PHẦN GIẢNG KINH
(B -PHẦN
CHÁNH TÔN)
(tiếp theo)
2-Bồ Tát vãng sanh
*Bồ Tát xứ
KINH VĂN:
Phật bảo: A Nan! Các Bồ Tát ở nước kia đều
là những bậc một đời bổ xứ. Trừ những vị có bổn
nguyện, vì chúng sanh đem đại nguyện công đức rộng lớn
mà tự trang nghiêm, muốn độ thoát tất cả chúng sanh.
Này A Nan! Trong nước kia các hàng Thinh Văn,
Bồ Tát ánh sáng chiếu trăm do tần. Có hai vị Bồ Tát cao nhất,
oai năng ánh sáng chiếu thấu tam thiên đại thiên
thế giới.
A Nan bạch Phật: Hai vị Bồ Tát ấy hiệu
gì? Phật đáp: Một vị tên Quan Thế Âm, một vị tên Ðại
Thế Chí. Hai vị Bồ Tát vốn ở cõi này, tu hạnh Bồ Tát, mạng
chung chuyển hóa sanh về nước Phật kia.
Này A Nan! Có chúng sanh nào được
sanh về nước kia đều có đủ ba mươi hai tướng tốt, trí
huệ viên mãn, hiểu rõ các pháp, thấu
chỗ nhiệm mầu, thần thông vô ngại, các căn
nhạy bén. Người độn căn thành tựu được hai nhẫn, kẻ lợi
căn được vô sanh pháp nhẫn. Lại nữa, các Bồ Tát kia từ
tu đến khi thành Phật, không vào các
nẻo ác, thần thông tự tại, thường biết
túc mạng, ngoại trừ sanh trong đời dữ năm trược ở
phương khác, phải thị hiện để đồng hóa như ở nước đó.
GIẢNG YẾU
Ðoạn này nói Bồ Tát và Thinh Văn
cứu cánh sẽ được thành Phật. Hai
vị Bồ Tát Quan Thế Âm và Ðại Thế Chí thường hầu Phật
Vô Lượng Thọ, cũng từ cõi Ta Bà quốc độ
của đức Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni mà đến. Nên
biết hai cõi Ðông và Tây cùng nhau xây dựng. Cõi ta bà là
hoa, cõi Cực Lạc là quả. Quả do nhân mà sanh và hoa cũng không
khác quả. Vì chư Phật và Bồ Tát căn cứ vào Bồ Ðề mà
thành tịnh độ. Nếu không có Uế thì không thành Tịnh, vì
tâm Bồ Ðề không phải chính mình nó mà khởi ra, vì thế
không lìa chúng sanh mà có tịnh độ.
Tịnh độ, chúng sanh mỗi tâm là Phật, chúng sanh, tịnh độ
mỗi niệm vãng sanh. Nên Ngài Quán Âm
dạy: Nếu tụng trì thần chú đại
bi, không được sanh về quốc độ chư Phật, ta thề không
thành chánh giác. Ngài Ðại Thế Chí
dạy: Người nhiếp tâm niệm Phật về cõi tịnh độ cùng với
Phật Vô Lượng Thọ đồng một nguyện.
*Bồ Tát dạo đi cúng dường
KINH VĂN:
Phật bảo: A Nan! Bồ Tát ở nước kia,
thừa oai lực của Phật ấy, trong khoảng bữa ăn, đến
khắp vô lượng thế giới trong mười phương, cung kính cúng
dường chư Phật Thế Tôn, tuỳ trong lòng
nghĩ, muốn cúng hoa hương, âm nhạc, y, tràng phang…Vô số
vô lượng đồ cúng dường tự nhiên hiện ra, nghĩ tới nó
liền đến, ngon, đẹp đặc biệt, đồ ở đời không thể
so sánh. Khi đem cúng tán chư Phật, Bồ Tát, Thinh Văn ở trên
hư không biến thành lọng hoa, ánh sáng rực rỡ, hương thơm
ngào ngạt, hoa ấy chu vi bốn trăm dặm, cứ như thế gấp bội,
trùm khắp cõi tam thiên đại thiên thế giới. Tùy theo thứ lớp
trước sau, lần lượt cúng dường xong rồi biến mất. Các vị
Bồ Tát ấy lòng vô cùng vui vẻ. Trên giữa hư không , thiên
nhạc cúng dừng , dùng lời vi diệu ca ngợi Phật đức. Người
nghe tin nhận Kinh pháp, hoan hỷ vô cùng. Cúng dường chư Phật
xong, trước giờ thọ thực liền nhẹ nhàng trở về nước mình
thọ thực.
GIẢNG YẾU
Ðoạn này nói rõ Bồ Tát đem
các đồ vật cúng dường mười phương chư Phật.
*Phật Vô Lượng Thọ thuyết pháp
KINH VĂN:
Phật bảo: A Nan! Phật Vô Lượng Thọ khi nói
pháp, hàng Bồ Tát Thinh Văn Nhơn Thiên đều
tập họp trong giảng đường bằng bảy báu, rộng nói giáo
lý, mở bày pháp mầu, ai nấy nghe đều vui mừng, tâm hiểu,
được chứng đạo quả. Lúc ấy ở bốn phương tự nhiên
gió nổi dậy, thời cây thất bảo phát ra năm thứ tiếng, vô
số hoa mầu theo gió phân chia, tự
nhiên cúng dường như thế không dứt. Tất cả chư thiên đều
mang trăm ngàn hương hoa, muôn thức kỷ
nhạc, cúng dường Phật và các chúng Bồ Tát, Thinh Văn. Tán
khắp hương hoa, tấu các âm nhạc, thứ lớp trước sau, phân
biệt rõ ràng, trong lúc ấy mọi người cảm thấy vô cùng
vui vẻ không thể nói hết.
GIẢNG YẾU
Ðoạn này nói rõ Phật Vô Lượng Thọ vì
chúng sanh mà thuyết pháp đã được giải thích rõ ràng trong
48 Ðại Nguyện. Có người hỏi rằng: Phật Vô Lượng Thọ nói
pháp thuần nói về Nhất
Thừa hay nói cả tam thừa? Nếu nói Nhất Thừa chúng Thinh Văn
làm sao nghe? Nếu nói cả Tam Thừa sao
nói hàng Nhị Thừa không sanh về nước kia? Ðáp: Ngài nói
thuần Nhất Thừa. Không chỉ ở giảng đường Thất Bảo nói
thuần Nhất Thừa mà cho đến trong mỗi hoa sen, trong mỗi ánh
sáng, tiếng gió, tiếng nước, các thứ âm nhạc cũng thuần
nói Nhất Thừa. Như Kinh Pháp Hoa nói: Trong mười phương thế
giới còn không có Nhị Thừa huống chi có đến Tam Thừa,
Nhơn vì căn trí của
chúng sanh có khác, chỗ nghe hiểu không đồng, chỗ chứng
sai biệt, nên đoạn
Kinh trước nói: Hoặc nghe tiếng Phật, nghe tiếng pháp, nghe
tiếng tăng, tiếng tịch mịch, tiếng không , tiếng vô ngã,
cho đến tiếng cam lồ quán đảnh. Tiếng âý khi được nghe
hoặc chứng Tu Ðà Hoàn, hoặc chứng
Tu Ðà Hàm, hoặc chứng Tu Ðà Hàm, hoặc chứng A Na Hàm, hoặc
chứng A la hán cho đến Bất Thối Chuyển Bồ Tát. Ðây là muốn
theo sự chứng Quả cõi này mà nói. Thật ra các quả vị ở
cõi Phật Vô Lượng Thọ đều
tiến đến thành Phật, không có Hữu
Dư Y Niết Bàn, vì nhân dân cõi ấy hồi Tiểu hướng Ðại
đúng theo bổn nguyện của Ðức Phật Vô Lượng Thọ
*Công đức của Bồ Tát
KINH VĂN:
Phật bảo: A Nan! Người sanh về cõi nước
kia các vị Bồ Tát thường nói pháp mầu nhiệm, tuỳ theo
trí huệ mỗi người mà diễn nói không trái không nhầm. Người
nước ấy không có tâm ngã và ngã sở, đi lại tới lui không
hề ràng buộc, tuỳ ý tự tại, không có chỗ nào không ưa
thích, không người không ta, không tranh không cãi. Tất cả mọi
người được tâm
đại từ bi, giúp đỡ hữu tình, được tâm không hờn giận,
nhu nhuyến điều phục, được tâm
không nhàm chán, lìa ngăn
che được thanh tịnh, được thù thắng
tâm và thâm tâm, định tâm, ái pháp, nhạo pháp, hỉ pháp
tâm. Diệt hết phiền não, được tâm xa lìa nẻo ác. Ðầy
đủ hạnh của các hạnh Bồ Tát, thành tựu vô lượng công
đức. Ðặng sâu vào thiền định,
các thông sáng tỏ, để lòng nơi bảy
giác, lòng ở Phật pháp. Nhục nhãn sáng tỏ, thiên nhãn
thông thấy vô lượng. Pháp nhãn quan sát thấy rõ các đạo.
Huệ nhãn thấy thật tướng, có thể độ
chúng sanh đến bờ kia. Phật nhãn đầy đủ biết rõ
pháp tánh, dùng trí vô ngại vì người nói pháp, cùng quán ba
cõi đều không thể
có, chí cầu Phật pháp, đủ các biện tài,
trừ hết họa hoạn phiền não cho chúng sanh, sanh tử Như Lai,
hiểu pháp vốn như – như, khéo biết phương tiện âm thanh tập,
diệt, không ưa lời trần tục, thích nói lời chánh, tu các cội
lành, chí sùng đạo
Phật, biết các pháp đều tịch diệt, sanh thân và
phiền não hai bên đều dứt, nghe pháp mầu nhiệm, lòng chẳng
lo sợ, thường tu hạnh đại
bi cao xa mầu nhiệm đều trọn đủ, chỉ còn một thừa thẳng
đến bờ kia. Dứt hết lưới nghi, huệ từ tâm sanh, ở giáo
pháp Phật thấu triệt không sót, trí huệ như biển lớn, tam
muội như Thái Sơn, ánh sáng trong lặng sáng hơn nhật nguyệt,
các pháp trong sạch đầy đủ viên
mãn, cũng như núi tuyết chiếu các công đức
thảy đều thanh tịnh. Cũng như đất lớn chứa đủ giống tốt
xấu, không hề thương ghét. Cũng như nước sạch rửa hết các
thứ nhơ bẩn, cũng như núi lửa đốt cháy hết củi phiền
não, cũng như gió lớn thổi quanh thế
giới không có chướng ngại, cũng như hư không ở trong có vật
không hề dính dáng, cũng như hoa sen ở trong thế gian không hề
ô nhiễm, cũng như xe Ðại Thừa chở hết kẻ mê ra khỏi
sanh tử, cũng như mây đen nổ sấm pháp giác ngộ người
chưa biết, cũng như mưa to rưới pháp cam lồ thấm các chúng
sanh, như núi kim cương tà ma ngoại đạo không thể lay
động, như Phạm Thiên Vương có các
pháp lành cao tột, như cây Ni câu loại bao trùm tất cả, như
hoa Ưu đàm bát ít khi được gặp. Như chim Kim Xí có oai hàng
phục ngoại đạo,
như đàn chim bay không để dấu vết, như con trâu đầu đàn
không con nào thắng nổi, cũng như chúa voi khéo sai sử các
con khác, như chúa sư tử không sợ con vật nào khác.
Tâm các Ngài từ bi như hư không, dẹp trừ
tâm oán hờn ganh ghét, giữ lòng an vui cầu pháp, tâm không
nhàm mỏi, nói pháp liên tục, lòng không mỏi mệt. Ðánh trống
pháp, lập trường
pháp, chiếu mặt nhật trí huệ, trừ hết các điều si ám.
Tu sáu pháp hòa kỉnh, thường làm việc
bố thí, ý chí mạnh mẽ, tâm không hề lui sụt, làm đèn
sáng như thế gian, tạo phước điền lớn, thường làm kẻ dẫn
đường, bình đẳng không hề thương ghét, chỉ vui chánh
đạo không ưa gì khác. Nhổ các mầm
dục, dễ an mọi người. Trí tuệ thù thắng, mọi người đều
tôn sùng, dứt ba chướng nhơ, có các thần thông lực, nhơn lực,
duyên lực, ý lực, nguyện lực, phương tiện lực, thường lực,
thiện lực, định
lực, huệ lực, đa văn lực, bố thí
lực, trì giới lực, nhẫn nhục lực, tinh tấn lực, thiền
định lực, trí huệ lực, giữ chánh niệm chỉ quán và các
thông minh, điều
phục các chúng sanh. Các lực như thế tất cả đều đầy đủ,
thân sắc vàng đủ tướng tốt, công đức, biện tài đầy
đủ trang nghiêm không ai sánh kịp.
Các Ngài cung kính cúng dường vô lượng chư
Phật, thường được chư Phật cùng nhau khen ngợi, được
rốt ráo đạo Bồ Tát và các ba la mật,
tu tam muội không, vô tướng, vô nguyện, tu tam muội bất sanh
bất diệt xa lìa các địa
vị Thinh Văn, Duyên Giác.
A Nan! Các vị Bồ Tát ấy thành tựu vô lượng
công đức như thế. Ta chỉ kể sơ lược cho ông nghe, nếu
nói rõ thì nói đến
trăm ngàn muôn kiếp cũng không hết.
GIẢNG YẾU
Ðoạn này nói chung về chỗ Hạnh nghiệp của
Bồ Tát. Nguyện lực như thế, công đức như thế, trí huệ
như thế, thần thông như thế, nhưng không lìa chư Phật, độ
khắp quần sanh vì muốn nghiêm tịnh tất cả cõi Phật, vì
muốn thành tựu Phổ Hiền Ðại Nguyện. Các Bồ Tát này đều
ở địa vị Thập Ðịa một đời bổ xứ làm
Phật. Chúng sanh ở cõi đời
năm trược này tên còn không được
nghe huốn là được gặp, nay nhờ nhơn duyên Niệm Phật, sanh
về nước kia rồi, thân kiến tất cả tri thức, Bồ Tát là
bạn bè, được gần
pháp vương, không cần trải qua bảy A Tăng Kỳ Kiếp, thẳng
lên bậc Bất Thối. Phương tiện như
thế thật ít có, khó gặp, dù kết cỏ ngậm vành cũng khó
đền ơn lớn.
Tịnh Ðộ của chư Phật có bốn độ, người
vãng sanh ở cõi tịnh độ nào?
Ngẫu Ích đại sư dạy: Người chấp trì danh
hiệu chưa đoạn được kiến hoặc và
tư hoặc tuỳ theo Tán Niệm hoặc Ðịnh Niệm đều ở Ðồng
Cư Tịnh Ðộ, phân ra 3 bối, 9 phẩm. Nếu trì sự Nhất Tâm
Bất Loạn, Kiến hoặc và Tư hoặc vừa mới hàng phục thì
sanh về Phương Tiện Hữu Dư Tịnh Ðộ. Nếu Trì Lý Nhất
Tâm Bất Loạn, bỗng nhiên phá từ 1 đến
49 phẩm vô minh, được sanh về Thường Tịch Quang Tịnh Ðộ.
Ðó là ước về Quả Vị mà luận, thật ra người vãng sanh
về Cực Lạc là ở Ðồng Cư Tịnh Ðộ, ở đây
vẫn có đủ ba độ trên, do thắng
nguyện của Phật Vô Lượng Thọ nhiếp hóa. Vì Phật Vô Lượng
Thọ có thắng nguyện về quốc độ nghiêm tịnh, nên cõi Ðồng
Cư ở Cực Lạc vượt xa hẳn các cõi Ðồng Cư tịnh độ của
chư Phật trong mười phương.
3-Cảnh giới Ưa và Chán
*Khuyến tấn vãng sanh
KINH VĂN:
Phật bảo Di Lặc Bồ Tát: Ở nước Phật Vô
Lượng Thọ, công đức và đạo lực của chư nhơn thiên,
Thinh Văn, Bồ Tát không thể nói hết. Lại trong quốc độ
ấy thanh tịnh an lạc vi diệu như thế, do đó ý nghĩ luôn
luôn tự nhiên ở nơi đạo và việc thiện, người đến cõi
ấy an lạc thực không ngằn mé, tại sao chúng ta không siêng
năng tinh tấn, gắng
sức tự cầu chắc được thoát khỏi tam giới vãng
sanh về nước An Lạc. Người dù đã gieo trồng năm
đường dữ mà có ý cầu sanh thì
đường dữ tự nhiên đóng
cửa, tiến đạo không cùng. Cõi ấy
rất dễ đến mà không người chịu đến, cõi ấy không có
người ác nghịch, bị nghiệp trói buộc, tại sao chúng ta
không bỏ việc đời, chuyên cầu đạo
đức, chắc được trường sanh, sống lâu vui vẻ không cùng
tột.
Người đời bị thế tục trói buộc, cùng
nhau tranh đua, tự mình đeo lấy những điều cực khổ, vất
vả cùng cực để tự nuôi thân. Tất cả những kẻ thế
gian dù sang hèn, giàu nghèo, lớn nhỏ,
nam nữ đều tham tiền
của. Nếu của đã có rồi thì thêm
việc kinh dinh sầu khổ, nhớ nghĩ chứa đầy, theo tâm sai khiến
không có giờ yên. Có nhà lo nhà, có đất
lo đất, ngựa trâu, gia súc, tôi tớ, tiền của, áo cơm các
vật đều phải lo nghĩ, nhớ mãi
không dứt, lo lắng sợ sệt. Gần thì lo nước lửa thiêu hủy,
trộm cắp oan gia, trái chủ đốt thiêu, cướp đoạt tiêu mất,
dần mòn tiêu tan, lo sợ đêm ngày không lúc nào khỏi. Ðến
già sắp chết, vẫn chưa khỏi lo buồn, hết lòng quyết ý cố
giữ không bao giờ chịu bỏ. Ðến khi thần tan mạng mất,
phải bỏ hết lại cho đời có đem theo được gì đâu?
Người tôn quý giàu có đều có lo riêng, sợ
sệt lo lắng, đau khổ vô cùng. Cùng chịu nóng lạnh, vẫn phải
khổ đau, lúc nghèo khó không có ruộng lo muốn có ruộng,
không nhà cũng lo muốn có nhà, không trâu ngựa, lục súc, nô
tì, tiền tài, y phục, các vật đều
lo muốn cho có. Nhưng vừa có một lại thiếu một, có đó
thiếu đó, mong cho bằng trước, vừa muốn có đủ nó liền
tiêu tan, sầu lo như thế nó cứ tiếp nối theo, không bao giờ
được toại ý, dù cố gắng nhớ lo
cũng thực vô ích,
thân tâm đều mệt mỏi, ngồi đứng không an, lo nghĩ nối
theo, khổ sở như thế. Người đời luôn kết chuyện đau buồn,
suốt đời không chịu làm lành, lo đường
đạo đức, đến khi lâm chung đường trước mù tịt không
biết về đâu!
Thế gian trong đạo cha mẹ, anh
em, vợ chồng và các thân thuộc trong ngoài, cần phải kính
yêu, đừng sanh lòng hờn ghét, nếu có điều không toại ý
không nên ôm lòng hờn giận. Ðời nay sanh lòng hờn giận
ganh ghét, đời sau chuyển thành oan gia. Vì sao? Việc của thế
gian là những tai họa, tuy không theo kịp cũng gắng hòa giải.
Ngậm độc, lòng hờn, tinh thần uất hận, suốt đời
căm giận, không phút nào rời, nếu gặp
oan gia liền ra tay trả thù.
Người ở thế gian, trong vòng ái dục, lăn
xả bán giữ, lúc khổ lúc vui, khi ở khi đi dù
phải sống chết không hề buông bỏ, tự trói buộc mình
không ai thay thế, lành dữ biến hóa, tai họa lạ lung, những
chỗ hiểm nguy chui đầu vào mãi! Khi vô thường đến, nhìn lại
còn ai? Chỉ còn nghiệp thiện ác theo mình, mịt mịt mờ mờ
xa lìa dương thế, luân hồi sáu đạo, muôn kiếp xuống lên
bao giờ thoát được! Hôm nay biết rõ cảnh khổ, sao không dẹp
bỏ các duyên, khi sức còn khỏe nổ lực tiến tu, tinh tấn
nguyện thoát ta bà nguyện sanh Cực Lạc. Sao không gấp cầu
đạo, còn chần chờ ham thú vui gì?
Hầu hết trong thế gian không tin: làm lành
được lành, tin người chết còn sanh, ban ơn được phúc, những
việc lành dữ không hề tin tưởng. Ðó là những người không
có suy xét, chỉ cần để ý những việc trước mắt hằng ngày
cũng đủ thấy rõ ràng, trước sau cũng đều lần lượt nhận
chịu. Như cha mẹ ông bà không làm việc lành, không biết đạo
đức, sanh ra con cháu thân ngu thần tối, tâm mê, ý đóng, nẻo
khổ sanh tử, con đường lành dữ, tự
mình không hiểu, không biết lỗi lầm, tốt xấu họa phước,
giành giựt quyết làm không chút sợ sệt. Cho sanh tử là việc
thường, tiếp nối nhận chịu. Hoặc cha khóc con, hoặc con
khóc cha, anh em chồng vợ luân phiên khóc nhau, điên đảo
nhiều đời vướng vòng vô thường, không mong thoát khỏi.
Có người dạy đạo giải thoát, tin theo rất ít. Vì thế,
trôi lăn sanh tử không có ngày thôi.
Những người như thế, không tin Kinh pháp,
lòng chẳng lo xa, ưa làm điều
khoái lạc, đắm chìm trong ái dục, không chịu theo đạo đức,
đắm chìm trong giận hờn, tham mê
theo tiền của sắc đẹp,
không theo đạo giải thoát, cứ theo đường khổ sinh tử, luân
chuyển không cùng thật đáng thương thay! Hoặc ở trong nhà
có cha mẹ, an hem, vợ con bị chết, người sống đau
khổ sầu thương, ơn nghĩa nhớ tiếc, sầu lo trói buộc, tâm
ý đau xót, luyến mến không cùng, suốt
ngày suốt năm nhớ thương khó lòng cổi mở. Biết cõi
đời này vốn vô thường mong manh,
nhưng chỉ vài ngày sau rồi quên mất. Có người dạy lời đạo
đức không chịu nghe theo, mãi đắm mê
tình dục, chìm đắm
chỗ tối tăm, không lòng suy cùng nghĩ
cạn. Nếu giữ tâm mình thanh tịnh, chuyên tinh hành đạo, quyết
dứt duyên đời,
đến khi mạng chung chắc sẽ được đạo. Người đời tham
mê ái dục, mê hoặc thì nhiều, giác
thì ít, thế gian mờ mịt, số ấy rất nhiều không thể đếm
hết. Có người không kể tôn ti, không phân giàu nghèo sang
hèn, quyết lòng giết hại, ác khí ngập trời, trái nghịch
cha mẹ, không kể người khác, không việc ác nào không làm,
mang nhiều trọng tội. Khi báo thân mãn sanh vào ác đạo,
nhiều kiếp chịu khổ, lăn lộn trong địa ngục, trải qua ngàn
muôn ức kiếp không có ngày ra, đau
khổ không thể nói hết thực đáng thương
thay!
Phật bảo: Này Di Lặc Bồ Tát và các chư thiên
nhơn dân! Những việc thế gian nhiều người nghi lầm nên
không được đạo,
cần phải suy nghĩ chín chắn, xa lìa các điều ác, chọn các
việc lành, siêng năng gắng làm. Những
việc ái dục sung sướng không giữ
được lâu, cần phải xa lìa, nó chỉ
có khổ mà không có vui. Nay gặp chánh pháp phải siêng năng
tinh tấn, dốc hết tâm ý sanh về Cực Lạc. Về cõi nước
ấy rồi, liền được trí huệ rõ suốt, công đức thù thắng,
tùy theo tâm mình muốn đều
được, muốn hiểu Kinh luật có chỗ
gì nghi, đến trước mặt Phật, Ngài liền giải nói.
Ngài Di Lặc Bồ Tát quỳ xuống bạch Phật rằng:
bạch Thế Tôn! Oai thần của Phật cao vòi vọi, lời nói làm
vui đẹp lòng người, nghe lời Phật dạy, hết lòng suy nghĩ,
đúng là chơn lý thế gian. Như lời Phật dạy, hôm nay Ngài sẽ
chỉ bày con đường lớn, làm cho mọi người tai mắt mở tỏ,
mau được độ thoát,
ai nghe được lời Phật đều rất hoan hỷ, chư thiên
nhơn dân, các loại bò bay máy cựa đều nhờ ơn lành của Phật
mà được xa lìa lo khổ. Lời Phật dạy bảo mầu nhiệm cao
tột, trí huệ sáng rỡ, mỗi vật trong tám phương, trên dưới,
qua lại, tới lui đều thấy rõ ràng. Hôm nay chúng con muốn
được độ thoát
nên đến trước Phật cầu mong mở đường dạy bảo, thoát
được khổ luân. Ân Phật trùm khắp
mười cõi, phước lộc nguy nguy, ánh sáng rõ ràng soi thấu
trùm khắp hư không , mở nẻo Niết Bàn, truyền trao Kinh
sách, cảm động chúng sanh mười phương không thể kể xiết.
Phật là vua pháp cao hơn các thánh, khắp vì tất cả sanh trời
người làm bậc đạo
sư, theo tâm niệm mọi người thuyết pháp độ
sanh, làm tất cả đều
được đạo quả. Nay chúng con được gặp Phật, được nghe
giới thiệu Phật Vô Lượng Thọ, lòng mọi người đều hoan
hỉ vui mừng, mong Phật từ bi chỉ dạy.
Phật bảo: Này Di Lặc! Ông nói rất đúng. Nếu
có chúng sanh nào chí thành cung kính Phật
Vô Lượng Thọ, đó là người có căn lành
lớn, không còn bao lâu nữa sẽ được
gặp Phật. Ta nay ở trong đời này diễn nói Kinh pháp, lưu bố
đạo pháp, cắt hết các nghi, nhổ hết cội gốc ái dục, bỏ
nguồn cội ác, vào trong ba cõi, diệt
hết những câu nệ, dùng trí tuệ cứu kính, giữ giềng mối,
phân tích rõ ràng, khai thị cho chúng sanh ở năm
đường, những người đã độ và những người chưa được
độ quyết thoát ra khỏi sinh tử luân hồi.
Di Lặc nên biết! Ông từ vô số kiếp đến
nay, tu hạnh Bồ Tát, muốn độ tất cả chúng sanh, thời gian
lâu xa ấy, từ ông đắc đạo đến vào
Niết Bàn. Ông và chư thiên nhơn dân trong mười phương, tất
cả tu chứng nhiều kiếp không thể ghi bằng số, đến
nay đã lăn lộn trong năm đường, lo sợ khôn cùng không thể
nói hết, cho đến đời nay sanh tử chưa dứt, theo
Phật gieo trồng giống lành nghe nhận Kinh pháp mà được nghe
Vô Lượng Thọ Phật là một điều
mừng hy hữu, ta sẽ giúp ông được tròn
vẹn niềm tin ấy.
Ông nay cũng nên sanh lòng nhàm chán, tự thấy
khổ của Sanh Già Bệnh Chết, những Ðường Dữ Ðều Bất Tịnh
không có chút nào vui. Ông nên tự mình quyết định, sửa mình
ngay ngắn, làm nhiều các việc thiện, tu sửa cho tâm thể
mình thanh tịnh, rửa sạch tâm nhơ, lời nói việc làm trung
tính chân thật, tướng mạo đoan
trang, tự độ mình và giúp đỡ cho
người, dốc lòng thực hành ý nguyện, chứa nhóm căn lành,
tuy một đời chịu khó trong chốc lát mà đời
sau được sanh về nước Phật Vô Lượng Thọ, an vui không thể
kể xiết, được nghe pháp mầu, nhổ sạch gốc rễ sanh tử,
không còn lo sợ tai họa tham luyến ngu si nữa. Muốn được sống
lâu một kiếp, trăm kiếp, ngàn muôn
ức kiếp tự tại tùy ý, không cần dụng công mà chứng được
quả vị thanh tịnh Niết Bàn không chi bằng nguyện sanh về nước
Phật Vô Lượng Thọ.
Các ông cần phải tinh tấn, làm theo tâm nguyện
của mình, không được hối tiếc, mê lầm, nghi kỵ. Nghi kỵ
là tự mình chuốc lấy lỗi lầm, người nghi kỵ bị sanh về
chỗ biên địa của
bảy báu cung điện, chịu các khổ não hơn năm trăm.
Di Lặc bạch Phật: Chúng con nhận lời Phật
dạy, sẽ chuyên tâm tu học, đúng theo lời dạy vâng làm
không dám có chút nghi kỵ.
GIẢNG YẾU
Ðoạn này nói người đời bị nhơn duyên dục
vọng trói buộc chịu khổ vô lượng. Vì muốn hành giả sanh
tâm nhàm chán, xa lìa, mau tìm phương thoát khổ nên Phật chỉ
rõ. Như Kinh Ðại Niết Bàn nói: Các Ðại Bồ Tát quán các
chúng sanh bị vây khốn bởi sắc thanh hương vị xúc nên từ
vô lượng vô số kiếp thường chịu khổ não. Mỗi một
chúng sanh trong một kiếp thân thể chồng chất nhiều như núi
Tì Phu La ở thành Vương Xá, thân mạng tan rã máu nhiều hơn
nước biển, nước mắt cha mẹ vợ con quyến thuộc khóc cho
người lâm chung còn nhiều hơn nước bốn bể, gom hết cỏ cây
trên trái đất để
so sánh với số cha mẹ thọ sanh cũng không thể hết. Từ vô
lượng kiếp đến nay hoặc ở địa ngục, ngạ quỷ, súc
sanh nhận chịu khổ não không thể kể xiết. Bóp tan đại địa
thành số vi trần tính còn dễ hết,
sanh tử tiếp nối thực vô cùng. Nguyên do tự chúng sanh
không chịu một lòng niệm Phật, cầu sanh về quốc độ không
có tham dục, rồi cứ từ mê vào mê, càng chạy càng đi xuống.
Ðức Như Lai vì lòng từ bi vô lượng nói ra Kinh này dạy người
dứt nhơn duyên tham dục, một lòng niệm Phật, thẳng tới
tây phương, vượt ngang khỏi ba cõi.
Tất cả người đời lấy tham dục làm thú
vui, không biết đó là nhơn khổ, người có trí xét đó chỉ
có khổ mà không có vui. Vì sao? Vì lấy
cái Có làm vui, cái Có tan thành Không trở về quả khổ. Họ
đâu biết rằng Có là nhơn của Không, mọi vật do hoà hợp
thành rồi tan biến về Không. Nếu hội họp là vui thì chia
lìa là khổ. Họ không biết hội họp là cái nhơn của ly
tan. Vì cho sống là vui nên chết là khổ. Họ đâu biết sống
là cái nhơn của chết. Nên biết không Có tức là Không ,
được là không mất, không tụ thì không tán, không sanh tức
không diệt, gọi là Cực Lạc cũng gọi là Tịnh Ðộ. Ở đây
trong hai pháp chấp chơn chấp vọng chỗ nào đến chỗ nào
đi! Người tu Tịnh Ðộ cần phải tự
quyết, đừng có gây nhơn, một khi mất thân này
rồi muôn kiếp khó gặp lại.
*Năm Ác và Năm Thiện
KINH VĂN:
Phật bảo: Di Lặc! Các ông có thể sẽ ở
trong đời này, tâm ngay ý chánh,
không làm việc ác, sẽ có đức rất lớn, các Bồ Tát ở thế
giới mười phương không thể so sánh. Vì sao? Vì quốc độ của
chư Phật khác, những hàng trời người tự nhiên làm lành,
không tạo đại ác, dễ dàng có thể khai hóa. Ta này làm Phật
trong đời này, ở chỗ năm
ác, năm thống, năm thiêu, hoàn cảnh
này vô cùn khó khăn
để giáo hóa chúng sanh, nhưng ta quyết giáo hóa chúng sanh đời
nay, bỏ năm ác, diệt năm thống, lìa năm thiêu, đồng thời
giữ năm thiện, được phước đức lớn, độ đời độ mình
được sống trong cảnh giới tịch mịch Niết Bàn.
Phật dạy: Thế nào là năm ác? Thế nào là năm
thống? Thế nào là năm thiêu? Muốn làm tiêu năm
món ác phải giữ năm điều lành, đuợc phước đức lành
làm cho chúng sanh trong cõi đời
được quả Niết Bàn.
*Ðiều ác thứ nhất : Tất cả chư thiên
nhơn dân các loại tạo các ác nghiệp đều
khác nhau. Người mạnh hiếp yếu, tranh đấu giành
thắng, giết hại lẫn nhau, ăn thịt vật yếu, không hề xót
thương. Làm những việc ác nghịch vô đạo,
sau đó phải chịu tai ương, theo nghiệp đi tới, làm
cho tâm hồn từ chỗ sáng suốt bị phạm tội ác trở nên tối
tăm, thọ sanh vào chỗ bần hạ tiện, ăn
xin, cô độc, đui điếc, ngọng liệu, ngu si, xấu xa, không
có quyến thuộc. Những người có được giàu
sang tôn quí tài cao thông minh đều
do đời trước làm việc hiếu thảo
từ thiện, làm lành chứa đức mà ra.
Thường thường ở đời luật vua phép nước
, lao ngục sẵn sàng giam giữ người
làm ác, nhận chịu hình phạt, muốn tìm đường trốn cũng
khó ra khỏi. Việc trước mắt thế gian còn như thế. Người
làm dữ khi mất, đời
sau sẽ căn cứ vào nghiệp làm đời
trước mà vào chỗ u tối, chuyển sanh thọ thân, cũng như bị
luật vua phải chịu nhiều cực hình thống khổ. Dĩ nhiên thọ
nghiệp lúc lác phải đọa vào ba đường dữ, vô lượng khổ
não trói buộc bên mình, thay hình đổi dạng, nhân mạng dài
ngắn, thần hồn tự nhiên theo đường tạo nghiệp mà thẳng
tới thọ sanh, cùng nhau trả vay không bao giờ dứt. Tai ác trả
chưa dứt không thể xa lìa, lặn lội xuống lên trong ấy khó
bề ra khỏi, không thể nào giải thoát, khổ không thể nào kể
xiết.
Người sống trong trời đất, nhân quả báo
ứng là việc tự nhiên, tuy làm ác chưa
nhận quả báo nhưng sớm muộn rồi cũng đến. Con
đường thiện ác như bóng theo hình. Người tạo ác nghiệp
chắc chắn bị đau khổ thiêu đốt bản thân. Do đó mọi người
nên quyết tâm dứt bỏ, đoan thân chánh hạnh, làm các điều
lành, bỏ các điều dữ, tự mình
thoát khỏi khổ, còn được
phước đức độ trời người và đạo
Niết Bàn, đó là điều lành lớn.
*Ðiều ác thứ hai : là những người
trong đời, cha mẹ anh em, nhà cửa, vợ con đều không có nghĩa
lý. Nhưng lại không thuận theo pháp, sanh lòng tham đắm,
buông lung, đều muốn vừa ý, quyết được thỏa lòng,
nên thường dối trá, lòng miệng khác nhau. Từ ý niệm không
thật nên lòng đã chẳng trung, nói dối, dèm xiểm, ghét người
hiền, chê kẻ làm lành, gây nhiều tai họa. Làm chúa không
minh bạch trong việc sai sử quần thần. Quần thần dối trá
nhiều thứ, thừa nước đục
thả câu, ở địa vị không ngay thẳng, để người khác chê
bai, hại kẻ trung lương, không hợp lòng dân. Tôi dối chúa,
anh em vợ chồng bè bạn thân nhân lừa dối nhau. Lòng luôn
luôn nghĩ đến sân hận, tham dục ngu mê. Muốn mình thêm
giàu, lòng tham dục càng nhiều, không biết tôn ti thượng hạ,
hại nhà mất mạng, không ngó trước sau, thân thuộc nội ngoại,
tiêu diệt dòng họ. Hoặc những người quen thuộc trong xóm,
tôi tớ gia nhân giúp việc cho mình, cũng muốn giết hại, vì
lòng giận hờn mà thành oan gia. Những người giàu thì bỏ xẻn
không bố thí một ai, tham chứa thật nhiều, càng tham mê tâm
càng nhọc, thân càng thêm khổ, rốt cuộc không có chỗ nương
nhờ, qua lại một mình không ai giúp đỡ. Tội ác họa phước
biến thành nghiệp theo mình, hoặc vào chỗ vui, hoặc vào hầm
dữ. Giờ không tạo
nghiệp tốt để sau ăn năn không kịp.
Những người ở đời lòng
ngu ít trí, chê ghét việc lành, không thèm ưa mến, chỉ muốn
làm ác, tạo việc phi pháp, thường có lòng trộm cắp, mong cướp
lợi kẻ khác, quyết lấy hết của người mới nghe, tâm tà
không dối, tham mê sắc đẹp,
không biết tính toán, đến khi mang họa mới cảm thấy hối
hận thì việc đã muộn. Người phạm
pháp hiện có phép vua, lao ngục, tùy tội nặng nhẹ, giam cầm
trị phạt. Người đời
trước không tin đạo đức, không tu cội lành,
nay lại làm ác, thiện thần ghi chép vào trong sổ, mạng chung
thần thức vào thẳng đường
dữ, nơi ba nẻo, chịu vô lượng khổ, lăn lộn trong ấy trải
qua nhiều kiếp không hề ra khỏi, khó được giải thoát, khổ
không thể kể xiết.
Ðó là hai đại
ác, hai đại khổ, hai đại thiêu, chịu
khổ như lửa dữ
đốt cháy ngoài thân người. Vì thế,
mỗi người cần phải ngăn ngừa, ý thức, thân ngay hạnh
chánh, làm các điều
thiện, bỏ các việc ác, tự độ lấy mình tạo nhiều phước
đức, độ cho mọi người theo đạo Niết Bàn.
Ðó là việc đại thiện thứ hai.
*Ðiều ác thứ ba: là
mọi người ở trong trời đất, không biết mình
sống lâu hay chết yểu vì nghiệp thiện ác làm ra. Người bậc
thượng là người có tạo phước, họ là những bậc hiền,
trí thức, trưởng giả, giàu sang. Người bậc hạ là những
người tạo ác nghiệp, họ là những kẻ nghèo khổ, hạ tiện,
tật bệnh, ngu muội. Người bậc trung là những người bất
thiện, họ thường giữ tà kiến, chỉ nhớ dâm dật, phiền
não đầy hông, ái dục lộn xộn, lòng tham tiếc giữ, chỉ
mong có được, làm việc tà ngụy, nhàm chán vợ nhà, làm nhơ
bậy bạ, tổn hại việc nhà, làm điều
phi pháp, giao kết kẻ ác, đánh giết lẫn nhau, ép bức vô đạo,
lòng ác lẫy lừng không chịu tu theo đạo nghiệp, trộm cướp
giành dựt, nuôi dường lòng ác,
không tự sửa mình. Trộm cướp dù có được, lòng luôn lo sợ,
đem tiền về cho vợ con, tưởng rằng thích
chí, muốn được lòng người phải
cam chịu khó. Hoặc vì thân thuộc, không kể thấp cao, tội
ác đáo đầu, một
mình lãnh đủ. Có khi vượt qua phép
nước, làm các điều
ác, lọc lừa trốn tránh, họ đâu biết rằng: đến khi lâm
chung, người quỉ đều hay, nhật nguyệt chứng minh, thánh thần
đều biết rõ. Vì thế, người làm
ác phải chịu khổ não trong ba đường, lên xuốn đời
nay sang đời khác, không thể nào ra
khỏi, chịu khổ khôn cùng khó được giải thoát. Ðó là ba
ác, ba khổ và ba thiêu. Những khổ như thế không khác lửa lớn
đốt mình. Mọi người nên một lòng
ngăn giữ đừng
cho ý tạo ác, thân ngay hạnh chánh, quyết làm
các việc lành, bỏ các điều ác. Tự mình được
độ thoát, có đủ phước đức độ khắp cả thế gian vào
đạo Niết Bàn. Ðó là điều lành thứ
ba.
*Ðiều ác thứ tư: là người trong cõi
đời, không nghĩ tu thiện theo lời dạy lành, lại thường làm
điều ác, nói hai lưỡi, nói lời hung ác, nói thêu dệt, nói
dối, gây nên việc tranh đấu, ghen ghét người hiền, bại hoại
lòng người để tự mình vui, không hiếu cha mẹ, khinh mạn
thầy tổ, không tin bằng hữu, không lòng thành thật. Tự cho
mình cao cả tôn quí, nói đã có đạo, cậy thế hoành hành,
làm hại người đời không thể tự biết, làm ác không
thôi. Tự cho mình là mạnh mẽ, muốn người cung kính, không
sợ trời đất quỷ thần, không làm chút lành không hề hối
cải, tự mình ngụy biện nói đó là việc thường, không phải
lo sợ, lòng thường kiêu mạn, làm những điều
ác như thế trời thần đều hay biết. Người ấy vì đời
trước có tạo phước đức, hoặc có làm
những việc lành nhỏ, giúp đỡ
nhờ đó mà được sự hổ trợ trong đời này.
Ðời này làm ác, phước đức mòn hết, các thiện thần sẽ
xa lìa, một mình chịu đựng
không chỗ nương nhờ. Khi mạng sống hết, các ác đã
làm tạo thành nghiệp báo, hiển hiện rõ ràng, theo nó dẫn
vào đường tội báo, tự nhiên nhận chịu không thể xa lìa,
thân tâm bị đốt
cháy, tinh thần thống khổ, đến lúc ấy rồi ăn năn sao kịp.
Nhơn và quả rành rõ không bao giờ
sai . Do đó người
tạo nghiệp tam đồ tự nhiên vào đó
chịu khổ vô lượng, lăn lốc xuống lên
không thể nói hết. Ðó là bốn ác, bốn khổ và bốn thiêu.
Sự đau khổ này
như núi lửa thiêu đốt thân người. Nếu người biết khổ
phải một lòng ngăn
ý nghiệp, thân đoan hạnh chánh, làm các điều lành, bỏ các
điều dữ, tự mình độ thoát, có đủ phước đức độ trời
người vào đạo Niết Bàn. Ðó là
điều lành thứ tư.
*Ðiều Ác thứ Năm: là người trong thế
gian, lười biếng trễ nải, không làm việc lành, sửa mình,
tu thiện nghiệp, cha mẹ dạy bảo, vợ con khuyên dứt, quyến
thuộc cản ngăn, vẫn một lòng sân hận, lời nói bất hòa,
lòng mong phản nghịch, giận hờn dễ gây nhiều oan nghiệp,
phụ ơn trái nghĩa, không lòng hiếu thuận, nghèo hèn khốn
thiếu không lo làm ăn,
tính toán chiếm đoạt, buông lung vui chơi, có được tiền của
uống rượu mê sắc, ăn uốn vô độ buông lòng
thỏa thích, không hiểu người khác, muốn họ theo mình, thấy
người làm lành sanh lòng ghanh ghét, không biết lễ nghĩa, không
cần dư luận, có chút chức quyền, không hề giúp đỡ bà
con quyến thuộc gặp phải tai nạn cũng không cần nhớ tới.
Ơn sâu cha mẹ không chút báo đền, tình nghĩa thầy trò cũng
không ngó tới. Lòng tính nghĩ việc ác, miệng thường nói lời
ác, thân thường làm ác, không hề làm được chút lành,
không tin Kinh pháp của tiên thánh, chư Phật, không tin làm đạo
có thể xây hạnh phúc con người, không tin sau khi chết thần
thức luân chuyển theo nghiệp. Không tin làm lành gặp lành
làm dữ. Muốn giết thánh hiền, phá hại chúng tăng, hại cha
mẹ an hem, ghen ghét lục thân quyến thuộc. Người như thế là
những kẻ mê mờ, cho mình có trí, lại không biết sanh từ
đâu đến, chết rồi
về đâu. Không có lòng nhơn, không
có hiếu thuận, nghịch ác trời
đất mà lại muốn cầu an để sống lâu, không có lý đó. Họ
sẽ chết sớm, khi sắp chết sợ sệt run rẩy, đợi đến
khi cùng ăn năn sao kịp. Lúc bình thời,
Phật dạy bảo một lòng nghĩ đến việc lành, mở đường
thoát sanh tử không có lòng tin, Phật đã hết sức khuyên răn
trở thành vô ích.
Trong trời đất việc thiện ác rõ
ràng, báo ứng họa phúc hiện tiền, tự gieo nhơn nào sẽ gặp
quả ấy không ai thay thế được. Ðó là lẽ tự nhiên, những
việc mình làm tạo thành chủng tử nghiệp, họa phước theo
mình không thể bỏ được. Người tốt làm lành từ chỗ an
vui đi vào an vui, từ chỗ sáng vào chỗ sáng. Người dữ làm
ác là từ chỗ khổ vào chỗ khổ, từ tối vào tối. Phật
thấy điều ấy, khuyên bảo các vị. Người không tin nhơn quả
sanh tử sẽ không dứt, đường dữ tiếp nối, người theo
nghiệp ác tự nhiên có sẵn ba đường ác, chịu vô số khổ
não, lần lượt nhận lấy báo thân, nhiều kiếp nhiều đời
không có ngày ra, khổ không thể kể xiết. Ðó là năm
ác, năm thiêu, năm thống. Nó là lửa lớn đốt cháy toàn
thân. Nếu người ở trong chỗ khổ đó một lòng ngăn ý nghiệp,
đoan thân chánh niệm, lời nói việc làm
hợp nhau, lòng thật chí thành, lời nói đúng lý, lòng miệng
không khác, làm các điều lành, bỏ các điều dữ, tự mình
độ thoát, được
nhiều phúc đức độ hết người trời theo đạo Niết Bàn.
Ðó là điều lành lớn thứ năm.
GIẢNG YẾU
Thiện ác báo ứng như bóng theo hình nên trong
Quán Kinh chủ yếu dạy người tin sâu nhơn quả. Thế gian nhiều
người không tin nhơn quả nghĩ lầm rằng: trồng lúa được
gạo, trồng Lan có hương, họ đâu biết rằng phàm
làm việc gì phải định giá trị nó bằng
kết quả mới phân định được thiện ác. Như một bác sĩ
phải đánh bịnh nhân để giành lại
mạng sống cho anh ta, thoáng nhìn hành động dường như tàn
ác nhưng kết quả là thiện, việc thiện ác trong Phật giáo
được đánh giá
trên kết quả. Vì thế, Niệm Phật
là Nhơn sẽ có kết
Quả Phật. Nghĩa của Năm Ác ở Kinh này
gồm Mười Ðiều Ác ở các Kinh khác là Sát Sanh, Trộm Cắp,
Tà Dâm, Nói Dối, Nói Thêu Dệt, Nói Lưỡi Ðôi Chiều, Nói Lời
Hung Ác, Tham Lam, Sân, Hận, Ngu Si. Nếu ngược lại Mười Ðiều
Ác tức là có Mười Ðiều Lành. Trong
bản dịch khác nói: Tuy có người chưa được đại tinh tấn,
thiền định, trì giới, cốt yếu cần
phải làm lành như: không được
giết hại, không được trộm cắp, không được tà dâm,
không ngạo mạn, không uống rượu, không nói dối, không nói
lưỡi đôi chiều, không nói lời hung
ác, không ghanh ghét, không tham lam, không keo kiệt hồ nghi,
nên có lòng hiếu thuận lòng chí thành trung tín, tin theo Kinh
Phật, tinh làm lành đời
sau được phước. Giữ những pháp như sanh về cõi
Phật A Di Ðà. Mười nghiệp thiện này gốc là nghiệp sanh về
cõi trời. Hôm nay, lấy nhơn duyên Niệm Phật hồi hướng Cực
Lạc là chuyển nghiệp về cõi trời thành Tịnh nghiệp. Vì
sao? Vì người Niệm Phật có thể chuyển ác nghiệp thành tịnh
nghiệp, huống chi thiện nghiệp chuyển thành tịnh nghiệp sẽ
dễ dàng hơn.
*Phải nhiều gắng sức
KINH VĂN:
Phật bảo: Di Lặc! Ta bảo các ông năm ác
trong đời khổ sở vô cùng, năm thống khổ, năm thiêu đốt
sẽ lần lượt sanh ra. Người làm các điều ác, không tu theo
việc lành, tự nhiên sẽ bị đi vào
các đường ác. Hoặc
trong đời này bị các bịnh khổ, cầu
sống không được,
cầu chết không xong. Tội ác đã gieo, mỗi người mỗi biết.
Thân đã chết rồi đọa vào ba đường dữ khổ không thể
nói hết, tự mình khổ sở đến nhiều đời sau vẫn còn
oan kiết. Việc dữ tuy nhỏ mà cố làm sẽ trở thành đại
ác. Tất cả đều
do tham trước tài sắc, không lòng thi
ân, si dục bức bách, theo ý tưởng riêng, phiền não trói buộc
không thể mở nổi, lại thêm tranh giành lợi lộc không hề
tỉnh ngộ. Giàu sang vinh hiển, đương
lúc đắc ý không hề nhẫn nhục, không biết tu thiện. Oai đức
có bao lâu, chốc lát mòn hết, mình
chịu lao khổ ở nhiều kiếp sau. Nghiệp báo rõ ràng như mành
lưới thưa nhưng không thể lọt được, nhân nào quả ấy,
nghiệp lực rõ ràng, từ xưa đến
nay không ai thoát được!!!
Phật bảo: Này Di Lặc, người đời chịu khổ
như thế Phật vô cùng thương xót, đem
hết năng lực chỉ cho họ diệt hết tội ác, làm
các việc lành, nghĩ nhớ lời răn, giữ gìn các giới, làm
theo đạo pháp, không cho sai phạm, nếu người thật hành như
thế chắc chắn sẽ được
độ mình và độ
đời vào đạo Niết Bàn.
Phật bảo: Hôm nay, các vị chư thiên nhơn dân
và các người ở đời
sau được lời Phật dạy phải suy nghĩ kỹ, có thể nhờ đó
mà tâm đoan hạnh chánh, khuyên người
làm lành, tôn bậc thánh, cung kính điều thiện, nhơn từ bác
ái, nghe lời Phật dạy, không dám thiếu phạm. Phải tìm
cách độ đời, dứt
hẳn sanh tử, dẹp các gốc dữ, xa lìa ba đường ác. Các người
phải ở trong sáu cõi dục bố ơn ra
huệ. Ðừng phạm cấm giới, nhẫn nhục tinh tấn, dùng lòng
trí huệ, chuyên nhau giáo hóa, làm đức lập thiện, chánh
tâm chánh ý, trai giới thanh tịnh Một Ngày Một Ðêm hơn ở
cõi Cực Lạc làm lành Một Trăm
Năm. Vì sao? Vì cõi Phật kia vô vi tự
nhiên, chứa các việc lành không có mảy lông làm ác. Như thế
làm lành Mười Ngày Mười Ðêm ở các nước chư Phật khác
làm lành Ngàn Năm. Vì Sao? Các nước Phật ở mười phương,
người làm lành rất nhiều, người làm dữ rất ít, phước
đức tự nhiên không có chỗ để tạo ác. Chỉ ở cõi này,
người ác quá nhiều, không thể tự nhiên hết lòng tham dục,
lấn lướt hại nhau, nhọc lòng khổ thân, sống khổ vì ăn mặc,
tất cả việc ác khó có thể thôi dứt. Ta thương các hàng
trời người, nên hết lòng dạy bảo, làm cho mọi người tu
các pháp lành, theo hoàn cảnh mà trao cho Kinh pháp tới tay mỗi
người, thuận theo ý nguyện làm cho họ đều
được đem đạo lành truyền dạy
làm cho thiên hạ hòa thuận, nhật nguyệt trong sáng, mưa thuận
gió hòa, tai ương không khởi, nước thạnh dân an, làm cho can
qua vô dụng, mọi người đều tôn sùng đạo
đức, nuôi dưỡng lòng nhơn, tu hành
cung kỉnh.
Phật dạy: Ta thương xót các người, chư thiên
nhơn dân, hơn mẹ thương
con. Ta nay ở trong đời này làm Phật,
hàng phục năm điều
dữ, tiêu trừ năm điều khổ, dứt hết năm điều thiêu,
lấy lành phá ác, nhổ gốc khổ sanh tử, làm cho được
năm sức, thẳng vào chỗ an ổn vô
vi. Khi ta vào Niết Bàn, đời
mạt Kinh đạo tạm diệt, nhơn dân dối
trá làm các điều
ác, năm món thiêu, năm món khổ trở lại như trước, lần
lượt thêm nhiều không thể nói hết.
Hôm nay ta vì các người nói những điều
tóm lượt sau đây:
Phật dạy: Này Di Lặc, các ông phải nhớ
các việc lành, cùng chuyền nhau dạy bảo như Kinh pháp Phật
không thể thiếu sót.
Lúc đó Bồ Tát Di Lặc chấp tay bạch Phật rằng:
Lời nói của Phật điều lành rất cao, người đời nếu thật
lòng theo sự ai mẫn chỉ dạy của đức Như Lai, chắc được
độ thoát, chúng con nhận lời ân cần dạy bảo của Phật
không bao giờ dám sai phạm.
GIẢNG YẾU
Ðoạn này dẫn theo ý trước, dạy người làm
lành bỏ dữ, hết lòng cầu được
độ. Pháp Thế và Xuất Thế Gian mỗi pháp chẳng đồng đều,
nhưng lấy thiện bỏ ác làm căn bản. Tịnh độ là
cõi đất thiện, cầu
sanh tịnh độ phải có công phu rất thiện,
chưa vào Tịnh độ,
thiện chưa được gọi là đủ và ác chưa được sạch. Vì
sao? Vì kết thành 5 món trược, như đồ
bất tịnh, nhơ bẩn lấp đầy, chỉ rửa một chút làm sao
được sạch, dơ bẩn lần trở lại như cũ. Sanh về cõi
Phật rồi, thấy Phật nghe pháp, chứng Vô Sanh
Nhẫn đã bỏ cõi ác lại được gốc
lành, rồi sau mới trở lại trần lao, rộng truyền chánh
pháp , đưa mọi người vãng sanh về tịnh độ.
Thiền gia thường nói Không Thiện, nha nho nói
Chí Thiện, vì sao hai nhà nói chẳng đồng nhau?
Sở dĩ nói Thiện là đối với Ác mà gọi,
Ác không lập, Thiện cũng không có, chỉ còn một Chơn Tâm
trùm khắp pháp giới, hằng sa muôn đức lặng lẽ tròn đầy.
Nhà nho là thế gian Thánh không biết được chỗ này. Cái thiện
mà không thiện mới gọi là chí thiện, cũng như miệng hằng
nói không lại làm cho có, ác nghiệp lẫy lừng nói rằng
không thiện. Như thế, Phật làm sao cứu.
4-Nói rõ trí tuệ
*Lễ Phật hiện quang
KINH VĂN:
Phật bảo: Này A Nan! Ông nên sửa sang y phục
chấp tay cung kính lễ Phật Vô Lượng Thọ. Như Lai các quốc
độ trong mười
phương đã thưởng cùng nhau xưng
dương tán thán đức
Phật kia, không chấp trước, không ngăn ngại. Trong lúc ấy
Ngài A-Nan sửa sang y phục, thân đứng ngay ngắn, hướng về
phía Tây, cung kính chấp tay, năm vóc gieo mình,
lễ Phật Vô Lượng Thọ mà bạch rằng: Bạch Ðức Thế Tôn!
Con muốn thấy Phật Vô Lượng Thọ, quốc độ An Lạc và chư
đại chúng Bồ Tát Thinh Văn. A Nan nói lời ấy rồi, liền thấy
Phật Vô Lượng Thọ phóng ánh sáng lớn, chiếu khắp tất cả
thế giới chư Phật, Kim Cang Vi Sơn, Tu Di Sơn Vương, các núi
lớn nhỏ, tất cả các vật trong ấy
chìm ngập không hiện, sáng bóng rõ ràng, chỉ thấy toàn nước
bao phủ, ánh sáng của Phật sáng cũng như thế. Ánh sáng của
Bồ Tát Thinh Văn
đều bị che lấp, chỉ có ánh sáng của Phật sáng rỡ phô
bày.
Lúc ấy Ngài A-Nan thấy Phật Vô Lượng Thọ,
oai đức cao vọi như núi Tu Di Sơn Vương, cao khỏi trên tất
cả các thế giới, tướng tốt sáng rỡ, chiếu soi cùng khắp.
Tứ chúng trong hội thấy rõ trong một thời gian, họ thấy
cõi An Lạc cũng rõ như thấy Phật Vô Lượng Thọ.
Lúc bấy giờ Phật bảo A Nan và Bồ Tát Di Lặc.
Các ông thấy cõi nước kia từ đất
cho đến cõi Trời Tịnh Cư, trong ấy các vật đều vi diệu
trang nghiêm, thanh tịnh rất tự
nhiên. Tất cả thấy rõ chưa? A Nan thưa: Bạch đức
Thế Tôn, chúng con đã thấy. Các ông đã
nghe lời thuyết pháp của Phật Vô Lượng Thọ vang
cả thế giới, hóa độ tất cả chúng sanh chăng? A Nan thưa:
bạch Thế Tôn con đã nghe. Nhơn dân
cõi nước ấy ở trong cung điện
thất bảo, cao trăm ngàn do tuần, không chỗ chướng ngại,
đi khắp mười phương cúng dường chư Phật. Các ông đã
thấy chưa? A Nan thưa: Ðã thấy. Nhơn dân ở trong cõi nước
ấy có Thai Sanh, các ông có thấy chăng? A Nan thưa: Ðã thấy.
Người trong Thai Sanh ấy, chỗ ở là cung điện,
hoặc trăm do tuần hoặc năm trăm do tuần, các vị ở trong
ấy nhận các sự vui vẻ rất tự nhiên
như người ở trên cung trời Ðạo Lợi.
GIẢNG YẾU
Vô lượng ánh sáng chiếu khắp tất cả. Cực
Lạc, Ta Bà đồng
một pháp giới vốn không có kia đây, đâu có núi sông, quả
đất đặt ở Ðông Tây? Núi sông đại địa đều do con mắt
mê mờ của chúng sanh mà thành, nếu
được một niệm vào cảnh giới Phật thì ánh sáng vô lượng
sẽ trùm khắp cõi nước, ba đường
sáu nẻo đồng thời giải thoát. Không phải chỉ có một A
Nan và oai lực của Phật được thấy thân Phật A Di Ðà,
y báo và chánh báo mà nay chúng sanh thời mạt pháp, chỉ vào
được pháp môn này, không lìa đương
niệm, mau được thấy Phật. Kinh Hoa Nghiêm
nói: chư Phật như một tấm gương lớn, thân ta như hạt ngọc
ma ni, pháp thân chư Phật vào thân ta, thân ta thường vào
thân chư Phật. Nên biết Phật và chúng sanh xưa nay không phải
hai nên gọi là thấy Phật thật ra không thấy. Vì sao? Vì
không thể ở trong một thể mà thấy lẫn nhau. Thai Sanh là
ở trong thai sen thời gian lâu mới nở, không bằng người hóa
sanh liền được thấy Phật nghe pháp.
*Nghi hoặc Thai Sanh
KINH VĂN:
Lúc bấy giờ Bồ Tát Di Lặc bạch Phật rằng:
bạch Thế Tôn, nhơn dân ở cõi nước kia có nhân duyên gì
mà được Thai Sanh hóa sanh như thế? Phật bảo Ngài Di Lặc:
Nếu có chúng sanh vì tâm nghi hoặc, tu các công đức nguyện
sanh về cõi kia, nhưng không rõ Phật trí, bất tư nghì trí, bất
khả xưng trí, Ðại Thừa
quang trí, vô đẳng vô luân tối thượng thắng trí. Ở trong
các trí này nghi hoặc không tin, nhưng
vẫn còn tin có tội phước, tu tập các cội lành, nguyện
sanh về nước kia. Các chúng sanh này sanh vào cung điện
ấy, sống lâu năm trăm năm, thường không gặp Phật, không
được nghe Kinh pháp, không thấy Bồ Tát Thinh Văn và
thánh chúng, vì thế ở cõi ấy gọi là thai sanh.
Nếu có chúng sanh nào tin hiểu Trí Phật cho
đến thắng trí,
tu các công đức, tín tâm hồi hướng, các chúng sanh này
ở trong hoa sen bảy báu tự nhiên hóa sanh, ngồi kiết già
trong chốc lát, thân tướng sáng rỡ, công đức
trí huệ đầy đủ như trí huệ của chư Bồ Tát đã
thành tựu.
Này Di Lặc! Chư Ðại Bồ Tát ở các phương
khác, pháp tâm muốn thấy Phật Vô Lượng Thọ cung kính cúng
dường và cúng dường các Bồ Tát,
Thinh Văn, thánh chúng. Các Bồ Tát ấy khi mạng chung được
sanh về nước Phật Vô Lượng Thọ, ở trong hoa sen thất bảo
tự nhiên hóa sanh. Di Lặc nên biết,
các bậc hóa sanh kia là những vị trí huệ thù thắng. Những
vị thai sanh đều không thấy Phật, không nghe
Kinh pháp, không thấy Bồ Tát chúng thinh văng đều không phải
nguyên do không cúng dường Phật, không biết phương thức gặp
Bồ Tát, không phải không được tu tập các pháp lành.
Nên biết rằng: những người này do nhân đời trước không
có trí tuệ và nghi hoặc mà ra.
Phật bảo: Này Di Lặc! Như Chuyển Luân Thánh
Vương, có cung thất riêng, trang hoàng bằng bảy báu, sắp xếp
giường màn, treo các lọng báu, nếu có cáo thái tử phạm tội
bị đưa vào cung ấy nhốt lại, sai người đem
đồ ăn uống, áo quần, giường nệm, hoa thơm,
âm nhạc, giống như vật cung phụng cho nhà vua không khác. Ý
ông nghĩ sao? Các thái tử đó có ưa thích, bằng lòng bị nhốt
trong ấy không? Di Lặc thưa rằng: Bạch Thế Tôn không! Các vị
ấy tìm đủ mọi phương cách, dùng hết sức mình để ra khỏi
nơi bị nhốt ấy. Phật bảo: Này Di Lặc! Các chúng sanh ở
trong Thai Sinh lại cũng như thế! Các người ở trong Thai Sanh
vì nghi hoặc Trí Phật nên sanh vào cung điện bảy báu, tuy
không có hình phạt cho đến không có một niệm ác nào, nhưng
vì năm trăm năm không
gặp Tam-Bảo, không được cúng dường, tu các cội lành, tự
cho đó là điều khổ, tuy có nhiều điều vui, nhưng không lấy
đó làm vui. Nếu các chúng sanh này biết
được nguồn gốc tội ấy, hết lòng hối hận, mong rời khỏi
chỗ ấy, sẽ được
như ý, được đến chỗ Phật Vô Lượng Thọ cung kính
cúng dường và cũng được
cúng dường khắp vô lượng vô số các đức Như Lai trong mười
phương, gieo trồng các công đức. Di Lặc nên
biết: Các Bồ Tát trong lòng còn nghi hoặc sẽ bị mất lợi
lớn. Do đó cần nên tin chắc trí huệ Vô thượng của Như
Lai.
GIẢNG YẾU
Ðoạn này nói phát nguyện cầu sanh cần phải
hiểu Phật trí cho đến Thắng trí mới gọi là chơn tín, mới
được thấy Phật. Vì tất cả Trí không lìa tự tâm, không
có ngã và sở, phàm thánh vẫn đồng một trí ấy. Tin hoàn
toàn tâm mình có đủ
các trí ấy. Từ xưa đến nay việc
Thành Phật không ở ngoài tâm mà được. Riêng có lòng tin Phật
như thế để hồi hướng gọi là Duy Tâm Tịnh Ðộ, mau được
thấy Phật. Nếu trong tự tâm các trí còn ngăn ngại nghi tình,
không khỏi ngoài tâm thấy Phật. Nếu trong tự tâm các trí
còn ngăn ngại nghi tình, không khỏi ngoài tâm thấy Phật, tuy
tu các việc lành, nương theo nguyện mà được vãng sanh, nhưng
không được thấy Phật vì không hợp với Trí Phật. Kinh Như
Lai Bất Tư Nghì Cảnh Giới nói: Tất cả chư Phật trong ba đời
đều không có, chỉ y theo tâm mình. Bồ
Tát nếu có thể hiểu tất cả pháp, đều dùng tâm lượng
được Tuỳ Thuận Nhẫn, hoặc vào Sơ Ðịa, bỏ thân này liền
sanh về thế giới Diệu Hỉ hoặc sanh về cõi Cực Lạc Tịnh
Ðộ, thì liền ngay tâm lượng chẳng cần từng bước, tất
cả công đức thành tựu đầy
đủ. Kinh Bảo Tích cũng nói: Tất cả các pháp đều là
Phật pháp, ở trong tất cả pháp này không lay, không động,
không lấy, không bỏ, đó gọi là
môn Ðà La Ni. Vì sao? Vì tất cả pháp đều không lìa tự
tánh. Ðại Vương! Hôm nay có thể ở trong pháp ấy mà an tâm
mình, đừng tin những
gì ở bên ngoài. Lúc bấy giờ Tịnh
Phạn Vương và bảy muôn người học Thích được Vô Sanh
Pháp Nhẫn. Ðức Thế Tôn mỉm cười và nói kệ rằng: Dòng
Thích trí quyết định. Vì thết trong Phật pháp, Quyết định
lòng an trụ, Theo điều
không chỗ được. Ðể được quả Bồ đề. Rõ biết tất cả
pháp, khi mạng chung đến rồi, được về nước An Lạc. Mặt
gặp Vô Lượng Thọ, không sợ chứng bồ đề.
Nên biết có trí quyết định
mới quyết định tin, quyết định tin mới quyết định sanh,
cẩn thận chớ co tâm nghi hoặc mà mất
lợi lớn!
*Bồ Tát vãng sanh
KINH VĂN:
Bồ Tát Di Lặc bạch Phật: bạch Thế Tôn ở
cõi Ta bà này có bao nhiêu Bồ Tát bất thối được vãng sanh
về nước ấy? Phật bảo: Này Di Lặc! ở trong cõi nước này
có sáu mươi bảy ức Bất Thối Bồ Tát được vãng sanh về
nước ấy. Mỗi một Bồ
Tát đã từng cúng dường vô số chư
Phật và được Bổ Xứ như Di Lặc vậy. Các tiểu Bồ Tát
và những người tu tập ít công đức
được sanh về cõi kia không thể kể
xiết.
Phật bảo: Này Di Lặc! Không phải chỉ có
các Bồ Tát ở cõi Ta bà được vãng sanh về cõi kia, mà các
Bồ Tát ở các cõi Phật khác cũng được vãng sanh như thế.
Phật thứ nhất hiệu Viên Chiếu cho một trăm
tám mươi ức Bồ Tát đều sẽ vãng sanh. Phật thứ hai hiệu
Bửu Tạng có chín mươi ức Bồ Tát đều sẽ vãng sanh. Phật
thứ ba hiệu Vô Lượng Âm có hai trăm hai mươi ức Bồ Tát
đều sẽ vãng sanh. Phật thứ tư hiệu Cam Lồ Vị có hai trăm
năm mươi ức Bồ Tát đều sẽ vãng sanh. Phật thứ năm hiệu
Long Thắng có mười bốn ức Bồ Tát đều sẽ vãng
sanh. Phật thứ sáu hiệu Thắng Lực có một vạn bốn ngàn Bồ
Tát đều sẽ vãng sanh. Phật thứ
bảy hiệu Sư Tử có năm trăm ức Bồ Tát đều sẽ vãng
sanh. Phật thứ tám hiệu Ly Cấu Quang có tám mươi ức Bồ Tát
đều sẽ vãng sanh. Phật thứ chín hiệu
Ðức Thủ có sáu mươi ức Bồ Tát đều sẽ vãng sanh. Phật
thứ mười hiệu Diệu Ðức Sơn có sáu mươi ức Bồ Tát đều
sẽ vãng sanh. Phật thứ mười một hiệu Nhơn Vương có mười
ức Bồ Tát đều sẽ vãng sanh. Phật thứ mười hai hiệu Vô
Thượng Hoa có vô số không thể tính đếm các Bồ Tát Bất
Thối, trí huệ dũng mãnh, đã từng cúng dường vô lượng
chư Phật, ở trong bảy ngày có pháp kiên cố. Các Bồ Tát
này đều sẽ được
vãng sanh. Phật thứ mười ba hiệu Vô Úy có bảy trăm chín mươi
hai ức Ðại Bồ Tát, các tiểu Bồ
Tát và cá Tỳ Kheo không thể tính đếm
đều sẽ vãng sanh.
Phật bảo: Này Di Lặc! Không phải chỉ có mười
bốn cõi Phật này có các Bồ Tát đều sẽ vãng sanh, mà vô
lượng Phật quốc trong mười phương thế giới, chư Bồ Tát
Thánh chúng đều
được vãng sanh cũng như thế, số ấy quá nhiều không thể
tính đếm hết. Ta nói danh hiệu chư Phật ở mười phương mà
có các Bồ Tát Tỳ Kheo sanh về nước Cực Lạc, dù nói suốt
ngày đêm một kiếp còn chưa hết. Ta nay vì ông mà lược nói
chút ít thôi.
GIẢNG YẾU
Ðoạn này nói rõ Bồ Tát vãng sanh không thể
kể đếm, đều nhờ
vào nguyện lực của Như Lai gìn giữ
và ánh sáng của Như Lai nhiếp thọ. Thuở xưa Trí Giả Ðại
Sư, Sơ Tổ của Thiên Thai tông, khi sắp lâm chung dạy môn nhơn
xướng danh hiệu Phật Vô Lượng Thọ và đọc
đề mục Quán Kinh rồi chấp tay mà
than rằng: 48 nguyện trang nghiêm tịnh độ,
ao hoa cây báu dễ đến mà không người chịu đến. Người bị
tướng hỏa xa hiện, một niệm cải hối
còn được vãng sanh, huống người giới định cùng tu, sức
đạo hành thánh thiện, thật không chút uổng công. Nói rồi
xướng danh hiệu Tam-Bảo ngồi yên mà thị tịch.
Ðời Ðường, Ngài Pháp Chiếu Ðại Sư lên
núi Ngũ Ðài vào chùa Trúc Lâm thấy Văn Thù, Phổ Hiền hai vị
Ðại Bồ Tát. Ngài Văn Thù dạy: Các phương pháp tu hành
không gì bằng Niệm Phật. Ta ở trong kiếp quá khứ nhờ niệm
Phật mà được Nhất Thế Chủng Trí. Vì thế, tất cả các
đại trí tuệ đến
bờ kia, pháp thậm thâm thiền định, cho đến biến chánh biến
tri của Phật đều từ niệm Phật mà
sanh. Pháp Chiếu Ðại Sư hỏi: Nên niệm vì Phật nào? Văn Thù
đáp: Ở thế giới Phương Tây có Phật A Di Ðà, nguyện lực
không thể nghĩ bàn, ông nên niệm liên tục đừng
cho gián đoạn, khi mạng chung quyết định vãng sanh. Hai vị
nhơn đó thọ ký cho Ngài Pháp Chiếu
rằng: Ông vì công đức niệm Phật không thể nghĩ bàn, nên
rốt ráo chứng được quả Vô thượng giác, nếu thiện nam
thiện nữ nào muốn mau ra khỏi luân hồi nên phải niệm Phật.
Ðại sư Huệ Nhật đi Thiên Trúc bằng thuyền
vô cùng vất vả, đến nước Kiên Ðà La, phía Ðông Bắc có
ngọn núi lớn thờ tượng Quan Thế Âm. Ðại sư suốt bảy
ngày lễ bái, không ăn uống, lấy mạng sống làm kỳ, cầu
đức Quan Thế Âm cảm ứng. Ðến đêm thứ bảy bỗng thấy
Quan Thế Âm hiện thân sắc vàng tía, ngồi yên trên hoa sen
báu, đưa tay sờ
đầu nói: Ông muốn tuyên pháp tự lợi
lợi tha, chỉ cần niệm Phật A Di Ðà ở cõi Tây phương Cực
Lạc, nên biết pháp môn Tịnh độ vượt qua các hạnh khác.
Ngài Thiên Thân là Tổ Duy Thức tông đã viết
Vãng Sanh Luận Cực Lạc cổ súy tịnh độ. Tổ thiền tông
Mã Minh, Long Thọ viết Tỳ Bà Sa Luận, Ðại Thừa Khởi Tín
Luận khuyên người niệm Phật vãng sanh. Tổ Thiên Thai tông
viết Tịnh Ðộ Thập Nghị Luận khuyên người nhất tâm niệm
Phật. Cho đến các thiền sư như Vĩnh Minh, Sở Thạch, Mộng
Ðông, Liên Trì đều tán dương Tịnh Ðộ, khuyên người gắng
niệm Phật cầu sanh Cực Lạc. Ðiều đó cho thấy pháp môn Tịnh
Ðộ là nơi quy thú cho tất cả nương về.
---o0o---