PHẦN GIẢNG KINH
I - LƯỢC KHẢO:
Ngay
trong thời thuyết pháp đầu tiên ở
hội Hoa Nghiêm Ngài Phổ Hiền Bồ Tát nói mười Ðại Nguyện
khuyên Thiện Tài và Hoa Tạng Hải Chúng Niệm Phật Cầu Sanh
về Cực Lạc, nếu muốn mau thành đạt hạnh: Trên mau thành
Phật Ðạo, dưới mau cứu độ
chúng sanh. Trong hội Lăng Nghiêm, đức Bồ Tát Ðại
Thế Chí khuyên thánh
cúng nếu muốn được viên thông phải
niệm Phật A Di Ðà cầu sanh về cõi Cực Lạc. Tổ Long Thọ,
Mã Minh trong Thập Trụ Tỳ Bà Sa Luận và Ðại Trí Ðộ Luận
đã nêu ra Phương Pháp Dễ Làm và cự lực tán dương Tịnh
Ðộ. Vì thế tông Tịnh Ðộ lưu truyền thạnh hành trong nhơn
gian Tây Vực và lan truyền mạnh mẽ sang Trung Hoa và Việt
Nam. Vì thế, Kinh Vô Lượng Thọ này ngay từ đời Hậu Hán
bên Trung Hoa đã được
dịch sang Hán văn có đến mười hai bản dịch khác nhau:
1-Vô Lượng Thọ Kinh do An
Thế Cao dịch năm 148
2-Vô lượng Thanh tịnh Bình
Ðẳng Giác Kinh do Chi Lâu Ca Sấm dịch năm 186.
3-Phật thuyết A Di Ðà Tam
Ða Tam Phật Tất Lâu Phật Ðản Hoá Ðộ Nhơn Ðạo Kinh do
Chi Khiêm dịch năm 228.
4-Vô Lượng Thọ Kinh do
Khương Tăng Khải dịch năm 252.
5-Vô Lượng Thanh Tịnh Bình
Ðẳng Giác Kinh do Bạch Diên dịch năm 258.
6-Vô Lượng Thọ Kinh do Trúc
Pháp Hộ dịch năm 308.
7-Vô Lượng Thọ Chơn Ðẳng
Chánh Giác Kinh do Trúc Pháp Lực dịch năm 419.
8-Tán Vô Lượng Thọ Kinh
do Giác Hiển dịch năm 421.
9-Tán Vô Lượng Thọ Kinh
do Bửu Vân dịch năm 421.
10-Tán Vô Lượng Thọ Kinh
do Ðàm Ma Mật Ða dịch năm 441.
11-Vô Lượng Thọ Như Lai
Hội do Bồ Ðề Lưu Chi dịch năm 706.
12-Ðại Thừa Vô Lượng
Trang Nghiêm Kinh do Pháp Hiển dịch năm 980.
Tất cả đều từ một bản
chính chữ Phạn mà dịch ra, nhưng
trong lúc dịch có nhà phiên âm danh từ chữ Phạn, có nhà dịch
âm, tuy có vài bản danh từ tiếng nói có sai khác, nhưng nội
dung vẫn đồng
nhau. Gần một thế kỷ, tất cả những học giả văn nhân
đua nhau phiên dịch, chứng tỏ tông Tịnh
Ðộ đã được truyền bá mạnh mẽ trong nhơn gian. Số các bản
dịch đã khuyết đi 7 bản, chỉ còn
lại 5 bản, trong những bản còn lạ này có bản dịch của
Khương Tăng Khai (252) là được thông dụng lưu hành rộng
rãi trong nhơn gian và cũng được hầu hết các nhà chú sớ căn
cứ bản dịch này để chú sớ. Vì thế Kinh Vô Lượng Thọ
Giảng Yếu này chúng tôi căn cứ vào bản dịch của Khương
Tăng Khải.
Về phần chú sớ, Kinh Vô
Lượng Thọ được chú sớ rất nhiều ở các quốc gia Trung
Hoa, Nhật Bản, Triều Tiên, Tây Tạng…Riêng
ở Trung Hoa cũng có hơn 20 bản chú sớ, trong đó có bản Vô
Lượng Thọ Kinh
Nghĩa Sớ của Tịnh Cảnh Huệ Viễn đại sư, Vô Lượng Thọ
Kinh Nghĩa Ký của Huệ Cảnh Ðại Sư, Kinh Vô Lượng Thọ Tôn
Yếu của Ngươn Hiển đại sư và Vô
Lượng Thọ Kinh Ký Tín Luận của Bành Tế Thanh là khá hơn cả.
Trong phần giảng yếu, chúng tôi chỉ có nhiệm vụ biên tập
những ý tưởng xuất sắc cuả Cổ Ðức để giảng rõ ý
nghĩa của Kinh, tuyệt đối
không dám đưa ra ý kiến riêng.
II-PHÂN KHOA
Ðể toàn thể đọc giả
có cái nhìn tổng quát về đề
cương của một bộ Kinh, Kinh Vô Lượng Thọ Giảng Yếu được
phân khoa như sau:
A-Phần tựa:
AI- Chứng Tín:
1-Chỗ
nơi nghe Kinh
2-Chúng
Thinh Văn
3-Chúng
Bồ Tát
AII- Tựa Phát Khởi:
Ðại Giáo duyên khởi
B-Phần Chánh Tôn
BI- Nói rõ chỗ thực
hành
1-Nói rõ thắng nhơn:
*Cổ
Phật xuất hiện
*Nhân
Ðịa của Pháp Tạng.
2-Nói rõ thắng Hạnh:
*Trước
cửa Phật phát nguyện
*Chưá
trồng Ðức Hạnh
3-Nói rõ thắng Quả:
*Pháp Tạng thành Phật
BII-Nói
rõ chỗ thành tựu
1-Nói rõ thắng
báo:
*Quốc
độ trân bửu trang nghiêm
*Ánh
sáng vô lượng
*Thọ
mạng vô lượng
*Thính
chúng vô lượng
2-Nói rõ y báo: Các
cây bảy báu
*Cây
báu Ðạo Tràng
*Quán,
đường, lầu, gác, nhà cửa
*Ao
tắm bảy báu
*Y
thực tự nhiên
*Dung
mạo đoan chính
*Tổng
tán trang nghiêm
BIII-Nói
rõ chỗ nhiếp hóa
1-Phàm phu vãng sanh:
*Hào
quang hiện Phật
*Tam
bối vãng sanh
*Mười
phương xưng tán
2-Bồ Tát vãng
sanh:
*Bồ
Tát bổ xứ
*Bồ
Tát cúng dường
*Thí
pháp vô lượng
*Công
đức Bồ Tát
3-Cảnh giới chán ưa
*Khuyên
tấn vãng sanh
*Ngủ
ác ngủ thiêu
*Trùng
trùng hối miễn
4-Nói rõ trí huệ:
*Lễ
Phật hiện quang
*Nghi
hoặc thai sanh
*Bồ
Tát vãng sanh
C-Phần Lưu Thông:
*Ðộc
lưu Kinh này
*Nghe
Kinh bổ ích
---o0o---