PHẦN GIẢNG KINH
(tiếp theo)
B-PHẦN CHÁNH TÔN
BI- Nói rõ chỗ thực
hành: đoạn này
nói rõ Thắng Nhơn, Thắng Hạnh và Thắng Quả của Tỳ Kheo
Pháp Tạng.
1 -Nói rõ thắng nhơn
*Cổ Phật xuất hiện
KINH VĂN:
Phật bảo A Nan: Ở trong
quá khứ lâu xa vô lượng không thể nghĩ bàn và ở trong số
kiếp vô ươn về trước, có đức Như Lai Ðịnh Quang xuất
hiện trong đời, giáo hóa và độ thoát
vô số chúng sanh, tất cả đều được đắc độ, rồi sau
đó Ngài mới diệt độ. Kế đó có các Như Lai Nhật Quang Viễn,
Như Lai Nguyệt Quang, Như Lai Chiên
Ðàn, Như Lai Sơn Thiên Vương, Như Lai Tu Di Thiên Mạo, Như Lai
Tu Di Ðẳng Diệu, Như Lai Nguyệt Sắc, Như Lai Chánh Niệm, Như
Lai Ly Cấu, Như Lai Vô Trước, Như Lai Long Thiên, Như Lai Dạ
Quang, Như Lai An Minh Ðảnh, Như Lai Lưu Ly Diệu Hoa, Như Lai
Lưu Ly Kim Sắc, Như Lai Kim Tạng, Như Lai Danh Viêm Quang, Như
Lai Viêm Căn, Như Lai Danh Ðịa Chủng, Như Lai Nguyệt Tượng,
Như Lai Nhật Âm, Như Lai Giải Thoát Hoa, Như Lai Trang Nghiêm
Quang Minh, Như Lai Hải Giác Thần Thông, Như Lai Thủy Quang,
Như Lai Ðại Hương, Như Lai Ly Trần Cấu, Như Lai Xả Yểm Ý,
Như Lai Bửu Viêm, Như Lai Dũng Lập, Như Lai Công Ðức Trí Huệ,
Như Lai Tỵ Nhật Nguyệt Quang, Như Lai Tối Thượng Thủ, Như
Lai Bồ Ðề Hoa, Như Lai Nguyệt Minh, Như Lai Nhật Quang, Như
Lai Hoa Sắc Vương, Như Lai Thủy Nguyệt Quang, Như Lai Trừ Nghi
Minh, Như Lai Ðộ Cái Hạnh, Như Lai Tịnh Tín, Như Lai Thiên
Túc, Như Lai Oai Thần,
Như Lai Pháp Huệ, Như Lai Loan Âm, Như Lai Sư Tử Âm, Như Lai
Long Âm, Như Lai Xử Thế. Tất cả Như Lai như thế đều đã
qua.
Lúc ấy có Ðức Phật Thế
Tự Tại Vương Như Lai, ứng cúng, chánh biến tri, minh hành
túc, thiện thệ, thế gian giải, Vô thượng sĩ, điều ngự
trượng phu, thiên nhơn sự, Phật, Thế Tôn.
GIẢNG YẾU
Ðoạn
này kể 54 vị Phật đã qua. Vị sau cùng là Thế Tự Tại Vương
Phật là Ðức Phật mà Pháp Tạng Tỳ Kheo thân thừa để nói
rõ bổn nhơn thành Phật của Ngài Pháp Tạng được tiếp nối
truyền thừa từ các chư Phật đã qua.
*/ Nhơn địa của Ngài
Pháp Tạng
KINH VĂN:
Lúc bấy
giờ, có vị quốc vương nghe Phật nói pháp, lòng thường vui
vẻ, pháp lòng chân chánh Vô thượng, bỏ nước thôi làm vua,
thực hành hạnh Sa Môn, hiệu là Pháp Tạng. Ngài có tài cao,
triết lý giỏi vượt hẳn người đời, đến chỗ của đức
Như Lai Thế Tự Tại Vương, lạy dưới chân Phật, đi nhiểu
ba vòng, quỳ xuống chắp tay đọc lời tán thán rằng:
mặt
sáng cao vòi vọi,
Oai
thần không cùng cực,
Chiếu
rực rỡ như thế,
Không
ai so sánh bằng.
Nhật
nguyệt bằng ma-ni,
Châu
sáng chiếu hực-hở,
Soi
hết chỗ tối tăm,
Phá
tan hết phiền não.
Dung
nhan của Như Lai,
Không
ai so sánh được,
Tiếng
lớn diễn chánh pháp,
Âm
vang khắp mười phương.
Giỏi
nghe tinh tấn lớn,
Trí
tuệ được chánh định,
Oai
đức thật cao tột,
Nhiệm
mầu thực ít có.
Sâu
chắc đủ niệm lành,
Trong
biển pháp chư Phật,
Sâu
tột hết mầu nhiệm,
Rốt
ráo đến bờ kia.
Vô
minh và dục nô,
Người
say mê không xiết,
Bậc
sư tử diệt trừ,
Thần
đức cao vô lượng.
Công
đức lần rộng lớn,
Trí
vô cùng thâm diệu,
Oai
tướng sáng rực rỡ,
Chấn
động cả đại thiên.
Nguyện
con được làm Phật,
Nối
nghiệp đấng Pháp Vương,
Vượt
ra ngoài sanh tử,
Ðều
được đạo giải
thoát.
Bố
thí và thiền định,
Giới,
nhẫn nhục tinh tấn,
Các
tam muội như thế,
Trí
huệ là bậc thượng.
Con
thề nguyện làm Phật.
Phát
lời thề lớn này,
Ðộ
những kẻ sợ sệt,
Ðều
được an lạc lớn.
Như
nay có Ðức Phật,
Ðến
trăm ngàn muôn ức,
Vô
lượng các đại thánh,
Số
nhiều như hằng sa.
Cúng
dường các Ðức Phật,
Ở
các Ðức Phật này,
Chẳng
bằng người cầu đạo,
Giữ
chánh pháp không bỏ.
Thí
như cát sông Hằng,
Chư
Phật trong thế giới,
Không
thể kể hết được,
Các
cõi nước cũng thế.
Ánh
sáng đều soi khắp,
Trên
các quốc độ này,
Cứ
như thế sáng mãi,
Oai
lực không thể lường.
Nguyện
khi con thành Phật,
Quốc
độ phải thứ nhất,
Nhân
dân thật vi diệu.
Ðạo
tràng cũng cao tuyệt.
Nước
luôn luôn vui đẹp.
Không
cõi so sánh được,
Con
rũ lòng thương xót,
Ðộ
tất cả chúng sanh.
Người
trong mười phương cõi,
Tâm
ưa muốn trong sạch,
Ðã
đến được nước
con,
Sẽ
vui vẻ an ổn.
May
được Phật thương xót,
Vì
con mà chứng nguyện,
Con
phát nguyện kia rồi,
Hết
lòng muốn thực hiện.
Chư
Phật trong mười phương,
Trí
tuệ được vô ngại,
Thường
theo hộ trì con,
Biết
được tam hồn con.
Con
dù bị mất mạng,
Bị
các khổ ép ngặt,
Con
quyết luôn tinh tấn,
Nhẫn
nhục tu không mỏi.
Phật bảo Ngài A-Nan: Tỳ
Kheo Pháp Tạng nói tụng này rồi liền bạch với Phật Thế
Tự Tại Vương : Kính lạy đức Thế Tôn! Con nay phát tâm Vô
thượng chánh giác, nguyện Phật vì con rộng nói chánh pháp,
con sẽ tu hành giữ gìn cõi Phật mầu nhiệm vô lượng trang
nghiêm. Hôm nay con ở trong đời sẽ mau thành chánh giác và
quyết nhổ hết các nguồn gốc đau khổ sanh tử cho chúng
sanh.
Ðức Phật
bảo Ngài A-Nan: Khi đó Phật Thế Tự Tại Vương dạy cho Pháp
Tạng Tỳ Kheo làm cách nào để tu hành trang nghiêm Phật độ
mà chính Tỳ Kheo Pháp Tạng phải thực hành. Tỳ Kheo Pháp Tạng
lại bạch với Phật Thế Tự Tại Vương rằng: Nghĩa lý của
Phật dạy rất mầu nhiệm sâu xa, không phải là cảnh giới
của con. Cúi mong Ðức Phật giảng giải rõ ràng về việc
làm của các Như Lai đã trang nghiêm tịnh độ, để từ đó
con sẽ theo các phương pháp ấy tu hành hầu thành tựu những
điều mà con mong muốn.
Lúc bấy
giờ, Phật thế tự tại biết được ý chí cao siêu, tin nguyện
sâu rộng của Tỳ Kheo Pháp Tạng nên dạy rằng: Nếu có người
dùng đấu để lường một biển lớn, nếu cố gắng chuyên
cần, trải qua nhiều số kiếp sẽ lường hết nước, lấy
được châu báu. Nếu có người tinh tấn chí tâm cầu đạo
không dừng chắc được kết quả. Không nguyện gì mà chẳng
thành tựu. Trong lúc ấy Phật thế tự tại vì Pháp Tạng Tỳ
Kheo mà nói rõ hai trăm mười ức quốc độ của chư Phật,
việc lành dữ của trời người, những quốc độ vi diệu và
thô sơ. Ngài cũng theo tâm nguyện của Pháp Tạng Tỳ Kheo,
dùng thần lực hiện rõ các quốc độ cho Pháp Tạng Tỳ Kheo
được thấy.
Trong lúc
ấy, nghe Phật Thế Tự Tại Vương giảng giải việc nghiêm tịnh
quốc độ và làm thế nào cho được thanh tịnh. Nhờ ấy và
hiểu tất cả nên Tỳ Kheo Pháp Tạng phát khởi nguyện lớn
cao tột, tâm luôn tịch mịch, chỉ không chấp trước, tất cả
thế gian không ai sánh bằng, luôn luôn nhớ nghĩ đủ năm kiếp,
giữ gìn công hạnh để trang nghiêm quốc độ thanh tịnh,
A Nan bạch Phật: Ðức Phật
Thế Tự Tại Vương trụ thế bao lâu? Phật dạy: Ðức Phật
kia thọ mạng bốn mươi hai kiếp.
GIẢNG YẾU
Ðoạn
này hiện rõ sự tán thán Ðức Phật của Ngài Pháp Tạng để
nói rõ chỗ muốn cầu của mình, Pháp Tạng Tỳ Kheo tùy theo
căn cơ mà vào, hôm nay, chúng ta nghe Kinh này rồi, chí tâm hồi
hướng Phật Vô Lượng Thọ, cầu sanh về cõi Cực Lạc,
cùng với sự phát tâm của Ngài Pháp Tạng Tỳ Kheo ngày xưa
không khác. Phật Vô Lượng Thọ sẽ thọ ký cho chúng ta như
Phật Thế Tự Tại Vương không khác. Ngài Pháp Tạng nói: Con
nay phát tâm Vô thượng chánh giác, nên biết đại nguyện từ
nơi Vô thượng chánh giác mà ra, tất cả tịnh độ từ đó
kiến lập, vừa phát tâm ấy cõi Cực Lạc trang nghiêm tức
khắc có đủ. Nên nói: chí tâm cầu đạo, quyết tâm không
lui, như thế nguyện nào không tròn. Vì sao? Vì tất cả pháp
không lìa tự tâm. Nên trong Kinh nói: Tâm ấy tịch mịch, chỉ
không chấp trước tức là tâm còn ngằn mé sẽ trở thành nhỏ
hẹp, không thể gọi là nguyện thù thắng, chỉ có tùy thuận
theo tâm giác ngộ, thu các cõi Phật một niệm sáng rỡ, mười
phương đều thanh tịnh. Người mới học phải theo phát tâm
này mà học đừng có lui sụt.
2- Nói rõ thắng hạnh:
*Trước Phật phát nguyện
KINH VĂN:
Khi đó
Tỳ Kheo Pháp Tạng giữ gìn thực hành theo các phương pháp kiến
tạo tịnh độ của hai trăm mười ức cảnh giới thanh tịnh
của chư Phật. Tu hết các hạnh như thế rồi, Tỳ Kheo Pháp
Tạng đến chỗ Phật Thế Tự Tại Vương, lễ dưới chân Phật,
đi nhiễu quanh Phật ba vòng, chấp tay đứng nghiêm bạch với
Phật rằng: Thế Tôn! Con đã giữ gìn thực hành hạnh trang
nghiêm Phật độ xong!
Phật Thế
Tự Tại Vương bảo Ngài Pháp Tạng rằng: Thật đúng lúc,
ông nên vì tất cả đại chúng Bồ Tát mà nói nguyện lớn
trang nghiêm tịnh độ để các vị ấy nghe rõ và tu theo hạnh
trang nghiêm Phật độ đến khi đầy đủ vô lượng nguyện lớn.
Tỳ Kheo
Pháp Tạng bạch Phật rằng: Cúi mong Phật từ mẫn chứng
minh những nguyện lớn sau đây:
1- LÚC TÔI THÀNH PHẬT, NẾU
TRONG CÕI NƯỚC TÔI CÓ ÐỊA NGỤC, NGẠ QUỶ, SÚC SANH, THỜI
TÔI KHÔNG Ở NGÔI CHÁNH GIÁC .
2- LÚC TÔI THÀNH PHẬT,
NHÂN THIÊN TRONG NƯỚC TÔI SAU KHI LÂM CHUNG CÓ NGƯỜI LẠI RƠI
VÀO BA ÐƯỜNG DỮ, THỜI TÔI KHÔNG Ở NGÔI CHÁNH GIÁC.
3- LÚC TÔI THÀNH PHẬT, NẾU
HÀNG NHÂN THIÊN TRONG CÕI NƯỚC TÔI, THÂN KHÔNG MÀU VÀNG RÒNG
TẤT CẢ, THỜI TÔI KHÔNG Ở NGÔI CHÁNH GIÁC.
4- LÚC TÔI THÀNH PHẬT, NẾU
HÀNG NHÂN THIÊN TRONG CÕI NƯỚC TÔI CÓ KẺ XẤU NGƯỜI TỐT
KHÔNG ÐỒNG ÐỀU NHAU, THỜI TÔI KHÔNG Ở NGÔI CHÁNH GIÁC.
5- LÚC TÔI THÀNH PHẬT,
HÀNG NHÂN THIÊN TRONG CÕI NƯỚC TÔI KHÔNG CÓ TÚC MỆNH THÔNG,
ÍT NHẤT LÀ BIẾT RÕ NHỮNG VIỆC TRONG TRĂM NGHÌN ỨC NA-DO-THA
KIẾP, THỜI TÔI KHÔNG Ở NGÔI CHÁNH GIÁC.
6- LÚC TÔI THÀNH PHẬT, NẾU
HÀNG NHÂN THIÊN TRONG CÕI NƯỚC TÔI NẾU KHÔNG ÐƯỢC THIÊN
NHÃN THÔNG, ÍT NHẤT LÀ THẤY RÕ TRĂM NGHÌN ỨC NA-DO-THA THẾ
GIỚI CỦA CHƯ PHẬT, THỜI TÔI KHÔNG Ở NGÔI CHÁNH GIÁC.
7- LÚC TÔI THÀNH PHẬT, NẾU
HÀNG NHÂN THIÊN Ở NƯỚC TÔI KHÔNG ÐƯỢC THIÊN NHĨ THÔNG,
ÍT NHẤT LÀ NGHE VÀ THỌ TRÌ TẤT CẢ LỜI THUYẾT PHÁP CỦA
TRĂM NGHÌN ỨC NA-DO-THA ÐỨC PHẬT, THỜI TÔI KHÔNG Ở NGÔI
CHÁNH GIÁC.
8- LÚC TÔI THÀNH PHẬT, NẾU
HÀNG NHÂN THIÊN TRONG CÕI NƯỚC TÔI KHÔNG ÐƯỢC THA TÂM
THÔNG, ÍT NHẤT LÀ BIẾT RÕ TÂM NIỆM CỦA TẤT CẢ CHÚNG SANH
TRONG TRĂM NGHÌN ỨC NA-DO-THA THẾ GIỚI, THỜI TÔI KHÔNG Ở
NGÔI CHÁNH GIÁC.
9- LÚC TÔI THÀNH PHẬT, NẾU
HÀNG NHÂN THIÊN TRONG CÕI NƯỚC TÔI KHÔNG ÐƯỢC THẦN TÚC
THÔNG, KHOẢNG MỘT NIỆM ÍT NHẤT LÀ LƯỚT QUA KHỎI TRĂM NGHÌN
ỨC NA-DO-THA THẾ GIỚI, THỜI TÔI KHÔNG Ở NGÔI CHÁNH GIÁC.
10- LÚC TÔI THÀNH PHẬT, NẾU
HÀNG NHÂN THIÊN TRONG CÕI NƯỚC TÔI CÒN QUAN NIỆM THAM CHẤP LẤY
THÂN, THỜI TÔI KHÔNG Ở NGÔI CHÁNH GIÁC.
11- LÚC TÔI THÀNH PHẬT, NẾU
HÀNG NHÂN THIẾN TRONG CÕI NƯỚC TÔI KHÔNG TRỤ CHÁNH-ÐỊNH-TỤ,
NHẨN ÐẾN TRỌN DIỆT ÐỘ, THỜI TÔI KHÔNG Ở NGÔI CHÁNH
GIÁC.
12- LÚC TÔI THÀNH PHẬT, NẾU
QUANG MINH CÒN HỮU HẠN, ÍT NHẤT KHÔNG CHIẾU THẤU TRĂM NGHÌN
ỨC NA-DO-THA THẾ GIỚI, THỜI TÔI KHÔNG Ở NGÔI CHÁNH GIÁC.
13- LÚC TÔI THÀNH PHẬT, NẾU
THỌ MẠNG CÒN HỮU HẠN, ÍT NHẤT LÀ KHÔNG ÐẾN TRĂM NGHÌN
ỨC NA-DO-THA, THỜI TÔI KHÔNG Ở NGÔI CHÁNH GIÁC.
14- LÚC TÔI THÀNH PHẬT,
CHÚNG THINH VĂN TRONG CÕI NƯỚC TÔI, NẾU CÓ AI TÍNH ÐẾM ÐƯỢC
SỐ BAO NHIẾU, DÙ ÐÓ LÀ VÔ LƯỢNG BÍCH-CHI PHẬT ÐỒNG TÍNH
ÐẾM TRONG TRĂM NGHÌN KIẾP, THỜI TÔI KHÔNG Ở NGÔI CHÁNH
GIÁC.
15- LÚC TÔI THÀNH PHẬT, NẾU
HÀNG NHÂN THIÊN CÒN THỌ MẠNG HỮU HẠN, TRỪ NGƯỜI CÓ BỔN
NGUYỆN RIÊNG, THỜI TÔI KHÔNG Ở NGÔI CHÁNH GIÁC.
16- LÚC TÔI THÀNH PHẬT, NẾU
HÀNG NHÂN THIÊN TRONG CÕI NƯỚC TÔI CÒN CÓ NGƯỜI NGHE DANH TỪ
BẤT THIỆN, THỜI TÔI KHÔNG Ở NGÔI CHÁNH GIÁC.
17- LÚC TÔI THÀNH PHẬT,
VÔ LƯỢNG CHƯ PHẬT TRONG MƯỜI PHƯƠNG TRONG MƯỜI PHƯƠNG THẾ
GIỚI ÐỀU KHÔNG XƯNG DANH HIỆU TÔI, THỜI TÔI KHÔNG Ở NGÔI
CHÁNH GIÁC.
18-` LÚC TÔI THÀNH PHẬT,
CHÚNG SANH TRONG MƯỜI PHƯƠNG HẾT LÒNG TIN MỘ MUỐN SANH VỀ NƯỚC
TÔI, NHẨN ÐẾN MƯỜI NIỆM, NẾU KHÔNG ÐƯỢC SANH, THỜI TÔI
KHÔNG Ở NGÔI CHÁNH GIÁC, TRỪ KẺ TẠO TỘI NGŨ NGHỊCH VÀ HỦY
BÁNG CHÁNH PHÁP.
19- LÚC TÔI THÀNH PHẬT,
CHÚNG SANH TRONG MƯỜI PHƯƠNG PHÁT TÂM BỒ-ÐỀ, TU CÁC CÔNG-ÐỨC,
NGUYỆN SANH VỀ CÕI NƯỚC TÔI, ÐẾN LÚC LÂM CHUNG NẾU KHÔNG
CÙNG ÐẠI CHÚNG HIỆN THÂN TRƯỚC NGƯỜI ÐÓ, THỜI TÔI
KHÔNG Ở NGÔI CHÁNH GIÁC.
20- LÚC TÔI THÀNH PHẬT,
CHÚNG SANH TRONG MƯỜI PHƯƠNG NGHE DANH HIỆU TÔI, CHUYÊN NHỚ
CÕI NƯỚC TÔI VÀ TU CÁC CÔNG-ÐỨC, CHÍ TÂM HỒI HƯỚNG, MUỐN
SANH VỀ CÕI NƯỚC TÔI, NẾU KHÔNG ÐƯỢC TOẠI NGUYỆN THÌ
TÔI KHÔNG Ở NGÔI CHÁNH GIÁC.
21- LÚC TÔI THÀNH PHẬT,
HÀNG NHƠN THIÊN TRONG CÕI NƯỚC TÔI, TẤT CẢ KHÔNG ÐẦY ÐỦ
BA MƯƠI HAI ÐẠI NHƠN TƯỚNG, THỜI TÔI KHÔNG Ở NGÔI CHÁNH
GIÁC.
22- LÚC TÔI THÀNH PHẬT,
CHÚNG BỒ-TÁT Ở CÕI KHÁC SANH VỀ NƯỚC TÔI, CỨU CÁNH ÐỂU
ÐẾN BẬC NHẤT SANH BỔ XỨ, TRỪ NGƯỜI CÓ BỔN NGUYỆN
RIÊNG, TỰ TẠI HÓA HIỆN, VÌ CHÚNG SANH MÀ PHÁT THỆ LỚN, TU
CÁC CÔNG-ÐỨC, ÐỘ THOÁT MỌI LOÀI, ÐI KHẮP THẾ GIỚI TU
CÁC HẠNH BỒ-TÁT, CÚNG DƯỜNG MƯỜI PHƯƠNG CHƯ PHẬT, KHAI HÓA
VÔ LƯỢNG CHÚNG SANH, LÀM CHO TẤT CẢ ÐỀU ÐỨNG VỮNG NƠI
ÐẠO TRÀNG VÔ THƯỢNG CHÁNH GIÁC, SIÊU XUẤT CÔNG HÀNH CỦA
CÁC BẬC THÔNG THƯỜNG, HIỆN TIỀN TU TẬP ÐỨC CỦA PHỔ-HIỀN,
NẾU KHÔNG NHƯ THẾ, THỜI TÔI KHÔNG Ở NGÔI CHÁNH GIÁC.
23- LÚC TÔI THÀNH PHẬT, BỒ-TÁT
TRONG CÕI NƯỚC TÔI THỪA THẦN LỰC CỦA TÔI MÀ ÐI CÚNG DƯỜNG
MƯỜI PHƯƠNG CHƯ PHẬT, TRONG KHOẢNG THỜI GIAN MỘT BỮA ĂN,
NẾU KHÔNG ÐẾN KHẮP VÔ LƯỢNG, VÔ SỐ NA-DO-THA THẾ GIỚI,
THỜI TÔI KHÔNG Ở NGÔI CHÁNH GIÁC.
24- LÚC TÔI THÀNH PHẬT,
CÁC BỒ TÁT TRONG CÕI NƯỚC TÔI KHI Ở TRƯỚC MƯỜI PHƯƠNG
CHƯ PHẬT HIỆN CÔNG ÐỨC CỦA MÌNH, MUỐN CÓ NHỮNG VẬT
CÚNG DƯỜNG, NẾU KHÔNG ÐƯỢC ÐÚNG NHƯ Ý, THỜI TÔI KHÔNG
Ở NGÔI CHÁNH GIÁC.
25- LÚC TÔI THÀNH PHẬT, NẾU
CHÚNG BỒ TÁT Ở TRONG CÕI NƯỚC TÔI KHÔNG DIỄN THUYẾT ÐƯỢC
NHẤT-THẾ-TRÍ, THỜI TÔI KHÔNG Ở NGÔI CHÁNH GIÁC.
26- LÚC TÔI THÀNH PHẬT, NẾU
CÁC BỒ TÁT Ở TRONG CÕI NƯỚC TÔI KHÔNG ÐƯỢC THÂN KIM CƯƠNG
NA LA DIÊN, THỜI TÔI KHÔNG Ở NGÔI CHÁNH GIÁC.
27- LÚC TÔI THÀNH PHẬT,
TRONG CÕI NƯỚC TÔI TẤT CẢ ÐỒ DÙNG CỦA NHÂN THIÊN HÌNH SẮC
ÐỀU SÁNG ÐẸP SẠCH SẼ, TỐT TƯƠI, VI DIỆU, KHÔNG CÓ THỂ
TÍNH BIẾT, DÙ LÀ NGƯỜI ÐƯỢC THIÊN NHÃN, NẾU CÓ NGƯỜI
BIỆN DANH SỐ CÁC ÐỒ ẤY ÐƯỢC RÕ RÀNG, THỜI TÔI KHÔNG
Ở NGÔI CHÁNH GIÁC.
28- LÚC TÔI THÀNH PHẬT, NẾU
BỒ TÁT TRONG CÕI NƯỚC TÔI, DÙ LÀ NGƯỜI ÍT CÔNG ÐỨC NHẤT,
KHÔNG THẤY BIẾT ÐƯỢC CỘI CÂY ÐẠO TRÀNG CAO BỐN TRĂM MUÔN
DO TẦN, VÔ LƯỢNG MÀU SẮC VÀ ÁNH SÁNG, THỜI TÔI KHÔNG Ở
NGÔI CHÁNH GIÁC.
29- LÚC TÔI THÀNH PHẬT,
CHÚNG BỒ TÁT Ở TRONG CÕI NƯỚC TÔI NẾU THỌ TRÌ ÐỌC TỤNG,
GIẢNG NÓI KINH PHÁP MÀ KHÔNG ÐƯỢC TRÍ HUỆ BIỆN TÀI, THỜI
TÔI KHÔNG Ở NGÔI CHÁNH GIÁC.
30- LÚC TÔI THÀNH PHẬT, NẾU
CÓ AI HẠN LƯỢNG ÐƯỢC TRÍ HUỆ BIỆN TÀI CỦA BỒ TÁT
TRONG CÕI NƯỚC TÔI, THỜI TÔI KHÔNG Ở NGÔI CHÁNH GIÁC.
31- LÚC TÔI THÀNH PHẬT,
CÕI NƯỚC TÔI THANH TịNH, NƠI NƠI ÐỀU SOI THẤY VÔ LƯỢNG VÔ
SỐ BẤT KHẢ TƯ NGHÌ THẾ GIỚI MƯỜI PHƯƠNG, ÐỀU THẤY NHƯ
LÀ THẤY MẶT MÌNH TRONG GƯƠNG, NẾU KHÔNG ÐƯỢC NHƯ VẬY, THỜI
TÔI KHÔNG Ở NGÔI CHÁNH GIÁC.
32- LÚC TÔI THÀNH PHẬT,
TRONG CÕI NƯỚC TÔI TỪ MẶT ÐẤT VÀNG LÊN ÐẾN HƯ KHÔNG, LẦU
NHÀ CUNG ÐIỆN, AO NƯỚC, CÂY HOA, TẤT CẢ VẠN VẬT ÐỀU CÓ
VÔ LƯỢNG CHẤT BÁU VÀ TRĂM NGHÌN THỨ HƯƠNG HỌP LẠI MÀ
THÀNH. VẠN VẬT ÐỀU XINH ÐẸP KỲ DIỆU, MÙI THƠM XÔNG KHẮP
MƯỜI PHƯƠNG THẾ GIỚI, BỒ TÁT CÁC NƠI NGỬI ÐẾN MÙI THƠM
ẤY, LIỀN TU THÀNH PHẬT, NẾU KHÔNG ÐƯỢC NHƯ THẾ, THỜI TÔI
KHÔNG Ở NGÔI CHÁNH GIÁC.
33- LÚC TÔI THÀNH PHẬT,
CÁC LOÀI CHÚNG SANH TRONG VÔ LƯỢNG BẤT KHẢ TƯ NGHÌ THẾ GIỚI
Ở MƯỜI PHƯƠNG, ÐƯỢC QUANG MINH CỦA TÔI CHẤM ÐẾN THÂN,
THỜI THÂN TÂM NHU KHUYẾN, NHẸ NHÀNG HƠN NGƯỜI CÕI TRỜI. NẾU
KHÔNG ÐƯỢC NHƯ VẬY THỜI TÔI KHÔNG Ở NGÔI CHÁNH GIÁC.
34- LÚC TÔI THÀNH PHẬT,
CÁC LOÀI CHÚNG SANH TRONG VÔ LƯỢNG BẤT KHẢ TƯ NGHÌ THẾ GIỚI
Ở MƯỜI PHƯƠNG NGHE DANH HIỆU CỦA TÔI MÀ KHÔNG ÐƯỢC VÔ
SANH PHÁP NHẨN CÙNG CÁC MÓN THẬM THÂM TỔNG TRÌ, THỜI TÔI
KHÔNG Ở NGÔI CHÁNH GIÁC.
35- LÚC TÔI THÀNH PHẬT,
CÁC NGƯỜI NỮ TRONG VÔ LƯỢNG BẤT KHẢ TƯ NGHÌ THẾ GIỚI
Ở MƯỜI PHƯƠNG VUI MỪNG TIN NHẬN, PHÁT BỒ ÐỀ TÂM, NHÀM
GHÉT THÂN GÁI. NẾU SAU KHI MẠNG CHUNG MÀ CÒN LÀM THÂN NGƯỜI
NỮ NỮA, THỜI TÔI KHÔNG Ở NGÔI CHÁNH GIÁC.
36- LÚC TÔI THÀNH PHẬT,
CHÚNG BỒ TÁT TRONG VÔ LƯỢNG BẤT KHẢ TƯ NGHÌ THẾ GIỚI Ở
MƯỜI PHƯƠNG NGHE DANH HIỆU TÔI, VẪN THƯỜNG TU PHẠM HẠNH MÃI
ÐẾN THÀNH PHẬT, NẾU KHÔNG ÐƯỢC NHƯ VẬY, THỜI TÔI KHÔNG
Ở NGÔI CHÁNHGIÁC.
37- LÚC TÔI THÀNH, HÀNG
NHÂN THIÊN TRONG VÔ LƯỢNG BẤT KHẢ TƯ NGHÌ THẾ GIỚI Ở MƯỜI
PHƯƠNG NGHE DANH HIỆU TÔI, CÚI ÐẦU ÐẢNH LỄ, NĂM VÓC GIEO
MÌNH XUỐNG ÐẤT, VUI MỪNG TIN MẾN, TU BỒ TÁT HẠNH, THỜI CHƯ
THIÊN VÀ NGƯỜI ÐỜI ÐỀU KÍNH TRỌNG NGƯỜI ÐÓ. NẾU
KHÔNG ÐƯỢC NHƯ VẬY THỜI TÔI KHÔNG Ở NGÔI CHÁNH GIÁC.
38- LÚC TÔI THÀNH PHẬT,
HÀNG NHÂN THIÊN TRONG CÕI NƯỚC TÔI MUỐN CÓ Y PHỤC, THỜI Y
PHỤC TỐT ÐÚNG PHÁP LIỀN THEO TÂM NIỆM NGƯỜI ÐÓ MÀ TỰ
NHIÊN HIỆN ÐẾN TRÊN THÂN, NẾU CÒN PHẢI CẮT MAY NHUỘM GIẶT
THỜI TÔI KHÔNG Ở NGÔI CHÁNH GIÁC.
39- LÚC TÔI THÀNH PHẬT, NẾU
HÀNG NHÂN THIÊN TRONG CÕI NƯỚC TÔI HƯỞNG THỌ SỰ VUI SƯỚNG
KHÔNG NHƯ VỊ LẬU TẬN TỲ KHEO, THỜI TÔI KHÔNG Ở NGÔI
CHÁNH GIÁC.
40- LÚC TÔI THÀNH PHẬT,
CÁC BỒ TÁT TRONG CÕI NƯỚC TÔI TÙY Ý MUỐN THẤY VÔ LƯỢNG
THẾ GIỚI NGHIÊM TỊNH CỦA CHƯ PHẬT Ở MƯỜI PHƯƠNG, LIỀN
ÐƯỢC THẤY RÕ CẢ NƠI TRONG CÂY BÁU, ÐÚNG NHƯ Ý MUỐN NHƯ
THẤY MẶT MÌNH TRONG GƯƠNG SÁNG. NẾU KHÔNG ÐƯỢC NHƯ THẾ
THỜI TÔI KHÔNG Ở NGÔI CHÁNH GIÁC.
41- LÚC TÔI THÀNH PHẬT,
CHÚNG BỒ TÁT Ở THẾ GIỚI PHƯƠNG KHÁC NGHE DANH HIỆU TÔI, TỪ
ÐÓ NHẪN ÐẾN THÀNH PHẬT MÀ CÁC SẮC CĂN VẪN CÒN THIẾU XẤU,
THỜI TÔI KHÔNG Ở NGÔI CHÁNH GIÁC.
42- LÚC TÔI THÀNH PHẬT,
CHÚNG BỒ TÁT Ở THẾ GIỚI PHƯƠNG KHÁC NGHE DANH HIỆU TÔI, TẤT
CẢ ÐỀU ÐƯỢC GIẢI THOÁT TAM MUỘI, TRỤ TAM MUỘI ÐÓ TRONG
KHOẢNG THỜI GIAN MỘT NIỆM, CÚNG DƯỜNG VÔ LƯỢNG BẤT KHẢ
TƯ NGHÌ CHƯ PHẬT THẾ TÔN MÀ VẪN KHÔNG MẤT CHÁNH ÐỊNH. NẾU
KHÔNG ÐƯỢC NHƯ VẬY THỜI TÔI KHÔNG Ở NGÔI CHÁNH GIÁC.
43- LÚC TÔI THÀNH PHẬT,
CHÚNG BỒ TÁT Ở PHƯƠNG KHÁC NGHE DANH HIỆU TÔI, SAU KHI MẠNG
CHUNG THÁC SANH VÀO NHÀ TÔN QUÝ. NẾU KHÔNG ÐƯỢC NHƯ VẬY THỜI
TÔI KHÔNG Ở NGÔI CHÁNH GIÁC.
44- LÚC TÔI THÀNH PHẬT,
CHÚNG BỒ TÁT Ở PHƯƠNG KHÁC NGHE DANH HIỆU TÔI VUI MỪNG HỚN
HỞ, TU BỒ TÁT HẠNH VẸN ÐỦ CÔNG ÐỨC. NẾU KHÔNG ÐƯỢC
NHƯ VẬY THÌ TÔI KHÔNG Ở NGÔI CHÁNH GIÁC.
45- LÚC TÔI THÀNH PHẬT,
CHÚNG BỒ TÁT Ở PHƯƠNG KHÁC NGHE DANH HIỆU TÔI ÐỀU ÐẶNG
PHỔ ÐẲNG TAM MUỘI, TRỤ TAM MUỘI NÀY PHẢI ÐẾN LÚC THÀNH
PHẬT, THƯỜNG ÐƯỢC THẤY VÔ LƯỢNG BẤT KHẢ TƯ NGHÌ TẤT
CẢ CHƯ PHẬT. NẾU KHÔNG ÐƯỢC NHƯ VẬY THỜI TÔI KHÔNG Ở
NGÔI CHÁNH GIÁC.
46- LÚC TÔI THÀNH PHẬT,
CHÚNG BỒ TÁT TRONG CÕI NƯỚC TÔI MUỐN NGHE PHÁP GÌ THỜI TỰ
NHIÊN ÐƯỢC NGHE PHÁP ẤY. NẾU KHÔNG ÐƯỢC NHƯ VẬY THỜI TÔI
KHÔNG Ở NGÔI CHÁNH GIÁC.
47- LÚC TÔI THÀNH PHẬT, NẾU
CHÚNG BỒ TÁT Ở THẾ GIỚI PHƯƠNG KHÁC NGHE DANH HIỆU TÔI MÀ
KHÔNG ÐƯỢC BẬC BẤT THỐI CHUYỂN, THỜI TÔI KHÔNG Ở NGÔI
CHÁNH GIÁC.
48- LÚC TÔI THÀNH PHẬT, NẾU
CHÚNG BỒ TÁT Ở THẾ GIỚI MƯỜI PHƯƠNG KHÁC NGHE DANH HIỆU
TÔI MÀ KHÔNG ÐƯỢC LIỀN ÐỆ NHẤT ÂM HƯỞNG NHẪN, ÐỆ NHỊ
NHU KHUYẾN NHẪN, ÐỆ TAM VÔ SANH NHẪN, Ở NƠI PHẬT PHÁP
KHÔNG ÐƯỢC LIỀN BẬC BẤT THỐI CHUYỂN, THỜI TÔI KHÔNG Ở
NGÔI CHÁNH GIÁC.
Phật bảo A Nan: Lúc bấy
giờ Tỳ Kheo Pháp Tạng sau khi nói nguyện này rồi liền dùng
bài kệ tụng rằng:
Tôi
lập nguyện cao cả,
Quyết
trọn đạo Vô thượng,
Nguyện
này chư tròn đủ
Thề
không thành chánh giác.
Tôi
nguyện vô lượng kiếp,
(Nếu)
Không làm đại thí chủ,
Giúp
hết người nghèo khó,
Thề
không thành chánh giác.
Tôi
đến khi thành Phật,
Tiếng
tăm khắp mười phương,
Nếu
ai còn chẳng nghe,
Thề
không thành chánh giác.
Lìa
dục nhiều chánh niệm,
Tịnh
huệ tu phạm hạnh,
Chí
cầu đạo Vô thượng,
Làm
thầy các trời người.
Sức
thần ánh sáng lớn,
Chiếu
khắp vô lượng cõi,
Tiêu
trừ ba cấu nhiễm,
Giúp
thoát các nạn tai.
Mở
rộng mắt trí huệ,
Dứt
hết sự mê mờ,
Lắp
tất cả đường dữ,
Mau
về với nẻo lành.
Công
tác thành tựu tốt,
Oai
chấn khắp mười phương,
Như
nhật nguyệt soi sáng,
Ðèn
trời khó sánh bằng.
Cho
hết của công đức,
Thường
ở gần mọi người,
Diễn
nói các pháp mầu.
Cúng
dường tất cả Phật,
Ðầy
đủ các công đức,
Nguyện
huệ đều thanh tịnh,
Ba
cõi đáng tôn sùng.
Trí
vô ngại như Phật,
Thông
đạt tất cả nguyện,
Sức
công đức tối thắng,
Trở
thành bậc chánh giác.
Nguyện
này được kết quả,
Ba
cõi sẽ chấn động,
Các
thiện thần trên không ,
Sẽ
rưới các hoa báu.
Phật
nói với A Nan: Tỳ Kheo Pháp Tạng nói bài tụng này rồi, lúc
ấy cõi đất sáu thứ chấn động. Trời rưới hoa báu để
khen ngợi đại nguyện, tự nhiên tiếng nhạc hư không khen rằng:
Ngài quyết định thành tựu Vô thượng chánh giác. Và sau đó
Tỳ Kheo Pháp Tạng tu đầy đủ những nguyện lớn như thế,
chắc thật không dối, xa lìa thế gian, vui đạo tịch diệt.
GIẢNG YẾU
Ðoạn
này nói rõ Ngài Pháp Tạng Tỳ Kheo vì tất cả chúng sanh mà
lập Ðại Nguyện. Nên biết quốc độ của chư Phật không
lìa một niệm thanh tịnh tâm của chúng sanh mà được thành
lập. Tất cả chúng sanh bản tánh vốn thanh tịnh, vốn không
sanh tử, vốn xưa này thường trụ Vô Dư Niết Bàn, chỉ vì
tình trần che lấp trở thành trôi nổi lặn ngụp không có
ngày ra khỏi. Bồ Tát thương xót phát Ðại Nguyện này, vì
các chúng sanh phá trừ vọng chấp, chiếu sáng nội tâm, hiện
sức tự tại, chiếu ánh sáng lớn vào pháp tánh sáng rỡ
không phải ở bên ngoài mà có. Vì tự tánh vốn không lìa
các nẻo ác, nên biết Bồ Tát từ tâm Không Tịch này mà
trang nghiêm cõi Phật. Tự Tánh Diệu Viên đủ các tướng hảo,
Bồ Tát thuận theo Diệu Tâm này mà trang nghiêm cõi Phật. Tự
tánh không ngại hiển sáu pháp thần thông, nên biết Bồ Tát
thuận theo Vô ngại tâm mà trang nghiêm cõi Phật. Tự tánh
không trụ không thể đoạn diệt, nên biết Bồ Tát thuận
theo tâm Vô Trụ này mà trang nghiêm cõi Phật. Tự tánh không
có ở ngoài cũng như gió xuân trùm khắp vạn vật, nên biết
Bồ Tát thuận theo tâm không ở ngoài này mà nghiêm tịnh cõi
Phật. Tự tánh không ở bên trong như gương trong hiện hết các
ảnh, nên biết Bồ Tát thuận theo tâm không ở trong mà
nghiêm tịnh cõi Phật. Tự tánh sáng rỡ như mặt nhật chiếu
khắp, nên biết Bồ Tát thuận theo Ánh Sáng Tâm mà nghiêm tịnh
cõi Phật. Tự tánh bình đẳng như hương xông khắp, nên biết
Bồ Tát thuận theo Tâm Bình Ðẳng mà nghiêm tịnh cõi Phật.
Nên biết 48 Ðại Nguyện không có một nguyện nào mà không
có sẵn trong tâm chúng sanh, tức là lấy Tự Tâm để nghiêm
tịnh Tự Ðộ, như nước chảy vào biển, như vang hợp tiếng,
nên Tỳ Kheo Pháp Tạng đã nói: Nếu không đúng như thế, tôi
thề không ở ngôi chánh giác. Trong không trung khen ngợi: Quyết
định sẽ thành Vô thượng chánh giác. Vì cái Nhân đã không
thể nghĩ bàn, thì các Quả dĩ nhiên cũng không thể nghĩ bàn.
Người có chí cầu sanh về TỊNH ÐỘ phải tin như thế mà
vào.
*Chứa trồng công đức:
KINH VĂN:
Này A
Nan! Tỳ Kheo Pháp Tạng ở trước Phật, trước chư thiên, ma
phạm, long thần, bát bộ mà pháp đại nguyện này. Lập nguyện
xong, một lòng chuyên ý trang nghiêm diệu độ chỗ tu hành để
trang nghiêm tịnh độ rộng lớn vĩ đại mầu nhiệm vượt hẳn
các cõi tịnh độ khác. Luôn luôn xây dựng, không lui không
đổi, số kiếp không thể nghĩ bàn, gieo trồng vô lượng đức
hạnh của Bồ Tát. Không biết dục biết sân biết hại;
không khởi tưởng dục tưởng sân tưởng hại; không đắm sắc
hương vị xúc và pháp. Sức nhẫn thành tựu không nài khó nhọc,
ít dục, biết đủ, không nhiễm giận và si mê. Chánh định
giữ luôn, trí tuệ vô ngại, không có lòng tà hại, dối
trá. Sắc mặt lúc nào cũng vui, lời nói dịu dàng. Ðối đáp
đúng pháp dũng mãnh tinh tấn, chí nguyện không mỏi mệt,
chuyên cầu pháp trong sạnh, đem ân huệ cho tất cả các
loài, cung kính Tam-Bảo, kính thờ thầy bạn. Nhờ trang nghiêm
lớn mà đầy đủ các hạnh, làm cho chúng sanh công đức thành
tựu. Ở trong pháp không , vô tướng, vô nguyện, không làm ,
không khởi, quán pháp như huyễn. Xa lìa lỗi thọ tự hại
mình và hại đến người khác, tu tập lợi lành để lợi mình
và lợi người. Bỏ nước thôi làm vua, dứt hết tiền của
và sắc đẹp. Tự mình làm sáu phép Ba La Mật và bảo người
làm , đã chứa nhóm công đức vô số kiếp không thể tính
được, đến chỗ người ở theo chỗ họ muốn, đem vô số
vật báu tặng cho khắp cả, dạy bảo an ổn vô số chúng
sanh ở trong đạo chơn chánh Vô thượng. Vì các vị trưởng
giả, cư sĩ, người giàu sang tôn quí hoặc vì vua sát đế lợi,
vua chuyển luân, chúa trời lục dục cho đến Phạm thiên mà
thường đem tứ sự cúng dường cung kính tất cả chư Phật.
Công đức như thế không thể nói hết. Hơi miệng thơm sạch
như hoa ưu bát la, lỗ chân lông trên thân tỏa hương chiên đàn,
hương ấy xông khắp vô lượng thế giới. Hình dung ngay thẳng,
tướng tốt lạ thường. Trên tay đeo vô lượng vật báu, y
phục đồ ăn uống toàn diệu thơm ngon. Những lọng nhang vi
diệu để trang nghiêm. Tất cả các việc như thế vượt hẳn
các trời người. Ở nơi tất cả pháp đều được tự tại.
GIẢNG YẾU
Tỳ Kheo
Pháp Tạng dùng tâm vô lượng, phát nguyện vô lượng, khởi
hạnh vô lượng, mỗi thứ đều khế hợp với chơn như pháp
giới. Chúng sanh vô lượng, pháp giới vô lượng, Bồ Tát
tùy thuận chúng sanh trải qua bất khả thuyết na do tha kiếp
và bất khả thuyết hằng hà sa cõi Phật, thảy đều vô lượng,
dùng hạnh hay nghiêm tịnh Phật độ, độ thoát vô lượng chúng
sanh mà thật không có Phật độ để nghiêm tịnh, cũng không
có một chúng sanh nào có thể độ. Vì sao? Vì pháp giới tức
không phải là pháp giới, nên dùng đại trang nghiêm để cụ
túc các hạnh. Lại nói, trong pháp Không, Vô tướng, Vô nguyện,
không làm , không khởi, quán pháp như huyễn hóa. Ðó là dung
thông cả Bi Trí, không ngại lý sự, nên có thể ở trong tất
cả pháp mà được tự tại. Kinh Nhất Hướng Xuất Sanh Bồ
Tát nói: Phật dạy: Ta nhớ thuở quá khứ rộng lớn vô lượng
vô biên A Tăng Tỳ kiếp có Phật hiệu Bửu Công Ðức Oai
Túc Kiếp Vương sắp vào Niết Bàn, vì chúng sanh rộng nói
pháp Ðà La Ni, lúc ấy có một vị Chuyển Luân Vương tên là
Trí Hoa có người con làm thái tử tên là Bất Tư Nghì Thắng
Công Ðức, mới 15 tuổi theo cha đến gặp Phật, nghe được
pháp bổn Ðà La Ni, liền ở trong 7 muôn năm tinh chuyên tu tập
chưa từng ngủ nghỉ, ngồi ngay thẳng một chỗ không hề
ngã nghiêng, không tham tiền của và ngôi vua, không làm việc
vui cho riêng mình, được gặp 90 ức trăm ngàn na do tha Phật
thuyết pháp cho nghe, Ngài đều nghe và tu trì, chán nhà thế tục,
cạo tóc làm Sa Môn. Xuất gia rồi ở trong 9 muôn năm tu tập
pháp Ðà La Ni này, lại vì chúng sanh phân biệt bày tỏ. Suốt
đời hết lòng giáo hóa làm cho 80 ức trăm ngàn na do tha
chúng sanh được phát đạo tâm, chứa góp công đức đến địa
vị bất thối. Tỳ Kheo Bất Tư Nghì Công Ðức lúc ấy đâu
phải người nào lạ, đó chính là Như Lai A Di Ðà. Qua đoạn
Kinh trên ta thấy Pháp Tạng Tỳ Kheo một đời còng như thế
huống chi nhiều đời, một kiếp còn như thế huống chi nhiều
kiếp, từ đó có thể biết được công đức tu hành của
Ngài.
3 Nói rõ thắng Quả
*Pháp Tạng Tỳ Kheo thành
Phật
KINH VĂN
A Nan bạch
Phật: Kính thưa đức Thế Tôn, Bồ Tát Pháp Tạng đã thành
Phật và đã diệt độ chưa? Hoặc chưa thành Phật và hiện
nay vẫn còn là Bồ Tát?
Phật bảo:
A Nan! Bồ Tát Pháp Tạng nay đã thành Phật, hiện tại ở về
hướng tây, cách đây mười muôn ức cõi Phật. Thế giới của
Phật ấy tên là CỰC LẠC. A Nan lại hỏi: Ðức Phật ấy
thành Phật đến nay đã bao lâu? Phật đáp: Thành Phật đến
nay đã hơn mười kiếp.
GIẢNG YẾU
Ðoạn này giải rõ thời
gian Phật Vô Lượng Thọ thành Phật và hiện đang ở cõi Cực
Lạc Phương Tây.
---o0o---