PHẦN GIẢNG KINH
(tiếp theo)
III-GIẢNG KINH:
Toàn
bộ Kinh này được chia làm 3 phần là Tựa, Chánh Tông, Lưu
Thông.
A-PHẦN TỰA
Ðây là phần giới thiệu nguyên nhân pháp khởi
và những bằng chứng có thực để mọi người có một niềm
tin mạnh mẽ mới có thể thấu triệt được Tánh Vô Lượng
Thọ, một thể tánh chưa hề sanh diệt của tất cả chúng
sanh. Ðức A Nan vốn là bực đa
văn vào bậc nhất , những lời Ngài
được nghe như nước
đổ vào bình không có chút nào rơi mất
sai sót. Lời Ngài thuật lại chính là giáo pháp từ Kim Khẩu
của Ðức Phật Thích Ca Mâu Ni nói ra, có thời gian, có nơi
chốn, có tất cả chúng Thinh Văn và chúng Bồ Tát cùng nghe:
hẳn đây là buổi thuyết pháp có thật.
AI-Tựa Chứng
Tín
I-Chứng Tín Chỗ Nơi nghe Kinh
KINH VĂN
Ta nghe như vầy: Một
thuở nọ Phật ở trong thành Vương Xá, núi Kỳ Xà Quật.
Thông thường khi Phật nói
kinh đều có đủ 6 món làm bằng chứng để tin, đồng thời
cũng để giải quyết những nghi vấn căn bản là
thời thuyết pháp này do ai thuật lại, có đáng tin cậy
không? Người đã
nghe là ai? Lúc nào? Ai chủ giảng? Giảng nơi nào? Có những
người nào nghe? Giải quyết những câu hỏi trên gây cho người
đọc một niềm tin tưởng vững chắc.
Trong đoạn này
có 5 món thành tựu:
a-Tín thành tựu: Chữ: TA
NGHE NHƯ VẦY. Nguyên nhân khi đức Như Lai sắp vào Niết Bàn,
nằm giữa Ta La Song Thọ, Ngài bảo cho các hàng Tỳ Kheo biết
Như Lai sắp vào Niết Bàn. A Nan vốn là thị giả suốt đời
hầu Phật, nên khi nghe Phật sắp nhập diệt Ngài không thể
kềm hãm buồn thương than khóc. Thấy thế, Tôn giả A Nậu
Lâu Ðà bảo: A Nan , ông là người truyền giáo pháp của Ðức
Phật , tại sao không hỏi Phật về những việc ở tương
lai, ngồi than khóc như thế có lợi ích gì? A Nan tỉnh ngộ
liền đến bên Phật hỏi Bốn Ðiều Thiết Yếu. Phật đáp:
*Sau khi ta diệt độ, các
thầy Tỳ Kheo lấy giới luật làm thầy.
*Sau khi ta diệt độ, các
thầy Tỳ Kheo lấy Tứ Niệm Xứ mà
an trụ.
*Ðối với Ác Tánh Tỳ
Kheo dùng Phạm Ðàn để trị.
*Lời đầu của kinh phải
để TA NGHE NHƯ VẦY.
Sở dĩ Phật dạy để bốn
chữ ấy ở đầu kinh với mục đích làm
cho chúng sanh tin tưởng, vì A Nan trực nhận lời Phật dạy,
kể đúng lại không phải mình nói ra hay thêm bớt. Chính lời
Phật nói nên mọi người dễ tin nhận. Lòng tin rất quan trọng,
nó là bước đầu vào đạo, nên kinh Hoa Nghiêm cũng nói :
Lòng tin như người có đôi
tay, đi vào kho báu tùy ý nhặt lấy.
Người không có lòng tin như người không có đôi tay, dù vào
được kho báu vẫn
không thu hoạch được gì!
Vì thế, đầu kinh việc xây
dựng niềm tin vững chắc là điều cần thiết.
b-Văn thành
tựu: A Nan vốn là bậc đa
văn nhất. những lời Ngài nghe được
như nước rót vào bình không thể rơi mất hay sai sót. Chữ
TA NGHE làm mọi người thêm tin chắc đó là lời Phật nói.
c-Thời thành tựu: LÚC BẤY
GIỜ là chỉ rõ thời gian Phật thuyết pháp. Suốt 49 năm Phật
mòn gót trên những chặng đường giáo hóa. Mỗi thời
gian giáo hóa đều có khác nhau, nên
Ngài A-Nan nêu rõ thời gian để
xác định buổi thuyết Pháp.
d-Chủ thành tựu: PHẬT
là chỉ cho Ðức Thích Ca Mâu Ni là Chủ Giảng.
e-Xứ thành tựu: Ở TRONG
THÀNH VƯƠNG XÁ, NÚI KỲ XÀ QUẬT là chỉ chổ nơi Ngài giáo
hoá như nói lúc bấy giờ Phật ở vườn Kỳ Thọ Cấp Cô Ðộc,
ở Vườn Lộc Uyển, Hằng Hà ngạn…Buổi thuyết pháp này
ở thành Vương Xá núi Kỳ Xà Quật.
Thành Vương Xá: Thành
này là một cố đô ngày xưa, nơi ở của nhiều vua chúa.
Thành này gồm có năm hòn núi, mỗi hòn núi đều có nhiều
tinh xá. Phật nói kinh này ở một tinh xá trong núi Kỳ Xà Quật.
Kỳ Xà Quật: là Phạn
ngữ, Tàu dịch là Linh Thứu sơn, vì núi này có hình giống
con linh thứu và trong núi cũng có nhiều linh thứu ở nên lấy
vật đặt tên.
Ðoạn văn trên đây chỉ
rõ Năm món thành tựu
để mọi người tin chắc.
2-Chúng Thanh Văn
KINH VĂN:
Cùng với
chúng Ðại Tỳ Kheo một muôn hai ngàn người họp lại một
chỗ. Tất cả các Bậc Ðại Thánh ấy đã đạt được thần
thông, tên các Ngài là Tôn Giả Liễu Bổn Tế, Tôn Giả
Chánh Nguyện, Tôn Giả Chánh Ngữ, Tôn Giả Ðại Hiếu, Tôn
Giả Nhân Hiền, Tôn Giả Ly Cấu, Tôn Giả Danh Văn, Tôn Giả
Thiện Thật, Tôn Giả Cụ Túc, Tôn Giả Ngưu Vương, Tôn Giả
Ưu Lâu Tần Lụy Ca Diếp, Tôn Giả Gia Dà Ca Diếp, Tôn Giả
Na Ðề Ca Diếp, Tôn Giả Ma Ha Ca Diếp, Tôn Giả Xá Lợi Phất,
Tôn Giả Ðại Mục Kiền Liên, Tôn Giả Kiếp Tân Na, Tôn Giả
Ðại Trụ, Tôn Giả Ðại Tịnh Chí, Tôn Giả Ma Ha Châu Na,
Tôn Giả Mãn Nguyện Tử, Tôn Giả Ly Chướng, Tôn Giả Lưu
Quan, Tôn Giả Kiến Phúc, Tôn Giả Diên Vương, Tôn Giả Di Thừa,
Tôn Giả Nhơn Tánh, Tôn Giả Gia Lạc, Tôn Giả Thiện Hội,
Tôn Giả La Vân, Tôn Giả A Nan. Tất cả đều là Thượng Thủ.
GIẢNG-YẾU
Ðại Tỳ Kheo:
Chữ đại là dịch từ chữ Ma Ha của
Phạn Ngữ. Chữ Ma Ha ở Ấn Ðộ thường chỉ cho những cái
gì số nhiều, vượt hơn người khác hoặc rộng rãi bao
trùm. Ở đây chỉ chúng
Tỳ Kheo số rất đông, vượt hẳn hơn 95 học thuyết đương
thời và đức độ bao trùm giới hậu
học nên gọi là đại.
Tỳ Kheo có năm nghĩa: 1-Khố ma: Tỳ Kheo khi mới thọ giới,
phát tâm rộng lớn, diệt trừ phiền não
làm cho ma phải sợ sệt vì họa diệt chủng. 2-Khấ Sĩ:
Khi đã xuất gia không còn chứa giữ,
xin ăn để tự sống,
mang phước điền gieo rắc nhân gian. 3-Tịnh mạng: Khi xin ăn
không còn các thứ Tà mạng. 4-Tịnh
trì: Khi xuất gia rồi Tịnh Trì cấm giới, trong sạch như
lưu ly không hề hủy phạm. 5-Phá ác: Phá sạch các phiền
não, vì tôn trọng giới luật làm thầy.
Ðại Thánh: là chỉ
các bậc Thanh Văn
căn tánh nhạy bén, thành tựu được nhiều thắng đức, chứng
được quả vị cứu cánh vô học thánh nhân. Ðoạn
này tán thán công đức
của các bậc Thanh Văn.
Ðạt được thần thông:
là khen ngợi đức
độ tu hành của các bậc Tiểu Thừa
chứng quả cứu cánh. Vì người chứng được
tam muội, phát huy diệu dụng của chơn tâm sẽ được sáu
món thần thông là: Thiên nhãn thông,
thiên nhĩ thông, thần túc thông, tha tâm thông, túc mạng
thông và lậu tận thông.
Có nghi vấn cho rằng A Nan
khi Phật còn trụ thế, Ngài vẫn còn ở hàng Học Ðịa sao
được gọi là Ðại Thánh? Thực ra A Nan ở trong hội này là
Chủ Ðặt Vấn Ðề Thưa Thỉnh, Ngài vốn là hàng Tăng
Thượng Lợi Căn, tuy ở hàng Học Ðịa
mà đã thành tựu vô lượng thắng diệu
công đức, đồng với các bậc Ðại
Thánh.
Có nghi vấn cho rằng các
Bồ Tát là bậc gần Phật, đạo
đức cao hơn hàng Thanh Văn, tại sao các Kinh thường nêu Thanh
Văn trước Bồ Tát?
Sỡ dĩ các Kinh nêu chúng
Thanh Văn rồi sau mới nêu Bồ Tát với những lý do sau đây:
a-Phân biệt gần xa: hàng
Thanh Văn phần nhiều ở gần Như Lai nên được nêu ra trước.
Vì các hàng Thanh Văn
tu tập chưa lâu, đạo pháp chưa thuần, tuy được quả thánh
nhưng oai nghi tới lui phải theo Phật dạy. Như ông A Na Luật
không được nghe người nữ nói và
cùng người nữ ở chung một đêm. Cấm Ta Già Ða không được
nghe người nói việc uống rượu. Cấm 17 đồng tử không
được đùa giỡn trong nước. Các vị
này đều là A la hán nhưng luôn luôn phải ở bên Phật để
nhờ đức Thế Tôn răng dạy. Vì chư Thanh Văn nhờ Phật tiếp
độ trực tiếp bỏ Phàm vào Thánh,
mang ơn sâu nặng, tuy được quả thánh, thường theo Như Lai vây
quanh cúng dường nên thường ở gần Phật. Trái lại, Bồ
Tát đắc đạo đã
lâu, không nhờ Phật dạy hằng ngày. Tuy mang ơn sâu nặng nhưng
vì nhiệm vụ giáo hóa chúng sanh tùy duyên nhiếp hóa nên
không gần.
b-Phân biệt oai nghi hình tướng:
Các hàng Thanh Văn gìn giữ oai nghi hình thức giống Phật, người
đời đều cung kính
tôn trọng nên nêu trước, Bồ Tát
tùy duyên giáo hóa hình tướng không định. Như Ngài Văn Thù
trong ba tháng kiết hạ, dời ba lần an cư, nên được nêu
sau.
c-Phân biệt Hiển Mật:
Ngài Long Thọ Bồ Tát nói: Giáo pháp có Hiển có Mật, căn cứ
vào Hiển giáo thì La Hán và Bích Chi lậu đã dứt, đồng
như Phật nên giới thiệu sau Phật. Còn Bồ Tát hiện thân
làm hóa độ, chỉ các phiền não để
độ phàm phu, nếu để trước A la hán làm
người ngạc nhiên. Nếu căn cứ vào Bí Mật Giáo, Bồ Tát đức
cao nên cần để
trước, Thanh Văn đức kém nên phải để sau. Nên
Kinh Hoa Nghiêm trước để
Bồ Tát, các Hội sau mới để Thanh Văn trước.
d-Phân biệt nhiều ít: Như
Kinh Niết Bàn nói: Tất cả Chúng phần ít để
trước, phần nhiều để sau. Trong Kinh này chúng Thanh Văn ít
nên để trước, chúng Bồ Tát nhiều nên để sau.
Tôn Giả:
là những bậc có đức
đáng tôn quí. Ðoạn này kể tên 32 vị
Thượng Thủ của một muôn hai ngàn thanh văn nghe pháp.
3-Chúng Bồ Tát
KINH VĂN:
Cùng hội
với các bậc Bồ Tát như: Bồ Tát Phổ Hiền, Bồ Tát Diệu
Ðức, Bồ Tát Từ Thị, cùng tất cả Bồ Tát trong Hiền Kiếp
này. Lại có mười sáu vị đại sĩ theo hộ vệ đức Phổ
Hiền là Bồ Tát Thiện Tư Nghị, Bồ Tát Tín Huệ, Bồ Tát
Không Vô, Bồ Tát Thần Thông Hoa, Bồ Tát Quang Anh, Bồ Tát Huệ
Thượng, Bồ Tát Trí Tràng, Bồ Tát Tịch Căn, Bồ Tát Nguyên
Huệ, Bồ Tát Hương Tượng, Bồ Tát Bưu Anh, Bồ Tát Trung Trụ,
Bồ Tát Chế Hạnh, Bồ Tát Giải Thoát, đều tuân theo thắng
đức của đại sĩ Phổ Hiền, đầy đủ vô lượng hạnh
nguyện của các Bồ Tát, an trụ trong tất cả pháp công đức,
đi dạo mười phương, làm nhiều việc phương tiện, vào
trong pháp tạng của Phật, rốt ráo đến bờ kia, dạo vô lượng
thế giới hiện thành bậc Chánh đẳng chánh giác.
GIẢNG YẾU
Ðoạn này nói rõ những
nét đặc thù của các vị Bồ Tát, kể rõ các Bồ Tát theo hạnh
Phổ Hiền, tán thán vô lượng công đức của 16 vị Bồ Tát
và nói rõ chúng Bồ Tát tham dự.
Ðại Thừa:
cổ xe lớn có khả năng tiếp độ tất cả chúng sanh. Trong
Kinh Pháp Hoa Phật dụ ba thừa là xe
Dê, xe Nai và xe Trâu trắng. Từ phương tiện nói ba thừa, Phật
chỉ cho cứu cánh chỉ còn có một Ðại Thừa tức là Phật
Thừa.
Bồ Tát: là Phạn ngữ
nói cho đủ là Bồ Ðề Tát Ðỏa, Bồ Ðề dịch là Giác,
Tát Ðỏa dịch là Hữu Tình. Bồ Tát nghĩa là giác hữu tình
vì Bồ Tát trong tâm đã đủ
năng lực giác ngộ và cũng đủ năng lực giác ngộ cho người.
Có người hỏi: Thanh Văn,
Duyên Giác đã giác ngộ, có đủ đạo hạnh giác ngộ tại
sao nói Bồ Tát mới giác ngộ chúng hữu tình?
Nói chung bậc Tam Hiền, Thập
Thánh đều có giác ngộ, nhưng công hạnh
có sai khác. Bồ Tát là những người có ý nguyện lấy việc
cứu khổ chúng sanh để chứng quả Ðại Bồ Ðề. Tất cả
chúng sanh có nhưng giả có, cần phải khai quyền hiển thật
độ thoát, ngoài việc giác ngộ cho chúng sanh không cầu gì
khác. Nên trong Ðịa Trì luận nói: Một lòng quyết định giác
ngộ chúng hữu tình nên gọi là Bồ Tát. Phàm phu chấp Có,
nhị thừa chấp Không, không ở trung đạo nên không thể dẫn
dắt chúng hữu tình. Trong Phật pháp lấy Giáo, Nghĩa, Hành
làm tiêu chuẩn chính. Thanh
Văn là những người căn độn lấy Giáo làm
tên. Thanh là nghe, nhờ nghe được giáo lý mà giác ngộ nên gọi
là Thanh Văn. Căn cứ
vào giáo lý là bậc còn cạn. Duyên
Giác là những người tùy theo duyên mà ngộ được Giải nên
gọi là Duyên Giác. Căn cứ vào duyên mà giác là bậc giác ngộ
đã sâu. Bồ Tát tu hạnh và giác ngộ, có khả năng thành tựu
lợi mình và lợi người, nên gọi là người Giác Ngộ chúng
sanh.
Hiền Kiếp:
(bhadrakalpa) là một trong ba kiếp. Kiếp trụ của quá khứ gọi
là TRANG NGHIÊM KIẾP. Kiếp trụ của vị lai gọi là TINH TÚ
KIẾP. Kiếp trụ của hiện tại gọi là HIỀN KIẾP.
Ðoạn này nêu tên ba vị
Bồ Tát ở Hiền Kiếp và mười sáu vị chánh sĩ, đồng thời
cũng khen ngợi Thực Ðức và Quyền Ðức của các Ngài không
thể nghĩ bàn. Các vị Bồ Tát này đủ vô lượng hạnh nguyện,
thực hành lục độ,
tứ nhiếp pháp, thành tựu viên mãn
các thứ công đức. Dùng phương tiện quyền xảo, tùy theo
hoàn cảnh của chúng sanh, hiện nhiều thân tướng để
độ thoát. Các Ngài đã chứng hội
vào pháp tạng đến quả Niết Bàn, ở trong các thế giới
thành bậc CHÁNH GIÁC.
KINH VĂN:
Ngài ở cung trời Ðâu Suất,
rộng nói chánh pháp, rời khỏi thiên cung ấy, giáng sanh vào
thai mẹ, từ nách bên phải sanh, đi liền bảy bước, ánh
sáng rực rỡ soi khắp mười phương, không lường cõi Phật,
tự nói lời rằng: Ta sẽ vì cuộc đời khốn khổ làm bậc
Vô thượng tôn, Ðế Thích, Phạm Thiên phò trì, người trời
nương về.
Thuở nhỏ thị hiện đủ
tài nghệ như: tính toán, văn nghệ bắn cung, cỡi ngựa, biết
đạo thuật, thông thuộc các sách, đi ra vườn sau giảng võ
thử tài. Lớn lên ở trong cung vui, trong trường thinh sắc thấy
Già, Sống, Chết, hiểu cõi đời vô thường, bỏ hết tiền
của, ngôi vua, vào núi học đạo. Trả về mão Anh Lạc quí,
ngựa trắng, bỏ trân quí để
mặc pháp phục, cắt bỏ râu tóc, dưới cây thiền định, cần
khổ sáu năm, cầu đạo giải thoát. Hiện ra trong
cõi đời năm trược,
tùy thuận chúng sanh, phủi giũ trần
cấu, tắm gội thân vàng, chư thiên ở trên cành cây, đỡ
ra khỏi ao. Các linh cầm theo sau, ở nơi đạo tràng, có nhiều
điềm lành nêu rõ công tác, thương
chúng sanh, nhận cỏ trải dưới gốc cây, kiết già vững
ngồi, được hào quang lớn, khiến các bọn ma biết được,
quyến thuộc của bọn ma đến thử bức bách. Ngài
dùng sức trí huệ hàng phục được tất cả. Ðược pháp mầu
nhiệm thành bậc chánh giác cao tột, các cõi trời Thích Phạm
cầu xin chuyển bánh xe pháp.
GIẢNG YẾU
Phần nhiều các vị Bồ
Tát giáng trần thường hiện đủ 9 tướng. Các Ngài ở đây
đều có đủ:
1- Tướng ở cung trời
Ðâu Suất: Ðâu Suất là Phạn ngữ dịch Diệu Túc là cõi trời
thứ tư trong sáu cõi trời dục giới. Cõi trời này có rất
nhiều điểm thù thắng, nên các Bồ Tát thường tạm an trụ
trước khi giáng sanh. Kinh Niết Bàn nói: Cõi trời trên thì
ám độn, cõi trời dưới thì buông lung, cõi trời Ðâu Suất
không ám độn và không buông lung nên được gọi là cõi trời
thù thắng. Người tu bố thí, trì giới được sanh về cõi
trời trên hoặc cõi trời dưới. Người tu bố thí, trì giới,
thiền định mới
được sanh về cõi trời Ðâu Suất
nên gọi là thù thắng.
Có người hỏi: Cõi trời
Ðâu Suất là thuộc dục giới loạn địa, làm sao tu Ðịnh lại
được sanh về cõi ấy?
Thiền định ở đây
không phải nhập thiền đại định mà
chỉ cần xử dụng tâm tu huệ ở dục giới và tu niệm Phật
tam muội sẽ được sanh về cõi trời ấy, gọi nương theo định
mà được vãng sanh.
2- Tướng giáng sanh: Lòng
Bồ Tát thương chúng sanh tha thiết nên muốn hòa đồng
để độ sanh, bỏ cái vui thắng diệu
của cõi Ðâu Suất, dấn thân vào cõi Diêm Phù Ðề chịu khổ,
để chỉ cho chúng sanh thấy lòng từ bi đó mà sinh lòng tri
ân kính trọng, quyết thực hành theo hạnh nguyện của Bồ
Tát. Các Ngài thường giáng sanh vào loài thai sanh vào hạng
quý tộc biểu hiện giáo pháp thù thắng cần độ các hàng
trí thức. Sanh vào dòng vua nhờ đó mà dễ dàng hộ trì
chánh pháp. Sanh vào giai cấp cao nhất để khuyên giữ trọn
đạo nhơn luân, dứt hết phỉ báng, khinh ngạo. Nếu các
Ngài sanh vài loài hóa sanh, lời nói chánh pháp sẽ trở thành
huyễn hóa không thực. Sanh vào loài thai sanh vì muốn lưu lại
lợi ích cho đời
sau, để Xá Lợi cho người đời chiêm
ngưỡng lưu bố. Vì thế chư Phật trong ba đời
hóa độ đều giáng sanh vào loài thai
sanh.
3- Tướng sanh từ hông
bên hữu: Tướng này nêu ra cho thấy
chỗ sanh khác thường, hiện ra điềm lạ và
các cõi trời Thích Phạm cúng dường. Người đời
thường theo đường bất tịnh mà ra,
Bồ Tát vì chúng sanh mà giáng sanh vào cõi đời, nên tuỳ
duyên nên sự sanh có khác hơn người đời. Tuy từ hông bên
hữu sanh ra, nhưng vượt qua khỏi như màn sương, thân người
mẹ an ổn không phải chịu những điều
khó nhọc. Bước đi bảy bước là thị
hiện sức dũng mãnh trong mười phương ra vào không hề sợ sệt.
Thân có ánh sáng tượng trưng cho sự ra đời vì muốn giác
ngộ mọi người. Chấn động
đại địa làm cho bọn ma quỷ phải
run sợ, tùng phục.
Tướng này, đoạn
trước nói sự kỳ đặc về thân tướng, kế đó là sự kỳ
đặc về hành động để làm mọi người quy thú, đồng thời
cũng hiển rõ công đức thâm trọng để trời người nương
về.
4- Tướng đồng tử: ngày
từ lúc nhỏ, vì Ngài là bậc thị hiện nên đã biết hết
các pháp thế gian, chỉ nghe qua một lần là có thể thông thạo,
vì đã có chủng tử sẵn chỉ nghe là có hiện hành ngay, các
sách thế gian đều hiểu rõ hết.
5- Tướng lập gia đình:
đoạn này nói rõ việc lập gia đình,
ra sau vườn tỷ thí, cỡi ngựa, bắn cung.
Có người hỏi: tại sao các
Ngài thị hiện mà vẫn có vợ, có con?
Các Ngài luôn hiện tướng
bình thường. Trước Thọ rồi sau Xả. Từ đó, chỉ cho mọi
người thấy rõ dục vọng là điều
đáng chán. Nếu các Ngài không thị
hiện tướng này sẽ gây cho chúng sanh nhiều nghi vấn, họ
cho rằng chỉ có những bậc thanh khiết mới có thể thành
chánh giác, còn chúng sanh bị dục vọng, gia thê đái tử
không thể nào thành Phật được. Thực ra Phật ở trong thế
gian, chỉ khác hơn thế gian là giác ngộ. Bỏ phiền não đi tìm
bồ đề không khác gì người cố công tìm sừng thỏ, bỏ
sóng tìm nước mà không bao giờ được toại nguyện. Vì nước
và sóng nguyên thể chỉ là một, mê là chúng sanh, ngộ là Phật.
Nếu không thị hiện tướng này, có người cho rằng những bậc
chưa vướng vào tục lụy mới có thể chứng quả, còn những
những người đã lam lấp phong trần có tu cũng uổng công mà
thôi. Thực ra các Ngài có đồng hoàn cảnh như ta mà vẫn tu
thành chánh giác, chứng tỏ mọi người đều
có khả năng thành Phật.
6- Tướng xuất gia: Hiểu
đời vô thường, huyễn mộng, các
Ngài bỏ hết danh vọng giàu sang bên ngoài như vợ đẹp, con
ngoan, phụ hoàng và xã tắc, vất luôn đồ trang sức trên
thân, bỏ cả râu tóc để nhận lấy áo pháp và thực hành
pháp lành thiền định,
ngồi dưới gốc cây. Sáu năm khổ hạnh nói lên
lòng cương quyết khám phá chơn lý, giải thoát sanh tử cho tất
cả chúng sanh, đồng thời cũng thể hiện bỏ mê lầm về
chánh đạo.
7- Tướng đắc đạo: Các
Ngài sau khi tắm rửa hình nhơ, linh cầm
theo đến đạo tràng
thể hiện sự giác ngộ từ nội tâm, vì tâm là động lực
chính đưa tới sự giác ngộ. Ngồi dáng kiết tường trên
cỏ, dùng thần lực phóng ánh sáng trí huệ lớn, hàng phục
các ma, được pháp vi diệu, hiện thành Phật đạo.
KINH VĂN:
Các
Ngài vì lời cầu xin nên đi khắp đó đây, nói pháp vang dội,
đánh trống pháp, thổi loa pháp, cầm kiếm pháp, xây tràng
pháp, nổi sấm pháp, xẹt điện pháp, xối mưa pháp, bố thí
pháp, thường dùng pháp âm giác ngộ người đời, ánh sáng
chiếu khắp vô lượng cõi Phật. Tất cả thế giới, sáu thứ
chấn động, giữa thâu các ma, làm động cung điện ma, làm
các ma đều sợ sệt, tất cả đều quy phục, đốt cháy lưới
tà, tiêu diệt các chấp, dứt các trần lao, tan hết dục nhiễm,
nghiêm thành giữ pháp, khai triển Tịnh Ðộ pháp môn, rửa hết
trần cấu, tất cả đều trong sạch. Ánh sáng Phật pháp
chói lọi, dẫn dắt mọi người, vào quốc gia nào đều giữ
gìn phong tục tập quán tốt, gây tạo phước điền.
Các
Ngài tuyên nói chánh pháp, đem đến sự an vui cho mọi người,
dùng các phương pháp tinh diệu, như thuốc hay trị lành bịnh
ba khổ, chỉ rõ đạo lý có vô lượng công đức, nhận lời
căn dặn của các bậc Bồ Tát, thành Chánh đẳng chánh giác.
Thị hiện Niết Bàn, giúp đỡ mọi người, tiêu trừ các lậu,
trồng các cội đức đầy đủ mầu nhiệm không thể nghĩ bàn.
Ði dạo các cõi Phật, khắp hiện các đạo giáo, người nào
nghe theo tu hành sẽ được thanh tịnh, không còn cấu uế, như
các nhà ảo thuật hiện các hình lạ, có thể biến đổi hình
nam nữ, chỗ học sáng tỏ, tùy ý có thể làm được tất cả,
các Bồ Tát này lại cũng như thế.
Các
Ngài học tất cả pháp, xâu suốt rõ ràng, chỗ ở yên ổn,
cảm hóa được tất cả mọi người. Vô số cõi Phật đều
có thể hiện khắp, chưa hề thiếu sót, thương mến chúng
sanh, ban cho đầy đủ các pháp mầu nhiệm như thế. Kinh điển
của Bồ Tát dạy đều rốt ráo mầu nhiệm, tên đồn trùm
khắp, đạo truyền mười phương, vô lượng chư Phật cùng
chung hộ niệm. Chỗ của Phật an trụ, các Ngài đều an trụ
được, địa vị của các bậc đại thánh, các Ngài đều có
địa vị đó. Lời dạy bảo của Như Lai các Ngài đều có
thể dạy khắp, vì các Bồ Tát mà làm bậc đại sư, đem thiền
huệ sâu nhiệm dạy bảo mọi người, thông các pháp tánh, hiểu
tướng chúng sanh, hiểu rõ các quốc độ.
Các
Ngài cúng dường chư Phật, hoá hiện thân cũng như ánh điện,
khéo học cương yếu vô úy, hiểu rõ các pháp huyễn hóa,
phá hết lưới ma, cổi hết trói buộc, vượt ngoài địa vị
của các bậc Thanh Văn, Duyên Giác, được Không, Vô Tướng,
Vô Nguyện tam muội. Khéo lập nhiều phương tiện, chỉ rõ ba
thừa, ở trong bậc Trung, Hạ này mà hiện tướng diệt độ,
được pháp bình đẳng, có làm và không làm, không khởi và
không dứt, đầy đủ thành tựu vô lượng tổng trì, có đủ
trăm ngàn tam muội, truyền thiền định tịch mịch, đi sâu
vào pháp tạng của Bồ Tát, được Hoa Nghiêm tam muội. Các
Ngài diễn nói tất cả Kinh điển, trong thiền định có thể
thấy vô lượng chư Phật, chỉ trong một niệm đều có thể
thấy tất cả, giải hết chỗ vấn nạn, chỗ ngăn ngại, phân
biệt rõ ràng ngằn mé của chơn thật. Các Ngài được trí
huệ biện tài của Như Lai, hiểu được lời nói các chúng
sanh, giáo hóa tất cả vượt qua các pháp thế gian, lòng thường
trụ chắc ở con đường độ đời. Ở trong tất cả muôn vật
mà tùy ý làm người bạn không cần mời của các loài, phát
lời thề lớn, gánh vác giúp đỡ cho tất cả quần sanh.
Các
Ngài thọ trì pháp tạng mầu nhiệm của Như Lai, được chủng
tánh Phật, thường khởi lòng đại từ-bi thương xót chúng
sanh, diễn nói lời lành, khai mở đường lành, mắt pháp cho
cả ba đường, làm vị pháp sư không cần thỉnh, đem cho mọi
người, như người con hiếu thương yêu cha mẹ, gần gũi chúng
sanh không phút nào rời. Tất cả công đức đều hướng về
Phật Quả. Tất cả các Ngài đều được công đức vô lượng
của chư Phật, trí huệ sáng tỏ không thể nghĩ bàn. Các Bồ
Tát Ðại Sĩ nhiều không thể tính đếm, đồng đến pháp hội.
GIẢNG YẾU
8- Tướng
chuyển luân: đoạn này chia làm hai phần:
*Dùng
thân và miệng để giáo hóa: Trong Kinh nói các Ngài dạo đi là
lấy thân nghiệp để giáo hóa. Các Ngài hiện đủ oai nghi,
đi đến chúng sanh làm bạn không cần mời để dạy dỗ.
*Dùng miệng
để giáo hóa: Trong Kinh nói các Ngài nói lời pháp, đánh trống
pháp, thổi loa pháp là dùng khẩu nghiệp để giáo hóa. Các
Ngài dùng lời nói để chúng sanh nghe rồi suy nghĩ, suy nghĩ rồi
chứng đạo quả.
Từ trong thân, các Ngài
phóng hào quang chiếu khắp vô lượng cõi Phật, dùng thần lực
làm cho thế giới chấn động, thấu các cõi ma, làm cho tất
cả ma đều sợ sệt. Các Ngài dùng lời nói phá hết tà kiến,
diệt hết các chấp, dứt hết tà dâm, diệt trừ dục cảnh.
Dùng lời nói hộ trì chánh pháp, ngăn mọi hủy báng, mở
các pháp môn lành, dạy mọi người theo chánh đạo. Ðoạn
này tán thán Quyền Ðức và Thật Ðức của các Ngài.
9- Tướng
thị hiện Niết Bàn: Tướng này mục đích giáo hóa chúng
sanh chán thân vô thường, vui đạo Niết Bàn, dứt nhơn sanh tử,
gieo trồng công đức, ưa đạo tịch mịch.
YẾU LƯỢC
Ðoạn
này là phần tựa Chứng Tín gồm đủ sáu món thành tựu trước
khi Phật thuyết pháp. Lời Kinh văn đã rõ không cần giải
thích thêm. Ở đây chúng tôi chỉ tóm lược những ý nghĩa
biểu tượng cốt yếu.
Trong
Kinh nêu các vị Bồ Tát có nêu Văn Thù trước, có Kinh nêu
Phổ Hiền trước. Ngài Văn Thù tiêu biểu cho trí huệ, Ngài
Phổ Hiền tiêu biểu cho đạo hạnh. Kinh này thuộc về Viên
Giáo lấy Quả khởi Nhơn, nên nêu đức hạnh của Ngài Phổ
Hiền, các vị đại sĩ đều tùy thuận Như Lai học Tu Hạnh
của Phổ Hiền, được gọi là thực hành phương tiện quyền
xảo vào tạng Phật pháp, rốt ráo đến bờ kia. Ðó chính
là yếu nghĩa của pháp môn Tịnh độ. Tất cả chỗ thực hành
của Bồ Tát không ngoài phương tiện, vì phương tiện nên phải
trụ trong tịnh độ để thường thấy Phật, nhờ thấy Phật
được nghe pháp để tu hành vào tạng Phật pháp, viên mãn
tâm giác rốt ráo đến bờ kia. Nếu không phương tiện thì
các món thực hành không thể thành tựu. Kinh Ðại Bát nhã
nói: Các Bồ Tát đó tương ứng với đại trí tuệ đến bờ
kia, nên từ chỗ ấy sanh về các tịnh độ này đến tịnh
độ kia mỗi nơi đều gặp Phật. Vì thế nên biết rằng, nếu
không muốn rời Phật phải lấy Niệm Phật làm Nhơn, Kinh Hoa
Nghiêm nói: Hàng Bồ Tát trong thập địa trước sau đều nên
niệm Phật. Do đó Kinh này hàng Nhị thừa không thể gánh
vác nổi. Trọng tâm để cho hàng phàm phu phát Ðại Thừa
Tâm, y theo lời dạy tu hành, sanh vào nhà Như Lai, đủ hạnh
nguyện của Phổ Hiền.
Ðoạn từ
ở cung trời Ðâu Suất giáng sanh là nói sơ lược về hóa
nghi của đức bổn sư để hiện sự thành Phật độ sanh của
các Bồ Tát. Nguyện Phật vô cùng chỉ nêu một công hạnh của
đức bổn sư để hiển rõ công hạnh của mười phương chư
Phật, vì một là tất cả.
Trong đoạn
nêu các Bồ Tát có Bồ Tát Diệu Ðức tức là Văn Thù, mà Văn
Thù là tượng trưng cho bể Trí Tuệ. Sỡ dĩ khó vào đại hạnh
của Phổ Hiền là vì không thể hiểu rõ được tự tâm, mỗi
niệm viên đốn, tánh tướng bình đẳng, thánh và phàm đồng
có đủ không có chút sai khác, vì không hiểu rõ nên chí nguyện
làm những điều không đầy đủ. Vì sao? Vì Ngoài Tâm mà Khởi
Tu sẽ trở thành Hữu Lậu, vì vô biên công đức Không Ngoài
Tự Tâm, thuận theo chơn tâm là tất cả pháp liền có đầy
đủ vô lượng công đức. Tiêu trừ hết các lậu là sau đó
có đủ tất cả. Vì thế, lấy trí tuệ của đức Văn Thù mới
tròn đủ đại hạnh của Phổ Hiền, như người huyển sự
hiện các tướng thay đổi nam nữ không có gì trở ngại.
Nên Kinh nói: Không làm, Không có, Không khởi, Không biết,
được pháp bình đẳng.
Người
thế gian nghe nói Tịnh Ðộ liền chấp ở nơi độ, nghe nói
vãng sanh liền chấp nơi sanh, bỏ tu Tịnh Ðộ. Tất cả cái
đó đều là nhơn sanh diệt, không thể nào khế hợp với
tánh không sanh diệt. Dầu chẳng biết trong tạng Như Lai sáng
chiếu tròn đầy, trùm khắp quốc độ mười phương, tìm chỗ
sanh tử tới lui cũng không có. Vì nó sanh diệt là một, tới
lui không ngại, người nào vào được trong lưới vô úy, hiểu
rõ các pháp hiển hóa đều có thể thấy Phật Vô Lượng Thọ,
nghiêm tịnh tất cả quốc độ trong mười phương.
Nêu lên
Ngài Từ Thị là ý muốn Kinh này lưu trụ thế gian, rộng độ
các chúng sanh. Nếu không phải Bồ Tát Bổ Xứ không thể nhận
lời phó chúc. Ba vị Bồ Tát này hiện khắp mười phương,
giáo hóa chúng sanh mà vẫn thường ở Cực Lạc tiếp dẫn chúng
sanh về tịnh độ. Như Hạnh Nguyện Phẩm nói: Người được
vãng sanh liền thấy Phật A Di Ðà, Bồ Tát Văn Thù, Bồ Tát
Phổ Hiền, Bồ Tát Quan Thế Âm, Bồ Tát Di Lặc. Các Bồ Tát
thường vây quanh. Mười sáu vị đại sĩ này đồng nguyện với
Bồ Tát Phổ Hiền.
AII-Tựa Phát Khởi: Ðại Giáo Duyên Khởi
KINH VĂN:
Lúc bấy
giờ đức Thế Tôn các căn vui vẻ, sắc mặt thanh tịnh sáng
rỡ vòi vọi. Tôn giả A Nan theo lời Phật dạy liền từ chỗ
ngồi đứng dậy, trịch áo bên vai hữu, quỳ xuống chấp tay
mà bạch Phật rằng: Hôm nay đức Thế Tôn sắc mặt vô cùng
vui vẻ, thần thái thanh tịnh, sáng rỡ vòi vọi như ảnh
trong gương, oai nghiêm khả kính, cao diệu vô lượng, con chưa
từng thấy ngày nào đức Như Lai vui đẹp hớn hở như ngày
hôm nay! Kính lạy đức Thế Tôn! Con nghĩ hôm nay đức Thế Tôn
có một phương pháp đặc biệt, một con đường thù thắng
để cho trời người thực hành các công đức của chư Phật
ở hiện tại, quá khứ, vị lai, tưởng Phật sẽ được Phật
hiện tiền. Nếu không phải như thế vì sao oai thần của Phật
lại trang nghiêm hoan hỷ như thế!
Phật hỏi
A Nan: Tại sao ông lại hỏi ta lời ấy, chư thiên nhờ ông đến
hỏi ta hay từ mắt huệ của ông thấy để tự hỏi?
A Nan bạch Phật: Thế Tôn!
Không có chư thiên đến nhờ con hỏi mà chính tự con thấy tướng
oai nghiêm vui vẻ khác thường mà muốn hỏi thôi!
Phật dạy:
Tốt lắm A Nan! Lời hỏi của ông rất hợp ý ta, câu hỏi
khéo léo, lời hỏi rõ ràng, vì thương chúng sanh thời mạt
pháp mà hỏi ý nghĩa nhiệm mầu này! Ðức Như Lai chỉ vì
lòng đại bi vô lậu, thương xót chúng sanh trong ba cõi mà xuất
hiện trong đời, đem ánh sáng đạo đức để tiêu diệt
bóng đêm. Sự lợi ích của trí huệ này có tác dụng rất lớn,
vô lượng ức kiếp khó được, khó gặp, như hoa Linh Thoại
không phải lúc nào cũng có. Cũng thế, lời hỏi ấy có rất
nhiều lợi ích để dẫn dắt trời người.
A Nan nên
biết! Ðức Như Lai đã thành bậc Chánh đẳng chánh giác,
trí tuệ không thể nghĩ bàn có nhiều phương pháp dẫn dắt
chúng sanh tự tại không ngại, nhưng hôm nay nét mặt hớn hở
sáng rỡ để biểu hiện sự hân hoan mà đức Như Lai sắp nói
ra phương pháp thù thắng chưa từng có.
A Nan! Hãy lắng nghe, ta sẽ
vì ông mà giảng nói.
GIẢNG YẾU
Trong
đoạn này đức Thế Tôn hiện tướng làm
nguyên nhân pháp khởi để
A Nan nhơn đó mà hỏi.
Thế Tôn: là đấng
giác ngộ, phúc đức vô biên, từ bi
vô lượng, làm cho người đời chiêm ngưỡng khâm phục, tôn
trọng nên gọi là Thế Tôn.
Các căn vui vẻ: là
hiển lộ sự vui mừng cao tột. Sở dĩ Phật vui mừng vì hai
lý do:
*/ Ngài
nhớ Phật A Di Ðà có công đức thực hành đã thành tựu.
*/ Nhớ
những chúng sanh sẽ có lợi ích lớn, nhờ tu pháp môn tịnh
độ mà một đời thành Phật độ sanh, nên Ngài vui mừng.
Ðoạn này là đoạn mở bày
pháp môn thù thắng, nêu chỗ chí diệu hầu làm sáng tỏ
nguyên nhân xuất thế của Như Lai và nguồn gốc nói ra giáo
pháp, làm cho người nghe sanh tin tưởng khó gặp, dứt nghi
sanh lòng tin. Có rất nhiều Kinh khuyên tu để
được vãng sanh về nước Cực Lạc nhưng đặc biệt Kinh này
có nhiều thắng nghĩa:
# Nói rõ thệ nguyện rộng
lớn của Ngài Pháp Tạng, nhờ đó làm cho hành giả sanh lòng
gánh vác, phát khởi lòng bi trí để
đủ nguyện Phổ Hiền.
# Nói rõ Y Báo, Chánh Báo
cõi Cực Lạc trang nghiêm làm cho người tu sanh lòng quyết định,
chí thành hồi hướng vào cảnh giới Phật, chẳng sa vào chỗ
Nghi Thành.
# Nói rõ chánh nhơn vãng
sanh và quả báo thế gian, làm cho người tu sanh lòng tinh tấn,
một lòng niệm Phật, thành tựu tam muội, quyết định
được sanh về Cực Lạc.
Có người hỏi rằng: Nói
Kinh Viên Ðốn, đức Bổn Sư thường phóng quang hiện bửu tướng
sao Kinh này không có?
Kinh này lấy Phật vô lượng
thọ làm chủ, đức Bổn Sư là bạn. Ðoạn sau Phật Vô Lượng
Thọ phóng quang chiếu khắp tất cả thế giới chư Phật. Ðặc
biệt đức Bổn Sư cùng với chư Phật trong mười phương
khen ngợi và chứng minh. Ðức Bổn Sư không phóng quang vì muốn
chúng sanh một lòng quy kính PHẬT VÔ LƯỢNG THỌ.
---o0o---