Tín,
Nguyện,
Hạnh
Pháp
môn
Tịnh
độ
lấy
Tín,
Nguyện,
Hạnh
làm
tông
như
cái
đảnh
có
ba
chân,
thiếu
một
tất
không
đứng
vững.
-
TÍN
là
căn
bản
của
người
tu.
Nếu
còn
nghi
thì
hoa
không
nở.
Thứ
nhứt:
Phải
tin
chắc
chắn
rằng,
vì
lòng
từ
bi,
Ðức
Phât
Thích
Ca
dạy
cho
chúng
ta
những
lời
trong
kinh
đều
chân
thật.
Lo
cho
mình
không
tu
niệm,
lo
chi
Phật
Di
Ðà,
Thích
Ca
nói
gạt.
Rất
đỗi
phàm
tục
những
người
ngay
thẳng
còn
không
nói
dối
đặt
chuyện
gạt
ai,
huống
chi
luật
Phật
cấm
vọng
ngữ,
lẽ
nào
ngài
gạt
đời
làm
chi.
Thứ
hai:
Phải
tin
chắn
chắn
rằng:
Ngoài
thế
giới
chúng
ta
vẫn
sống
đây,
chắc
chắn
có
thế
giới
Cực
lạc,
có
nhiều
điều
vui
do
Ðức
Phật
A
Di
Ðà
làm
giáo
chủ.
Thứ
ba:
Phải
tin
chắc
chắn
rằng;
ta
là
phàm
phu
nhiều
nghiệp
chướng,
không
thể
chỉ
nương
cậy
vào
sức
mình
để
thoát
sanh
tử
ngay
trong
một
kiếp
này,
phải
nhờ
Phật
giúp.
Thứ
tư:
phải
tin
chắc
chắn
rằng:
Ðức
Phật
A
Di
Ðà
có
lời
thệ
nguyện
rộng
lớn,
nếu
chúng
sanh
nào
niệm
danh
hiệu
Ngài,
cầu
nguyện
về
nước
Ngài,
khi
chết
chắc
chắn
sẽ
được
Ngài
tiếp
dẫn
vãng
sanh
Cực
lạc.
b)---NGUY_N
nghĩa
là
thệ
nguyện.
Tu
tịnh
độ
mà
không
dám
nhứt
tâm
thệ
nguyện
cầu
vãng
sanh
Tây
phương
Cực
lạc
thì
khó
mà
thành
công.
Nếu
thệ
nguyện
một
lòng
một
dạ
không
dời
đổi
chí
nguyện
vãng
sanh
của
mình
mới
bền
vững.
Lòng
thệ
nguyện
phải
cho
bền
chặt.
Dù
ai
nói
pháp
nào
hay,
dù
ai
nói
sẽ
cho
mình
thành
đạo
tại
thế,
hoặc
chứng
Niết
Bàn
hiện
tiền,
mình
cũng
không
tin,
không
bỏ
chí
nguyện
vãng
sanh
của
mình.
Người
có
thệ
nguyện
là
người
có
lập
trường
vững
chắc,
là
người
kiên
tâm
Bồ
Ðề,
là
người
dám
thệ
rằng
dù
nghèo
giàu
sang
hèn,
bệnh
hoạn,
tật
nguyền
chi
chi
cũng
không
thay
đổi
chí
hướng
theo
Phật
Di
Ðà
về
nước
Cực
lạc.
Sức
thệ
nguyện
càng
lớn
càng
thâm
thì
đạo
tâm
mới
kiên
cố.
Nguyện
lìa
cõi
trần
này
sanh
về
Cực
lạc
như
tù
nhân
mong
ra
khỏi
ngục,
như
người
đi
xa
nhớ
quê
hương.
Nếu
chưa
được
vãng
sanh
Tịnh
độ,
dù
cho
kiếp
sau
làm
vua
ở
cõi
trời
cũng
không
thích
vì
còn
phải
luân
hồi,
chỉ
muốn
lâm
chung
được
Phật
rước
về
Tây
Phương
mà
thôi.
được
như
thế
thì
nguyện
của
ta
mới
cảm
đến
Phật
và
thệ
nguyện
của
Phật
mới
có
thể
nhiếp
thọ
ta.
Ðức
A
Di
Ðà
tuy
thệ
nguyện
độ
sanh
nhưng
nếu
chúng
sanh
không
cần
ngài
tiếp
dẫn,
ngài
cũng
không
biết
làm
sao.
Muốn
sanh
Tây
phương
phải
tin
sâu,
nguyện
thiết.
Thiếu
hai
điều
này,
dù
có
niệm
Phật
đến
đâu
cũng
không
thể
cảm
ứng
với
Phật;
chỉ
được
phước
báu
ở
cõi
người
hoặc
cõi
ngườI
và
gieo
nhân
giải
thoát
về
sau
mà
thôi.
Nếu
tín
nguyện
đãy
đủ
thì
muôn
ngườI
vãng
sanh
không
sót
một.
Ngài
Vĩnh
Minh
bảo
‘’Muôn
tu
muôn
người
về’’,
là
chỉ
cho
ai
có
tín
nguyện
đầy
đủ.
Ngài
Ngẫu
Ích
Ðại
Sư
nói:
‘’Ðược
sanh
cùng
chăng
toàn
do
tín
nguyện
có
hay
không,
phẩm
sen
cao
thấp
đều
bởi
do
trì
danh
sâu
hay
cạn.’’
Ðây
là
một
luận
án
sắt
dù
ngàn
Phật
ra
đời
cũng
không
thay
đổi.
Bình
sanh
không
tín
nguyện,
lúc
lâm
chung
khó
được
nhờ
sức
Phật
tiếp
dẫn.
Cổ
Ðức
bảo:
‘’Tâm
nghiệp
rất
nhiều,
ngả
về
một
mối
nặng
như
người
mắc
nợ,
chủ
nợ
mạnh
kéo
đi’’.
Lúc
lâm
chung
nghiệp
lành
dữ
đều
hiện,
nếu
không
tín
nguyện,
nghiệp
lực
lôi
cuốn
mất
sự
tự
chủ.
Nếu
chỉ
nương
cậy
sức
mình,
dù
nghiệp
còn
mảy
tơ
cũng
không
thoát
khỏi
sanh
tử.
niệm
Phật
đến
nhứt
tâm
mà
không
tín
nguyện,
trong
vô
số
người
may
mới
có
một
vài
người
được
vãng
sanh.
Dùng
lòng
tín
nguyện
chơn
thiết
thì
không
luận
nghiệp
nặng
hay
nhẹ,
đều
được
nhờ
từ
lực
vãng
sanh.
Ví
dụ
một
hột
cát
nhỏ
để
vào
nước
liền
chìm,
trái
lại
tảng
đá
dù
nặng
ngàn
cân
được
chở
trên
thuyền
to
cũng
có
thể
đem
đi
nơi
khác.
Kinh
Hoa
Nghiêm
nói:
‘’Người
ấy
khi
gần
lâm
chung,
trong
sát
na
tối
hậu,
tất
cả
các
căn
đều
bại
hoại,
tất
cả
các
thân
thuộc
đều
xa
vời,
tất
cả
các
uy
thế
đều
tan
rã,
chỉ
còn
nguyện
nương
là
hằng
còn
theo
dõi
hướng
dẫn
trước
mắt,
trong
một
khoảnh
khắc
liền
được
vãng
sanh
thế
giới
Cực
lạc’’.
Sự
tích
sau
đây
cho
ta
thấy
tầm
quan
trọng
của
sự
phát
nguyện.
Bà
Thái
Sương
vợ
một
Hoa
Kiều
ở
Qui
Nhơn,
tu
tịnh
độ
và
phát
nguyện
rằng:
‘’Nguyện
vãng
sanh
Cực
lạc
nhằm
ngày
vía
Ðức
Phật
A
Di
Ðà
(tức
là
17
tháng
11
Âm
lịch).
Bà
mất
năm
80
tuổi.
đầu
tháng11,
bà
nhờ
thầy
Bạch
Sa
tụng
một
bộ
kinh
Thủy
Sám
và
một
bộ
kinh
Pháp
Hoa
để
kịp
đến
ngày
17
bà
về
chầu
Phật.
Ðến
ngày
17
bà
con
và
đạo
hữu
hay
tin
ấy
đến
nhà
bà
để
thỏa
mãn
tánh
hiếu
kỳ.
Buổi
sáng
hôm
ấy
bà
vẫn
mạnh
khỏe
như
thường.
Ðúng
10
giờ,
bà
bảo
người
nhà
đem
cơm
lên
cúng
Phật
rồi
ăn.
Ăn
xong
bà
súc
miệng
rửa
mặt
và
thay
quần
áo.
Ðúng
12
giờ
trưa
bà
chào
tất
cả
mọi
người
rồi
ngồi
xếp
bằng,
hai
tay
chắp
trước
ngực
mà
hóa
một
cách
vui
vẻ
trước
sự
kinh
ngạc
của
mọi
người.
Năm
ấy
ở
Quy
Nhơn,
thiên
hạ
bàn
tán
xôn
xao
về
cái
chết
của
bà.
Xem
đó
đủ
biết
sự
phát
nguyện
vãng
sanh
Cực
lạc
là
một
điều
tối
cần
thiết
cho
người
tu
pháp
môn
Tịnh
độ.
Người
tu
phép
này,
hàng
ngày
hôm
sớm
phát
nguyện
vãng
sanh
về
Cực
lạc,
không
quên
mỗi
tháng
có
một
giờ
trong
một
ngày,
đọc
bài
phát
nguyện
trước
đây
lạy
đúng
hướng
có
Phật
Di
Ðà
cùng
chư
Phật
mườI
phương
chứng
minh.
c)---H_NH
là
ta
phải
chí
thành
khẩn
thiết
niệm
câu
NAM
MÔ
A
DI
ÐA
PH_T
mỗi
thời
khắc
đừng
để
tạm
quên.
Ngoài
thời
khóa
tụng,
bất
cứ
lúc
nào
đi
đứng
nằm
ngồi
đều
niệm
thầm,
nhất
là
nằm
chưa
ngủ,
niệm
thầm
hoài
cho
tới
ngủ
quên.
Thức
giấc
cũng
niệm
chuyền
như
vậy,
lâu
ngày
thời
thấy
sự
linh
nghiệm
của
Phật
Di
Ðà.
Bất
cần
ngày
chay
hay
ngày
mặn,
ở
trần,
nằm
nghiêng,
nên
niệm
thầm,
tiêu
rồi
bước
ra
cũng
niệm
luôn.
Muốn
sắm
chuỗi
lần
cũng
tốt,
niệm
không
cũng
tốt.
Bậc
hạ
phải
có
chuỗi
lần
mà
buộc
lòng,
lâu
ngày
quen
niệm
tự
nhiên
như
kinh
không
chữ,
miệng
niệm
tai
ghi
nhớ
rõ
ràng
lần
lần
vọng
niệm
tiêu
dứt.
Nếu
làn
sóng
vọng
tưởng
nổi
trào
quá
mạnh,
nên
dùng
phép
thập
niệm
ký
số
như
sau:
Niệm
Phật
phải
ghi
nhớ
rõ
ràng
từ
một
đến
mười
câu
không
dư
không
thiếu,
rồi
trở
lại
một,
cứ
thế
mãi
trong
vòng
mười
câu
thôi
không
được
hai
chục
hoặc
hơn.
Cách
này
không
nên
dùng
chuỗi,
dùng
tâm
ghi
nhớ.
Nếu
niệm
một
hơi
từ
một
đến
mười
thấy
khó
thì
phân
làm
hai
(từ
1
đến
5
rồi
từ
6
đến
10)
hoặc
làm
ba
(
từ
một
đến
ba,
từ
bốn
đến
sáu
rồi
từ
bảy
đến
mười).
Lựa
cách
nào
hợp
với
mình,
không
nên
thay
đổi.
(Phép
này
của
ông
Ấn
Quang
Pháp
Sư
dạy,
và
áp
dụng
có
kết
quả.)
Niệm
Phật
quí
tại
tâm,
nhưng
cũng
không
nên
bỏ
sự
đọc
tụng
ra
tiếng
và
lạy
trước
bàn
Phật
vì
thân,
miệng,
ý
giúp
đỡ
lẫn
nhau.
Dù
tâm
có
ghi
nhớ,
song
nếu
thân
không
lễ
kính,
miệng
chẳng
trì
tụng
thì
cũng
khó
được
lợi
ích.
Người
đời
khi
khiêng
đồ
vật
nặng
còn
phải
nhờ
tiếng
giúp
sức.
Với
hạng
phàm
phu,
tâm
hay
bị
xao
lãng,
nếu
không
nhờ
sức
thân
lễ,
miệng
tụng,
khó
được
nhứt
tâm.
Kinh
Ðại
Tập
nói:
‘’Niệm
lớn
thấy
Phật
lớn,
niệm
nhỏ
thấy
Phật
nhỏ’’.
Phật
Di
Ðà
dạy
niệm
cho
khỏi
vọng
ra
ý
ác,
tu
luyện
tâm
thanh
tịnh,
lâu
ngày
phát
ra
ý
thiện,
theo
công
quá
cách
thời
công
hạnh
mới
nhiều.
Chớ
lầm
Phật
Di
Ðà
cần
cầu
mị
mà
buộc
tôn
sùng
Ngài
đâu.
Phật
rước
những
người
không
tà
niệm
ý
ác
mà
thôi.
Thờ
tượng
Phật
Di
Ðà
trong
lòng
tin
tưởng
như
thật
chơn
dung
đó,
đừng
tưởng
hình
giả,
tuy
hình
vẽ
mà
lòng
mình
tưởng
như
có
ngài
hiện
xuống
nhập
vô
đó,
thời
thiên
nhãn
Ngài
chiếu
xuống
cũng
thấy.
Như
thiệt
lòng
thành
và
cung
kính
thời
cảm
động
(như
động
mối
dây
thép
này,
thời
đầu
kia
động)
vì
tâm
mình
thường
niệm
đã
hiệp
với
tâm
Phật
rồi.
Nếu
thuộc
chú
vãng
sanh,
gặp
ai
sát
sanh,
thời
niệm
Di
Ðà
mười
câu
với
mười
câu
dài
(NAM
MÔ
TÂY
PHƯƠNG
C_C
L_C..
.PH_T)
rồi
niệm
ba
biến
vãng
sanh
mà
cứu
độ
nó.
Gặp
con
chi
mới
chết,
đương
chết
cũng
niệm
vậy.
Nói
chi
tới
lúc
đưa
đạo
hữu
lâm
chung,
thời
niệm
hoài
cho
đến
chung
cuộc.
Trong
khi
niệm
Phật,
bất
cứ
làm
công
đức
gì
nhỏ
hay
lớn,
như
bố
thí
một
đồng
hay
cứu
mạng
một
con
kiến,
hoặc
xỏ
dùm
một
lổ
kim.
Sau
khi
làm
xong,
tưởng
tượng
Phật
Di
Ðà
trước
mặt
đọc
thầm
‘’Tôi
làm
công
đức
này
nguyện
sanh
về
thế
giớI
Cực
lạc
của
ngài’’.
---o0o---