Lời tựa
Mọi người cùng có tâm này. Ai nấy đều có sở thích, do sở thích không đồng nên tạo nghiệp khác biệt, song sự bận rộn vẫn như nhau thôi! Người thích sát sinh, trộm cướp, tà dâm, vọng ngữ, thuần là nghiệp ác; người thích công danh học thuật thì hoặc là thiện hoặc là ác; chỉ có người thích làm lành, ưa bố thí thuần là nghiệp thiện. Ai nấy đều tùy theo sở thích, mỗi niệm mỗi niệm chẳng dừng, bận rộn đến chết mới thôi mà tâm cùng với nghiệp vẫn chưa dứt. Bậc Cao đức ngày xưa nói: “Muôn thứ đem chẳng được, chỉ có nghiệp theo mình”, theo nghiệp nhận lấy quả báo, người lành sinh vào những đường lành trong cõi trời người, khi phước hết lại đọa, khó được dễ mất. Kẻ ác rơi vào các nẻo ác, ngạ quỷ, súc sinh, địa ngục, thời gian lâu dài đau khổ vô cùng, dễ vào khó ra, luân hồi trong sáu nẻo, không biết bao giờ mới dừng nghỉ. Đó đều là do một niệm bất giác, quên chơn đuổi theo vọng, khởi hoặc tạo nghiệp, chịu khổ vô cùng. Nếu một niệm giác mà niệm Phật thì tâm hợp với Phật, chuyển nghiệp đoạn hoặc, bỏ vọng về chơn, thành tựu Phật đạo viên mãn, thế thì đâu chỉ nhanh chóng được lên Cực Lạc, thoát khỏi luân hồi thôi sao? Không ai hiểu rõ lý này lại chẳng niệm Phật.
Có ba phương pháp niệm Phật:
1. Chuyên niệm Phật chính mình: Tức là Thật Tướng Niệm Phật, như trong các kinh nói dùng trí Bát-nhã soi thấy các pháp uẩn, nhập, xứ, giới, đều không, tự thân chứng ngộ Tánh chơn như nhiệm mầu vốn có. Chỉ–Quán của tông Thiên Thai, việc tham cứu hướng thượng của Thiền tông, đều thuộc về pháp này. Nghĩa là niệm tự tánh thiên chơn Phật. Pháp này nghĩa lý rất sâu, tu không phải dễ, vì chỉ cậy vào tự lực, không có tha lực nào khác tương trợ. Nếu chẳng phải người có căn duyên xưa thuần thục, ngộ còn rất khó, huống gì thật chứng!
2. Chuyên niệm Phật khác: Phải đầy đủ lòng tin sâu chắc, phát nguyện thiết tha, mới có thể được sự cảm ứng qua lại với Phật, tự thân được Phật tiếp dẫn vãng sinh Cực Lạc, một đời thành Phật. Pháp này cũng có ba:
Một là Quán tưởng niệm Phật: Y theo kinh Quán Vô Lượng Thọ mà quán tưởng, hoặc chuyên quán bạch hào, hoặc chỉ quán thân Phật một trượng sáu, hoặc quán Pháp thân rộng lớn. Nhưng chúng sinh trí tuệ cạn cợt, cảnh quán vi tế, tâm thô thiển, nên pháp quán khó thành tựu.
Hai là Quán tượng niệm Phật: Tức quán hình tượng Phật, tâm thường buộc niệm, nhưng chúng sinh nghiệp chướng nặng nề, rời hình tượng lại quên mất sự quán tưởng do đó trở thành gián đoạn.
Chỉ có pháp thứ ba Trì danh niệm Phật: Là nhất tâm chuyên niệm Thánh hiệu Phật A-di-đà, thực hành dễ mà thành công nhanh, chỉ hay thâu nhiếp cả sáu căn, tiếp nối Tịnh niệm, niệm đến toàn tâm là Phật, toàn Phật là tâm, ngoài tâm không có Phật, ngoài Phật không có tâm, tâm–Phật đều hiển bày, lại tiêu tan cả hai thì lý Thật tướng nhiệm mầu toàn thể hiển lộ, y báo và chánh báo Tây Phương hiển bày trọn vẹn. Ngay nơi Trì danh đạt sâu Thật tướng, không cần Quán tưởng thấy suốt Tây Phương. Hiện tại, tự thân chứng Niệm Phật Tam-muội, lâm chung chắc chắn vãng sinh Thượng phẩm. Dù căn cơ thấp kém chưa được như thế, cũng do Tín–Nguyện–Trì danh như con nhớ mẹ luôn không gián đoạn, đến lúc lâm chung chắc chắn nương nhờ từ lực của Phật còn nghiệp mà được vãng sinh. Pháp này thâu nhiếp khắp mọi căn cơ lại được lợi ích sâu rộng, lợi ích rất lớn cho những kẻ độn căn thời mạt pháp, thỏa mãn hoài bão của Như Lai xuất hiện trên đời, cho nên “muôn người tu, muôn người vãng sinh”.
3. Niệm Phật chính mình và Niệm Phật khác: Là Thiền Tịnh song tu. Nếu đầy đủ Tín–Nguyện cầu vãng sinh thì Tham thiền tức là hạnh Tịnh độ, có nghi thì tham cứu, không nghi thì niệm Phật, chỉ là khi thực hành tự mình liệu lường mà thôi. Nếu chuyên khán “niệm Phật là ai?” để mong minh tâm kiến tánh, chẳng lấy việc Tín–Nguyện cầu vãng sinh làm chánh thì thật là có Thiền không có Tịnh. Nếu như có mảy may hoặc nghiệp chưa hết thì theo nghiệp dẫn dắt chẳng thể thoát ra, vì vốn chẳng bằng chuyên trì danh hiệu vào sâu một môn.
Tôi may mắn nhờ nghiệp lành đời trước, nay được thân người nhưng rất nhiều sự bận rộn suông, tạo nghiệp vô lượng. Sau khi bị đại nạn, nhờ ánh sáng của Phật chiếu soi, bạn lành dẫn dắt, được xem Văn Long Thơ Tịnh Độ, nhanh chóng sinh khởi lòng tin và sự phát nguyện, bỏ hết sở thích, chỉ thích niệm Phật.
Sau khi đến Đài Loan, hân hạnh được in ấn Đại tạng, lại được đọc rộng rãi các bộ sách Tịnh độ. Phàm thấy có những lời dạy về pháp tu trì Trì danh niệm Phật, tôi vừa đọc vừa trích ra. Những lời trân quý còn để lại vốn rất nhiều, tôi bèn thêm lời chú thích. Từ ngữ tuy chưa đạt, nhưng lý vốn từ trong kinh Phật lời Tổ chỉ dạy, hoàn toàn không có một chữ nào phát xuất từ ý riêng, để tự chuốc lấy lỗi phá hoại chánh pháp, làm lầm lạc chính mình. Tôi gọp lại thành bốn quyển gọi là “Niệm Phật Pháp Yếu”. Sách này vốn đầy đủ cho việc tự tu, tôn người xưa làm thầy, khuyến khích tinh tấn để tránh khỏi sự tu luyện đui mù, mang lại kết quả cong vạy. Do nhận lời mời của Tạp chí Sư Tử Hống nên đăng tải văn này, để mọi người có đường lối tiến đến chánh đạo. Đâu ngờ đăng tải liên tiếp vừa mới được phân nửa thì được chư Đại đức trong và ngoài nước quyên góp tiền của, thúc đẩy in ấn lưu truyền rộng rãi.
Mong rằng khắp cả chúng sinh trong pháp giới, những người không có thời giờ rảnh để thưa hỏi rộng rãi minh sư, vào sâu trong kinh tạng, nhưng có chỗ làm khuôn phép y theo lời dạy mà niệm Phật, cùng nhau ra khỏi dòng luân hồi đau khổ, sinh về Cực Lạc, đoạn dứt hoặc nghiệp, chứng ngộ Bồ-đề.
Cuối xuân Bính Ngọ,
Dân quốc năm thứ 55 (1966)
tại tịnh xá Tư Quy (Đài Bắc)
Bồ-tát giới Ưu Bà Tắc
Mao Dịch Viên kính ghi