Tịnh độ
Kinh Vô Lượng Thọ Giảng Yếu
Hán Văn: Khương Tăng Khải Dịch và ghi chú: Hồng Nhơn
28/10/2553 22:41 (GMT+7)
Kích cỡ chữ:  Giảm Tăng

---o0o---

PHẬT NÓI KINH VÔ LƯỢNG THỌ

---o0o---

 

PHẦN HUYỀN NGHĨA

Kinh Vô Lượng Thọ và viên giáo xứng tánh của Như Lai, là hóa nghi của chúng sanh sẵn có. Nguyên trong cảnh giới chơn như vốn không có một pháp mà trùm khắp hết vi trần, ứng hết các cơ mà rốt ráo viên tịch. Bởi vì chúng sanh không hiểu nguồn tâm, vọng duyên vào nẻo khổ, huyển sanh vào huyển diệt, lúc xuống lúc lên, muốn nhổ gốc luân hồi, dứt nhơn ái, nếu không có pháp môn Niệm Phật thì còn ai biết lối để về nhà. Vì thế đấng Pháp Vương rủ lòng thương xót mở rộng pháp môn, chỉ những kinh chư Phật hộ trì, rõ chúng sanh cõi vốn thanh tịnh. Vô biên biển giác thấu về một mối an lành, vô số tường vân ruổi hết ba ngàn mưa mốc. Do đó hồng danh vừa xướng, dứt sạch tội mê, một niệm tròn đầy mau lên bảo địa. Mình và người không cách, vượt mười muôn ức cõi chẳng bao xa, phàm thánh giống in, tức có đủ hết ba mươi hai tướng. Cốt yết tâm mình là Phật, tức Phật tỏ lòng, đem muôn thiện đồng về, giữ cho nhất tâm chẳng loạn. Trong hoa sen báu mẹ con sẽ gặp nhau, trên tướng lông mài sự khổ vui đâu còn nữa, từ đó đủ trí ấn Văn Thù, đầy nguyện vương Phổ Hiền, không cần động một mảy may mà chứng liền được tam muội, không dời nửa bước mà đi khắp mười phương, liền được thọ ký bồ đề, vị lên bất thối. Nhờ phương tiện ấy, khó nói hết thâm ân, phàm người có Tịnh Ðộ nhân duyên cần nên nhận lấy.

Có người hoặc chấp CÓ chê KHÔNG , nặng tình mê tánh, luyến huyển thân làm trăm tuổi, mê chơn tánh cả muôn đời, lấy được hạt mè tự cho là đủ, nằm trên cánh phù du buổi tối đâu có ngày mai, như kẻ cùng tử nổi trôi nhận thành khổ làm nhà ở, sống buông lung điên đảo, khóa chơn như trong đêm mơ. Dù Phật Tổ đã ân cần kề tai dặn bảo, nhưng nào ai chịu nhận lối về, không hề phá tướng tột không, chấp thuốc thành bịnh, bỏ lời Phật dạy, quên hẳn lối đi, suốt ngày mê tình đắm nhàn không biết bỏ trần về giác. Thấy lổ trần nhà hiện bóng cho là ánh nhật giữa trời không, chỉ được hạt nước ngoài khơi cứ tưởng là muôn trùng biển rộng. Chẳng khác Lão Bà moi đáy nước tìm hình bóng đâu đâu, như chàng Diễn Nhã Ðạt Ða nhìn gương thấy mất đầu la hoảng. Than ôi! Thân người khó được, chổ chí Ðạo khó nghe, một hơi thở không về trở thành đời khác. Ba đường dông rủi dài biết bao năm , nhà lửa cháy phừng phừng mà vẫn một lòng chơi giỡn, hằng hà sa kiếp khó hàn trở lại thân người, nếu không hiểu được Nhất Tâm, trôi lăn biết bao giờ trở lại. Nếu muốn vượt ngang qua ba cõi, chỉ có con đường về Cực Lạc Phương Tây, Kinh này Phật nói trước tiên, là con đường duy nhất cho chúng sanh thoát luân hồi khổ.

Trước khi giảng Kinh, chúng ta cần hiểu rõ những Thắng Nghĩa, những Yếu Chỉ, những Huyền Nghĩa nhất là những cốt tủy của toàn Bộ Kinh.

 

I.Những Thắng Nghĩa: kinh Vô Lượng Thọ là một bộ kinh chính yếu làm nơi QUY TÚC cho pháp môn Tịnh Ðộ. Trong ấy diễn đạt hết thắng nghĩa của Tông mà kinh Tịnh Ðộ khác không có đủ. Kinh bao gồm các khía cạnh như: Nhơn Quả, Tín Giãi, Nguyện Hạnh, Khuyên Răn, Sự Lý, và Tu Chứng. Vì nó có đầy đủ tất cả thắng nghĩa, nên Cổ Ðức gọi là Ðại Kinh.

*Ðủ Nhơn Quả: pháp môn Niệm Phật A Di Ðà cầu sanh về cõi Cực Lạc có đủ trong Kinh luận Ðại thừa mà chuyên chú có Ba Kinh và Một Luận. Tất cả các Kinh Luận nói về tịnh độ phần nhiều nói về Quả, ít đề cập đến Nhơn. Kinh này nói Tỳ kheo Pháp Tạng trong lúc là Bồ Tát Gieo Nhơn, tu các thứ hạnh nguyện, nhờ đó mà được cái quả Tịnh Ðộ ngày nay, vì có Diệu Quả mà ngài chuyên nhiếp hóa chúng sanh, ai nương cái đó mà tu hành chắc được kết quả. Nhơn Quả đầy đủ so với các Kinh tịnh độ khác, Kinh này đầy đủ nhất.

*Ðủ Tín Giải: Tín là cội của Ðạo là mẹ của các công đức, nuôi sống tất cả các căn lành. Giải là hiểu rõ điều cốt yếu để tu hành, do lòng tin mà sinh ra. Kinh này nói rõ nhơn quả của Ngài Pháp Tạng Tỳ Kheo do lòng tin sâu hiểu rõ mà tạo thành cõi Di Ðà Tịnh Ðộ. Ngài đã nghe hai trăm mười ức quốc độ của chư Phật, việc lành dữ của trời người và thấy rõ các quốc độ của chư Phật. Ðồng thời ngài cũng hiểu rõ tất cả Phương Pháp Trang Nghiêm Diệu Ðộ. Ở các Kinh luận Tịnh Ðộ đều lấy Việc Khó Tin để khuyên người Sanh Lòng Tin. Kinh này dạy: Khi tin đều phải dùng trí tuệ quán sát, chỉ cho thấy các pháp đều Không, Vô Ngã, hiểu rõ mình như huyễn, dùng trí tuệ đạt đến chỗ cứu cánh không còn nghi ngờ. Do đó lòng tin trở nên sâu chắc.

*Ðủ Hạnh Nguyện: Kinh A Di Ðà dạy: Muốn được vãng sanh phải có nhiều căn lành, phước đức, nhân duyên, nhưng không nói rõ phải tu thế nào để có nhiều căn làn, phước đức, nhân duyên. Ở trong Kinh này giải thích rõ Phật A Di Ðà đã tu nhơn gì, tại sao phải phát nguyện tịnh tu và cũng nói cái Diệu Quả mà Phật A Di Ðà thành đạt, người cầu vãng sanh phải phát nguyện như thế nào để đạt đến kết quả. Nguyện và Hạnh ở đây được giải thích vô cùng tường tận.

*Ðủ Khuyên Răn: Kinh Vô Lượng Thọ khuyên người dứt bỏ năm thiêu, năm ác, làm năm điều lành, đồng thời cũng chỉ rõ những việc ác để sớm xa lìa, trong Kinh đồng thời cũng chỉ những khổ não vô kể của cõi Ta Bà để sanh lòng sợ sệt từ đó muốn xa lìa, khen ngợi Tịnh Ðộ trang nghiêm vô cùng diệu lạc để người sanh lòng hâm mộ pháp nguyện tu hành. Thiết tha căn dặn, hết lòng thương yêu khuyên răn đó là thù thắng của Kinh này.

*Ðủ Lý Sự: Lý là lý trí, dùng trí tuệ để phán xét. Giải rõ lý Chơn Như như huyễn, chỉ rõ diệu dụng của bản tâm, tự tánh Di Ðà, duy tâm Tịnh Ðộ. Sự tức là chỉ Sự Tướng, như nói trong cõi Tịnh Ðộ Phật A Di Ðà sống lâu vô lượng, ánh sáng vô lượng, vàng ròng làm đất, âm nhạc, hoa trời đều là thắng diệu của Sự. Các Kinh Tịnh Ðộ thường hiển Sự ẩn Lý, Kinh này Lý Sự đều được trình bày.

*Ðủ Thân chứng: Trong các Kinh Tịnh Ðộ khác nói rõ các thứ công đức trang nghiêm Tịnh Ðộ không thể nghĩ bàn, tuy mười phương chư Phật đều khen ngợi thanh tịnh như thế, trang nghiêm như thế nhưng chưa có người được thân thấy, nên khó làm cho người ta tin chắc. Trong Kinh này khi đức Thế Tôn giảng xong, Ngài A-Nan đảnh lễ Phật Vô Lượng Thọ ở cõi Cực Lạc tây phương. Lúc ấy Phật Vô Lượng Thọ và cõi Cực Lạc hiện rõ ra làm cho ngài A-Nan và tất cả đại chúng đều thân thấy. Phật Vô Lượng Thọ không phải chỉ do đức Thế Tôn diễn nói mà toàn thể Hội Chúng đều chính mắt mình nhìn thấy được.

 

II.Yếu-Chỉ Kinh Vô Lượng Thọ: Gồm có năm điểm cốt yếu:

1-Tin vào Trí Phật: Trong Ðại Kinh dạy: Nếu có chúng sanh nào không hiểu Trí Phật, đối với trí thù thắng của Phật hoài nghi không tin, song vẫn tin tội phước, nguyện sanh về cực lạc những chúng sanh này sau khi lâm chung ở biên địa cõi Cực Lạc, sống năm trăm năm không thâý Tam-Bảo gọi là Thai-Sanh, nên biết đối với trí huệ Phật sinh lòng nghi hoặc thất lợi rất lớn. Phật nói pháp môn Tịnh Ðộ là pháp môn đặc biệt không thể nghĩ bàn, gần đây một số người căn cứ vào sở học của họ đứng ở một khía cạnh như Tướng Tông, Bát nhã Tông, Tam Luận Tông để nhìn Trí Phật, cho việc Mang Nghiệp Vãng Sanh Vượt Khỏi Tam Giới, Một Ðời Thành Phật là một vấn đề khó hiểu. Họ đâu biết rằng: Phật đã nói rõ pháp này khó tin và diệu dụng không thể nghĩ bàn. Nên biết Trí Phật không thể nghĩ bàn, không thể nghĩ nói. Trí Ðại thừa tối thượng không thể nghĩ so sánh, Phật dùng trí huệ ấy để nói lên pháp môn Tịnh Ðộ, không còn chút gì đáng nghi nữa!

2-Tin mình đã có thiện căn: Ðức Thế Tôn khi vừa thành đạo Ngài đã nói: Tất cả chúng sanh đều có đủ Ðức Tướng và Trí Tuệ của Như Lai, nhưng bị vô minh che lấp, ta sẽ đem Ðạo Giác Ngộ chỉ bày chúng sanh được thành Phật. Biết được mình có Phật tánh, có sẵn hột giống Phật nên cố gắng vun quén, lau chùi vết nhơ để Phật tánh được hiển lộ. Nếu mình không có Phật tánh dù chúng ta có tu muôn nghìn đời cũng không thể thành Phật. Như người mài ngói gạch để làm gương sẽ không bao giờ được toại nguyện vì bản chất ngói gạch không thể hiển lộ ánh sáng để trở thành gương. Có một số người không hiểu mình có Phật tánh, có thiện căn, cứ cho mình có nghiệp chướng nặng không thể vãng sanh. Họ đâu biết rằng năng lực đại nguyện của Phật A Di Ðà không thể nghĩ bàn. Một cục đá dù to nhưng có phương tiện đưa lên thuyền dễ dàng sang thẳng bờ kia. Hạt cát tuy nhỏ nhưng không có động lực giúp đỡ vẫn bị chìm lỉm ở một chỗ. Mình đã không tin mình có tánh Phật, có thiện căn, thì đâu có thể tin vào Phật. Lòng tin đã không sâu thì nguyện đâu có tha thiết, làm sao có thể được vãng sanh?

3.Phát Ðại Nguyện Bồ Ðề: Ðại Kinh dạy: Chánh nhân của Ba Bậc vãng sanh là phải Phát Tâm Bồ Ðề. Nói một cách khác, nếu không phát Tâm Bồ Ðề tức là không thể vãng sanh. Tâm Bồ Ðề là gì? Tâm Bồ Ðề là tâm đại từ bi độ mình và độ người được hoàn toàn giác ngộ. Do đó, mới biết pháp môn Tịnh Ðộ là pháp môn viên đốn Ðại thừa, không phải hàng định tánh tiểu thừa có thể thâm nhập được. Vì thế, dù là phàm phu mà phát Ðại Nguyện Bồ Ðề cũng được thành chánh giác.

4.Nhất hướng chuyên niệm cầu được vãng sanh: Kinh A Di Ðà dạy NHẤT TÂM BẤT LOẠN, Kinh này dạy MỘT HƯỚNG CHUYÊN NIỆM. Chuyên niệm xét về thời gian thì một lòng hướng về từ trước đến sau nối kín nhau không dứt, như vòng xích sắt chuyển không có đầu mối. Về không gian là chuyên lòng nhớ nghĩ đến Phương Tây, cõi Cực Lạc trang nghiêm, Phật A Di Ðà tiếp dẫn, không hề nghĩ đến hướng nào khác. Người chuyên tâm là người hệ niệm thế giới cực lạc ở Tây Phương, cầu được vãng sanh. Dù có tiền muôn bạc vạn cũng không ham, dù có vui vẻ như thiên cung tâm vẫn không lay động, một chí nguyện cầu sanh không gì làm lay chuyển nổi. Ðến khi lâm chung tâm Phật hiển hiện, Phật A Di Ðà đến như bóng theo hình, như vang hợp tiếng, pháp đúng như thế, nhơn quả không sai.

5.Tu các Công đức Chí Tâm Hồi Hướng: Pháp Môn Tịnh Ðộ chia làm hai hạnh: Chánh hạnh và Trợ hạnh. Niệm Phật là chánh hạnh nhưng tu các công đức cũng không thể thiếu, nó như chim có hai cánh mới có thể vượt trùng dương. Có người không hiểu cho việc Trì Danh là chánh nên không cần Bố Thí, Trì Giới, đọc Kinh, xây tháp, tạo tượng…không cần làm các thứ công đức là một điều lầm lớn. Pháp môn Tịnh Ðộ cần có chánh trợ đồng tu. Thuở xưa Ngài Pháp Tạng Tỳ Kheo phát 48 đại nguyện, rồi Ngài tự thực hành sáu phép Ba La Mật và dạy người thực hành trải qua vô ươn số kiếp, tích công lụy đức nhiều đời mới thành tựu pháp thân trang nghiêm diệu độ. Trong Ðại Kinh dạy: Bậc Thượng Trung vãng sanh cần tu các công đức và chí tâm hồi hướng cho pháp giới chúng sanh. Hồi hướng có nghĩa là quay về. Có 4 nghĩa: 1- Hồi hướng nhơn quả: Niệm Phật là nhơn, vãng sanh là quả. 2 - Hồi tự hướng tha: Mình chưa được độ trước phát tâm độ người. 3 - Hồi Tiểu hướng Ðại: Bỏ tự lợi của Tiểu thừa, quy hướng cầu thành Phật vãng sanh của Ðại thừa. 4 - Hồi Sự hướng Lý: Ðem 3 nghiệp thanh tịnh của sự tướng hướng về nhất chơn pháp giới của Lý tánh Thanh tịnh và không thanh tịnh đồng thành chủng trí. Ðại Kinh lại dạy: Nếu các chúng sanh nghe danh hiệu ta, lòng tin vui mừng cho đến một niệm, một lòng hướng nguyện sanh về nước ta, liền được vãng sanh. Nên biết chí tâm hồi hướng là điều rất quan trọng.

Năm yếu chỉ này, nếu người Tu Tịnh Nghiệp gắng thực hành chắc được quả vị cao.

 

III.Huyền Nghĩa: Tổng quan của một Bộ Kinh được Ngài Thiên Thai Trí Giả Ðại Sư nghiên cứu theo năm lớp huyền nghĩa:

  1. Giải Ðề Kinh: Ðề của Kinh này nói cho đủ là PHẬT NÓI KINH VÔ LƯỢNG THỌ. Muốn giảng Kinh trước phải hiểu tường tận đề Kinh, vì đề luôn là những nét khái yếu, đồng thời hiển thị yếu chỉ của Kinh.

Ðề Kinh này gồm có 6 chữ, chia làm 3 đoạn đề giảng:

*PHẬT có nghĩa là Giác. Tự mình giác ngộ, giác ngộ cho người khác và hành giác đã viên mãn. Kẻ phàm phu thì bất giác, nhị thừa thì không có giác tha, Bồ Tát thuộc phần giác, chỉ có Phật là hoàn toàn giác ngộ nên gọi là Vô thượng Chánh đẳng chánh giác. Nói một cách khác, Phật là nguời triệt để tự giác và dạy người khác cùng giác ngộ như Ngài.

*NÓI là truyền đạt tư tưởng bằng ngôn ngữ âm thanh, Phật Nói tức là lời dạy trong Kinh này là chính từ Kim Khẩu của Ðức Thích Ca Mâu Ni tuyên diễn

*KINH là nghĩa thấu suốt. Kinh tiếng Phạn gọi là Tu Ða La, Trung Hoa dịch là Kinh (sợi dây), ý nói dùng văn xâu suốt nghĩa lý, cũng như sợi dây xâu hoa. Lại có nghĩa là thường pháp. Trong Tâm Văn nói: Lời dạy của thánh hiền là Kinh. Vì không luận trải qua bao nhiêu thời gian, các vật trong đời có thể thay đổi, người trong đời xưa nay đều tôn trọng quy tắc này.

*VÔ LƯỢNG THỌ là danh hiệu Ðức Phật ở thế giới Cực Lạc Phương Tây mà Ðức Phật Thích Ca Mâu Ni đề cập tới. Nội dung bài thuyết giảng trong Kinh này là Ðức Phật Thích Ca tuyên dương chổ thực hành, chỗ thành tựu và chỗ nhiếp hóa chúng sanh của Phật A Di Ðà.

Nói chỗ thành tựu là chỉ Ðức Phật A Di Ðà kết quả viên mãn, thành tựu pháp thân trang nghiêm và cõi Cực Lạc trang nghiêm.

Nói chỗ nhiếp hóa là là chỉ Ðức Phật Vô Lượng Thọ đã nhiếp hóa chúng sanh có duyên trong mười phương đã được sanh về cõi Cực Lạc, được lợi ích ở trong Chánh Ðịnh Tụ.

Ðề Kinh PHẬT NÓI VÔ LƯỢNG THỌ là nêu chánh báo để thu gồm y báo, nêu Hóa chủ đều gồm cả Ðồ chúng. Trong đại Kinh Phật dạy: Ta nay vì các chúng sanh nói Kinh pháp này làm cho chúng sanh thấy Phật Vô Lượng Thọ và Quốc Ðộ của Ngài, những điều đương cơ chúng sanh có thể mong thành đạt được. Lại nói: Có chúng sanh nào gặp được Kinh này tùy theo ý mình muốn đều có thể được độ. Như thế Kinh này quả là bộ Kinh cứu kính của pháp môn Tịnh Ðộ.

Vô Lượng Thọ là tâm tánh một niệm hiện tiền của chúng ta. Quá khứ không có đầu, vị lai không có chót, ngang cùng ba phía, nên hiệu là Vô Lượng Thọ. Tâm tánh nhất niệm chúng ta trải qua muôn kiếp không hoại, thể đồng hư không dọc khắp mười phương, nên gọi là Vô Lượng Quang. Vô Lượng Thọ và Vô Lượng Quang là bản thể nhất chơn pháp giới hiện tiền. Do đó, Tâm, Phật, chúng sanh ba món đó đều không có gì sai khác.

2.Biện Luận về Chơn Thể: Trước đây chúng ta đã biết tên Kinh. Ðã có tên tức là có thực thể, vì thực thể chính là chủ thể của toàn bộ Kinh.

Kinh này lấy Vô Lượng Thọ làm tên là hiển cái đức Trường Thọ không sanh diệt tịch tịnh làm thể. Chơn thể của nó là Phật tánh, Niết Bàn hay Vô Sanh. Trong Ðại Kinh Phật dạy: Hôm nay ta ở trong đời này làm Phật, diễn nói Kinh Pháp, truyền bá dòng đạo độ người chưa giác ngộ được thoát sanh tử, vào chỗ vô sanh (Niết Bàn). Ta nay ở trong đời làm Phật, ở trong năm khổ, năm ác, năm thiêu cháy, bị nhiều đau khổ mà giáo hóa quần sanh, khiến bỏ năm điều ác, trừ năm thiêu cháy, xa lìa năm khổ, diệt trừ ý nghiệp, dạy cho năm điều lành, được phước trường thọ độ đời vào đạo Niết Bàn. Vì thế Kinh này lấy Niết Bàn làm chủ thể không còn nghi ngại.

Niết bàn là biệt hiệu của thật tướng. Trong Trí Ðộ Luận dạy: Thật tướng của các pháp là thành lũy của Niết Bàn. Thành Niết Bàn có ba cửa là Không, Vô Tướng, Vô Tác. Thật tướng là không tướng mà có tướng mà không tướng. Muốn hiểu giáo thể phải quan sát pháp tánh. Pháp tánh là cái không sanh, không diệt, không đoạn, không thường. Tâm cũng là tiếng tạm mượn đặt tên, Quốc độ nào có khác gì! Song tâm không phải là độ, mà độ chính Tâm, lấy bỏ đều tiêu, thấy nghe cũng dứt, đâu có thể cùng nhau suy tính, vọng nói phải quấy! Vì thế, nêu sơ lược bốn nghĩa để nghiên cứu rõ ràng:

a-Nghĩa Mình và Người không hai: Pháp thân chư Phật như Hư không , trùm khắp mười phương, toàn minh là người không hề trở ngại.

b-Tánh và Tướng không hai: Ðại Thừa Khởi Tín nói: Từ xưa đến nay Sắc và Tâm không hai, vì tánh của sắc là trí, thể của sắc không hình gọi là trí thân, vì Trí tánh là sắc nên gọi là pháp thân, chỉ hiện của sắc khắp tất cả chổ không có ngằn mé, theo Tâm mà có thể chỉ vô lượng Bồ Tát, vô lượng Báo thân, vô lượng trang nghiêm, các thứ sai biệt ở mười phương thế giới đều không ngằn mé mà vẫn không hề ngăn ngại nhau.

c-Nhân và Quả không hai: Ðại Kinh nói: Pháp Tạng Tỳ kheo mới phát nguyện rồi, giữa hư không vẳng tiếng khen ngợi: Quyết thành chánh giác. Lại nói: chúng sanh nhất tâm niệm Phật liền được công đức vô lượng. Vì thế nên biết : Nhơn gồm quả bể, quả thấu nguồn nhơn, cũng đồng như trong Kinh Pháp Hoa: Khi mới phát tâm liền thành chánh giác. Ở trong pháp tánh, nhơn quả không hai, rốt ráo không thể được.

Lại nữa, cảnh giới Niết Bàn đủ bốn đức: Thường, Lạc, Ngã, Tịnh, mầu nhiệm không thể nghĩ bàn, là cực quả tu chứng của bậc Thánh xuất thế gian. Kinh này nhiều chổ đề xướng pháp tánh tuy nói các thứ sự tướng trang nghiêm ở Cực Lạc thế giới chính là trang nghiêm tự tánh thanh tịnh Niết Bàn mà Phật thường hiển lộ.

d-Chúng sanh và Phật không hai: Trong Kinh Ðại Niết Bàn nói: Ta dùng trí tuệ Bát nhã thấy tất cả hàm sanh trong sáu đường, ba cõi, nguồn gốc thể tánh rốt ráo vắng lặng, tướng đồng hư không , không danh, không thực, dứt hết các chấp, xưa và nay vẫn bình đẳng không có tướng ngã, nhơn, chúng sanh, thọ giả, không sanh, không khởi, không tận, không diệt, Niết Bàn, sanh tử đều không thể được. Thể tánh chúng sanh vốn linh minh đồng triệt như Phật không khác, nhưng vì vọng niệm dấy lên nên có chúng sanh và Phật, thực sự không có hai.

3-Nói rõ Tông thú: Tông thú là mục tiêu để mọi người nương về. Biết được chơn thể, y theo đó mà khởi tu, đó là đạt được điểm yếu của Tông Thú. Biết được chơn thể phải nhằm ngay vào đó, thực hành đúng tôn chỉ chắc chắn thành công.

Kinh này lấy Phát Tâm Bồ Ðề, Chuyên Niệm Hồng Danh Phật A Di Ðà, Hồi Hướng cầu nguyện vãng sanh về nước Cực Lạc làm Tông Thú. Vì thế người tu hành trước hết phải Phát Tâm Cầu Ðại Bồ Ðề, tu Ðạo Bồ Tát nên được nghe danh hiệu chư Phật trong mười phương. Nhờ được nghe sức thù thắng oai thần của Phật Vô Lượng Thọ mà Chuyên Lòng Niệm Phật ấy, Cầu Nguyện Vãng Sanh Về Nước Kia Ðể Thành Phật, Ðộ Chúng Sanh là yếu chỉ của Kinh này.

Ba món tư lương của tịnh độ là TÍN, NGUYỆN, THỰC HÀNH, trong đó, NGUYỆN là chủ yếu. Dù có TIN mà không có NGUYỆN thì sự TIN ấy trở thành KHÔNG TƯỞNG, THỰC HÀNH mà không NGUYỆN thì việc THỰC HÀNH ấy cũng UỔNG CÔNG. TIN mà PHÁT NGUYỆN gọi là Thực tin lời Phật, THỰC HÀNH mà y theo Nguyện làm cho công khỏi phí, điều đó cần nên chú ý. THỰC HÀNH mà không có NGUYỆN dù có niệm đến Nhất Tâm cũng không được vãng sanh. THỰC HÀNH mà có NGUYỆN chắc chắn được sanh lên Thượng Phẩm, dù người tán tâm Niệm Phật cũng nhờ vào nguyện mà được vãng sanh, bất quả phẩm vị không cao mà thôi. Ngẫu Ích Ðại Sư dạy: Ðược vãng sanh hay không hoàn toàn do TIN NGUYỆN. Phẩm vị có cao thấp đều do TRÌ DANH có cạn sâu, chính là ý này. Nguyện và Thực hành có quan hệ mật thiết như thuyền và lái. Thuyền không có lái không thể đi thẳng dòng, không thể sang được bờ kia. Người tu nếu không Nguyện sẽ bị luân chuyển trong sáu đường, khó có thể sanh về tây phương được.

Nguyện là động lực của Tín và Thực hành. Vì sao? Vì lòng có ao ước khẩn thiết cầu sanh về Tây phương thì việc thực hành niệm Phật mới dũng mãnh. Niệm Phật mà dũng mãnh chính là mình y theo giáo pháp vâng làm, phát lòng Bồ Ðề.

Kinh này giảng rõ nhơn địa thù thắng của Phật Vô Lượng Thọ và kết quả trang nghiêm thành tựu, chính là muốn lấy Nguyện Hạnh phổ nhiếp chúng sanh của Phật Vô Lượng Thọ làm NHƠN, dẫn dắt chúng sanh phát nguyện làm DUYÊN. Nhơn duyên đã đủ, Phật nhớ chúng sanh, chúng sanh nhớ Phật, hai nhớ niệm bền chặt thì từ đời này đến đời khác không thể xa lìa như hình với bóng, không thể trái nhau. Người niệm được Nhất Tâm chắc được vãng sanh mà chưa được nhất niệm cầu sanh cũng quyết được vãng sanh. Như thế, pháp môn Tịnh Ðộ thực là thù thắng không pháp môn nào có thể so sánh.

4-Nghị luận về công dụng: Nghị luận về công dụng là bàn đến việc y theo Kinh mà tu hành sẽ được công dụng như thế nào.

Kinh này lấy Ðới Nghiệp Vãng Sanh và Trụ Chánh Ðịnh Tụ làm lực dụng. Nghiệp là gì? Nghiệp là những hành động thiện ác biến thành chủng tử ghi vào trong tâm thức, gặp duyên liền sanh ra hiện hành. Nghiệp do người tập thành thói quen và có năng lực lôi người đến chỗ chính mình gây tạo. Nên Cổ Ðức có câu: Người mất muôn việc đều bỏ lại, chỉ có nghiệp theo mình. Chúng ta từ vô thỉ đến nay, do vô minh che lấp chơn như Phật tánh, do đó tạo nghiệp rất nhiều. Kinh Ðịa Tạng nói; Dấy Ðộng niệm đều là Tội Nghiệp. Chúng ta nhiều kiếp lâu xa, tạo nghiệp vô số, nếu nghiệp của mỗi chúng sanh đều có thể tướng thì dù chất đầy trong cõi hư không này cũng không hết. Hôm nay, chuyên niệm Phật Vô Lượng Thọ, nhất tâm cầu sanh An Dưỡng, chỉ cần một niệm dũng mãnh tinh tấn, cắt đứt đầu môí các nghiệp, một xích bị cắt đứt là toàn thể sợi xích không còn trói buộc nữa, khi mạng chung mong Phật tiếp dẫn, mang nghiệp vãng sanh, một đời thành đạo. So sánh các pháp môn chuyên vào Tự Lực, phá một phần vô minh để chứng được một phần pháp thân, vô minh phá sạch mới được thành công. Nếu phân chia khó dễ người tu Tự Lực và người tu Tự Lực cộng Tha Lực thật cách xa. Nên Cổ Ðức cũng nói: Trong thời mạt pháp, tham thiền để thấy tánh khó như con kiến bò lên núi cao, niệm Phật cầu vãng sanh dễ như buồm căng gặp nước thuận.

Trong Ðại Kinh dạy: Chúng sanh được sanh về cõi Cực Lạc, tất cả đều trụ Chánh Ðịnh Trụ. Trong Ma Ha diễn cũng nói: bậc Thập Thánh là Chánh Ðịnh Tụ, Bậc Tam Hiền là Bất Ðịnh Tụ và Phàm Phu là Tà Ðịnh Tụ. Trong Kinh này nói: Người sanh về nước kia đều trụ ở Chánh Ðịnh Tụ. Như thế, bất luận người nào được sanh về nước kia đều trụ Bậc Thập Thánh Chánh Ðịnh Tụ. Vì ở Cực Lạc không có Bất Ðịnh Tụ và Tà Ðịnh Tụ.

5-Phân Ðịnh Giáo Tướng: Theo Thiên Thai Trí Giả Ðại Sư: Một đời thuyết pháp của đức Như Lai được chia làm năm thời là Hoa Nghiêm, A Hàm, Phương Ðẳng, Bát nhã, Pháp Hoa, Niết Bàn. Kinh này thuộc thời Thuyết Giáo Phương Ðẳng, Ðốn Giáo Bồ Tát tạng. Chơn Yết Liễu Thiền Sư dạy: Pháp môn niệm Phật là đường tắt tu hành, chánh án Ðại Tạng, tiếp kẻ Thượng căn, dẫn Bậc Trung, Hạ. Như thế, Kinh này thuộc Ðốn Giáo Bồ Tát Tạng.

 

---o0o---