Bài
Vấn
Ðáp
Cho
Khỏi
Nghi
Hỏi:
Có
kẻ
tu
lâu,
gần
lâm
chung
ngã
mặn
thôi
tu,
kế
chết
Phật
rước
chăng?
Ðáp:
Kẻ
ấy
như
người
đến
bến
đò,
chờ
lâu
ngã
lòng
đi
chơi,
đò
qua
sông
không
hay,
làm
sao
Phật
rước
đặng?
Nhưng
vị
này
lúc
bịnh
ráng
nguyện
lại,
trường
trai
theo
phép,
niệm
Phật
gia
bội
ít
ngày
Phật
rước
mau
lắm.
cũng
như
người
đến
bến
đò
đã
lâu,
bỏ
đi
chơi
nay
kịp
chuyến
đò.
Quí
vị
ngã
mặn
đã
lâu,
vì
nghi
ngại
tu
không
kịp
để
thác
như
để
hụt
đò.
Uổng
quá!
Tiếc
thay!
Hỏi:
những
vị
nào
hồi
tâm
muộn
quá,
đôi
ngày
kế
thác
có
đặng
vãng
sanh
không?
Ðáp:
Quí
vị
lúc
gần
lâm
chung,
có
thiện
căn
mới
được.
Song
phải
phát
nguyện,
xuất
của
bố
thí
tức
thời,
hoặc
dặn
con
bố
thí
thế
cho
mình.
Nghèo
thời
dặn
con
trường
trai
trong
ba
năm
tang.
Niệm
Phật
tụng
kinh
Di
Ðà
cho
mình.
Ðại
nguyện
như
vậy,
lòng
phải
chí
thành
niệm
Phật
nửa
ngày
hoặc
ít
giờ,
Phật
cũng
rước
về
làm
dân
tu
thêm
cho
khỏi
phải
luân
hồi.
Hỏi:
Ai
ăn
người
nấy
no,
con
tu
thế
cho
cha
mẹ
đặng
sao?
Ðáp:
Sao
không,
vì
máu
thịt
cha
mẹ
chia
ra
tuy
thác
như
sống,
trối
tu
như
vậy
thời
thành,
song
e
con
cháu
không
chịu
tu
thời
vong
hồn
tu
thêm
tại
Tây
phương,
lâu
ngày
cũng
có
quả
vị.
Quí
vị
lúc
lâm
chung
có
Phật
rước
thời
đặng
thành.
Hỏi:
Người
phàm
nhiều
kiếp
đến
nay,
làm
tội
dữ
vô
số,
gần
chết
niệm
Phật
mười
câu
sao
mà
đặng
vãng
sanh
dễ
như
vậy?
Ðáp:
Người
ấy
đời
nay
không
tu
sớm
mà
kiếp
trước
có
công
tu
nhơn
tích
đức
mộ
đạo
Phật,
nay
lỡ
mê
trần
nên
không
tỉnh
ngộ.
Nếu
kiếp
trước
không
tu
thời
nay
chết
như
thế
thường,
đâu
có
may
gặp
người
biết
phép
Tịnh
độ
chỉ
điểm
lúc
lâm
chung,
niệm
Phật
hết
lòng
cho
Phật
rước.
Người
không
có
thiện
căn
dầu
hết
lòng
chỉ
điểm
cũng
không
tin
mà
niệm
Phật
có
đâu
ăn
năn
đắc
ngộ
mà
sám
hối
tội
lỗi
xưa,
bỏ
hết
các
việc
vọng
tưởng
‘quyết
một
đường
qua
Cực
lạc
,
không
mơ
ngõ
khác’
lòng
chí
thiết
không
xao
lãng
như
vậy,
niệm
Phật
một
câu
bằng
ngàn
câu:
mười
câu
bằng
muôn
câu,
lẽ
nào
Ðức
Phật
Di
Ðà
không
cảm
động
qua
rước.
Kinh
Thập
Lục
Quán
nói:
‘
Lòng
thanh
tịnh
chí
quyết,
niệm
10
hơi
cũng
đủ
tiêu
tội
80
ức
dư
kiếp
trước’.
Nếu
quả
lòng
thành
như
vậy,
nhờ
có
công
tu
kiếp
trước,
Ðức
Phật
Di
Ðà
qua
rước
chẳng
sai.
Hỏi:
Nếu
còn
tội
mà
ăn
năn
tu
niệm
chí
thành,
cũng
đặng
vãng
sanh
về
Tây
Phương
tu
thêm
mới
thành
Phật.
Vậy
thời
vội
tu
sớm
làm
chi,
để
hưởng
mùi
đời
cho
phỉ
tình,
đợi
gần
chết
ăn
không
đặng
sẽ
trường
trai,
tu
niệm
Tịnh
độ
ít
ngày
mà
theo
Phật
như
mấy
người
ác
vãng
sanh
đó,
tội
gì
mà
tu
sớm
thiệt
thòi
lắm.
Ðáp:
Phật
quí
tại
tâm,
những
ác
nhơn
vãng
sanh
là
thuở
nay
không
biết
phép
Tịnh
độ
mà
tu,
nay
gần
lâm
chung
có
người
chỉ
điểm
nên
hồi
tâm
niệm
Phật,
ấy
là
làm
ác
bấy
lâu
mà
vô
tâm,
nay
sám
hối
hồi
tâm
Phật
mới
rước,
chớ
tiềm
tâm
làm
ác,
tính
điếm
đàng
xảo
quyệt,
Trời
Phật
thua
trí
người
sao?
Trời
Phật
chuộng
những
người
chân
thật.
Kẻ
dữ
được
vãng
sanh
vì
có
căn
tu
kiếp
trước
nên
Phật
thương
tình
mà
xui
người
chỉ
điểm
lúc
lâm
chung.
Muôn
người
mới
có
một.
Có
mười
hạng
người
khi
lâm
chung
niệm
Phật
không
đủ
mười
câu;
Một
là
lúc
lâm
chung
không
gặp
người
biết
tu
tịnh
độ
mà
chỉ
điểm.
Hai
là
oan
báo
theo
mình
cản
trở
không
cho
niệm
Phật.
Ba
là
bịnh
á
khẩu
hoặc
tắt
tiếng.
Bốn
là
mê
sảng
không
biết
gì.
Năm
là
bị
chết
chìm
chết
thiêu.
Sáu
là
bị
hùm
tha
sấu
bắt,
rắn
cắn
trào
đờm.
Tám
là
trúng
thực
nhiễm
gió
bất
tỉnh
nhơn
sự.
Chín
là
tử
trận.
Mười
là
té
cây
đụng
xe
gẫy
chân.
Mười
sự
chết
đó
dễ
gì
tỉnh
táo
mà
niệm
mười
câu
cho
minh
bạch
lòng
không
loạn
tâm,
hoặc
niệmPhật
mà
còn
tưởng
vợ
chồng
con
cái,
nhớ
của
chôn
lo
trối
trăn
hậu
sự
dễ
bị
xao
lãng,
có
đâu
lòng
biết
ăn
năn
giữ
thanh
tịnh
niệm
cho
đủ
số.
Hoặc
lòng
còn
nuối
kẻ
nọ,
trông
có
thuật
hoàn
sanh,
chồng
khóc
vợ
kể,
con
cháu
theo
kêu
cho
rầy
tai,
loạn
tâm
lãng
trí,
trong
lòng
bối
rối
như
tơ,
khó
sửa
lòng
thanh
tịnh
mà
niệm
đủ
10
câu
cho
Phật
rước.
Chớ
đợi
đến
già
mới
niệm
Phật
Thiếu
chi
mồ
trẻ
đã
qua
đời
Khuyên
niệm
Phật
than
mình
chưa
rảnh
Ðợi
bắt
hồn
rắp
việc
cũng
theo!
Nhứt
là
thời
buổi
giặc
giã
chiến
tranh,
người
ta
bị
bom
đạn
chết
một
cách
bất
ngờ.
Ðâu
có
ai
chắc
mình
sống
đến
ngày
mai.
Ai
biết
trước
số
mấy
mươi
mà
thác,
đừng
tin
thầy
coi
số
coi
tướng
nói
bốc
bướng
mà
lầm.
Thừa
lúc
chưa
già
chưa
bịnh,
chọn
ngày
sám
hối
lập
nguyện
tu
lần
cho
có
căn.
Bác
thợ
rèn
vừa
đập
sắt
vừa
niệm
Phật.
Vừa
làm
công
việc
hàng
ngày
để
nuôi
vợ
con
vừa
tu,
hoàn
cảnh
nào
cũng
tu
được
cả.
Chớ
bảo
có
thời
giờ
mới
tu
được,
hay
là
còn
trẻ,
dại
gì
tu
để
hưởng
mùi
đời
cho
phỉ
tình
rồi
sẽ
hay.
Tử
thần
đến,
công
việc
gì
gấp
cũng
phải
buông,
trẻ
cũng
không
tha.
Nếu
xảo
quyệt
tính
cho
lắm,
e
bị
sự
rủi,
đầu
thai
kiếp
khác
không
chắc
làm
người
hay
mang
lông
đội
sừng.
Dẫu
may
làm
người,
e
không
ai
nói
pháp
cho
mà
nghe,
không
dễ
gì
gặp
người
khuyên
tu
tịnh
độ
theo
con
đường
tắt;
Dẫu
có
người
khuyên
chưa
chắc
tin.
Mất
thân
người
muôn
kiếp
khó
tu
mới
là
khổ.
Cũng
bởi
tính
già
hóa
non.
Hỏi:
Người
phàm
dễ
bị
bó
buộc
phạm
nhiều
tội
lỗi,
các
điều
phiền
não
chưa
dứt,
một
mảy
phước
đức
chưa
tu.
Còn
như
Tây
Phương
Cực
Lạc
trên
ba
cõi
thiên
tiên
quí
hơn
cõi
thiển
đường
bực
Thiên
Ðế
bá
hội.
Lẽ
nào
mới
niệm
Phật
mà
đặng
về
Cực
Lạc?
Ðáp:
nhờ
Phật
Di
Ðà
rước,
không
phải
nhờ
sức
mình
tham
thiền
mà
qua
nổi
Cực
Lạc
ở
luôn.
Thí
dụ:
Con
kiến
lẩn
thẩn
cả
đời
đi
không
bao
xa,
còn
sợ
bị
cóc
liếm
giữa
đường,
nếu
đeo
vào
áo
một
người
đi
du
lịch
bằng
máy
bay,
trong
vài
giờ
đến
xứ
khác
như
không.
Còn
tu
Tịnh
Ðộ,
Phật
Di
Ðà
tiếp
dẫn
cũng
như
vậy.
Nếu
người
tu
hành
cứ
ỷ
tham
thiền
hay
luyện
đơn,
tại
cõi
trần
thời
đầu
thai
hoài
tu
không
biết
mấy
kiếp
mà
cũng
không
giải
thoát
khỏi
sanh
lão
bịnh
tử
có
đâu
thành
Phật.
Kiếp
này
tu
kiếp
sau
chắc
gì
mình
tu
nữa
không,
hay
hưởng
phước
giàu
sang
phú
quí
quên
tu.
Về
Cực
Lạc
khỏi
phải
luân
hồi,
lo
gì
không
thành
Phật
La
Hán.
Như
con
mọt
trong
cây
gần
gốc,
nếu
bò
lên
đục
từ
mắt
đục
lần
cho
tới
ngọn
thời
lâu
biết
chừng
nào.
Ấy
là
thí
dụ
cách
tham
thiền
hay
luyện
đơn
khổ
mà
lâu
vô
cùng,
e
không
thành
nữa.
Như
con
mọt
chưa
ra
khỏi
ngọn
tre
mà
chết.
Còn
tu
tịnh
độ
thiệt
tắt
dễ
nên
ví
như
con
mọt
ấy,
đục
dựa
ống
tre
không
bao
lâu
đã
ra
khỏi.
Nên
tu
tịnh
độ
gọi
là
hoành
xuất
tam
giới,
đi
ngay
rất
mau,
lo
chi
phàm
tục
không
đặng
vãng
sanh
Cực
Lạc.
Hỏi:
Trong
chín
phẩm
tòa
sen,
bực
thấp
từ
thứ
bảy
cho
đến
thứ
chín,
để
dành
cho
kẻ
mới
tu
ít
phước.
Nhứt
là
tòa
sen
thứ
chín,
nhiều
kẻ
ác
mới
tu,
may
phước
đặng
vãng
sanh
như
tích
Trương
Thiện
Hòa,
sãi
Huýnh
Kha,
tôi
e
kẻ
ấy
về
đó
còn
thói
tà
dữ,
chi
cho
khỏi
con
sâu
làm
rầu
nồi
canh
chăng?
Ðáp:
Lo
không
đặng
vãng
sanh,
lo
chi
về
đó
mà
còn
làm
dữ
là
vì
có
năm
cớ:
một
là
có
Phật
gìn
giữ,
hai
là
muốn
chi
có
nấy
không
lòng
tham,
ba
là
chim
linh
giảng
kinh
trên
cây
báu
cũng
đủ
hồi
tâm
ăn
năn
mà
sửa
lòng,
bốn
là
ở
gần
Bồ
Tát,
bạn
lành
không
ai
rầy
rà
gây
oán
thù,
năm
là
sống
hoài
tu
mãi
trở
nên
lòng
Phật;
gần
mực
thì
đen,
gần
đèn
thì
sáng,
xung
quanh
mọi
người
tu
thời
mình
cũng
tu
theo.
Nên
về
Cực
Lạc
kiếp
này
cũng
đặng
thành
Phật
không
thối
chí
nữa.
Hỏi:
Kinh
nói
tại
thế
gian,
có
kẻ
lòng
thành
phát
nguyện
tịnh
độ,
thời
trong
ao
thất
bửu
cõi
Cực
Lạc
có
mọc
một
cây
sen
trổ
ra
một
bông.
Lúc
lâm
chung,
Phật
rước
hồn
người
tu
ngồi
bay
về
Cực
Lạc
cho
Liên
Hoa
hóa
thân
ngồi
tòa
sen
ấy.
Nếu
lúc
sống
tu
tấn
tới,
bụi
sen
mau
ra
bông,
búp
sen
mau
lớn
bằng
bánh
xe,
có
nêu
tên
họ
người
tu
bên
ngoài.
Tới
số
Phật
Di
Ðà
ứng
điềm,
định
ngày
tiếp
dẫn.
Còn
ai
thối
chí
ngã
lòng,
bê
trễ
việc
tu
thời
sen
ấy
héo
dần.
Tới
thôi
tu
thời
sen
ấy
rụng.
Sau
tu
lại,
sen
này
chồi
lên
bông
khác,
nếu
bỏ
đạo
đến
chết
thời
bụi
sen
cũng
chết
khô.
Chẳng
hay
lời
ấy
có
đáng
tin
chăng?
Ðáp:
Việc
ấy
dễ
hiểu.
như
cái
kiếng
lớn,
vật
nào
chiếu
vào
thời
cũng
thấy
bóng
y
như
vậy.
Cõi
Cực
Lạc
của
Phật
Di
Ðà
rất
linh,
thế
gian
có
người
tu
tịnh
độ,
cõi
Tịnh
độ
mọc
sen
thêm;
sen
ấy
tùy
theo
người
tu
siêng
năng
hay
bê
trễ
mà
tươi
héo
gọIi
là
giống
sen
Bồ
Ðề,
mà
cũng
có
Ðức
Phật
Di
Ðà
chủ
trương
trong
đó,
là
lý
chắc
tự
nhiên,
lẽ
nào
Ðức
Phật
Thích
Ca
đặt
chuyện
huyễn
hoặc
mà
nghi
ngại?
‘
Người
tu
sen
Phật
lên,
người
thành
sen
Phật
trổ’
ấy
là
nhơn
quả
tự
nhiên.
Hỏi:
Tại
sao
niệm
Phật
Di
Ðà
cầu
vãng
sanh
về
nước
Cực
Lạc.
Thiếu
chi
các
vị
Phật
khác
mà
buộc
niệm
Di
Ðà
mãi?
Ðáp:
Một
là
bao
nhiêu
công
đức
của
Chư
Phật
mười
phương,
Ðức
Phật
A
Di
Ðà
đều
có
đủ,
nên
niệm
Phật
A
Di
Ðà
cũng
như
niệm
đủ
các
vị
Phật
mười
phương.
Hơn
nữa
mỗi
tháng
Phật
Di
Ðà
hội
chư
Phật
tại
hướng
nào
mình
có
lạy
sám
hối
phát
nguyện,
chư
Phật
mười
Phương
chứng
minh
đâu
có
thiếu
sót
vị
nào
đâu.
Hai
là
không
cầu
quyết
một
chỗ,
khó
nhứt
tâm
dễ
bị
xao
lãng.
Ba
là
các
cõi
Phật
khác
không
như
cõi
Cực
Lạc,
dẫu
vị
đó
thành
Phật
thời
hưởng
tiêu
diêu
một
nơi,
chứ
chư
dân
trong
nước
đều
khổ
não.
Bốn
là
Phật
A
Di
Ðà
Phát
48
nguyện,
quyết
tiếp
dẫn
chúng
sanh
niệm
Ngài,
dầu
phạm
tội
ngũ
nghịch
biết
ăn
năn
hối
cải
ngài
cũng
độ
hết.
Nên
ai
ở
cõi
này,
có
niệm
Phật
thời
phần
đông
niệm
Di
Ðà
nhiều
hơn.
Ðức
Phật
Thích
Ca
dạy
nhiều
phép
tu
luyện
rất
khó,
trừ
phép
tịnh
độ
rất
dễ
vì
biết
trước
đời
sau
chúng
sanh
phước
mỏng,
nghiệp
chướng
nặng
nề,
đạo
Phật
đã
mỏn,
các
kinh
lạc
hết
mà
Kinh
Di
Ðà
còn
soi
dấu
cả
trăm
năm.
Bởi
dễ
nên
ít
ai
tin
nên
mỗi
lần
Ngài
giảng
kinh
Di
Ðà,
Ngài
có
mời
chư
Phật
Như
Lai
mười
Phương
đến
chứng
minh
cho
đủ
tin
chắc.
Hỏi:
Nước
Cực
Lạc
cách
xa
cõi
trần
mười
muôn
ức
thế
giới
xa
xôi
dường
ấy
lẽ
nào
người
phàm
đi
tới?
Ðáp:
Xác
phàm
đi
xa
như
vậy
không
đặng,
chớ
phần
hồn
có
khó
gì!
Vì
lòng
thành
niệm
Phật,
Phật
rước
hồn
đi
không
phải
xác.
Thí
dụ:
chiêm
bao
đi
tới
nước
khác
ngàn
muôn
dặm,
nghe
ai
kêu
thời
tỉnh
thức
dậy
liền.
Có
phải
chiêm
bao
thấy
đi
gần
thời
tỉnh
mau,
đi
xa
thời
tỉnh
chậm
sao?
Hỏi:
Kinh
nói
‘
ai
ăn
chay
niệm
đủ
30
vạn
biến
vãng
sanh,
thời
Phật
Di
Ðà
hằng
chiếu
giám
trên
đầu,
bảo
hộ
tai
qua
nạn
khỏi,
để
làm
ăn
mà
tu,
đợi
lâm
chung
cho
biết
ngày
rước
hồn
về
Cực
Lạc.
Người
tu
Tịnh
Ðộ
ai
thấy
khoảng
đó
mà
không
ham
vì
niệm
thêm
30
vạn
có
khó
chi.
Di
Ðà
có
một
ông
chiếu
giám
sao
cho
xiết,
hơn
nữa
cả
mười
phương
thế
giới
có
biết
bao
nhiêu
người
vãng
sanh
cùng
một
lúc
làm
sao
rước
cho
kịp?
Ðáp:
Rất
đỗi
mặt
trời
mặt
trăng
là
nhỏ
còn
chiếu
khắp
trên
đầu
thiên
hạ,
huống
chi
là
hào
quang
Phật.
Còn
thần
thông
Ðức
Phật
A
Di
Ðà
ba
mươi
sáu
triệu
một
trăm
mười
chín
ngàn
năm
trăm
ông
(36.119.500).
hơn
nữa
Phật
còn
biết
bao
nhiêu
đệ
tử
thành
Phật
đều
đắc
lục
thông.
Lo
mình
không
tu,
lo
chi
Phật
rước
không
kịp.
Hỏi:
Nay
muốn
vãng
sanh
Cực
Lạc
Tây
Phương
phải
làm
công
hạnh
chi?
Phát
tâm
làm
sao?
Vả
lại
kẻ
ở
thế
có
vợ
chồng
con
cái,
chưa
dứt
đường
dâm
dục,
kế
lâm
chung
niệm
Phật,
Phật
có
rước
không?
Ðáp:
Phật
cũng
rước
hết.
Muốn
vãng
sanh
cứ
niệm
Di
Ðà.
Cư
sĩ
ở
nhà
có
vợ
chồng
sanh
đẻ
không
có
tội
chi
miễn
giữ
giới
kỳ
cho
nghiêm
thời
khỏi
tội.
Nếu
khuyên
vợ
chồng
con
cháu
tu
theo
sau
cũng
vãng
sanh
về
Cực
Lạc
sum
họp
một
nhà.
Mình
còn
khuyên
người
khác
tu
lẽ
nào
để
con
cháu
luân
hồi
đọa
lạc
sao.
Lòng
phát
tâm
có
ba
cách:
một
là
nhàm
cõi
trần,
hai
là
mộ
Cực
Lạc,
ba
là
phát
tâm
Bồ
Ðề.
Cõi
trần
như
chông
gai,
vì
sự
ăn
mặc
mà
cực
khổ
cả
đời.
Vì
chữ
danh
lợi
mà
bôn
chôn
mạt
kiếp.
Có
người
khổ
nhiều
có
người
khổ
ít.
Nghèo
thời
lo
ăn
lo
mặc.
Giàu
thời
lo
giữ
của
giữ
tiền
sợ
ăn
cướp,
song
ai
ai
cũng
không
khỏi
bốn
điều
là
sanh,
lão,
bệnh,
tử.
1.
Sanh
Khổ:
Còn
trong
bụng
mẹ
không
đặng
thong
thả,
ở
nơi
không
sạch,
ăn
uống
huyết
nhơ.
Chịu
gần
ba
trăm
ngày,
gần
bằng
20
năm
khổ
não.
Ðến
lúc
sanh
ra
ép
gần
móp
mình,
nhứt
sanh
nhứt
tử
giếtmẹ
trong
một
khắc.
Sanh
rồi
bị
huyết
dơ
tống
theo,
lại
tiểu
tiện
dầm
dề
không
biết
hổ
thẹn.
Dầu
sang
giàu
thánh
hiền
cũng
vậy.
Lớn
lên
muốn
không
đặng
cũng
khổ,
ly
biệt
cũng
khổ,
oán
thù
giận
cũng
khổ.
Hưởng
sự
vui
sướng
có
một,
bị
việc
tru
phiền
hơn
tám
chín.
Làm
quan
ngay
thẳng
gặp
đứa
gian
cũng
oán
ghét.
Ít
có
ngày
nào
vui
trọn.
Gặp
sự
bất
bình
trái
ý
luôn
luôn.
Nằm
đêm
xét
kỹ
lại,
nhờ
có
thê
thiếp
con
cái
làm
cho
khuây
khỏa
vài
mươi
năm
rồi
cũng
già.
2.
Lão
Khổ:
Cảnh
già
khổ
lắm.
Chân
mỏi
gối
chùn,
mắt
mờ
tai
điếc,
răng
rụng
nhai
đau,tinh
thần
hao
tổn,
ăn
không
ngon,
ngủ
không
được,
bịnh
hoạn
luôn.
Trở
trời
trong
mình
đã
đau
nhức
khó
chịu.
Giàu
có
khó
mua
được
sức
khỏe
như
lúc
còn
xuân,
ngày
tháng
thấm
thoát
như
cá
cạn
nước
lần
lần.
3.
Bịnh
Khổ:
Ai
cũng
trải
qua
thời
kỳ
bệnh
hoạn
thời
biết
bịnh
như
thế
nào.
Nằm
nhà
thương
hay
vào
thăm
ai
nằm
nhà
thương
thời
thấy
rõ
khỏi
nhắc
lại.
4.
Chết
Khổ:
TớI
lúc
chết,
giựt
mình,
mắt
trợn
tròng,
tay
chân
co
quắp
dễ
sợ.
không
biết
chết
rồi
đi
về
đâu.
Trừ
ra
ngườI
tu
Tịnh
độ
mừng
mình
được
bỏ
xác
phàm
hôi
thúi
này.
-Mộ
Cực
Lạc
như
vầy:
Cực
Lạc
hơn
Thiên
Ðàng
thập
bội
khỏi
luân
hồi.
Lòng
ao
ước
trông
mãn
phần
về
Cực
Lạc
thảnh
thơi.
-Phát
tâm
Bồ
Ðề:
Bồ
Ðề
tâm
là
lòng
làm
lợi
ích
cho
người.
Khi
phát
tâm
này
như
đồ
máy
được
gắn
điện
có
năng
lực
mạnh
mẽ.
Những
công
đức
bình
thường
không
thể
sánh
kịp.
Nhứt
là
long
từ
bi
thương
xót
chúng
sanh
luân
hồi
khổ
sở,
hết
lòng
nguyện
độ
và
khuyên
mọi
người
tu
như
mình.
Có
người
hỏi
thiên
như
lão
nhơn
‘Vĩnh
Minh
Thọ
Thiện
Sư
là
thầy
đứng
đầu
Trung
Quốc,
ai
cũng
nhường
là
bậc
thầy
về
việc
tham
thiền
mà
sao
còn
tu
Tịnh
Ðộ,
thường
hay
đọc
bài
kệ
giảng
dạy
đệ
tử
và
bổn
đạo
như
sau:
Bài
Kệ
Nôm
Tham
thiền
không
Tịnh
Ðộ,
một
chục
chín
người
khổ
Tịnh
Ðộ
chẳng
tham
thiền,
tu
muôn
thành
đủ
số.
Cứ
theo
bài
kệ
chẳng
là
chê
ép
phép
tu
tham
thiền
mà
bào
chuốt
tôn
trọng,
khen
ngợi
cách
tu
Tịnh
Ðộ
thái
quá
chăng?
Lão
Nhơn
đáp:
Không
phải
Vĩnh
Minh
Ðại
Sư
khen
phép
tu
Tịnh
Ðộ
thái
quá.
Thiệt
phép
Tịnh
Ðộ
rất
rộng
lớn,
cách
tu
rất
tiện
dễ,
sao
gọi
là
phép
rộng
lớn?
Bởi
hết
thảy
phép
tu
đều
rút
tóm
rút
vào
đủ,
trừ
bực
thượng
là
Phật,
bậc
trung
là
Bồ
Tát,
bậc
hạ
là
Thinh
Văn,
Duyên
Giác,
bậc
dưới
chót
là
kẻ
dốt
hoặc
phạm
tội
ngũ
nghịch,
thập
ác,
nếu
chịu
ăn
năn
chừa
dữ
tu
theo
Tịnh
Ðộ,
không
cần
lâu
mau,
không
đợi
trường
trai
24
tháng,
cơn
lâm
chung
niệm
Phật
không
xao
lãng;
Phật
cũng
rước
về
Cực
Lạc.
Còn
tiện
dễ
là:
không
có
học
chi
khó,
làm
chi
mệt,
kẻ
sáng
dạ
niệm
thêm
30
vạn
biến
vãng
sanh,
kẻ
tối
dạ
không
thuộc
vãng
sanh
cứ
niệm
‘Nam
Mô
A
Di
Ðà
Phật’
cho
đủ
30
vạn
câu
thì
đủ.
Sau
dư
tu
thêm
lâm
chung
niệm
Phật
10
câu,
Phật
Di
Ðà
cũng
rước.
Về
Cực
Lạc
lien
hoa
hóa
thân,
tu
thêm
cho
tớI
thành
Phật.
Hỏi
thử
có
phép
tu
nào
dễ
mà
mau
thành
Phật
như
vậy
chăng?
Nếu
ai
không
trí
huệ
như
Vĩnh
Minh
Thiền
Sư
thời
cũng
không
lo
tu
thêm
Tịnh
Ðộ
và
khuyên
người
tu
Tịnh
Ðộ
như
mình.
Hỏi:
Hòa
thượng
Ðại
đức
đã
thông
hiểu
tham
thiền
kiến
tánh
thành
Phật
cũng
đủ,
phải
tu
thêm
Tịnh
Ðộ
làm
chi?
Ðáp:
Quí
vị
thông
thái
muốn
tu
thêm
Tịnh
Ðộ
như
Vĩnh
Minh
Thiền
Sư
thời
nôn
và
nóng
theo
Tịnh
Ðộ,
sức
muôn
con
trâu
kéo
cũng
không
thèm
trở
lại
hốt
vàng
rồi
sẽ
tu
thêm
Tịnh
Ðộ.
Nếu
thông
phép
tham
thiền
mà
chắc
sẽ
thành
Phật,
thời
các
vị
Ðại
Bồ
Tát
trước
khi
tham
thiền
đã
sáu
bực
nhiều
kiếp
mà
chưa
thành
còn
phải
tu
thêm
Tịnh
Ðộ
mới
thành
Bồ
Tát.
Kinh
Tam
Muội
nói
‘Văn
Thù
Bồ
Tát
thuật
chuyện
cũ
của
mình;
gọi
mình
nhờ
niệm
Phật
mới
thành
chánh
quả’.
Phật
Thế
Tôn
làm
dấu
trên
đầu
nói
rằng
:
Ngươi
nhờ
niệm
Phật
mà
đặng
vãng
sanh
Cực
Lạc,
chớ
có
nói
tham
thiền
giỏi
đâu.
‘Kinh
Hoa
Nghiêm
nói:
Phổ
Hiền
Bồ
Tát
lấy
mười
điều
nguyện
lớn
mà
dạy
Thiện
Tài
Ðồng
Tử
cũng
tu
Tịnh
Ðộ,
cho
Phật
rước
vãng
sanh
là
quí
hơn
hết.
Kinh
Lăng
Già
nói
‘Phật
Thế
Tôn
thọ
ký
cho
Long
Thọ
Bồ
Tát
mới
vãng
sanh
Cực
Lạc.
Ngũ
Thông
Bồ
Tát
người
nước
Thiên
Trúc
tu
luyện
tham
thiền,
xuất
hồn
qua
Cực
Lạc
ra
mắt
Phật
Di
Ðà
bạch
rằng:
Tôi
là
chúng
sinh
cõi
Ta
bà
nguyện
vãng
sanh
Tịnh
Ðộ,
nay
xin
Phật
hiện
hình
rước
có
nghi
tiết’.
Ấy
cũng
phải
tu
thêm
Tịnh
Ðộ
mà
Phật
rước
nào
chỉ
lấy
sức
tham
thiền
đặng
lên
cảnh
Phật
mà
ở
luôn
sao?
Thử
hỏi
được
bao
nhiêu
vị
tham
thiền
xuất
hồn
đến
cảnh
giớì
Cực
Lạc?
---o0o---