Sơ
Lược
Các
Sự
Tích
Vãng
Sanh
Từ
xưa
tới
nay,
muôn
ngàn
người
ăn
ở
hiền
lành,
phần
đông
trước
khi
chết
đều
bị
mê
muội,
không
ai
biết
trước
ngày
giờ
chết
để
tắm
gội
sạch
sẽ,
tỉnh
táo
niệm
Phật
hoặc
biết
có
mùi
thơm
hay
nghe
tiếng
nhạc
trên
không.
Duy
chỉ
có
những
người
tu
Tịnh
độ
khi
mãn
phần
có
những
điều
dị
thường
như
trên
thì
biết
chắc
hồn
về
Cực
lạc.
Nay
tôi
xin
kể
lại
sơ
lược
một
vài
sự
tích
vãng
sanh
xưa
và
nay
tại
nước
Tàu
và
Việt
Nam
ta
để
quí
vị
Ðạo
Tâm
rộng
đường
suy
xét
hầu
tu
theo
Tịnh
độ.
Chẳng
những
người
tu
có
kết
quả
mà
loài
thú
biết
niệm
Phật
cũng
đặng
vãng
sanh
nữa.
1.-
Ðời
Ðường
bên
Tàu,
Cư
sĩ
Minh
Chiêm
tuổi
già
mới
tu
Tịnh
độ.
Ông
rất
tinh
tấn
ngày
đêm
niệm
Phật
chẳng
dứt.
Có
kẻ
nói:
‘’Ông
tu
muộn
quá
e
không
kịp
vãng
sanh’’.
Ông
Minh
Chiêm
nói:
Niệm
Phật
từ
một
tới
mười
câu
còn
thấy
Di
Ðà,
ta
lo
chi
không
đặng
vãng
sanh.
Sau
vì
bị
bệnh
nên
ông
vào
chùa
Hưng
Thiên,
lúc
quá
Ngọ,
ông
ngồi
chắp
tay
xây
mặt
qua
hướng
Tây
mà
niệm
Phật.
Giây
lâu
ông
nói
rằng:
Phật
với
Quan
Âm,
Thế
Chí
đều
đến
rước
ta.
Nói
xong
bái
rồi
hết
thở.
2.-
Ðời
Tống,
ba
cha
con
của
Ngụy
thế
Tử
với
một
quận
chúa
đều
tu
theo
Tịnh
độ,
trừ
ra
phu
nhân
là
ăn
mặn.
Sau
quận
chúa
chết
yểu:
sau
khi
liệm
xong,
quàn
lại
bảy
ngày
bổng
nghe
tiếng
la
từ
trong
quan
tài
‘’Ngộp
lắm’’
nội
nhà
mừng
quá
cạy
nắp
quan
tài
ra,
cùng
lúc
ấy
tiếng
nhạc
trên
không
trung
trổi
lên.
Quận
chúa
bước
ra
thưa
với
mẹ
rằng:
Thưa
mẹ,
nước
Cực
lạc
rất
vui,
trong
ao
Thất
Bửu
có
nhiều
bông
sen
búp
lớn
gần
bằng
bánh
xe,
ngoài
cánh
sen,
cái
thì
nêu
tên
cha,
hai
bông
nọ
còn
có
tên
hai
anh
nữa,
con
kiếm
cùng
không
có
tên
mẹ
nên
con
xin
phép
Ðức
Phật
Di
Ðà
về
đây
báo
tin
và
khuyên
mẹ
mau
tu
Tịnh
độ
thì
sẽ
có
một
bông
sen
mọc
ra
dành
cho
mẹ
cũng
như
của
cha,
của
hai
anh
và
của
con
vậy.
Phật
sẽ
đem
tòa
sen
ấy
rước
mẹ
về
cho
Liên
hoa
hóa
thân,
ở
cung
đền
rất
cao.
Muốn
mặc
y
phục
gì
thời
có
hiện
tới.
Muốn
ăn
vật
chi
đều
có
món
đó,
đựng
trong
bát
thất
bảo
hiện
tới
trước
mặt,
dùng
xong
bát
biến
mất
khỏi
rửa.
muốn
nghe
nhạc
chi
thì
nhạc
ấy
vào
tai,
bằng
không
muốn
nghe
thì
nhạc
liền
dứt.
Mỗi
người
đều
có
hào
quang,
muốn
dùng
một
hương
nào
có
mùi
hương
nấy.
Ðược
dạo
xem
trăm
thứ
hoa
thơm.
Muốn
ăn
trái
cây
chi
liền
hiện
tới
khỏi
hái,
Ngự
tửu.
Phong
cảnh
xinh
đẹp
hơn
thế
gian
trăm
bề.
Vả
lại
không
có
Nhật
Nguyệt
Tinh
Tú,
chỉ
có
hào
quang
sáng
hơn
ban
ngày
thập
bội.
Có
bảy
thứ
chim
tốt
lạ;
có
năm
sắc
lông,
tiếng
kêu
êm
ái
như
tiếng
kệ
kinh.
Lại
mát
mẻ
như
mùa
xuân,
không
có
mùa
nực
và
mùa
lạnh.
Học
đặng
Lục
thông,
thành
bậc
La
Hán,
đi
dạo
trên
khắp
thế
gian.
Tòa
sen
bay
lẹ
như
nháy
mắt
nên
con
đi
về
đây
mau
tợ
khảy
móng
tay
đã
tới.
Việc
ở
Cực
lạc
khoái
lạc
mười
phần
kể
sao
cho
xiết.
Xin
mẹ
ráng
tu,
sau
lâm
chung
Phật
rước
về
đó
mà
thấy
đủ
điều.
Con
không
dám
trễ
phép,
cúi
xin
bái
tạ
cha
mẹ
con
lên
tòa
sen
về
nước
Cực
lạc.
Quận
chúa
tạ
xong
rồi
bước
vô
quan
tài
mà
nhắm
mắt.
Mùi
sen
thơm
ngát,
hào
quang
chiếu
sáng
xẹt
về
hướng
Tây,
tiếng
nhạc
trên
không
cũng
trỗi
lần
về
hướng
ấy.
Từ
đấy
phu
nhân
mới
tinh
tấn
trường
chay,
tu
theo
Tịnh
độ
niệm
Phật
hơn
chồng
con.
Sau
mỗi
người
lâm
chung
đều
biết
ngày
giờ
trước.
Ðến
ngày
Liễu
đạo,
phu
nhân
ngồi
day
mặt
về
hướng
Tây,
niệm
Phật
chưa
đủ
mười
câu
đã
nghe
tiếng
nhạc
trên
không,
thấy
Phật
rước
mình
đông
lắm.
liền
khi
ấy,
bà
xuất
hồn
về
cùng
chư
Phật.
Bốn
người
lâm
chung
như
vậy
thiệt
cả
nhà
có
phước,
sống
hưởng
lộc,
thác
được
vãng
sanh.
3.-
Ðời
Tống,
Dương
Kiệt
ở
Châu
Vô
Vi,
xưng
hiệu
Vô
Vi
Tử,
thi
đỗ
sớm
làm
quan.
Ði
điểm
tội
nhân
ở
tỉnh
Chiết
Giang,
vì
mộ
đạo
Phật
nên
học
kỹ
phép
tham
thiền,
xem
kinh
nhiều
lắm.
Ông
nói
với
bạn
rằng:
‘’Chúng
sanh
nhiều
người
tối
dạ,
tham
thiền
không
đúng
uổng
công.
Trừ
ra
tu
Tịnh
độ
dễ
hiểu,
dễ
tu.
Dầu
bao
nhiêu
kẻ
dốt,
tu
cũng
được
vãng
sanh.’’
Người
có
viết
Thiên
Thai
Thập
Nghị
Luận
và
Tịnh
Ðộ
Quyết
Nghi
Tập;
giảng
rõ
phép
tu
tịnh
độ.
Tuổi
già,
ông
vẽ
tượng
Di
Ðà
cao
16
thước
mộc
thờ
lạy.
Ðến
lâm
chung,
Phật
định
ngày
rước
hồn,
ngài
ngồi
mà
viên
tịch.
4.-
Ðời
Tùy,
có
ông
Tống
Mãn
ở
Phủ
Thường
Châu,
niệm
Phật
một
câu;
để
một
hạt
đău
đen
vô
hộc.
Lâu
năm
lường
được
cỡ
15
giạ.
Khai
Hoàng
niên
hiệu
thứ
tám,
tháng
chín
đãi
trai
tăng,
các
sãi
ăn
rồi
ngồi
niệm
Phật
đến
hết
thở.
Người
ta
thấy
trên
trời
sa
xuống
mùi
hương
thơm
một
cách
lạ
lùng.
Có
tiếng
nhạc
trời
trên
không
lần
qua
hướng
Tây
hồi
lâu
mới
dứt.
5.-
Ðời
Ðường,
có
ông
Trịnh
mục
Khanh,
và
cả
nhà
đều
niệm
Phật.
Niên
hiệu
Khai
ngươn,
ông
bị
bệnh
nặng,
có
người
khuyên
trở
đũa
(ăn
mặn),
ông
không
chịu.
Tay
bưng
lư
hương
niệm
Phật
cầu
vãng
sanh
Tịnh
độ.
Xảy
ngửi
mùi
thấy
hương
thơm
nức.
Người
ông
liền
xuất
hồn.
Cậu
là
Tô
Ðỉnh,
làm
chức
thượng
thư,
chiêm
bao
thấy
ông
ngồi
trên
bông
sen
lớn.
6.-
Ðời
Minh
Liên,
Hoa
thái
Công
là
người
nước
Việt,
thiệt
thà
ngày
đêm
niệm
Phật
chẳng
ngớt.
Ðến
lúc
mãn
phần
liệm
vô
quan
tài
chưa
kịp
đem
chôn,
bổng
nhiên
một
cánh
bông
sen
mọc
trên
quan
tài,
xóm
giềng
khen
ngợi,
mới
tin
ông
không
biết
chữ
mà
tu
tịnh
độ
cũng
được
vãng
sanh.
7.-
Ông
Trịnh
Sanh
là
bà
con
bên
vợ
của
ông
Châu
an
Sĩ
(Tác
giả
quyển
Tây
Qui
Trực
Chỉ),
tuổi
nhỏ
học
hay,
thói
quen
hay
kiêu
ngạo,
không
tin
Phật
cho
lắm.
Ngày
kia
có
bệnh,
thấy
quỉ
đến,
cao
lớn
dị
thường,
xưng
là
oan
cừu
đời
trước.
Trịnh
Sanh
sợ
điếng
mới
niệm
Phật
hẳn
hòi,
cầu
vãng
sanh
cực
lạc.
Hễ
niệm
Phật
thường
thì
thôi,
nếu
hở
ra
thấy
quỉ
nên
Trịnh
Sanh
ráng
niệm
tới
mòn
hơi.
Người
nhà
thấy
không
biết
cái
gì
mà
mờ
mờ
như
mây
khói
bay
lần
qua
hướng
Tây.
Tuy
không
thấy
điềm
biết
trước
và
không
có
mùi
hương
cùng
Thiên
nhạc,
song
cứ
lý
chắc
đặng
vãng
sanh
bởi
vì
ông
ít
khi
niệm
Phật
nên
không
đặng
linh
hiển
đó
thôi.
8.-
Tô
kỳ
Sơn
tự
Khởi
Phụng,
ở
Côn
Sơn,
tuổi
thơ
quyết
chí
tham
thiền,
tìm
nhiều
thầy
thông
thái,
nên
nghe
rành
Tịnh
độ
không
dám
sát
sanh.
Tuổi
già
tu
tịnh
độ
theo
bốn
thời
Tý,
Ngọ,
Mẹo,
Dậu
tụng
nhựt
khóa
không
lơi.
Mùa
đông
trời
lạnh
ôm
mền
mà
ngồi.
Khương
Hy
năm
Kỷ
Mão,
ngày
26
tháng
11
giờ
Ngọ,
ông
nói
vớI
cháu
tên
Ðiện
Phương
rằng:
‘’Ông
tu
Tịnh
độ
đã
thành
công,
Phật
mach
bảo
giờ
vãng
sanh
đã
ba
bữa
trước,
ông
không
muốn
khoe
cho
chúng
biết
đêm
nay
tới
giờ
Tý
ông
sẽ
được
vãng
sanh.’’
Lúc
canh
hai
ông
mặc
áo
dài
ngồi
trước
bàn
hương
án
bảo
người
nhà
niệm
Phật
tiếp
với
mình,
qua
canh
ba
tiếng
ông
niệm
Phật
nhỏ
dần
cho
tới
hết
thở.
9.-
Ngô
kính
Sơn
ở
cùng
xóm
với
Tô
kỳ
Sơn.
Tuổi
ông
đã
bảy
mươi
nhưng
ông
lại
muốn
học
thêm
phép
tham
thiền.
Tô
Ðiện
Phương
nói
với
ông:
‘’Tuổi
ông
đã
già
rồi
ông
nên
tu
tịnh
độ
cho
mau
mà
chắc
vãng
sanh
hơn
tham
thiền’’.
Ông
vâng
lời
niệm
Phật
ngày
đêm
chẳng
dứt.
Thời
gian
chưa
đầy
một
năm,
bà
con
ông
Ngô
kính
Sơn
đến
nói
với
ông
Tô
điện
Phương
hay
rằng:
‘’Hồi
sớm
mai
này
Ngô
kính
Sơn
thấy
ông
hộ
pháp
hiện
hình,
tiếp
dẫn
vãng
sanh
nên
dặn
tôi
coi
chừng
ông
tắt
hơi
rồi
thì
qua
cho
ông
hay
mà
tạ
ơn
khi
trước
đã
khuyên
ông
tu
tịnh
độ.
Dặn
rồi
ông
ngồi
day
mặt
qua
hướng
Tây
niệm
Phật
đến
hết
thở.’’
10.-
Ðời
Ðường,
thầy
Duy
Ngạn
tu
Tịnh
độ
rất
siêng
năng.
Thấy
Quan
Âm,
Thế
Chí
hiện
trên
không
thầy
mừng
muốn
họa
chân
dung
hai
vị
Bồ
Tát,
liền
khi
ấy
hai
vị
hiện
đến
xin
vẽ
rồi
biến
mất.
Thầy
Duy
Ngạn
nói
với
các
đệ
tử
rằng:
‘’
Ta
bữa
nay
được
vãng
sanh,
đứa
nào
muốn
theo
ta
cho
có
bạn?’’
Có
một
trò
nhỏ
xin
theo,
thầy
bảo
về
cho
cha
mẹ
hay,
nếu
bằng
lòng
thì
lạy
tạ
rồi
đi
cho
mau.
Cha
mẹ
đồng
tử
tưởng
nó
nói
chơi
nên
cười
mà
bảo
rằng:
‘’Tự
ý
con
theo
thầy
về
Tây
phương
đặng
thì
cha
mẹ
cầu
lắm.’’
Ðồng
tử
tắm
gội
thay
áo
lại
ngồi
gần
thầy
niệm
Phật
mới
có
mười
câu
rồi
hết
thở,
chết
ngồi.
Cha
mẹ
sững
sờ
hết
nói
chi
được.
Thầy
Duy
Ngạn
cũng
lấy
làm
lạ,
đặt
bài
kệ
khen
đồng
tử
rồi
ngồi
tịch
theo.
11.-
Họ
Ngô
ở
tỉnh
Chiết
Giang,
ông
cha
đều
là
tú
tài
dưới
triều
Thanh,
Thuận
Trị
năm
đầu.
Binh
tới
vây
thành,
cha
mẹ
ông
bà
đều
chạy
trốn
hết.
Ông
họ
Ngô
ấy
bị
bắt
sống
dâng
cho
Trương
tướng
quân
thâu
làm
lính
hầu
mới
mười
ba
tuổi.
Nghĩ
rằng
mình
con
nhà
học
trò,
nay
làm
hèn
hạ
cũng
tội
báo
tiền
căn.
Ông
liền
giác
ngộ
xin
vào
chùa
lạy
Phật
ăn
chay
trường.
Mỗi
đêm
ông
tụng
một
cuốn
kinh
Kim
Cang
và
niệm
Phật.
đến
năm
16
tuổi,
Trương
tướng
quân
đem
bạc
phát
lương
cho
lính,
họ
Ngô
nhín
tiền
lương
của
mình
mà
thỉnh
tượng
Ðức
Phật
Di
Ðà
rồi
mua
đèn
hương
về
cúng
lạy
niệm
Phật
và
tụng
kinh
Di
Ðà.
đến
năm
Ðinh
Dậu
ngày
22
tháng
10,
họ
Ngô
bẩm
với
Trương
tướng
quân
rằng:
‘’Tôi
muốn
về
Tây
phương’’.
Tướng
quân
mắng
rằng
nói
láo.
Bữa
sau
họ
Ngô
đến
dinh
quan
đề
đốc
xin
nghỉ
phép,
Ðề
đốc
giận
giao
cho
tướng
quân
đánh
đòn
15
roi
mà
ông
không
hề
than;
lại
từ
giã
các
quan
đinh
rằng:
‘’Mùng
1
tháng
11
tôi
sẽ
về
Tây
phương.’’
Ðến
ngày
ấy
ông
tắm
gội
sạch
sẽ,
lúc
canh
năm
mặc
đồ
xong
thắp
hương
đèn
lạy
Phật
rồi
tạ
Trương
tướng
quân
trong
thuyền
đặng
về
theo
Phật.
Trương
tướng
quân
tức
giận
sai
lính
đi
tới
chỗ
chất
củi
làm
giàn
thiêu.
Họ
Ngô
lạy
hướng
Tây
ba
lạy
rồi
lên
ngồi
trên
đống
chà
bổi
niệm
Phật
rồi
ngâm
một
bài
kệ,
liền
hả
miệng
ra
phun
lửa
thiêu
mình.
Quân
lính
báo
tin,
quan
tướng
các
dinh
đều
tựu
lại
đưa.
Trương
tướng
quân
kính
phục,
từ
đấy
nội
nhà
ăn
chay,
tu
Tịnh
độ
theo
cách
họ
Ngô
giảng
khi
trước.
12.-
Ông
Thẩm
thừa
Tiên
ở
Côn
Sơn,
tại
chợ
Tuyên
Hóa
làm
nghề
thợ
mộc.
trên
bảy
mươi
tuổi
ăn
trường
chay
niệm
Phật
tu
tịnh
độ.
Tuy
tay
không
hở
đục
và
rìu
búa
mà
niệm
Phật
chẳng
ngừng.
Ðến
năm
Khương
Hy
thứ
mười,
tháng
ba
ông
biết
ngày
Phật
rước.
Trước
ba
bữa
giã
từ
bà
con
bạn
hữu
và
nói
ngày
giờ
mình
vãng
sanh.
Từ
giã
rồi
sao
không
thấy
rước
khác
nữa.
Ông
nói
với
con
dâu
rằng:
‘’Mai
là
rằm
cha
sẽ
vãng
sanh
Tây
phương’’.
Rạng
ngày
gội
tắm
thay
áo,
ngồi
xây
mặt
về
hướng
Tây,
trước
mặt
để
ghế
thắp
hương
rồi
niệm
Phật.
Ban
đầu
niệm
lớn,
dần
dần
nhỏ
đến
khi
mòn
hơi.
13.-
Ðời
Ðường,
vợ
của
ông
Ôn
tịnh
Văn
ở
Tinh
Châu,
bệnh
nằm
liệt
giường
đã
lâu.
Chồng
khuyên
niệm
Phật,
vợ
vâng
lời
nằm
niệm
cả
năm.
Ngày
kia
chiêm
bao
tỉnh
giấc
thưa
với
chồng
rằng:
‘’
thiếp
thấy
Phật
mach
bảo
tháng
sau
sẽ
vãng
sanh’’,
và
dặn
cha
mẹ
chồng
ráng
niệm
Phật
sau
chắc
vãng
sanh
như
mình.
Tới
kỳ
ngồi
dậy
niệm
Phật
bỏ
xác.
14.-
Ðời
Tống
có
Cung
Thị
ở
huyện
Tiền
Ðường,
ngày
đêm
niệm
Phật
tụng
kinh
Di
Ðà.
Sau
có
bịnh
rước
thầy
giảng
kinh.
Giảng
chưa
rồi,
bà
ngồi
chắp
tay
hết
thở.
Có
người
thiếp
già
cũng
niệm
Phật
không
ngớt.
Ðêm
nọ
Cung
Thị
về
báo
mộng,
mach
bảo
rằng:
‘’
Ta
đã
về
Tây
phương
Cực
lạc,
bảy
ngày
nữa
người
cũng
vãng
sanh’’.
Ðến
ngày
ấy,
bà
thiếp
đang
mạnh
mà
chết
ngồi.
15.-
Ðời
Tống,
có
bà
Trương
thị
Nữ
ở
quận
Phần
Dương,
bệnh
đui
cặp
mắt.
gặp
người
ta
khuyên
niệm
Phật
bà
liền
nghe
theo.
Ba
năm
sau
mắt
bà
sáng
lại
như
cũ.
Sau
thấy
Phật
và
Bồ
Tát
đem
phướng
và
Bảo
Cái
đến
rước,
liền
ngồi
mà
mãn
phần.
16.-
Trào
Thanh
có
bà
Hạo
Thi
ở
huyện
Ty
Lăng,
là
vợ
của
ông
Phan
hướng
Cao,
cũng
là
cư
sĩ.
Vợ
chồng
đồng
tu
Tịnh
độ,
tụng
kinh
Kim
Cang.
Hôm
mai
tụng
nhật
khóa
niệm
Phật
y
phép..
.Khương
Hy
năm
Canh
Thân
tháng
7
có
bệnh,
biết
trước
ngày
27
giờ
Ngọ
tạ
thế.
Bà
nói
trước
cho
con
cháu
hay.
Ðến
kỳ,
con
đến
mời
các
đạo
hữu
đến
niệm
Phật
tiếp
và
ngồi
niệm
Phật
đến
mãn
phần.
Những
Kẻ
Dữ
Cũng
Ðược
Vãng
Sanh
17.-
Ðời
Ðường,
Trương
thiện
Hòa
làm
hang
bò,
trâu.
Lúc
lâm
chung
thấy
trâu
bò
đến
cả
bầy
nói
tiếng
người
đòi
thường
mạng.
Ông
sợ
hối
vợ
rước
sãi
đến
tụng
kinh
sám
hối.
Sãi
nói:
‘’Kinh
Thập
Lục
Quán
có
nói:
‘’Lâm
chung
thấy
quỷ
dữ,
nếu
lòng
thành
niệm
Phật
cũng
đặng
vãng
sanh’’.
Trương
thiện
Hòa
nói:
‘’Ma
quỉ
tới
nhiều
lắm,
đợi
lấy
lư
hương
chắc
không
kịp’’.
Tay
mặt
cầm
đèn,
tay
trái
thắp
hương,
xây
mặt
về
hướng
Tây
rồi
niệm
Phật,
chưa
đủ
mười
câu
vùng
nói
lớn:
‘’Phật
đến
rước
ta
rồi’’,
nói
rồi
ông
tắt
thở
chết
ngồi.
18.-
Ðời
Ðường,
Trương
chung
Quỳ
hay
làm
thịt
gà
và
bán.
Ngày
kia
bịnh
nặng
thấy
người
mặc
áo
đỏ
lùa
bầy
gà
đến
mổ
thịt
và
mổ
cặp
mắt
ông
chảy
máu,
mang
bịnh
rên
la.
Người
nhà
liền
rước
sãi
đến
tụng
kinh
Di
Ðà,
sãi
bảo
y
niệm
Phật
mãi.
Tới
chừng
nghe
mùi
thơm
một
cách
lạ,
Trương
chung
Quỳ
hết
la
nhức
và
chết
một
cách
êm
nhẹ.
Chung
Quỳ
và
Thiện
Hòa
đang
bị
oan
hồn
theo
đòi
nợ,
nhờ
chí
thành
niệm
Phật,
Ðức
A
Di
Ðà
cảm
động
cho
các
oan
hồn
trâu
bò
kia
đầu
thai
hưởng
phước,
chúng
nó
mới
buông
tha.
Xem
hai
sự
tích
này,
các
ông
già
bà
cả
có
lỡ
sát
sanh
trâu
bò
gà
vịt
rồi
thì
đừng
lo
sợ
tu
không
kịp.
Quý
vị
còn
trẻ
sợ
không
tin.
Nhớ
tin
theo
phương
pháp
đây
thì
tu
chắc
chắn
có
quả
vị.
Hai
người
làm
hàng
thuở
nay
không
biết
sợ
tội
chút
nào,
đến
lâm
chung
thấy
oan
hồn
địa
ngục
trước
mắt
kinh
hãi.
May
có
phước
gặp
sãi
giải
rành
niệm
Phật
trối
chết.
Giây
phút
địa
ngục
hóa
ra
bông
sen.
Bởi
Ðức
Phật
Di
Ðà
có
nguyện:
‘’
Ai
lâm
chung,
niệm
Phật
mười
câu
ngài
sẽ
rước
về
Tây
phương’’.
Huống
chi
quí
vị
gặp
kinh
này
hãy
mau
ăn
năn,
lập
nguyện,
tụng
niệm
nhiều
ngày,
lo
chi
Phật
không
rước.
29.-
Sãi
Huýnh
Kha
đã
xuất
gia
mà
còn
ăn
mặn,
nhậu
rượu.
sau
khi
ăn
năn
nghĩ
rằng
mình
đã
làm
sãi
mà
như
vậy,
lúc
lâm
chung
đọa
địa
ngục
làm
sao.
Ông
liền
cậy
các
sãi
đem
chuyện
vãng
sanh
đọc
cho
mà
nghe.
Ông
ngồi
xây
mặt
về
hướng
Tây
nghe
đọc
hết
các
sự
tích
rồi
đứng
dậy
lạy
một
lạy
và
niệm
Phật.
Khi
đọc
hết,
Huýnh
Kha
liền
niệm
Phật
suốt
ba
ngày
đêm,
bỏ
cơm,
ngủ
gục
chiêm
bao
thấy
Phật
bảo
rằng:
‘’Số
ngươi
còn
sống
mười
năm
nữa
phải
ráng
mà
tu’’.
Vía
ông
lạy
Phật
bạch
rằng:
‘’Cõi
thế
gian
độc
ác
con
tu
sao
nổi
mười
năm,
xin
Phật
rước
con
về
Cực
lạc
rồi
tu
và
hầu
hạ
các
Bồ
Tát’’.
Phật
nói
‘’Ngươi
tình
nguyện
như
vậy,
thời
niệm
Phật
ba
ngày
nữa
ta
sẽ
qua
rước
hồn’’.
Huýnh
Kha
nhịn
ăn
luôn,
niệm
Phật
cho
đủ
ba
ngày
đêm
và
cậy
các
sãi
tụng
kinh
Di
Ðà
đưa
mình.
Một
lát
nói
lớn
rằng:
‘’Phật
với
các
Bồ
Tát
đã
đến
rước
ta’’.
Nói
rồi
quỳ
lạy
xong
xây
mặt
về
hướng
Tây
niệm
Phật
mà
chết.
20.-
Ðời
Tống,
có
Trọng
Minh
ở
huyện
Sơn
Âm
chùa
Báo
Ân,
không
giữ
ngũ
giới,
lúc
bịnh
nói
với
bạn
tu
là
Ðạo
Ninh
rằng:
‘’
Nay
ta
loạn
tâm,
thuốc
chi
trị
được?’’
Ðạo
Ninh
nói:
‘’Cứ
niệm
Phật
mãi’’.
Trọng
Minh
y
lời
niệm
Phật
ròng
bảy
ngày
hơi
đã
đuối
quá,
Ðạo
Ninh
bảo
hãy
tưởng
tượng
Ðức
Phật
Di
Ðà
trong
tâm.
Trọng
Minh
y
lời
tưởng
tượng
mãi
thấy
hai
vị
Bồ
Tát
và
Phật
Di
Ðà
rồi
nhắm
mắt
mà
chết
ngồi.
Người
dữ
cầu
vãng
sanh
niệm
Phật
phải
bằng
trăm
phần
người
hiền.
Nếu
lo
ra
xao
lãng,
tưởng
việc
khác,
Phật
không
rước
ắt
sa
địa
ngục.
Xin
quý
vị
Hòa
thượng,
Yết
ma,
Giáo
thọ,
Thủ
tọa
và
bổn
đạo,
ráng
trường
chay
niệm
Phật,
tinh
tấn
tụng
kinh
Di
Ðà
ít
năm
hoặc
ít
tháng
cho
tới
lâm
chung,
lo
chi
Ðức
Phật
A
Di
Ðà
không
rước
về
Tây
phương,
ngồi
chín
phẩm
sen
vàng.
(Niệm
30
vạn
biến
vãng
sanh,
chắc
chắn
thấy
Phật).
Nhứt
là
những
vị
trường
chay,
những
vị
tu
lâu
năm
thường
niệm
Phật
tụng
kinh
nhựt
khóa
thì
công
quả
càng
lớn
lo
chi
không
được
về
Cực
lạc,
liên
hoa
hóa
thân,
ngồi
trên
chín
phẩm
tòa
sen.
Sự
Tích
Vãng
Sanh
Ở
Nước
Việt
Nam
21.-
Ông
Trần
Phong
Sắc
tại
chợ
Vũng
Gù
(bây
giờ
gọi
là
Long
An).
Ông
trường
chay
lúc
10
tuổi
và
thờ
Tam
giáo,
Nho,
Thích,
Ðạo.
Vào
khoảng
năm
1920,
ông
làm
giáo
học
dạy
chữ
Nho
tại
trường
tỉnh
Long
An.
Ông
xem
kinh
Ðại
tạng
gần
30
năm
mới
gặp
pháp
môn
Tịnh
độ.
Lúc
đó
ông
trên
50
tuổi
và
bắt
đầu
tu
theo
pháp
môn
này.
Ông
có
viết
quyển
Lão
Nhơn
Ðắc
Ðộ
và
dịch
quyển
Tây
Quy
Trực
Chỉ
của
ông
Châu
an
Sỹ.
Cơn
lâm
chung,
ông
biết
trước
ngày
về
Tây
phương,
do
đó
ông
có
làm
bài
kệ
khuyên
người
tu
Tịnh
độ
(xem
Tây
Quy
Trực
Chỉ).
22.-
Vào
khoảng
năm
1958,
một
cô
giáo
ở
chợ
Lớn
19
tuổi,
quy
y
với
vị
Hòa
Thượng
Thích
Khánh
Anh
(về
sau
Hòa
thượng
được
làm
pháp
chủ
hội
Phật
Giáo
Tăng
Già
Nam
Việt).
Cô
giáo
được
đặt
pháp
danh
là
Diệu
Tâm,
cô
ăn
chay
trường,
nuôi
mẹ
góa,
sớm
chiều
công
phu
niệm
Phật.
Ngày
14
và
30
cô
thường
đến
chùa
lạy
sám
hối.
Ðến
năm
21
tuổi
bị
bệnh
cô
nhờ
rước
thầy
của
cô
đến
tụng
niệm.
Ðến
giờ
lâm
chung,
cô
bảo
đỡ
ngồi
dậy
vì
Quan
Âm
Bồ
Tát
đến
rước.
Lúc
ấy
hào
quang
sáng
rực
trên
nóc
nhà.
Lối
xóm
tưởng
nhà
cô
giáo
cháy,
chạy
tới
chữa
lửa.
23.-
Ông
chủ
Thìn
làm
nghề
trồng
rẫy
ở
An
Hội
quận
Gò
Vấp,
tỉnh
Gia
Ðịnh.
Năm
1927
ông
bắt
đầu
tu
theo
pháp
môn
Tịnh
độ.
Ðến
năm
1930,
ông
biết
trước
ngày
giờ
quy
Tây
nên
làm
sẵn
một
cái
bia
ghi
ngày
tháng
như
vầy:
‘’Ngày
14
rạng
mặt
rằm
tháng
2
năm
1930’’
Ðồng
thời
ông
ra
nghĩa
địa
chôn
sẵn
một
cái
lu,
đến
ngày
lâm
chung,
ông
tụng
kinh
niệm
Phật
trước
bàn
Phật
rồi
đến
nghĩa
địa
xuống
lu
ngồi
niệm
Phật
lớn
vài
tiếng
rồi
tắt
thở.
24.-
Năm
1890,
có
một
ông
thầy
thuốc
ở
tỉnh
Gia
Ðịnh.
Ông
thường
hay
làm
phước,
nhứt
là
thí
thuốc.
đi
đâu
ông
cũng
mang
một
cái
túi
dùng
để
lượm
miểng
chai,
và
một
cái
chày
để
đóng
những
cây
lồi
lên
mặt
đất
làm
cản
trở
lối
đi.
Năm
sau
cùng,
ông
tu
theo
pháp
môn
Tịnh
độ.
Ông
biết
ngày
giờ
chết
trước
ba
tháng.
Ba
ngày
trước
khi
chết,
ông
ngồi
xếp
bằng
và
niệm
Phật
trước
bàn
Phật.
Mỗi
ngày
chỉ
ăn
vài
chén
cháo
trắng.
Ðến
12
giờ
ngày
cuối
cùng,
ông
tắt
thở.
Loài
Vật
Biết
Nói
Tiếng
Người
Ðặng
Vãng
Sanh
25.-
Ðời
Ðường
niên
hiệu
Trinh
Ngươn,
tại
quận
Hà
Ðông
có
nàng
Bùi
Thị
nuôi
một
con
két
lớn
(
Tàu
kêu
Anh
Võ).
Bởi
biết
nói
tiếng
như
sao
sáo,
bắt
chước
niệm
Phật.
Thường
quá
giờ
Ngọ
thời
chẳng
ăn.
Rốt
lại
niệm
Phật
mười
hơi
mới
chết.
Chủ
đốt
thử
coi,
được
mười
mấy
hột
Xá
Lợi
sáng
ngời
như
hột
châu
chói
mắt.
Sãi
Huệ
Quang
thấy
vậy
xây
tháp
nhỏ,
đựng
những
hột
Xá
Lợi
vào
hộp
nhỏ
để
trong
tháp
gọi
là
tháp
Anh
Võ.
Có
dựng
bia
khắc
chữ
thuật
sự
tích
nó.
26.-
Ðời
Ðường,
núi
Huỳnh
Nham,
chùa
Chánh
Ðẳng,
ông
họ
Quan
có
nuôi
một
con
sao
sáo,
niệm
Phật
không
ngừng.
Ngày
kia
con
sáo
chết
đứng
trong
lồng.
Chủ
đào
lổ
chôn
nó.
Không
bao
lâu
mọc
lên
một
nhánh
bông
sen
đỏ
sậm.
Moi
thử
coi,
gốc
nhánh
sen
trong
miệng
nó
(chắc
là
cái
lưỡi
hóa
sen).
27.-
Huyện
Ðàm
Châu,
có
người
nuôi
một
con
cưỡng,
nó
thường
niệm
Phật.
Khi
nó
chết,
chủ
lấy
một
hộp
mỏng
đựng
mà
chôn.
Sau
cũng
mọc
lên
một
nhánh
bông
sen
hường.
Moi
thử
gốc
sen,
chính
cái
lưỡi
nó
(thiệt
thổ
liên
hoa).
Liên
Trì
đại
sư
nói:
‘’Người
ta
bây
giờ
hay
dạy
con
keo
(Anh
ca)
với
sáo
niệm
Phật
chơi.
Nó
cũng
niệm
ít
tiếng
như
nhái
chớ
không
niệm
thường
nên
chẳng
thấy
con
nào
vãng
sanh
nữa!
Ôi!
Ví
như
người
tin
mà
niệm
hết
lòng,
còn
kẻ
niệm
cầm
chừng
lấy
có
nên
cũng
thời
niệm
Phật
có
người
chẳng
đặng
vãng
sanh
so
với
keo,
sáo,
cưỡng
kia
cũng
thế.
---o0o---