến thành nhiều,
cũng thế người có thần thông làm chủ được ý, từ nhiều biến thành một.
15. Vị ấy hiện ra: vị ấy không bị cái gì che
khuất, không bị ẩn khuất, vị ấy phát lộ ra, vị ấy hiển hiện.
16. Rồi biến mất đi: vị ấy bị cái gì che
khuất, bị ẩn khuất, bị đóng kín, bao bọc. [208]
17. Vị ấy đi xuyên qua tường, qua hào lũy, qua núi
không bị trở ngại như qua hư không: tự nhiên, vị ấy là người đạt
được đề mục thiền hư không. Vị ấy hướng tâm chú ý đến: ‘qua tường, qua
hào lũy, qua núi’; hướng tâm chú ý xong, với trí, vị ấy quyết định ‘Hãy
biến chỗ ấy thành hư không’. Có hư không. Vị ấy đi xuyên qua tường, qua
hào lũy, qua núi không bị trở ngại. Như người bình thường không có thần
thông đi qua không bị trở ngại những nơi không có chướng ngại, hào lũy,
cũng thế, người có thần thông làm chủ được ý, đi qua tường, hào lũy, núi
không bị trở ngại như qua hư không.
18. Vị ấy độn thổ và trồi lên mặt đất như ở trong
nước: tự nhiên, vị ấy là người đạt được đề mục thiền nước. Vị ấy
hướng tâm chú ý đến đất; hướng tâm chú ý xong, với trí, vị ấy quyết định
‘Hãy biến chỗ ấy thành nước’. Chỗ ấy bèn có nước. Vị ấy độn thổ và trồi
lên mặt đất. Như người bình thường không có thần thông (năng lực siêu
nhiên) lặn xuống và trồi lên mặt nước, cũng thế, người có thần thông làm
chủ được ý, độn thổ và trồi lên mặt đất như ở trong nước.
19. Đi trên nước mà nước không nứt vỡ như đi trên
đất: tự nhiên, vị ấy là người đạt được đề mục thiền đất. Vị ấy hướng
tâm chú ý đến nước; hướng tâm chú ý xong, với trí, vị ấy quyết định ‘Hãy
biến chỗ ấy thành đất’. Chỗ ấy bèn có đất. Vị ấy đi trên nước mà nước
không nứt vỡ. Như người bình thường không có thần thông (năng lực siêu
nhiên) đi trên đất liền, cũng thế, người có thần thông làm chủ được ý,
đi trên nước mà nước không nứt vỡ như trên mặt đất.
20. Chân ngồi xếp bằng vị ấy phi hành như chim
giương cánh: tự nhiên, vị ấy là người đạt được đề mục thiền đất. Vị
ấy hướng tâm chú ý đến hư không; hướng tâm chú ý xong, với trí, vị ấy
quyết định ‘Hãy biến chỗ ấy thành đất’. Chỗ ấy bèn có đất. Vị ấy du hành
(đi bộ), đứng, ngồi, nằm trong hư không, trong bầu trời. Như người
bình thường không có thần thông (năng lực siêu nhiên) du hành (đi bộ),
đứng, ngồi, nằm trên mặt đất, đi trên đất liền, cũng thế, người có thần
thông này làm chủ được ý, du hành (đi bộ), đứng, ngồi, nằm trong hư
không, trong bầu trời như chim giương cánh.
21. Tay vị ấy sờ mó mặt trăng mặt trời là những gì
vĩ đại và oai lực như vậy: Ở đây người có thần thông [209] làm chủ
được ý, trong khi vị ấy đang ngồi hay đang nằm, Vị ấy hướng tâm chú ý
đến mặt trăng mặt trời; hướng tâm chú ý xong, với trí, vị ấy quyết định
‘Hãy biến nó nằm trong tầm tay’. Nó nằm trong tầm tay. Ngồi hay nằm, tay
vị ấy sờ mó mặt trăng mặt trời. Như thể có người bình thường không có
thần thông (năng lực siêu nhiên), tay vị ấy sờ mó đối tượng trong tầm
tay cũng thế, người có thần thông này làm chủ được ý, ngồi hay nằm, tay
vị ấy sờ mó mặt trăng mặt trời.
22. Vị ấy điều thân mình bay xa đến cõi trời Phạm
Thiên: nếu người có thần thông (năng lực siêu nhiên) làm chủ được ý
này muốn đi đến cõi trời Phạm Thiên, dù xa, vị ấy quyết định gần: ‘Hãy
đến gần’. Thì cõi đó đến gần. Dù gần, vị ấy quyết định xa: ‘Hãy ở xa’.
Thì cõi đó ở xa. Dù nhiều, vị ấy quyết định ít: ‘Hãy có ít’. Thì có ít.
Dù ít, vị ấy quyết định nhiều: ‘Hãy có nhiều’. Thì có nhiều. Với thiên
nhãn, vị ấy thấy được khía cạnh hữu hình (đối tượng) của Phạm Thiên đó.
Với thiên nhĩ, vị ấy nghe được âm thanh của Phạm Thiên đó; với tha tâm
trí, vị ấy biết được tâm của Phạm Thiên đó. Nếu người có thần thông
(năng lực siêu nhiên) làm chủ được ý này muốn đi đến cõi trời Phạm Thiên
bằng thân hữu hình, vị ấy biến đổi tâm cho phù hợp với thân, vị ấy quyết
định tâm phù hợp với thân, vị ấy dễ dàng đạt được nhận thức an lạc và
nhận thức nhẹ, và vị ấy đi đến cõi trời Phạm Thiên bằng thân hữu hình.
Nếu người có thần thông (năng lực siêu nhiên) làm chủ được ý này muốn đi
đến cõi trời Phạm Thiên bằng thân vô hình, vị ấy biến đổi tâm cho phù
hợp với thân, vị ấy quyết định tâm phù hợp với thân, vị ấy dễ dàng đạt
được nhận thức an lạc và nhận thức nhẹ, và vị ấy đi đến cõi trời Phạm
Thiên bằng thân vô hình. Vị ấy tạo hóa thân trước mặt Phạm Thiên
đó, do tâm tạo, đủ tứ chi, không thiếu giác quan nào. Nếu người có thần
thông (năng lực siêu nhiên) đi lên đi xuống, hóa thân đó cũng đi lên đi
xuống ở đấy. Nếu người có thần thông đứng, hóa thân cũng đứng ở đó. Nếu
người có thần thông ngồi, hóa thân cũng ngồi ở đó. Nếu người có thần
thông nằm, hóa thân cũng nằm ở đó. [210] Nếu người có thần thông phun
khói, hóa thân cũng phun khói ở đó. Nếu người có thần thông phun lửa,
hóa thân cũng phun lửa ở đó. Nếu người có thần thông giảng Giáo Pháp,
hóa thân cũng giảng Giáo Pháp ở đó. Nếu người có thần thông đặt câu hỏi,
hóa thân cũng đặt câu hỏi ở đó. Nếu được hỏi, người có thần thông trả
lời, hóa thân được hỏi, cũng trả lời ở đó. Nếu người có thần thông đứng
với Phạm Thiên, đối thoại, hội thoại với Phạm Thiên đó, hóa thân cũng
đứng với Phạm Thiên, đối thoại, hội thoại với Phạm Thiên ở đó. Người có
thần thông làm bất cứ điều gì, hóa thân cũng làm điều đó.
Đây là thần thông như là quyết định.
23. (2) Thần thông như là biến hình (đa dạng) là gì?
Thế Tôn Sikhin, bậc Ứng Cúng và Giải Thoát Toàn Triệt, có đệ tử tên là
Abhibhū. Đứng trong thế giới Phạm Thiên, vị này có thể truyền
thông bằng tiếng với cõi mười ngàn thế giới. Vị ấy giảng Giáo Pháp bằng
thân hữu hình, và vị ấy giảng Giáo Pháp bằng thân vô hình; vị ấy giảng
Giáo Pháp với nửa thân dưới hữu hình, và vị ấy giảng Giáo Pháp với nửa
thân trên vô hình. Vị ấy giảng Giáo Pháp với nửa thân trên hữu hình, và
vị ấy giảng Giáo Pháp với nửa thân dưới vô hình. Vị ấy bỏ hình dáng bình
thường và cho thấy hình dáng một cậu trai, của Nāga (rắn), hình
dáng của Supaṇṇa (quỷ có cánh), hay hình dáng của thần linh, hay
hình dáng của Đế Thích, hay hình dáng của chư thiên [ở cảnh trời dục
giới khác], hay hình dáng của Phạm Thiên [Brahmā], hay hình dáng
của biển, hay hình dáng của núi, hay hình dáng của rừng, hay hình dáng
của sư tử, hay hình dáng của cọp, hay hình dáng của báo, hay hình dáng
của voi, hay vị ấy cho thấy chiếc xe ngựa, hay cho thấy người lính bộ,
hay cho thấy cuộc dàn quân. Đây là thần thông như là biến hình (đa
dạng).
24. (3) Thần thông như là [thân] do tâm tạo là gì? Ở
đây vị tỳ kheo từ tấm thân này tạo ra một thân khác, có vật thể, do tâm
tạo, [211] có đủ tứ chi, không thiếu giác quan nào. Như một người rút cỏ
lau ra khỏi vỏ lau và nghĩ như vầy: ‘Đây là vỏ lau, đây là cỏ lau; vỏ
lau là một, cỏ lau là một cái khác, cỏ lau rút ra từ vỏ lau này’; hay có
người rút kiếm ra khỏi vỏ và nghĩ như vầy: ‘Đây là kiếm, đây là vỏ; vỏ
kiếm là một, lưỡi kiếm là một cái khác, lưỡi kiếm rút ra từ vỏ kiếm
này’; hay như một người kéo rắn ra khỏi da của nó và nghĩ như vầy: ‘Đây
là con rắn,
[4]
đây là da rắn; da rắn là một, rắn là một cái khác, con rắn được lột ra
từ lớp da này’; cũng thế, vị tỳ kheo từ tấm thân này tạo ra một thân
khác, có vật thể, do tâm tạo, có đủ tứ chi, không thiếu giác quan nào.
Đây là thần thông kể như là [thân] do tâm tạo.
25. (4) Thần thông do trí can dự là gì? Ý nghĩa của
từ bỏ nhận thức về trường tồn thành tựu được nhờ quán vô thường, như vậy
nó là thần thông do sự can dự của trí. Ý nghĩa của từ bỏ nhận thức về
vui sướng thành tựu được nhờ quán khổ não... Ý nghĩa của từ bỏ nhận thức
về ngã thành tựu được nhờ quán không phải là ngã... Ý nghĩa của từ bỏ
nhận thức về ham thích thành tựu được nhờ quán nhàm chán... Ý nghĩa của
từ bỏ tham thành tựu được nhờ quán hết ham muốn... Ý nghĩa của từ bỏ
nguồn sanh khởi thành tựu được nhờ quán đoạn diệt... Ý nghĩa của từ bỏ
bám níu thành tựu được nhờ quán buông bỏ... như vậy nó là thành công do
sự can dự của trí. Đã có thành công do sự can dự của trí ở tôn giả
Bakkula. Đã có thành công do sự can dự của trí ở tôn giả Sankicca. Đã có
thành công do sự can dự của trí nơi tôn giả Bhūtapāla. Đây là
thành công do sự can dự của trí.
26. (5) Thần thông do định can dự là gì? Ý nghĩa của
từ bỏ chướng ngại thành tựu được nhờ sơ thiền, như vậy nó là thành công
do sự can dự của định. Ý nghĩa của từ bỏ hướng tâm về đối tượng và suy
xét đối tượng thành tựu được nhờ nhị thiền, như vậy nó là thành công do
sự can dự của định. Ý nghĩa của từ bỏ hỉ thành tựu được nhờ tam thiền...
Ý nghĩa của từ bỏ lạc và khổ thành tựu được nhờ tứ thiền... Ý nghĩa của
từ bỏ nhận thức về sắc thể, nhận thức về đối ngại, và nhận thức về sự
khác biệt thành tựu được nhờ chứng đạt cõi không gian vô biên... Ý nghĩa
của từ bỏ cõi không gian vô biên thành tựu được nhờ chứng đạt cõi thức
vô biên... Ý nghĩa của từ bỏ cõi thức vô biên thành tựu được nhờ chứng
đạt cõi không có gì... Ý nghĩa của từ bỏ cõi không có gì thành tựu được
nhờ chứng đạt cõi không có nhận thức cũng không phải không có nhận thức,
[212] như vậy nó là thành công do sự can dự của định. Đã có thành công
do sự can dự của định nơi tôn giả Sāriputta. Đã có thành công do
sự can dự của định ở tôn giả Sañjīva. Đã có thành công do sự can
dự của định ở tôn giả Khāṇukondañña. Đã có thành công do sự can
dự của định ở nữ cư sĩ Uttāra. Đã có thành công do sự can dự của
định ở nữ cư sĩ Samāvatī. Đây là thành công do sự can dự của
định.
27. (6) Thần thông của các bậc Thánh là gì? Ở đây nếu
có tỳ kheo ước (1) ‘Mong cho tôi trú biết không ghê tởm cái đáng ghê
tởm’, về việc đó, vị ấy trú biết không ghê tởm cái đáng ghê tởm. Nếu vị
ấy ước (2) ‘Mong cho tôi trú biết ghê tởm cái không ghê tởm’, về việc
đó, vị ấy trú biết cái ghê tởm cái không ghê tởm. Nếu vị ấy ước (3)
‘Mong cho tôi trú biết không ghê tởm cái đáng ghê tởm và cái không ghê
tởm’, về việc đó, vị ấy trú biết không ghê tởm. Nếu vị ấy ước (4) ‘Mong
cho tôi trú biết ghê tởm cái đáng ghê tởm và cái không ghê tởm’, về việc
đó, vị ấy trú biết ghê tởm. Nếu vị ấy ước (5) ‘Tránh cả hai [khía cạnh]
ghê tởm và không ghê tởm, mong cho tôi trú trong bình thản đến đối tượng
ấy, có quán niệm và hoàn toàn hiểu biết tường tận’, về việc đó, vị ấy
trú trong bình thản đến đối tượng ấy, có quán niệm và hoàn toàn hiểu
biết tường tận.
(1) Vị ấy trú biết không ghê tởm cái đáng ghê tởm như
thế nào? Trong trường hợp gặp đối tượng không khả ý, vị ấy rải tâm từ
đến nó hay liên tưởng đến * bốn yếu tố chính. Vị ấy trú biết không ghê
tởm cái đáng ghê tởm như thế đấy.
* liên tưởng đến: coi nó
như là. Đọc Vism. XII đ 38.
(2) Vị ấy trú biết ghê tởm cái không ghê tởm như thế
nào? Trong trường hợp gặp đối tượng khả ý, vị ấy chú tâm đến coi nó bất
tịnh hay liên tưởng đến vô thường. Vị ấy trú biết ghê tởm cái không ghê
tởm như thế đấy.
(3) Vị ấy trú biết không ghê tởm cái đáng ghê tởm và
cái không ghê tởm như thế nào? Trong trường hợp gặp đối tượng không khả
ý và khả ý, vị ấy rải tâm từ đến nó hay liên tưởng đến bốn yếu tố chính.
Vị ấy trú biết không ghê tởm cái đáng ghê tởm và cái không ghê tởm như
thế đấy.
(4) Vị ấy trú biết ghê tởm cái không ghê tởm và cái
đáng ghê tởm’ như thế nào? Trong trường hợp gặp đối tượng khả ý và không
khả ý, vị ấy chú tâm đến coi nó bất tịnh hay liên tưởng đến vô thường.
Vị ấy trú biết ghê tởm cái không ghê tởm và cái đáng ghê tởm như thế
đấy.
(5) Vị ấy tránh cả hai [khía cạnh] ghê tởm và không
ghê tởm, trú trong bình thản đến đối tượng ấy, có quán niệm và hoàn toàn
hiểu biết tường tận như thế nào? [213] Ở đây khi mắt thấy vật hữu hình,
vị tỳ kheo không hân hoan hay cũng không phiền muộn; vị ấy trú trong
bình thản, có quán niệm và hoàn toàn hiểu biết tường tận. Khi tai nghe
âm thanh... Khi mũi ngửi mùi... Khi thân chạm vật xúc chạm được... Khi ý
nhận biết đối tượng của tâm thức, vị ấy không hân hoan cũng không phiền
muộn, trú trong bình thản, có quán niệm và hoàn toàn hiểu biết tường
tận. Vị ấy tránh cả hai [khía cạnh] ghê tởm và không ghê tởm, trú trong
bình thản đến đối tượng ấy, có quán niệm và hoàn toàn hiểu biết tường
tận như thế đấy.
Đây là thần thông của các bậc Thánh.
28. (7) Thần thông do quả của nghiệp sanh là gì?
Thành công trong các loài chim, trong tất cả chư thiên, trong một số
người, trong những sanh linh ở chốn đọa đày, đó là thành công do quả của
nghiệp sanh.
29. (8) Thần thông của công đức là gì? Vua Chuyển
Luân du hành trong hư không với bốn đạo quân, có cả tùy tùng và người
chăn cừu. Cư sĩ Jotika có thần thông do công đức này. Cư sĩ
Jaṭilaka có thần thông do công đức này. Cư sĩ Ghosika có thần
thông do công đức này. Cư sĩ Meṇḍaka có thần thông do công đức
này. Thần thông của năm công đức này là thần thông do công đức. Đây là
thần thông của công đức.
30. (9) Thần thông nhờ phù thuật là gì? Người có phù
thuật sau khi đọc phù chú, du hành trong hư không, và họ cho thấy voi,
ngựa, chiếc xe ngựa, người lính bộ, cuộc dàn quân trên không. Đây là
thần thông nhờ phù thuật.
31. (10) Thần thông theo nghĩa thành công nhờ việc
làm đúng thời là gì? Ý nghĩa của từ bỏ ham muốn khoái lạc giác quan
thành công nhờ xuất ly, vì thế nó là thần thông theo nghĩa thành công
nhờ việc làm đúng thời. [214] ... [và cứ thế với bẩy chướng ngại, bốn
cõi thiền, bốn chứng đạt vô sắc giới, mười tám quán thực tánh chánh, bốn
đạo lộ, cho đến] ... Ý nghĩa của từ bỏ tất cả nhiễm lậu thành công nhờ
đạo lộ arahant, vì thế nó là thần thông theo nghĩa thành công do việc
làm đúng thời. Đây là thần thông theo nghĩa thành công nhờ việc làm đúng
thời.
[5]
CHẤM DỨT LUẬN THUYẾT VỀ
THẦN THÔNG.
[3]
Viết là:vimariyādīkataṁ cittaṁ kilesamariyāde na ijjhati.
«Thay vì ijjhati,
bản Be viết là iñjatīti
».
[4]
Viết: Ayaṁ ahi ayaṁ karaṇḍo, añño ahi.
[5]
Đọc Vism. Chương XII bình giải về toàn thể Luận thuyết này.
-ooOoo-