PHẦN GIẢNG KINH
(tiếp theo)
 
B-PHẦN CHÁNH TÔN
BI- Nói rõ chỗ thực 
hành: đoạn này 
nói rõ Thắng Nhơn, Thắng Hạnh và Thắng Quả của Tỳ Kheo 
Pháp Tạng.
1 -Nói rõ thắng nhơn
*Cổ Phật xuất hiện
KINH VĂN:
Phật bảo A Nan: Ở trong 
quá khứ lâu xa vô lượng không thể nghĩ bàn và ở trong số 
kiếp vô ươn về trước, có đức Như Lai Ðịnh Quang xuất 
hiện trong đời, giáo hóa và độ thoát 
vô số chúng sanh, tất cả đều được đắc độ, rồi sau 
đó Ngài mới diệt độ. Kế đó có các Như Lai Nhật Quang Viễn, 
Như Lai Nguyệt Quang, Như Lai Chiên 
Ðàn, Như Lai Sơn Thiên Vương, Như Lai Tu Di Thiên Mạo, Như Lai 
Tu Di Ðẳng Diệu, Như Lai Nguyệt Sắc, Như Lai Chánh Niệm, Như 
Lai Ly Cấu, Như Lai Vô Trước, Như Lai Long Thiên, Như Lai Dạ 
Quang, Như Lai An Minh Ðảnh, Như Lai Lưu Ly Diệu Hoa, Như Lai 
Lưu Ly Kim Sắc, Như Lai Kim Tạng, Như Lai Danh Viêm Quang, Như 
Lai Viêm Căn, Như Lai Danh Ðịa Chủng, Như Lai Nguyệt Tượng, 
Như Lai Nhật Âm, Như Lai Giải Thoát Hoa, Như Lai Trang Nghiêm 
Quang Minh, Như Lai Hải Giác Thần Thông, Như Lai Thủy Quang, 
Như Lai Ðại Hương, Như Lai Ly Trần Cấu, Như Lai Xả Yểm Ý, 
Như Lai Bửu Viêm, Như Lai Dũng Lập, Như Lai Công Ðức Trí Huệ, 
Như Lai Tỵ Nhật Nguyệt Quang, Như Lai Tối Thượng Thủ, Như 
Lai Bồ Ðề Hoa, Như Lai Nguyệt Minh, Như Lai Nhật Quang, Như 
Lai Hoa Sắc Vương, Như Lai Thủy Nguyệt Quang, Như Lai Trừ Nghi 
Minh, Như Lai Ðộ Cái Hạnh, Như Lai Tịnh Tín, Như Lai Thiên 
Túc, Như Lai Oai Thần, 
Như Lai Pháp Huệ, Như Lai Loan Âm, Như Lai Sư Tử Âm, Như Lai 
Long Âm, Như Lai Xử Thế. Tất cả Như Lai như thế đều đã 
qua.
Lúc ấy có Ðức Phật Thế 
Tự Tại Vương Như Lai, ứng cúng, chánh biến tri, minh hành 
túc, thiện thệ, thế gian giải, Vô thượng sĩ, điều ngự 
trượng phu, thiên nhơn sự, Phật, Thế Tôn.
 
GIẢNG YẾU
 
Ðoạn 
này kể 54 vị Phật đã qua. Vị sau cùng là Thế Tự Tại Vương 
Phật là Ðức Phật mà Pháp Tạng Tỳ Kheo thân thừa để nói 
rõ bổn nhơn thành Phật của Ngài Pháp Tạng được tiếp nối 
truyền thừa từ các chư Phật đã qua.
*/ Nhơn địa của Ngài 
Pháp Tạng
KINH VĂN:
Lúc bấy 
giờ, có vị quốc vương nghe Phật nói pháp, lòng thường vui 
vẻ, pháp lòng chân chánh Vô thượng, bỏ nước thôi làm vua, 
thực hành hạnh Sa Môn, hiệu là Pháp Tạng. Ngài có tài cao, 
triết lý giỏi vượt hẳn người đời, đến chỗ của đức 
Như Lai Thế Tự Tại Vương, lạy dưới chân Phật, đi nhiểu 
ba vòng, quỳ xuống chắp tay đọc lời tán thán rằng:
mặt 
sáng cao vòi vọi,
Oai 
thần không cùng cực,
Chiếu 
rực rỡ như thế,
Không 
ai so sánh bằng.
Nhật 
nguyệt bằng ma-ni,
Châu 
sáng chiếu hực-hở,
Soi 
hết chỗ tối tăm,
Phá 
tan hết phiền não.
Dung 
nhan của Như Lai,
Không 
ai so sánh được,
Tiếng 
lớn diễn chánh pháp,
Âm 
vang khắp mười phương.
Giỏi 
nghe tinh tấn lớn,
Trí 
tuệ được chánh định,
Oai 
đức thật cao tột,
Nhiệm 
mầu thực ít có.
Sâu 
chắc đủ niệm lành,
Trong 
biển pháp chư Phật,
Sâu 
tột hết mầu nhiệm,
Rốt 
ráo đến bờ kia.
Vô 
minh và dục nô,
Người 
say mê không xiết,
Bậc 
sư tử diệt trừ,
Thần 
đức cao vô lượng.
Công 
đức lần rộng lớn,
Trí 
vô cùng thâm diệu,
Oai 
tướng sáng rực rỡ,
Chấn 
động cả đại thiên.
Nguyện 
con được làm Phật,
Nối 
nghiệp đấng Pháp Vương,
Vượt 
ra ngoài sanh tử,
Ðều 
được đạo giải 
thoát.
Bố 
thí và thiền định,
Giới, 
nhẫn nhục tinh tấn,
Các 
tam muội như thế,
Trí 
huệ là bậc thượng.
Con 
thề nguyện làm Phật.
Phát 
lời thề lớn này,
Ðộ 
những kẻ sợ sệt,
Ðều 
được an lạc lớn.
Như 
nay có Ðức Phật,
Ðến 
trăm ngàn muôn ức,
Vô 
lượng các đại thánh,
Số 
nhiều như hằng sa.
Cúng 
dường các Ðức Phật,
Ở 
các Ðức Phật này,
Chẳng 
bằng người cầu đạo,
Giữ 
chánh pháp không bỏ.
Thí 
như cát sông Hằng,
Chư 
Phật trong thế giới,
Không 
thể kể hết được,
Các 
cõi nước cũng thế.
Ánh 
sáng đều soi khắp,
Trên 
các quốc độ này,
Cứ 
như thế sáng mãi,
Oai 
lực không thể lường.
Nguyện 
khi con thành Phật,
Quốc 
độ phải thứ nhất,
Nhân 
dân thật vi diệu.
Ðạo 
tràng cũng cao tuyệt.
Nước 
luôn luôn vui đẹp.
Không 
cõi so sánh được,
Con 
rũ lòng thương xót,
Ðộ 
tất cả chúng sanh.
Người 
trong mười phương cõi,
Tâm 
ưa muốn trong sạch,
Ðã 
đến được nước 
con,
Sẽ 
vui vẻ an ổn.
May 
được Phật thương xót,
Vì 
con mà chứng nguyện,
Con 
phát nguyện kia rồi,
Hết 
lòng muốn thực hiện.
Chư 
Phật trong mười phương,
Trí 
tuệ được vô ngại,
Thường 
theo hộ trì con,
Biết 
được tam hồn con.
Con 
dù bị mất mạng,
Bị 
các khổ ép ngặt,
Con 
quyết luôn tinh tấn,
Nhẫn 
nhục tu không mỏi.
Phật bảo Ngài A-Nan: Tỳ 
Kheo Pháp Tạng nói tụng này rồi liền bạch với Phật Thế 
Tự Tại Vương : Kính lạy đức Thế Tôn! Con nay phát tâm Vô 
thượng chánh giác, nguyện Phật vì con rộng nói chánh pháp, 
con sẽ tu hành giữ gìn cõi Phật mầu nhiệm vô lượng trang 
nghiêm. Hôm nay con ở trong đời sẽ mau thành chánh giác và 
quyết nhổ hết các nguồn gốc đau khổ sanh tử cho chúng 
sanh.
Ðức Phật 
bảo Ngài A-Nan: Khi đó Phật Thế Tự Tại Vương dạy cho Pháp 
Tạng Tỳ Kheo làm cách nào để tu hành trang nghiêm Phật độ 
mà chính Tỳ Kheo Pháp Tạng phải thực hành. Tỳ Kheo Pháp Tạng 
lại bạch với Phật Thế Tự Tại Vương rằng: Nghĩa lý của 
Phật dạy rất mầu nhiệm sâu xa, không phải là cảnh giới 
của con. Cúi mong Ðức Phật giảng giải rõ ràng về việc 
làm của các Như Lai đã trang nghiêm tịnh độ, để từ đó 
con sẽ theo các phương pháp ấy tu hành hầu thành tựu những 
điều mà con mong muốn.
Lúc bấy 
giờ, Phật thế tự tại biết được ý chí cao siêu, tin nguyện 
sâu rộng của Tỳ Kheo Pháp Tạng nên dạy rằng: Nếu có người 
dùng đấu để lường một biển lớn, nếu cố gắng chuyên 
cần, trải qua nhiều số kiếp sẽ lường hết nước, lấy 
được châu báu. Nếu có người tinh tấn chí tâm cầu đạo 
không dừng chắc được kết quả. Không nguyện gì mà chẳng 
thành tựu. Trong lúc ấy Phật thế tự tại vì Pháp Tạng Tỳ 
Kheo mà nói rõ hai trăm mười ức quốc độ của chư Phật, 
việc lành dữ của trời người, những quốc độ vi diệu và 
thô sơ. Ngài cũng theo tâm nguyện của Pháp Tạng Tỳ Kheo, 
dùng thần lực hiện rõ các quốc độ cho Pháp Tạng Tỳ Kheo 
được thấy.
Trong lúc 
ấy, nghe Phật Thế Tự Tại Vương giảng giải việc nghiêm tịnh 
quốc độ và làm thế nào cho được thanh tịnh. Nhờ ấy và 
hiểu tất cả nên Tỳ Kheo Pháp Tạng phát khởi nguyện lớn 
cao tột, tâm luôn tịch mịch, chỉ không chấp trước, tất cả 
thế gian không ai sánh bằng, luôn luôn nhớ nghĩ đủ năm kiếp, 
giữ gìn công hạnh để trang nghiêm quốc độ thanh tịnh,
A Nan bạch Phật: Ðức Phật 
Thế Tự Tại Vương trụ thế bao lâu? Phật dạy: Ðức Phật 
kia thọ mạng bốn mươi hai kiếp.
GIẢNG YẾU
Ðoạn 
này hiện rõ sự tán thán Ðức Phật của Ngài Pháp Tạng để 
nói rõ chỗ muốn cầu của mình, Pháp Tạng Tỳ Kheo tùy theo 
căn cơ mà vào, hôm nay, chúng ta nghe Kinh này rồi, chí tâm hồi 
hướng Phật Vô Lượng Thọ, cầu sanh về cõi Cực Lạc, 
cùng với sự phát tâm của Ngài Pháp Tạng Tỳ Kheo ngày xưa 
không khác. Phật Vô Lượng Thọ sẽ thọ ký cho chúng ta như 
Phật Thế Tự Tại Vương không khác. Ngài Pháp Tạng nói: Con 
nay phát tâm Vô thượng chánh giác, nên biết đại nguyện từ 
nơi Vô thượng chánh giác mà ra, tất cả tịnh độ từ đó 
kiến lập, vừa phát tâm ấy cõi Cực Lạc trang nghiêm tức 
khắc có đủ. Nên nói: chí tâm cầu đạo, quyết tâm không 
lui, như thế nguyện nào không tròn. Vì sao? Vì tất cả pháp 
không lìa tự tâm. Nên trong Kinh nói: Tâm ấy tịch mịch, chỉ 
không chấp trước tức là tâm còn ngằn mé sẽ trở thành nhỏ 
hẹp, không thể gọi là nguyện thù thắng, chỉ có tùy thuận 
theo tâm giác ngộ, thu các cõi Phật một niệm sáng rỡ, mười 
phương đều thanh tịnh. Người mới học phải theo phát tâm 
này mà học đừng có lui sụt.
2- Nói rõ thắng hạnh:
*Trước Phật phát nguyện
KINH VĂN:
Khi đó 
Tỳ Kheo Pháp Tạng giữ gìn thực hành theo các phương pháp kiến 
tạo tịnh độ của hai trăm mười ức cảnh giới thanh tịnh 
của chư Phật. Tu hết các hạnh như thế rồi, Tỳ Kheo Pháp 
Tạng đến chỗ Phật Thế Tự Tại Vương, lễ dưới chân Phật, 
đi nhiễu quanh Phật ba vòng, chấp tay đứng nghiêm bạch với 
Phật rằng: Thế Tôn! Con đã giữ gìn thực hành hạnh trang 
nghiêm Phật độ xong!
Phật Thế 
Tự Tại Vương bảo Ngài Pháp Tạng rằng: Thật đúng lúc, 
ông nên vì tất cả đại chúng Bồ Tát mà nói nguyện lớn 
trang nghiêm tịnh độ để các vị ấy nghe rõ và tu theo hạnh 
trang nghiêm Phật độ đến khi đầy đủ vô lượng nguyện lớn.
Tỳ Kheo 
Pháp Tạng bạch Phật rằng: Cúi mong Phật từ mẫn chứng 
minh những nguyện lớn sau đây:
1- LÚC TÔI THÀNH PHẬT, NẾU 
TRONG CÕI NƯỚC TÔI CÓ ÐỊA NGỤC, NGẠ QUỶ, SÚC SANH, THỜI 
TÔI KHÔNG Ở NGÔI CHÁNH GIÁC .
2- LÚC TÔI THÀNH PHẬT, 
NHÂN THIÊN TRONG NƯỚC TÔI SAU KHI LÂM CHUNG CÓ NGƯỜI LẠI RƠI 
VÀO BA ÐƯỜNG DỮ, THỜI TÔI KHÔNG Ở NGÔI CHÁNH GIÁC.
3- LÚC TÔI THÀNH PHẬT, NẾU 
HÀNG NHÂN THIÊN TRONG CÕI NƯỚC TÔI, THÂN KHÔNG MÀU VÀNG RÒNG 
TẤT CẢ, THỜI TÔI KHÔNG Ở NGÔI CHÁNH GIÁC.
4- LÚC TÔI THÀNH PHẬT, NẾU 
HÀNG NHÂN THIÊN TRONG CÕI NƯỚC TÔI CÓ KẺ XẤU NGƯỜI TỐT 
KHÔNG ÐỒNG ÐỀU NHAU, THỜI TÔI KHÔNG Ở NGÔI CHÁNH GIÁC.
5- LÚC TÔI THÀNH PHẬT, 
HÀNG NHÂN THIÊN TRONG CÕI NƯỚC TÔI KHÔNG CÓ TÚC MỆNH THÔNG, 
ÍT NHẤT LÀ BIẾT RÕ NHỮNG VIỆC TRONG TRĂM NGHÌN ỨC NA-DO-THA 
KIẾP, THỜI TÔI KHÔNG Ở NGÔI CHÁNH GIÁC.
6- LÚC TÔI THÀNH PHẬT, NẾU 
HÀNG NHÂN THIÊN TRONG CÕI NƯỚC TÔI NẾU KHÔNG ÐƯỢC THIÊN 
NHÃN THÔNG, ÍT NHẤT LÀ THẤY RÕ TRĂM NGHÌN ỨC NA-DO-THA THẾ 
GIỚI CỦA CHƯ PHẬT, THỜI TÔI KHÔNG Ở NGÔI CHÁNH GIÁC.
7- LÚC TÔI THÀNH PHẬT, NẾU 
HÀNG NHÂN THIÊN Ở NƯỚC TÔI KHÔNG ÐƯỢC THIÊN NHĨ THÔNG, 
ÍT NHẤT LÀ NGHE VÀ THỌ TRÌ TẤT CẢ LỜI THUYẾT PHÁP CỦA 
TRĂM NGHÌN ỨC NA-DO-THA ÐỨC PHẬT, THỜI TÔI KHÔNG Ở NGÔI 
CHÁNH GIÁC.
8- LÚC TÔI THÀNH PHẬT, NẾU 
HÀNG NHÂN THIÊN TRONG CÕI NƯỚC TÔI KHÔNG ÐƯỢC THA TÂM 
THÔNG, ÍT NHẤT LÀ BIẾT RÕ TÂM NIỆM CỦA TẤT CẢ CHÚNG SANH 
TRONG TRĂM NGHÌN ỨC NA-DO-THA THẾ GIỚI, THỜI TÔI KHÔNG Ở 
NGÔI CHÁNH GIÁC.
9- LÚC TÔI THÀNH PHẬT, NẾU 
HÀNG NHÂN THIÊN TRONG CÕI NƯỚC TÔI KHÔNG ÐƯỢC THẦN TÚC 
THÔNG, KHOẢNG MỘT NIỆM ÍT NHẤT LÀ LƯỚT QUA KHỎI TRĂM NGHÌN 
ỨC NA-DO-THA THẾ GIỚI, THỜI TÔI KHÔNG Ở NGÔI CHÁNH GIÁC.
10- LÚC TÔI THÀNH PHẬT, NẾU 
HÀNG NHÂN THIÊN TRONG CÕI NƯỚC TÔI CÒN QUAN NIỆM THAM CHẤP LẤY 
THÂN, THỜI TÔI KHÔNG Ở NGÔI CHÁNH GIÁC.
11- LÚC TÔI THÀNH PHẬT, NẾU 
HÀNG NHÂN THIẾN TRONG CÕI NƯỚC TÔI KHÔNG TRỤ CHÁNH-ÐỊNH-TỤ, 
NHẨN ÐẾN TRỌN DIỆT ÐỘ, THỜI TÔI KHÔNG Ở NGÔI CHÁNH 
GIÁC.
12- LÚC TÔI THÀNH PHẬT, NẾU 
QUANG MINH CÒN HỮU HẠN, ÍT NHẤT KHÔNG CHIẾU THẤU TRĂM NGHÌN 
ỨC NA-DO-THA THẾ GIỚI, THỜI TÔI KHÔNG Ở NGÔI CHÁNH GIÁC.
13- LÚC TÔI THÀNH PHẬT, NẾU 
THỌ MẠNG CÒN HỮU HẠN, ÍT NHẤT LÀ KHÔNG ÐẾN TRĂM NGHÌN 
ỨC NA-DO-THA, THỜI TÔI KHÔNG Ở NGÔI CHÁNH GIÁC.
14- LÚC TÔI THÀNH PHẬT, 
CHÚNG THINH VĂN TRONG CÕI NƯỚC TÔI, NẾU CÓ AI TÍNH ÐẾM ÐƯỢC 
SỐ BAO NHIẾU, DÙ ÐÓ LÀ VÔ LƯỢNG BÍCH-CHI PHẬT ÐỒNG TÍNH 
ÐẾM TRONG TRĂM NGHÌN KIẾP, THỜI TÔI KHÔNG Ở NGÔI CHÁNH 
GIÁC.
15- LÚC TÔI THÀNH PHẬT, NẾU 
HÀNG NHÂN THIÊN CÒN THỌ MẠNG HỮU HẠN, TRỪ NGƯỜI CÓ BỔN 
NGUYỆN RIÊNG, THỜI TÔI KHÔNG Ở NGÔI CHÁNH GIÁC.
16- LÚC TÔI THÀNH PHẬT, NẾU 
HÀNG NHÂN THIÊN TRONG CÕI NƯỚC TÔI CÒN CÓ NGƯỜI NGHE DANH TỪ 
BẤT THIỆN, THỜI TÔI KHÔNG Ở NGÔI CHÁNH GIÁC.
17- LÚC TÔI THÀNH PHẬT, 
VÔ LƯỢNG CHƯ PHẬT TRONG MƯỜI PHƯƠNG TRONG MƯỜI PHƯƠNG THẾ 
GIỚI ÐỀU KHÔNG XƯNG DANH HIỆU TÔI, THỜI TÔI KHÔNG Ở NGÔI 
CHÁNH GIÁC.
18-` LÚC TÔI THÀNH PHẬT, 
CHÚNG SANH TRONG MƯỜI PHƯƠNG HẾT LÒNG TIN MỘ MUỐN SANH VỀ NƯỚC 
TÔI, NHẨN ÐẾN MƯỜI NIỆM, NẾU KHÔNG ÐƯỢC SANH, THỜI TÔI 
KHÔNG Ở NGÔI CHÁNH GIÁC, TRỪ KẺ TẠO TỘI NGŨ NGHỊCH VÀ HỦY 
BÁNG CHÁNH PHÁP.
19- LÚC TÔI THÀNH PHẬT, 
CHÚNG SANH TRONG MƯỜI PHƯƠNG PHÁT TÂM BỒ-ÐỀ, TU CÁC CÔNG-ÐỨC, 
NGUYỆN SANH VỀ CÕI NƯỚC TÔI, ÐẾN LÚC LÂM CHUNG NẾU KHÔNG 
CÙNG ÐẠI CHÚNG HIỆN THÂN TRƯỚC NGƯỜI ÐÓ, THỜI TÔI 
KHÔNG Ở NGÔI CHÁNH GIÁC.
20- LÚC TÔI THÀNH PHẬT, 
CHÚNG SANH TRONG MƯỜI PHƯƠNG NGHE DANH HIỆU TÔI, CHUYÊN NHỚ 
CÕI NƯỚC TÔI VÀ TU CÁC CÔNG-ÐỨC, CHÍ TÂM HỒI HƯỚNG, MUỐN 
SANH VỀ CÕI NƯỚC TÔI, NẾU KHÔNG ÐƯỢC TOẠI NGUYỆN THÌ 
TÔI KHÔNG Ở NGÔI CHÁNH GIÁC.
21- LÚC TÔI THÀNH PHẬT, 
HÀNG NHƠN THIÊN TRONG CÕI NƯỚC TÔI, TẤT CẢ KHÔNG ÐẦY ÐỦ 
BA MƯƠI HAI ÐẠI NHƠN TƯỚNG, THỜI TÔI KHÔNG Ở NGÔI CHÁNH 
GIÁC.
22- LÚC TÔI THÀNH PHẬT, 
CHÚNG BỒ-TÁT Ở CÕI KHÁC SANH VỀ NƯỚC TÔI, CỨU CÁNH ÐỂU 
ÐẾN BẬC NHẤT SANH BỔ XỨ, TRỪ NGƯỜI CÓ BỔN NGUYỆN 
RIÊNG, TỰ TẠI HÓA HIỆN, VÌ CHÚNG SANH MÀ PHÁT THỆ LỚN, TU 
CÁC CÔNG-ÐỨC, ÐỘ THOÁT MỌI LOÀI, ÐI KHẮP THẾ GIỚI TU 
CÁC HẠNH BỒ-TÁT, CÚNG DƯỜNG MƯỜI PHƯƠNG CHƯ PHẬT, KHAI HÓA 
VÔ LƯỢNG CHÚNG SANH, LÀM CHO TẤT CẢ ÐỀU ÐỨNG VỮNG NƠI 
ÐẠO TRÀNG VÔ THƯỢNG CHÁNH GIÁC, SIÊU XUẤT CÔNG HÀNH CỦA 
CÁC BẬC THÔNG THƯỜNG, HIỆN TIỀN TU TẬP ÐỨC CỦA PHỔ-HIỀN, 
NẾU KHÔNG NHƯ THẾ, THỜI TÔI KHÔNG Ở NGÔI CHÁNH GIÁC.
23- LÚC TÔI THÀNH PHẬT, BỒ-TÁT 
TRONG CÕI NƯỚC TÔI THỪA THẦN LỰC CỦA TÔI MÀ ÐI CÚNG DƯỜNG 
MƯỜI PHƯƠNG CHƯ PHẬT, TRONG KHOẢNG THỜI GIAN MỘT BỮA ĂN, 
NẾU KHÔNG ÐẾN KHẮP VÔ LƯỢNG, VÔ SỐ NA-DO-THA THẾ GIỚI, 
THỜI TÔI KHÔNG Ở NGÔI CHÁNH GIÁC.
24- LÚC TÔI THÀNH PHẬT, 
CÁC BỒ TÁT TRONG CÕI NƯỚC TÔI KHI Ở TRƯỚC MƯỜI PHƯƠNG 
CHƯ PHẬT HIỆN CÔNG ÐỨC CỦA MÌNH, MUỐN CÓ NHỮNG VẬT 
CÚNG DƯỜNG, NẾU KHÔNG ÐƯỢC ÐÚNG NHƯ Ý, THỜI TÔI KHÔNG 
Ở NGÔI CHÁNH GIÁC.
25- LÚC TÔI THÀNH PHẬT, NẾU 
CHÚNG BỒ TÁT Ở TRONG CÕI NƯỚC TÔI KHÔNG DIỄN THUYẾT ÐƯỢC 
NHẤT-THẾ-TRÍ, THỜI TÔI KHÔNG Ở NGÔI CHÁNH GIÁC.
26- LÚC TÔI THÀNH PHẬT, NẾU 
CÁC BỒ TÁT Ở TRONG CÕI NƯỚC TÔI KHÔNG ÐƯỢC THÂN KIM CƯƠNG 
NA LA DIÊN, THỜI TÔI KHÔNG Ở NGÔI CHÁNH GIÁC.
27- LÚC TÔI THÀNH PHẬT, 
TRONG CÕI NƯỚC TÔI TẤT CẢ ÐỒ DÙNG CỦA NHÂN THIÊN HÌNH SẮC 
ÐỀU SÁNG ÐẸP SẠCH SẼ, TỐT TƯƠI, VI DIỆU, KHÔNG CÓ THỂ 
TÍNH BIẾT, DÙ LÀ NGƯỜI ÐƯỢC THIÊN NHÃN, NẾU CÓ NGƯỜI 
BIỆN DANH SỐ CÁC ÐỒ ẤY ÐƯỢC RÕ RÀNG, THỜI TÔI KHÔNG 
Ở NGÔI CHÁNH GIÁC.
28- LÚC TÔI THÀNH PHẬT, NẾU 
BỒ TÁT TRONG CÕI NƯỚC TÔI, DÙ LÀ NGƯỜI ÍT CÔNG ÐỨC NHẤT, 
KHÔNG THẤY BIẾT ÐƯỢC CỘI CÂY ÐẠO TRÀNG CAO BỐN TRĂM MUÔN 
DO TẦN, VÔ LƯỢNG MÀU SẮC VÀ ÁNH SÁNG, THỜI TÔI KHÔNG Ở 
NGÔI CHÁNH GIÁC.
29- LÚC TÔI THÀNH PHẬT, 
CHÚNG BỒ TÁT Ở TRONG CÕI NƯỚC TÔI NẾU THỌ TRÌ ÐỌC TỤNG, 
GIẢNG NÓI KINH PHÁP MÀ KHÔNG ÐƯỢC TRÍ HUỆ BIỆN TÀI, THỜI 
TÔI KHÔNG Ở NGÔI CHÁNH GIÁC.
30- LÚC TÔI THÀNH PHẬT, NẾU 
CÓ AI HẠN LƯỢNG ÐƯỢC TRÍ HUỆ BIỆN TÀI CỦA BỒ TÁT 
TRONG CÕI NƯỚC TÔI, THỜI TÔI KHÔNG Ở NGÔI CHÁNH GIÁC.
31- LÚC TÔI THÀNH PHẬT, 
CÕI NƯỚC TÔI THANH TịNH, NƠI NƠI ÐỀU SOI THẤY VÔ LƯỢNG VÔ 
SỐ BẤT KHẢ TƯ NGHÌ THẾ GIỚI MƯỜI PHƯƠNG, ÐỀU THẤY NHƯ 
LÀ THẤY MẶT MÌNH TRONG GƯƠNG, NẾU KHÔNG ÐƯỢC NHƯ VẬY, THỜI 
TÔI KHÔNG Ở NGÔI CHÁNH GIÁC.
32- LÚC TÔI THÀNH PHẬT, 
TRONG CÕI NƯỚC TÔI TỪ MẶT ÐẤT VÀNG LÊN ÐẾN HƯ KHÔNG, LẦU 
NHÀ CUNG ÐIỆN, AO NƯỚC, CÂY HOA, TẤT CẢ VẠN VẬT ÐỀU CÓ 
VÔ LƯỢNG CHẤT BÁU VÀ TRĂM NGHÌN THỨ HƯƠNG HỌP LẠI MÀ 
THÀNH. VẠN VẬT ÐỀU XINH ÐẸP KỲ DIỆU, MÙI THƠM XÔNG KHẮP 
MƯỜI PHƯƠNG THẾ GIỚI, BỒ TÁT CÁC NƠI NGỬI ÐẾN MÙI THƠM 
ẤY, LIỀN TU THÀNH PHẬT, NẾU KHÔNG ÐƯỢC NHƯ THẾ, THỜI TÔI 
KHÔNG Ở NGÔI CHÁNH GIÁC.
33- LÚC TÔI THÀNH PHẬT, 
CÁC LOÀI CHÚNG SANH TRONG VÔ LƯỢNG BẤT KHẢ TƯ NGHÌ THẾ GIỚI 
Ở MƯỜI PHƯƠNG, ÐƯỢC QUANG MINH CỦA TÔI CHẤM ÐẾN THÂN, 
THỜI THÂN TÂM NHU KHUYẾN, NHẸ NHÀNG HƠN NGƯỜI CÕI TRỜI. NẾU 
KHÔNG ÐƯỢC NHƯ VẬY THỜI TÔI KHÔNG Ở NGÔI CHÁNH GIÁC.
34- LÚC TÔI THÀNH PHẬT, 
CÁC LOÀI CHÚNG SANH TRONG VÔ LƯỢNG BẤT KHẢ TƯ NGHÌ THẾ GIỚI 
Ở MƯỜI PHƯƠNG NGHE DANH HIỆU CỦA TÔI MÀ KHÔNG ÐƯỢC VÔ 
SANH PHÁP NHẨN CÙNG CÁC MÓN THẬM THÂM TỔNG TRÌ, THỜI TÔI 
KHÔNG Ở NGÔI CHÁNH GIÁC.
35- LÚC TÔI THÀNH PHẬT, 
CÁC NGƯỜI NỮ TRONG VÔ LƯỢNG BẤT KHẢ TƯ NGHÌ THẾ GIỚI 
Ở MƯỜI PHƯƠNG VUI MỪNG TIN NHẬN, PHÁT BỒ ÐỀ TÂM, NHÀM 
GHÉT THÂN GÁI. NẾU SAU KHI MẠNG CHUNG MÀ CÒN LÀM THÂN NGƯỜI 
NỮ NỮA, THỜI TÔI KHÔNG Ở NGÔI CHÁNH GIÁC.
36- LÚC TÔI THÀNH PHẬT, 
CHÚNG BỒ TÁT TRONG VÔ LƯỢNG BẤT KHẢ TƯ NGHÌ THẾ GIỚI Ở 
MƯỜI PHƯƠNG NGHE DANH HIỆU TÔI, VẪN THƯỜNG TU PHẠM HẠNH MÃI 
ÐẾN THÀNH PHẬT, NẾU KHÔNG ÐƯỢC NHƯ VẬY, THỜI TÔI KHÔNG 
Ở NGÔI CHÁNHGIÁC.
37- LÚC TÔI THÀNH, HÀNG 
NHÂN THIÊN TRONG VÔ LƯỢNG BẤT KHẢ TƯ NGHÌ THẾ GIỚI Ở MƯỜI 
PHƯƠNG NGHE DANH HIỆU TÔI, CÚI ÐẦU ÐẢNH LỄ, NĂM VÓC GIEO 
MÌNH XUỐNG ÐẤT, VUI MỪNG TIN MẾN, TU BỒ TÁT HẠNH, THỜI CHƯ 
THIÊN VÀ NGƯỜI ÐỜI ÐỀU KÍNH TRỌNG NGƯỜI ÐÓ. NẾU 
KHÔNG ÐƯỢC NHƯ VẬY THỜI TÔI KHÔNG Ở NGÔI CHÁNH GIÁC.
38- LÚC TÔI THÀNH PHẬT, 
HÀNG NHÂN THIÊN TRONG CÕI NƯỚC TÔI MUỐN CÓ Y PHỤC, THỜI Y 
PHỤC TỐT ÐÚNG PHÁP LIỀN THEO TÂM NIỆM NGƯỜI ÐÓ MÀ TỰ 
NHIÊN HIỆN ÐẾN TRÊN THÂN, NẾU CÒN PHẢI CẮT MAY NHUỘM GIẶT 
THỜI TÔI KHÔNG Ở NGÔI CHÁNH GIÁC.
 
39- LÚC TÔI THÀNH PHẬT, NẾU 
HÀNG NHÂN THIÊN TRONG CÕI NƯỚC TÔI HƯỞNG THỌ SỰ VUI SƯỚNG 
KHÔNG NHƯ VỊ LẬU TẬN TỲ KHEO, THỜI TÔI KHÔNG Ở NGÔI 
CHÁNH GIÁC.
40- LÚC TÔI THÀNH PHẬT, 
CÁC BỒ TÁT TRONG CÕI NƯỚC TÔI TÙY Ý MUỐN THẤY VÔ LƯỢNG 
THẾ GIỚI NGHIÊM TỊNH CỦA CHƯ PHẬT Ở MƯỜI PHƯƠNG, LIỀN 
ÐƯỢC THẤY RÕ CẢ NƠI TRONG CÂY BÁU, ÐÚNG NHƯ Ý MUỐN NHƯ 
THẤY MẶT MÌNH TRONG GƯƠNG SÁNG. NẾU KHÔNG ÐƯỢC NHƯ THẾ 
THỜI TÔI KHÔNG Ở NGÔI CHÁNH GIÁC.
41- LÚC TÔI THÀNH PHẬT, 
CHÚNG BỒ TÁT Ở THẾ GIỚI PHƯƠNG KHÁC NGHE DANH HIỆU TÔI, TỪ 
ÐÓ NHẪN ÐẾN THÀNH PHẬT MÀ CÁC SẮC CĂN VẪN CÒN THIẾU XẤU, 
THỜI TÔI KHÔNG Ở NGÔI CHÁNH GIÁC.
42- LÚC TÔI THÀNH PHẬT, 
CHÚNG BỒ TÁT Ở THẾ GIỚI PHƯƠNG KHÁC NGHE DANH HIỆU TÔI, TẤT 
CẢ ÐỀU ÐƯỢC GIẢI THOÁT TAM MUỘI, TRỤ TAM MUỘI ÐÓ TRONG 
KHOẢNG THỜI GIAN MỘT NIỆM, CÚNG DƯỜNG VÔ LƯỢNG BẤT KHẢ 
TƯ NGHÌ CHƯ PHẬT THẾ TÔN MÀ VẪN KHÔNG MẤT CHÁNH ÐỊNH. NẾU 
KHÔNG ÐƯỢC NHƯ VẬY THỜI TÔI KHÔNG Ở NGÔI CHÁNH GIÁC.
43- LÚC TÔI THÀNH PHẬT, 
CHÚNG BỒ TÁT Ở PHƯƠNG KHÁC NGHE DANH HIỆU TÔI, SAU KHI MẠNG 
CHUNG THÁC SANH VÀO NHÀ TÔN QUÝ. NẾU KHÔNG ÐƯỢC NHƯ VẬY THỜI 
TÔI KHÔNG Ở NGÔI CHÁNH GIÁC.
44- LÚC TÔI THÀNH PHẬT, 
CHÚNG BỒ TÁT Ở PHƯƠNG KHÁC NGHE DANH HIỆU TÔI VUI MỪNG HỚN 
HỞ, TU BỒ TÁT HẠNH VẸN ÐỦ CÔNG ÐỨC. NẾU KHÔNG ÐƯỢC 
NHƯ VẬY THÌ TÔI KHÔNG Ở NGÔI CHÁNH GIÁC.
45- LÚC TÔI THÀNH PHẬT, 
CHÚNG BỒ TÁT Ở PHƯƠNG KHÁC NGHE DANH HIỆU TÔI ÐỀU ÐẶNG 
PHỔ ÐẲNG TAM MUỘI, TRỤ TAM MUỘI NÀY PHẢI ÐẾN LÚC THÀNH 
PHẬT, THƯỜNG ÐƯỢC THẤY VÔ LƯỢNG BẤT KHẢ TƯ NGHÌ TẤT 
CẢ CHƯ PHẬT. NẾU KHÔNG ÐƯỢC NHƯ VẬY THỜI TÔI KHÔNG Ở 
NGÔI CHÁNH GIÁC.
46- LÚC TÔI THÀNH PHẬT, 
CHÚNG BỒ TÁT TRONG CÕI NƯỚC TÔI MUỐN NGHE PHÁP GÌ THỜI TỰ 
NHIÊN ÐƯỢC NGHE PHÁP ẤY. NẾU KHÔNG ÐƯỢC NHƯ VẬY THỜI TÔI 
KHÔNG Ở NGÔI CHÁNH GIÁC.
47- LÚC TÔI THÀNH PHẬT, NẾU 
CHÚNG BỒ TÁT Ở THẾ GIỚI PHƯƠNG KHÁC NGHE DANH HIỆU TÔI MÀ 
KHÔNG ÐƯỢC BẬC BẤT THỐI CHUYỂN, THỜI TÔI KHÔNG Ở NGÔI 
CHÁNH GIÁC.
48- LÚC TÔI THÀNH PHẬT, NẾU 
CHÚNG BỒ TÁT Ở THẾ GIỚI MƯỜI PHƯƠNG KHÁC NGHE DANH HIỆU 
TÔI MÀ KHÔNG ÐƯỢC LIỀN ÐỆ NHẤT ÂM HƯỞNG NHẪN, ÐỆ NHỊ 
NHU KHUYẾN NHẪN, ÐỆ TAM VÔ SANH NHẪN, Ở NƠI PHẬT PHÁP 
KHÔNG ÐƯỢC LIỀN BẬC BẤT THỐI CHUYỂN, THỜI TÔI KHÔNG Ở 
NGÔI CHÁNH GIÁC.
Phật bảo A Nan: Lúc bấy 
giờ Tỳ Kheo Pháp Tạng sau khi nói nguyện này rồi liền dùng 
bài kệ tụng rằng:
Tôi 
lập nguyện cao cả,
Quyết 
trọn đạo Vô thượng,
Nguyện 
này chư tròn đủ
Thề 
không thành chánh giác.
Tôi 
nguyện vô lượng kiếp,
(Nếu) 
Không làm đại thí chủ,
Giúp 
hết người nghèo khó,
Thề 
không thành chánh giác.
Tôi 
đến khi thành Phật,
Tiếng 
tăm khắp mười phương,
Nếu 
ai còn chẳng nghe,
Thề 
không thành chánh giác.
Lìa 
dục nhiều chánh niệm,
Tịnh 
huệ tu phạm hạnh,
Chí 
cầu đạo Vô thượng,
Làm 
thầy các trời người.
Sức 
thần ánh sáng lớn,
Chiếu 
khắp vô lượng cõi,
Tiêu 
trừ ba cấu nhiễm,
Giúp 
thoát các nạn tai.
Mở 
rộng mắt trí huệ,
Dứt 
hết sự mê mờ,
Lắp 
tất cả đường dữ,
Mau 
về với nẻo lành.
Công 
tác thành tựu tốt,
Oai 
chấn khắp mười phương,
Như 
nhật nguyệt soi sáng,
Ðèn 
trời khó sánh bằng.
Cho 
hết của công đức,
Thường 
ở gần mọi người,
Diễn 
nói các pháp mầu.
Cúng 
dường tất cả Phật,
Ðầy 
đủ các công đức,
Nguyện 
huệ đều thanh tịnh,
Ba 
cõi đáng tôn sùng.
Trí 
vô ngại như Phật,
Thông 
đạt tất cả nguyện,
Sức 
công đức tối thắng,
Trở 
thành bậc chánh giác.
Nguyện 
này được kết quả,
Ba 
cõi sẽ chấn động,
Các 
thiện thần trên không ,
Sẽ 
rưới các hoa báu.
Phật 
nói với A Nan: Tỳ Kheo Pháp Tạng nói bài tụng này rồi, lúc 
ấy cõi đất sáu thứ chấn động. Trời rưới hoa báu để 
khen ngợi đại nguyện, tự nhiên tiếng nhạc hư không khen rằng: 
Ngài quyết định thành tựu Vô thượng chánh giác. Và sau đó 
Tỳ Kheo Pháp Tạng tu đầy đủ những nguyện lớn như thế, 
chắc thật không dối, xa lìa thế gian, vui đạo tịch diệt.
 
GIẢNG YẾU
 
Ðoạn 
này nói rõ Ngài Pháp Tạng Tỳ Kheo vì tất cả chúng sanh mà 
lập Ðại Nguyện. Nên biết quốc độ của chư Phật không 
lìa một niệm thanh tịnh tâm của chúng sanh mà được thành 
lập. Tất cả chúng sanh bản tánh vốn thanh tịnh, vốn không 
sanh tử, vốn xưa này thường trụ Vô Dư Niết Bàn, chỉ vì 
tình trần che lấp trở thành trôi nổi lặn ngụp không có 
ngày ra khỏi. Bồ Tát thương xót phát Ðại Nguyện này, vì 
các chúng sanh phá trừ vọng chấp, chiếu sáng nội tâm, hiện 
sức tự tại, chiếu ánh sáng lớn vào pháp tánh sáng rỡ 
không phải ở bên ngoài mà có. Vì tự tánh vốn không lìa 
các nẻo ác, nên biết Bồ Tát từ tâm Không Tịch này mà 
trang nghiêm cõi Phật. Tự Tánh Diệu Viên đủ các tướng hảo, 
Bồ Tát thuận theo Diệu Tâm này mà trang nghiêm cõi Phật. Tự 
tánh không ngại hiển sáu pháp thần thông, nên biết Bồ Tát 
thuận theo Vô ngại tâm mà trang nghiêm cõi Phật. Tự tánh 
không trụ không thể đoạn diệt, nên biết Bồ Tát thuận 
theo tâm Vô Trụ này mà trang nghiêm cõi Phật. Tự tánh không 
có ở ngoài cũng như gió xuân trùm khắp vạn vật, nên biết 
Bồ Tát thuận theo tâm không ở ngoài này mà nghiêm tịnh cõi 
Phật. Tự tánh không ở bên trong như gương trong hiện hết các 
ảnh, nên biết Bồ Tát thuận theo tâm không ở trong mà 
nghiêm tịnh cõi Phật. Tự tánh sáng rỡ như mặt nhật chiếu 
khắp, nên biết Bồ Tát thuận theo Ánh Sáng Tâm mà nghiêm tịnh 
cõi Phật. Tự tánh bình đẳng như hương xông khắp, nên biết 
Bồ Tát thuận theo Tâm Bình Ðẳng mà nghiêm tịnh cõi Phật. 
Nên biết 48 Ðại Nguyện không có một nguyện nào mà không 
có sẵn trong tâm chúng sanh, tức là lấy Tự Tâm để nghiêm 
tịnh Tự Ðộ, như nước chảy vào biển, như vang hợp tiếng, 
nên Tỳ Kheo Pháp Tạng đã nói: Nếu không đúng như thế, tôi 
thề không ở ngôi chánh giác. Trong không trung khen ngợi: Quyết 
định sẽ thành Vô thượng chánh giác. Vì cái Nhân đã không 
thể nghĩ bàn, thì các Quả dĩ nhiên cũng không thể nghĩ bàn. 
Người có chí cầu sanh về TỊNH ÐỘ phải tin như thế mà 
vào.
*Chứa trồng công đức:
KINH VĂN:
Này A 
Nan! Tỳ Kheo Pháp Tạng ở trước Phật, trước chư thiên, ma 
phạm, long thần, bát bộ mà pháp đại nguyện này. Lập nguyện 
xong, một lòng chuyên ý trang nghiêm diệu độ chỗ tu hành để 
trang nghiêm tịnh độ rộng lớn vĩ đại mầu nhiệm vượt hẳn 
các cõi tịnh độ khác. Luôn luôn xây dựng, không lui không 
đổi, số kiếp không thể nghĩ bàn, gieo trồng vô lượng đức 
hạnh của Bồ Tát. Không biết dục biết sân biết hại; 
không khởi tưởng dục tưởng sân tưởng hại; không đắm sắc 
hương vị xúc và pháp. Sức nhẫn thành tựu không nài khó nhọc, 
ít dục, biết đủ, không nhiễm giận và si mê. Chánh định 
giữ luôn, trí tuệ vô ngại, không có lòng tà hại, dối 
trá. Sắc mặt lúc nào cũng vui, lời nói dịu dàng. Ðối đáp 
đúng pháp dũng mãnh tinh tấn, chí nguyện không mỏi mệt, 
chuyên cầu pháp trong sạnh, đem ân huệ cho tất cả các 
loài, cung kính Tam-Bảo, kính thờ thầy bạn. Nhờ trang nghiêm 
lớn mà đầy đủ các hạnh, làm cho chúng sanh công đức thành 
tựu. Ở trong pháp không , vô tướng, vô nguyện, không làm , 
không khởi, quán pháp như huyễn. Xa lìa lỗi thọ tự hại 
mình và hại đến người khác, tu tập lợi lành để lợi mình 
và lợi người. Bỏ nước thôi làm vua, dứt hết tiền của 
và sắc đẹp. Tự mình làm sáu phép Ba La Mật và bảo người 
làm , đã chứa nhóm công đức vô số kiếp không thể tính 
được, đến chỗ người ở theo chỗ họ muốn, đem vô số 
vật báu tặng cho khắp cả, dạy bảo an ổn vô số chúng 
sanh ở trong đạo chơn chánh Vô thượng. Vì các vị trưởng 
giả, cư sĩ, người giàu sang tôn quí hoặc vì vua sát đế lợi, 
vua chuyển luân, chúa trời lục dục cho đến Phạm thiên mà 
thường đem tứ sự cúng dường cung kính tất cả chư Phật. 
Công đức như thế không thể nói hết. Hơi miệng thơm sạch 
như hoa ưu bát la, lỗ chân lông trên thân tỏa hương chiên đàn, 
hương ấy xông khắp vô lượng thế giới. Hình dung ngay thẳng, 
tướng tốt lạ thường. Trên tay đeo vô lượng vật báu, y 
phục đồ ăn uống toàn diệu thơm ngon. Những lọng nhang vi 
diệu để trang nghiêm. Tất cả các việc như thế vượt hẳn 
các trời người. Ở nơi tất cả pháp đều được tự tại.
 
GIẢNG YẾU
 
Tỳ Kheo 
Pháp Tạng dùng tâm vô lượng, phát nguyện vô lượng, khởi 
hạnh vô lượng, mỗi thứ đều khế hợp với chơn như pháp 
giới. Chúng sanh vô lượng, pháp giới vô lượng, Bồ Tát 
tùy thuận chúng sanh trải qua bất khả thuyết na do tha kiếp 
và bất khả thuyết hằng hà sa cõi Phật, thảy đều vô lượng, 
dùng hạnh hay nghiêm tịnh Phật độ, độ thoát vô lượng chúng 
sanh mà thật không có Phật độ để nghiêm tịnh, cũng không 
có một chúng sanh nào có thể độ. Vì sao? Vì pháp giới tức 
không phải là pháp giới, nên dùng đại trang nghiêm để cụ 
túc các hạnh. Lại nói, trong pháp Không, Vô tướng, Vô nguyện, 
không làm , không khởi, quán pháp như huyễn hóa. Ðó là dung 
thông cả Bi Trí, không ngại lý sự, nên có thể ở trong tất 
cả pháp mà được tự tại. Kinh Nhất Hướng Xuất Sanh Bồ 
Tát nói: Phật dạy: Ta nhớ thuở quá khứ rộng lớn vô lượng 
vô biên A Tăng Tỳ kiếp có Phật hiệu Bửu Công Ðức Oai 
Túc Kiếp Vương sắp vào Niết Bàn, vì chúng sanh rộng nói 
pháp Ðà La Ni, lúc ấy có một vị Chuyển Luân Vương tên là 
Trí Hoa có người con làm thái tử tên là Bất Tư Nghì Thắng 
Công Ðức, mới 15 tuổi theo cha đến gặp Phật, nghe được 
pháp bổn Ðà La Ni, liền ở trong 7 muôn năm tinh chuyên tu tập 
chưa từng ngủ nghỉ, ngồi ngay thẳng một chỗ không hề 
ngã nghiêng, không tham tiền của và ngôi vua, không làm việc 
vui cho riêng mình, được gặp 90 ức trăm ngàn na do tha Phật 
thuyết pháp cho nghe, Ngài đều nghe và tu trì, chán nhà thế tục, 
cạo tóc làm Sa Môn. Xuất gia rồi ở trong 9 muôn năm tu tập 
pháp Ðà La Ni này, lại vì chúng sanh phân biệt bày tỏ. Suốt 
đời hết lòng giáo hóa làm cho 80 ức trăm ngàn na do tha 
chúng sanh được phát đạo tâm, chứa góp công đức đến địa 
vị bất thối. Tỳ Kheo Bất Tư Nghì Công Ðức lúc ấy đâu 
phải người nào lạ, đó chính là Như Lai A Di Ðà. Qua đoạn 
Kinh trên ta thấy Pháp Tạng Tỳ Kheo một đời còng như thế 
huống chi nhiều đời, một kiếp còn như thế huống chi nhiều 
kiếp, từ đó có thể biết được công đức tu hành của 
Ngài.
3 Nói rõ thắng Quả
*Pháp Tạng Tỳ Kheo thành 
Phật
KINH VĂN
A Nan bạch 
Phật: Kính thưa đức Thế Tôn, Bồ Tát Pháp Tạng đã thành 
Phật và đã diệt độ chưa? Hoặc chưa thành Phật và hiện 
nay vẫn còn là Bồ Tát?
Phật bảo: 
A Nan! Bồ Tát Pháp Tạng nay đã thành Phật, hiện tại ở về 
hướng tây, cách đây mười muôn ức cõi Phật. Thế giới của 
Phật ấy tên là CỰC LẠC. A Nan lại hỏi: Ðức Phật ấy 
thành Phật đến nay đã bao lâu? Phật đáp: Thành Phật đến 
nay đã hơn mười kiếp.
 
GIẢNG YẾU
 
Ðoạn này giải rõ thời 
gian Phật Vô Lượng Thọ thành Phật và hiện đang ở cõi Cực 
Lạc Phương Tây.
 
---o0o---