1. NĂM TÂM SỞ
Thức này tương ưng
với bao nhiêu tâm sở?
Nó thường xuyên tương
ưng với xúc, tác ý, thọ, tưởng và tư.
Kể từ vô thủy cho đến
trước khi được chuyển y, trong tất cả mọi giai đoạn, thức này thường xuyên
tương ưng với năm tâm sở này. Vì chúng thuộc các tâm sở biến hành.
a. Xúc
Xúc, đó là sự phân
biệt biến dị trong tổ hợp ba, mà tự tính là làm cho tâm và tâm sở tiếp xúc với
cảnh; chức năng là làm sở y cho thọ, tưởng các thứ.[1]
Tổ hợp ba là sự hỗ
tương tùy thuận của căn, cảnh và thức.[2] Xúc y trên chúng nó mà phát sinh, làm
cho chúng hòa hiệp, do đó nói “chúng nó.”[3] Trong trạng thái hoà hiệp, ba sự
đều có công năng dẫn đến sự sinh khởi của tâm sở; đó gọi là “biến dị.”[4] Xúc
sinh khởi tương tợ với sự biến dị ấy được gọi là “phân biệt.”[5] Khi xúc được
dẫn khởi, hiệu lực biến dị của căn hơn hẳn thức và cảnh của nó, do đó các luận
như Tập luận[6] chỉ nói đến phân biệt về sự biến dị của căn.[7] Tự tính của xúc
là sự hòa hiệp tất cả tâm và tâm sở khiến cho chúng đồng tiếp xúc cảnh.[8]
Bởi vì nó tương tợ
công năng dẫn đến phát khởi tâm và tâm sở, nên chức năng (nghiệp) của nó là làm
sở y cho thọ, v.v. Kinh Khởi Tận nói: Các uẩn, thọ, tưởng, hành, tất cả đều lấy
xúc làm duyên.[9] Do ý nghĩa đó mà nói, thức, xúc, thọ các thứ phát sinh nhân
bởi sự hòa hiệp của hai, ba và bốn.[10]
Du-già[11] chỉ nói nó
làm sở y cho thọ, tưởng và tư; ấy là vì trong hành uẩn tư là chủ đạo,[12] là ưu
thắng.[13] Chỉ nêu nó mà bao hàm luôn các cái khác.
Các luận như Tập luận
nói nó làm sở y cho thọ, vì xúc sinh thọ là sự kiện gần và ưu thắng. Nghĩa là
các hình thái khả ý v.v. được tiếp nhận bởi xúc cùng với các hình thái thuận
ích được tiếp nhận bởi thọ rất là gần gũi nhau, bởi vì sự dẫn phát[14] của nó
ưu thắng.
Nhưng tự tính của xúc
là thật chứ không phải giả.[15] Vì nó là tâm sở tính trong sáu pháp sáu.[16] Vì
nó được kể trong thực phẩm.[17] Vì nó làm duyên.[18] Không phải như thọ tính
v.v. mà đồng nhất với tổ hợp ba.[19]
b. Tác ý
Tác ý, có bản chất là
cảnh giác tâm; chức năng là dẫn tâm hướng đến đối tượng.[20] Nghĩa là, nó cảnh
giác chủng tử của tâm cần được phát khởi,[21] hướng dẫn nó nhắm đến cảnh; đó gọi
là tác ý. Mặc dù nó cũng dẫn khởi tâm sở, nhưng vì tâm là chủ nên chỉ nói đến
sự dẫn khởi tâm.
Cũng có quan điểm cho rằng nó khiến cho tâm quay hướng đến đối tượng khác.[22]
Hoặc cho rằng, trong một đối tượng, nó duy trì tâm an trụ; đó gọi là tác ý.[23]
Các gải thích này đều phi lý. Vì như vậy, nó không phải là biến hành;[24] và vì
không có gì khác với định.[25]
c. Thọ
Thọ, tự tính của nó
là lãnh nạp[26] các hình thái đối tượng thuận, nghịch, hay phi cả hai;[27] chức
năng của nó là làm trổi dậy ái; vì nó khơi dậy sự ham muốn hiệp, ly[28] hay phi
cả hai.
Có giải thích nói
rằng, thọ có hai:[29] thọ (lãnh nạp) cảnh giới, tức lãnh nạp sở duyên; và thọ
(lãnh nạp) tự tính tức sự lãnh thọ câu hữu với xúc. Chỉ có tự tính thọ là đặc
tính riêng của thọ, vì cảnh giới thọ có chung các đặc tính khác.[30]
Giải thích này phi
lý. Một cách xác định, thọ không duyên đến đối tượng là xúc câu sinh. Nếu vì nó
sinh khởi tương tợ xúc mà nói là lãnh nạp xúc, thế thì quả tương tợ nhân đều có
tự tính là thọ. Lại nữa, xúc đã là nguyên nhân của thọ, thì nên nói thọ là thọ
của nhân,[31] sao lại nói là tự tính? Nếu nói, cũng như nói “nhà vua ăn (hưởng
thụ) các quốc ấp,”[32] cũng vậy, thọ lãnh nạp xúc, do đó thể của thọ được sản
sinh ấy được nói là thọ thuộc tự tính.” Nói như vậy cũng không hợp lý; vì tự
mâu thuẫn với tông phái mình, theo đó, không có tự chứng.[33] Nếu không xả tự
tính mà nói đến thọ (lãnh nạp) tự tính; nói thế thì hết thảy pháp đều có tự
tính là thọ. Cho nên, thí dụ được nêu chỉ có thể gạt trẻ nhỏ thôi.
Tuy nhiên, cảnh giới
thọ không cùng với các tâm sở khác có chung đặc tính. Sự lãnh nạp các đặc tính,
thuận nghịch v.v. được xác định thuộc bản thân, sự lãnh nạp ấy được gọi là cảnh
giới thọ, vì không chung với các tâm sở khác.[34]
d. Tưởng
Tưởng, tự tính là
tiếp thu ảnh tượng nơi đối tượng.[35] Chức năng của nó là quy ước[36] các loại
danh ngôn khác nhau. Nghĩa là, cần phải ấn định hình thái giới hạn của đối
tượng mới có thể tùy theo đó phát khởi các thứ danh ngôn khác nhau.
e. Tư
Tư, tự tính là khiến
tâm tạo tác.[37] Chức năng là sử dịch tâm nơi các phẩm chất thiện,v.v. [38] Tức
là, nó tiếp nhận các hình thái chính nhân[39] nơi đối tượng rồi thúc đẩy tâm
tạo các thứ thiện, bất thiện,v.v.
Năm tâm sở này thuộc
biến hành, do đó một cách xác định chúng tương ưng với tàng thức. Đặc tính của
biến hành sẽ giải thích sau.
Xúc, v.v., năm tâm sở
này tuy có đặc tính khác nhau với dị thục thức, nhưng thời và y tương đồng, sở
duyên và sự tương đẳng,[40] do đó nói là tương ưng.[41]
2. DUY XẢ THỌ
Hành tướng của thọ
này cực kỳ không rõ ràng, không thể phân biệt các hình thái đối tượng nghịch
hay thuận; nó vi tế, đồng nhất loại, tiếp nối nhau chuyển; do đó, nó chỉ tương
ưng với xả thọ.
Lại nữa, thọ tương
ưng này duy chỉ là dị thục; nó hoạt động tùy theo nghiệp dẫn độ, không cần hội
đủ duyên, vì vận chuyển theo thế lực của nghiệp thiện ác một cách tự nhiên. Vì
vậy, duy chỉ là xả thọ.
Hai thọ khổ và lạc là
dị thục sinh,[42] không phải là dị thục thực thụ, vì chúng cần đủ duyên cho nên
không tương ưng với thức này.
Lại nữa, do sự kiện
thức này thường không chuyển biến nên hữu tình chấp nó xem như ngã tự nội.[43]
Nếu tương ưng với hai thọ khổ và lạc, nó hẳn có chuyển biến, vậy là sao chấp
làm tự ngã? Do đó, nó chỉ tương ưng với xả thọ.
Nếu vậy, làm sao thức
này cũng là dị thục của nghiệp ác?[44] Đã cho rằng nghiệp thiện cũng chiêu cảm
xả thọ; ở đây (nghiệp bất thiện) sao lại không? Vì xả thọ không trái nghịch với
các phẩm chất khổ lạc. Như pháp vô ký dẫn đến cả hai thiện và ác.
3. CÁC TÂM SỞ KHÁC
Vì sao thức này không
tương ưng các tâm sở biệt cảnh, và v.v.? Vì hỗ tương mâu thuẫn.
Nghĩa là, dục hoạt
động với hy vọng về sự thể được ưa thích. Thức này vận chuyển tùy tiện,[45]
không có hy vọng điều gì.
Thắng giải hoạt động
nhắm ghi dấu ấn [46] và quyết định sự thể. Thức này thì mông muội, không ghi dâu
ấn cái gì.
Niệm hoạt động chỉ để
ghi nhận rõ ràng những sự thể đã từng trải nghiệm. Thức này muội lược không thể
ghi nhớ sáng suốt.
Định là tập trung tâm
chuyên chú trên một đối tượng. Thức này vận chuyển tùy tiện, duyên đối tượng
từng sát-na riêng biệt.[47]
Huệ duy chỉ hoạt động
với sự giản trạch các sự thể như đức, v.v.[48] Thức này vi tế, muội lược, không
thể giản trạch.
Do vậy, thức này
không tương ưng các biệt cảnh.
Thức này vì duy chỉ
là tự thể dị thục cho nên cũng không tương ưng với thiện hay nhiễm ô.
Bốn vô ký tính, ác
tác, v.v.,[49] vì có tính gián đoạn, đương nhiên không phải là dị thục.[50]
[1] Sthiramati:
“Trong đây, xúc, đó là sự phán đoán về biến đổi của căn y trên tổ hợp ba
(trikasaṃnipāte indriyavikāraparicchedaḥ); chức năng của nó là sở y của thọ
(vedanāsaṃniśrayakarmakaḥ).” Hiển dương Thánh giáo 1 (T31n1602, tr. 481a21):
“Xúc, tự thể là phân biệt hoà hiệp của ba sự.” Cf. Tạp 3 (18a11): “Do bởi duyên
là mắt và sắc, thức con mắt phát sinh. Sự hòa hòa hiệp của ba sự làm phát sinh
xúc. Do duyên là xúc, thọ phát sinh.” Cf. Pali, S. iv. 68: cakkhuñca paṭicca
rūpe ca uppajjati cakkhuviññāṇaṃ. … imesaṃ tiṇṇaṃ dhammānaṃ saṅgati sannipāto
samavāyo, ayaṃ vuccati cakkhusamphasso. Duyên nơi mắt và sắc, thức con mắt phát
sinh… Sự hòa hiệp, tập hợp, kết hợp của ba pháp này được gọi là xúc.
[2] Sthiramati:
indriyaviṣayavijñānāni trīṇy eva trikaṃ tasya kāryakāraṇabhāvena samavasthānaṃ
trikasaṃnipātaḥ: trong trạng thái là nhân cũng như trong trạng thái là quả, sự
cộng đồng tồn tại của căn, cảnh và thức là tổ hợp ba.
[3] Hán: bỉ 彼, không có trong văn
trên.
[4] Biến dị 變異, Skt. vikāra, chỉ sự
biến thái hay biến dạng. Sthiramati: “Khi tổ hợp ba đang tồn tại, đồng thời với
nó là sự biến dạng của căn tùy theo các cảm thọ khổ lạc v.v..”
[5] Phân biệt 分別. Skt. pariccheda:
phân tích, phán đoán, phán định. Sthiramati: “Tương tợ với sự biến dạng ấy là
sự phán đoán về hình thái (ākāra: hành tướng) cảm thọ khổ lạc v.v. của đối
tượng; sự phán đoán ấy chính là xúc.” Thuật ký: phân biệt là từ đồng nghĩa với
“lãnh tợ 領似 (nhận thức bằng tương tợ).” Như con tương tợ cha, gọi
là “phân biệt phụ 分別父.”
[6] Tạp tập luận 1
(T31n1606, tr. 697b1): “Xúc, tự thể là sự phân biệt về biến dị của căn y trên
hòa hiệp của ba sự.”
[7] Căn biến dị 根變異: sự biến dạng của
căn. Sthiramati: “Sự kiện mà do bởi đó căn xuất hiện như là nguyên nhân của khổ
lạc các thứ; sự kiện đó là sự biến dạng của căn (indriyaṃ punar yena viśeṣeṇa
sukhaduḥkhādihetutvaṃ pratipadyate sa tasya vikāraḥ).”
[8] Thuật ký: Khiến
cho chúng không phân tán thành các hành tướng cá biệt, mà tập trung nhắm đến
một đối tượng chung.
[9] Sthiramati: evaṃ
hy uktam sūtre sukhavedanīyaṃ sparśaṃ pratītyotpadyate sukhaṃ veditam iti
vistaraḥ, như Kinh nói, cảm thọ lạc phát sinh do duyên xúc với cảm thọ lạc. Cf.
Tạp A-hàm 17 (tr. 117c27): “Sự hòa hiệp của ba sự làm phát sinh xúc. Duyên bởi
hỷ xúc mà lạc thọ phát sinh.” Cf. Pali, Phassamūlaka-suttaṃ, S. iv. 215: Tisso
imā, bhikkhave, vedanā phassajā phassamūlakā phassanidānā phassapaccayā. Ba thọ
này phát sinh từ xúc, có gốc rễ là xúc, nhân duyên bởi xúc, lấy xúc làm điều
kiện.
[10] Thức phát sinh
bởi hai duyên: mắt và sắc. Xúc phát sinh bởi ba: sắc, mắt và thức con mắt. Thọ,
bởi bốn: căn, cảnh, thức và xúc.
[11] Quyển 55 (tr.
601c28): “Chức năng (nghiệp) của xúc là gì? Làm sở y cho thọ, tưởng, tư.”
[12] Tạp tập luân 1
(T31n1606, tr. 697a5): “Hành uẩn được thiết lập như thế nào? Đó là sáu tư thân
(ṣaṭ cetanā-kāyaāḥ): tư sản sinh bởi xúc của mắt, v.v.”
[13] Vì tư là động
lực tạo nghiệp.
[14] Thuật ký: xúc
dẫn khởi phát sinh thọ ưu thắng hơn các tâm sở khác.
[15] Thuật ký: Đại
thừa và Hữu bộ đều nói tự thể của xúc là thật. Kinh bộ nói xúc là tổ hợp của
ba, thể của nó là giả hữu.
[16] Câu-xá 10 (tr.
52b16): “Kinh nói, thế nào là pháp môn sáu sáu (ṣaṭṣaṭika dharmaparyāya)? 1.
Sáu nội xứ, 2. sáu ngoại xứ, 3. sáu thức thân, 4. sáu xúc thân, 5. sáu thọ
thân, 6. sáu ái thân. Cf. Pali, Chachakkasuttaṃ, M. iii. 281: Cha ajjhattikāni
āyatanāni veditabbāni, cha bāhirāni āyatanāni veditabbāni, cha viññāṇakāyā
veditabbā, cha phassakāyā veditabbā, cha vedanākāyā veditabbā, cha taṇhākāyā
veditabbā. Giới thân túc luận 1 (T26n1540, tr. 614b13, 614b27): sáu sáu thân: 6
thức thân, 6 xúc thân, 6 thọ thân, 6 tưởng thân, 6 tư thân, 6 ái thân.
[17] Xúc là một trong
4 loại thức ăn.
[18] Xúc là một trong
12 chi duyên khởi.
[19] Kinh bộ: tổ hợp
ba (tam hòa) tạo thành xúc. Xúc chính là (đồng nhất) tổ hợp ba. Do đó, tự thể
của xúc là giả chứ không phải thật.
[20] Sthiramati: tác
ý (manaskāra) là vận dụng (ābhoga) của tâm. Vận dụng tức chuyển hướng
(ābhujanaṃ ābhogaḥ). Vì nó hương tâm trên đối tượng (ālambane yena cittam
abhimukhīkriyate). Câu-xá 4 (19a21): Tác ý, khiến cho tâm cảnh giác (manaskāraś
cetasa ābhogaḥ).
[21] Ưng khởi tâm chủng 警起心種. Diên bí (tr. 872a17): “Ưng, không phải là tố từ chỉ
tương lai. Tác ý hiện tại cảnh giac chủng tử của tâm tương ứng khiến nó hiện
khởi.” Nghĩa đăng (tr. 727a03): Đại thừa có hai giải thích. 1. Y Hiển dương,
hiện tại tác ý cảnh giác tâm tương ứng đồng thời. 2. Y Thành duy thức, nó kích
phát chủng tử của tâm đang hiện khởi, và dẫn tâm đang hiện khởi ấy hướng đến
cảnh sở duyên.”
[22] Du-già 3 (tr.
291b27): “Tác ý là gì? Đó là sự hồi chuyển của tâm.” Chính lý 11 (tr. 389c25):
“Lực của tác ý này có thể khiến cho thức chuyển hướng đến các đối tượng khác.”
[23] Tạp tập luận 1
(tr. 697a28): “Tác ý, thể của nó là tâm đã được phát động; chức năng là duy trì
tâm trên cảnh sở duyên. tức là, thường xuyên dẫn tâm ở trên cảnh này, do đó mà
tâm được định. Đó gọi là tác ý.” Sthiramati: cittadhāraṇaṃ punas
tatraivālambane punaḥ punaś cittasyāvarjanaṃ, tác ý còn có chức năng là duy trì
tâm trên đối tượng tức thường xuyên dẫn tâm trên đối tượng. Chức năng đó quyết
định đối tượng cho dòng tương tục của tâm.
[24] Bác bỏ Chính lý.
[25] Phê bình Tạp tập
luận: tác ý và định như vây không khác nhau.
[26] Sthiramati: vedanā
anubhavasvabhāvā, thọ, có tự thể là cảm nghiệm (lãnh nạp).
[27] Tức lạc thọ, khổ
thọ và phi cả hai.
[28] Với lạc thọ thì
muốn hiệp; với khổ thọ thì muốn ly.
[29] Thuận chính lý 2
(tr. 338c26): Thọ có hai, 1. chấp thủ thọ, tất cả tâm và tâm sở đều lãnh nạp
(cảm nghiệm) cảnh sở duyên riêng biệt của nó; 2. tự tính thọ, lãnh nạp tùy theo
xúc, là đặc tính riêng biệt của thọ.
[30] Đặc tính chung
mà các tâm sở khác đồng tiếp nhận được.
[31] Thuật ký: Xúc
sinh thọ; nó là nhân của thọ. Vậy, nếu lãnh nạp nơi nhân, nên nói là thọ bởi
nhân.
[32] Thuật ký: thể
của quốc là đất đai. Xúc như đất đai; thọ như lúa thóc. Xúc là nhân, thọ là
quả. Thọ lãnh nạp xúc là lãnh nạp tự thân, nên nói là thọ (lãnh nạp) tự tính.
[33] Quan điểm Hữu
bộ: tâm thức không tự cảm thọ (tự chứng). Thuật ký: tự lãnh nạp tức tự duyên
bản thân. Tự duyên tức tự chứng.
[34] Thuật ký thí dụ:
giữa đám đông, có người nói, “Mặt mầy là tôi tớ.” Trong đám đông ấy, kẻ nào là
tôi tớ thì nhận đó là mắng mình. Ai không phải là tôi tớ, không nhận lời mắng ấy
về mình.
[35] Sthiramati: saṃjñā viṣayanimittidgrahaṇam.
[36] Hán: thi thiết;
Skt. prajñapti. Thuật ký: “Thi thiết 施設 là dị danh của an
lập 安立. Kiến lập phát khởi cũng nói là thi thiết.”
[37] Sthiramati:
cetanā cittābhisaṃskāro manaścteṣtā; tư, cái tác động tâm và phát động ý.
[38] Sthirramati: như
chỗ nào có từ thạch thì các loại sắt bị hút về đó.
[39] Thuật ký: chính,
chỉ chính hành và tà hành, các hành thiện hay bất thiện của thân và ngữ. Nhân,
chỉ nguyên nhân.
[40] Thuật ký: đẳng
tức tương tợ. Ảnh tượng tướng phần là sở duyên. Thể của thọ là sự. Thời là
sát-na. Y là y căn.
[41] Du-già 55 (tr.
602a24): “Do tương đẳng về sự, về xứ, về thời và sở tác nên nói là tương ưng
(samprayukta).”
[42] Thuật ký: Trong
sáu thức, thọ thuộc dị thục sinh (vipākaja) cần phải đủ duyên mới khởi.
[43] Giải thích ý
nghĩa tương tục (liên tục chuyển) ở trên.
[44] Thuật ký: Nạn
vấn của Hữu bộ. Xả thọ vốn tịch tĩnh. Nghiệp thiện điều hoà, dễ tương thuận nên
có thể chiêu cảm. Nhưng nghiệp ác vốn bức bách làm sao dẫn đến quả tịch tĩnh
như xả thọ?
[45] Nhậm vận 任運: vận hành một cách
tự nhiên, ngẫu nhiên.
[46] Ấn trì 印持. Thuật ký: thăng
giải ghi giữ dấu ấn của sự thể trước đó còn mơ hồ để đưa đến chỗ xác định.
[47] Thuật ký: thức
thứ tám thường trực duyên đối tượng là ảnh tượng hiện tại; ảnh tượng này đổi
mới trong từng sát na. Ở đây, nói nhậm vận, là nói vận chuyển theo nghiệp.
[48] Bản Hán, Khuy
Cơ, đều đọc: đắc, thất. Tức được (đắc), mất, v.v.
[49] Ác tác, tức hối.
Bốn tâm sở bất định, xem đoạn sau, về sáu thức.
[50] Phi dị thục, Thuật ký,
đây nói không phải chân dị thục, chứ không loại trừ dị thục sinh.