Các pháp, sắc v.v.,
mà các thừa khác quan niệm là thực hữu ngoài thức, vì sao lại không hiện hữu?
Bởi vì, sắc, bất tương ưng hành và vô vi mà các thừa ấy quan niệm vốn không tồn
tại xét theo lý tính.
1. SẮC PHÁP
Vã, sắc được quan
niệm có hai loại: một, hữu đối,[2] được tác thành bởi cực vi; hai, vô đối,[3]
không được tác thành bởi cực vi.[4]
i. Sắc hữu đối như
yếu tố tác thành: cực vi
Sắc hữu đối ấy quyết
định không phải thực hữu, vì cực vi năng thành không phải thực hữu.[5]
1. Nghĩa là,
các cực vi nếu có tính chất ngại,[6] tất phải như là bình các thứ, đó là giả
chứ không phải thực. Nếu chúng không có tính chất ngại, tất phải như là phi
sắc, làm thế nào có thể tập thành lu, vải các thứ?
2. Nếu các cực
vi có phương phần,[7] ắt có thể bị phân rã, thế thì không phải là thực hữu. Nếu
chúng không có phương phần,[8] thế thì cũng như phi sắc, làm thế nào có thể hòa
hiệp để tiếp thu ánh sáng và phát ra bóng?[9]
a. Khi mặt trời mới
lên, rọi lên cột các thứ; hai phía đông và tây của các thứ ấy đều có ánh sáng
và bóng xuất hiện. Điểm tiếp thu ánh sáng và điểm phát ảnh đã bất đồng, thế thì
cực vi phải được quan niệm là có phương phần.
b. Lại nữa, khi nhìn
thấy vật chạm vào vách các thứ, nó chỉ chạm bên này chứ không thể chạm đến phần
bên kia. Vì chính vật hòa hiệp tức là cực vi, nên cực vi ấy tất phải có phương
phần.
c. Lại nữa, tùy theo điểm chiếm cứ mà các cực vi có sự sai biệt bốn phương,
trên và dưới.[10] Nếu không như vậy thì sự cộng đồng hòa tập[11] trở thành vô
nghĩa.
d. Hoặc nếu chúng lẩn
vào nhau,[12] như vậy không thể trở thành thô lớn. Do vậy, cực vi nhất định
phải có phương phần.
e. Cho rằng sắc hữu
đối chính là các cực vi,[13] nếu chúng không phương phần, tất không thể có sự
chướng ngại cách biệt. Như vậy, nó không phải là chưóng ngại hữu đối.
Do đó, cực vi mà các
ngài quan niệm nhất định phải có phương phần. Vì có phương phần nên có thể bị
phân rã, và do đó nhất định không phải là thực hữu.
Tóm lại, không thể
chứng minh sắc hữu đối là thực hữu.
ii. Sắc hữu đối được
tác thành: căn-cảnh
Há không có sắc làm
sở y và [14]sở duyên cho năm thức?
Mặc dù không phải là
không có sắc (làm sở y và sở duyên), nhưng sắc đó là biến thái của thức. Tức
là, khi thức sinh khởi, lực[15] của nhân duyên nội tại biến tợ thành các tướng
biểu hiện như mắt và sắc các thứ. Thức lấy các tướng này làm sở y và sở
duyên.
a. Sở y của thức
Nhưng căn con mắt
v.v.[16] không được nhận thức bởi hiện lượng. Chỉ do khả năng làm phát sanh
thức của nó mà suy luận biết là có. Đấy chỉ là công năng, không phải là cái
được tác tạo bên ngoài.[17]
Sắc hữu đối ngoại tại
bất thành, do đó nó chỉ là biến hiện của nội thức.[18]
Cái làm phát sanh
thức con mắt được gọi là căn con mắt, v.v. Cái này làm sở y cho sự sanh khởi
của thức.
b. Sở duyên của thức
Bởi vì không thể
chứng minh hợp lý rằng con mắt v.v. là điều kiện như là sở duyên[19] ở ngoài
thức, do đó quyết định cần phải chấp nhận rằng sở biến của tự thức là điều kiện
sở duyên.
(1) Nói rằng[20] cái dẫn sanh tự thức tương tợ,[21] cái đó được quan niệm như
là điều kiện sở duyên của thức; thế nhưng,[22] không chỉ cái dẫn sanh, mà các
điều kiện khác,[23] như nhân duyên v.v.,[24] cũng không thể nói là điều kiện sở
duyên của thức ấy.
(2) Năm thức, gồm mắt
v.v., khi nhận thức sắc các thứ, chúng chỉ lấy hoà hiệp thể làm đối tượng, vì
thể ấy tương tợ đặc tướng của cái ấy.[25]
Không thể nói tướng
của cái hòa hiệp dị biệt cực vi mà có tự thể hiện thực,[26] vì khi nó bị chia
chẻ, thức[27] không sanh khởi với ảnh tượng tương tợ của nó. Tướng của cái hòa
hiệp ấy đã không là thực hữu, thế thì không thể nói nó là duyên của năm thức.
Không nên cho rằng mặt trăng thứ hai các thứ có thể làm phát sanh năm thức.[28]
(3) a. Không phải rằng
các cực vi trong trạng thái cộng đồng hòa hiệp có thể làm sở duyên cho năm
thức;[29] vì trên thức ấy không tồn tại đặc tướng của cực vi.
Không phải rằng các
cực vi có đặc tướng của cái hoà hiệp,[30] vì khi không hoà hiệp thì chúng không
có đặc tướng ấy.
Không phải rằng trong
trạng thái hòa hiệp cùng với khi không hòa hiệp, thể và tướng của các cực vi
này dị biệt.
Do đó, trong trạng
thái hòa hiệp, cũng như khi không hòa hiệp, các cực vi như của các v.v. không
phải là cảnh của năm thức.
b. Cũng có quan
điểm[31] rằng mỗi một cực vi của sắc các thứ khi không hòa tập thì không phải
là cảnh của năm thức. Trong trạng thái cộng đồng hòa tập, chúng hỗ trợ nhau làm
xuất hiện đặc tướng thô lớn; đây là đối tượng của thức ấy. Đặc tướng này thực
hữu, nên nó làm sở duyên cho thức ấy.
Quan điểm này không
đúng.
- Vì trong trạng thái
cộng đồng hòa hiệp cùng với khi chưa hòa hiệp, thể và tướng (của cực vi) vẫn là
đồng nhất.[32]
- Cực vi của các vật
như của lu và hủ bằng nhau, khi thức lấy đặc tướng của chúng làm đối tượng,
(các đặc tướng ấy) hẵn không khác nhau.[33]
- Vì trong trạng thái
cộng đồng hòa tập, mỗi cực vi sẽ phải mất đi đặc tướng tròn của nó.[34]
- Vì không phải rằng
thức của đặc tướng thô duyên cảnh có đặc tướng vi tế;[35] không thể nói thức
duyên cảnh này cũng có thể duyên cảnh khác.[36]
- Vì một thức tất sẽ
duyên hết thảy cảnh.
Chủ trương cực vi tồn
tại còn dẫn đến những sai lầm như vậy, huống gì không có cực vi chân thật tồn
tại ngoài thức. Do vậy có thể quả quyết rằng cái làm sở duyên duyên là đặc
tướng của tự thức như là tương tợ sắc.[37] Vì sự thấy gá vào nó mà sanh, và
mang theo đặc tướng của nó. Như khi thức biến hiện, tùy theo lượng lớn hay nhỏ
(của đối tượng) mà nó đồng loạt xuất hiện như là nhất tướng, chứ không phải
biến hiện riêng biệt thành nhiều cực vi rồi hòa hiệp thành một vật.[38]
Đối với những ai quan
niệm tự thể của sắc thô lớn là thực hữu, Phật thuyết cực vi để khiến phân tích
mà trừ diệt,[39] chứ không phải cho rằng các sắc thực có cực vi.
Các du-già sư bằng
huệ giả tưởng[40] lần lượt phân tích đặc tướng của thô sắc cho đến câi không
thể phân tích, bấy giờ giả thuyết cái đó là cực vi. Cực vi này mặc dù vẫn được
quan niệm là có phương phần[41] nhưng không thể phân tích. Nếu phân tích thêm
nữa, nó sẽ xuất hiện tương tợ hư không, không còn gọi là sắc. Vì vậy, cực vi được
quan niệm như là biên tế của sắc.
Do vậy, nên biết
những gì là sắc có tính đối ngại đều là những biến hiện của thức, chứ không phải
là cái được tác thành bởi cực vi.
iii. Sắc vô đối
Sắc vô đối còn
lại,[42] vì là đồng chủng loại của sắc, cũng không phải là thực hữu. Hoặc vì
không có tính đối ngại, như tâm và tâm sở, quyết định nó không phải là sắc
thực.
Các sắc có tính đối
ngại hiện hữu với đặc tướng của sắc, suy cứu theo lý, vẫn không tồn tại tách
rời thức, huống nữa sắc không có tính đối ngại hiện hữu không mang đặc tướng
của sắc làm sao có thể được nói là sắc pháp chân thực.
Biểu sắc và vô biểu
sắc[43] há không phải thực hữu?
Nó không thực hữu. Vì
sao?
1. Thân biểu
Vã, nếu biểu sắc của thân[44]
thực hữu, thì tự tánh của nó là gì?
a. Nếu cho rằng đó là
hình thể.[45] Như vậy, nó không phải là thực hữu, vì có thể bị phân tích; và vì
cực vi của trường độ không thể được nhận thức.[46]
b. Nếu cho rằng đó là
động thái.[47] Như vậy nó cũng không thực hữu.[48]
- Vì vừa thoáng sanh
nó tức thì diệt, không có nghĩa động.[49]
- Vì pháp hữu vi diệt
mà không cần đợi nhân. Diệt mà cần đợi nhân thì không phải là diệt.[50]
c. Nếu nói rằng có loại sắc không phải hiển, không phải hình, được dẫn sanh bởi
tâm; sắc ấy làm cho tay chân vận động, được gọi là thân nghiệp.[51] Điều này
không hợp lý.
- Nếu nó động, ý
nghĩa cũng bị bác bỏ như trên.
- Nếu nó là nguyên
nhân vận động, vậy nó phải là phong giới. Nhưng gió thì không có biểu thị nên
không thể gọi là thân biểu.[52]
- Lại, xúc[53] không
thể thông cả tánh thiện và ác.
- Nó không phải hiển
sắc, không phải hương, vị; loại suy theo xúc mà biết.
Do đó, nghiệp của
thân biểu nhất định không phải là thực hữu.
d. Nhưng, do tâm là
nhân; khiến đặc tướng của sắc như tay chân các thứ vốn là sự biến thái của
thức, sắc ấy sinh diệt liên tục tiếp nối nhau, chuyển dịch đến phương vị khác,
tương tợ như là có động tác. Cái đó biểu thị tâm; nó được giả danh là thân
biểu.
2. Ngữ biểu
Ngữ biểu không phải
là thanh tánh thực hữu.[54] Vì âm thanh trong một sát-na không phát biểu ý
nghĩa gì.[55] Vì nhiều niệm liên tục tiếp nối nhau thì không là thực hữu. Và vì
sắc hữu đối ngoại tại đã bị bác bỏ.
Nhưng, nhân bởi tâm
mà thức biến hiện tương tợ âm thanh, sinh diệt liên tục tiếp nối nhau tợ như có
biểu thị. Thanh đó được giả danh là ngữ biểu, như vậy không có gì phi lý.
3. Vô biểu
Biểu không tồn tại,
há vô biểu[56] cũng bất thực?
Y nơi phần hạn của
thiện, ác do bởi tư hay nguyện[57] mà giả lập vô biểu, điều đó không có gì phi
lý. Hoăc y trên trạng thái tăng trưởng[58] của chủng tử của tư mang tính thiện
hay ác phát biểu thành thân, ngữ đặc biệt. Hoăc y trên tư trong định ngăn cản
hiện hành các của thân và ngữ mà thiết lập.[59] Do đó, nó là giả hữu.
Trong kinh, Thế Tôn
nói, có ba nghiệp. Bác bỏ nghiệp thân, ngữ, há không trái nghịch kinh?
Đây không bác bỏ là
không tồn tại, mà chỉ nói nó là phi sắc. Tư[60] phát động thân được gọi là thân
nghiệp. Tư phát động ngữ gọi là ngữ nghiệp. Hai loại tư, thẩm lự và quyết
định,[61] vì tương ưng với ý, vì tác động đến ý, nên được gọi là ý nghiệp. Tư
phát khởi thân, ngữ để thực hiện hành động, được gọi là nghiệp. Vì đó là đạo lộ
mà thẩm lự tư và quyết định tư đi qua, dẫn suốt đến quả dị thục hoặc khổ hoặc
lạc, nên cũng gọi là nghiệp đạo.[62] Do đó, tự tánh của bảy nghiệp đạo đầu cũng
là tư.[63] Hoặc thân và ngữ biểu được phát động bởi tư nên giả thuyết là nghiệp;
và vì là đạo lộ tư đi qua nên gọi là nghiệp đạo.[64]
Do vậy, nên biết,
thực không có sắc ngoại tại, duy chỉ có sắc do thức biến tợ xuất hiện.
2. HÀNH KHÔNG TƯƠNG ƯNG
Hành không tương
ưng[65] cũng không phải là thực hữu. Vì sao?
Tự thể và đặc tướng
của đắc, phi đắc các thứ không được nhận thức như sắc, tâm và các tâm sở. Tác
dụng của chúng cũng không được nhận thức như là khác biệt sắc, tâm và các tâm
sở. Do đó biết rằng một cách xác định chúng không thực sự có tự thể và tác dụng
khác biệt với sắc, tâm và tâm sở, vì được cho là thuộc trong uẩn, như sắc, tâm
v.v.
Hoặc chúng không được
bao hàm trong tâm, tâm sở, sắc, vô vi, nên xác định là không phải thực hữu, như
cái vô thể tuyệt đối.[66]
Hoặc chúng không được
bao hàm trong bất cứ pháp thực khác,[67] cho nên chúng không thực sự có tự thể,
như các pháp giả[68] khác.
i. Đắc và phi đắc
Vã, bộ phái ấy[69] do
đâu mà biết đắc,[70] phi đắc không thực có thể dụng khác với sắc, tâm các thứ?
Vi Khế kinh có đề cập.[71] Như nói, “Hạng người[72] như vậy thành tựu thiện,
ác. Thánh giả thành tựu mười pháp vô học[73].”
Lại nói, “Dị sanh[74]
không thành tựu Thánh pháp. Các A-la-hán không thành tựu phiền não.”
Thành và bất thành
nói đó chỉ cho đắc và phi đắc.
Nhưng, Kinh không nói
cái này thực có thể và dụng khác biệt với sắc, tâm các thứ. Chứng lý ấy bất
thành.
1. Kinh cũng nói,
“Luân vương thành tựu bảy báu.”[75] Như vậy há cũng nói là thành tựu thân người
khác, và các loại phi tình?[76]
Nếu cho rằng, vì có
năng lực tự tại đối với các bảo vật nên giả danh là thành tựu, thế thì, đối với
các pháp thiện, ác sao không cho là như vậy, mà lại quan niệm đắc như là thật
vật?[77]
Nếu nói, bảy báu có
thể được giả thuyết là thành tựu vì đang có trong hiện tại, thế thì há không
nói rằng các pháp thiện, ác được thành tựu mà tồn tại tách rời hiện tại?[78] Vì
pháp thực hữu mà lìa hiện tại thì không tồn tại. Vì hiện tại tất có chủng tử
thiện các thứ.[79]
2. Vã, đối với pháp,
đắc có tác dụng đặc biệt gì? Nếu nói, nó làm cho sanh khởi;[80]
a. Vậy, nó sẽ làm
sanh khởi pháp vô vi.[81]
b. Tất cả phi tình sẽ
vĩnh viễn không sanh khởi.[82]
c. Cái chưa đắc và đã
mất[83] sẽ vĩnh viễn không sanh.
3. Nếu nói, do đắc
câu sanh làm nguyên nhân mà sanh khởi.[84]
a. Nếu vậy, hai thứ
sanh[85] mà bộ ấy[86] quan niệm trở thành vô dụng.
b. Lại nữa, hạng đủ
cả thiện, ác, vô ký, thì thiện, ác và vô ký hẵn nhất loạt hiện tiền.[87] Nếu
cần có nhân khác, đắc trở thành vô dụng.
4. Nếu đắc là nhân
không thất tán của pháp,[88] hữu tình do đây mà thành tựu. Nhưng, các pháp[89]
có khả năng được thành tựu đều không tách rời hữu tình.[90] Nếu tách rời hữu
tình, pháp không được nhận thức như thực. Do đó, trong cả hai trường hợp,[91]
đắc không có tác dụng gì đối với pháp.
Đắc thực sự không tồn
tại, do đó phi đắc cũng không.
Tuy nhiên, y trên
phần vị của các pháp có khả năng thành tựu của hữu tình mà giả lập ba thứ thành
tựu:[92] 1. chủng tử thành tựu; 2. tự tại thành tựu; 3. hiện hành thành
tựu.[93]
Trái với đây, được
gọi là bất thành tựu. Phẩm loại của chúng tuy nhiều, nhưng y nơi chủng tử thuộc
kiến sở đoạn của ba giới chưa được vĩnh viễn đoạn trừ mà giả lập làm phi đắc.
Phi đắc ấy được chỉ cho dị sanh tánh. Vì chưa thành tựu Thánh pháp.
ii. Đồng phần
Lại nữa, do đâu mà
biết khác với sắc tâm các thứ tồn tại đồng phần?[94]
Vì Khế kinh có nói.
Khế kinh nói rằng, “Đây là đồng phần chư thiên; đây là đồng phần nhân
loại,v.v...”[95]
Kinh đó không nói, tồn tại đồng phần thực hữu khác biệt với sắc, tâm các thứ.
Do đó, dẫn chứng này bất thành.
1. Nếu nói, nhân bởi
thực thể ấy mà đồng trí và đồng ngôn phát sinh,[96] do đó nó thực hữu; nếu vậy,
cây cỏ các thứ cũng có đồng phần.[97]
2. Lại nữa, ở nơi đồng
phần mà phát sanh đồng trí và đồng ngôn, vậy chính đồng phần ấy cũng cấn phải
có đồng phần cá biệt. Trường hợp này đã không, trường hợp kia sao lại vậy?
3. Nếu do đồng phần
làm nhân mà phát sinh đồng sự, đồng dục,[98] nên biết nó thực hữu; điều này không
hợp lý. Nguyên nhân sinh khởi đồng sự, đồng dục, là do tập quán đời trước, cần
gì phải quan niệm tồn tại đồng phần thực hữu?
Sự thực là, y trên
tính cách tương tợ của thâm và tâm đối với các đặc thù đa dạng mà giả lập làm
đông phần.
iv. Mạng căn
Lại nữa, do đâu mà
biết thực sự tồn tại mạng căn[99] khác biệt với sắc tâm các thứ? Vì Khế kinh có
nói. Kinh nói: “Ba (pháp), tuổi thọ, hơi ấm và thức.”[100] Nên biết, mạng căn
được gọi là thọ.
Kinh đó không nói
thực sự có tự thể của thọ tồn tại biệt lập với thân tâm các thứ. Do đó, dẫn
chứng bất thành.
1. Vả lại, trên kia
đã chứng minh sắc[101] không lìa thức, do đó ở đây không tồn tại mạng căn biệt
lập ngoài thức.
2. Lại nữa, nếu mạng
căn tồn tại thực hữu biệt lập với thức, nó cũng phải như cảm thọ v.v.,[102] không
phải là mạng căn chân thực.
3. Nếu vậy, vì sao
Kinh nói đến ba pháp?
Vì ý nghĩa sai biệt
mà nói là ba.[103] Như bốn chánh đoạn.[104]
Khi trụ trong trạng
thái vô tâm,[105] thọ và hơi ấm tất nhiên không tồn tại.
Há không phải Kinh
nói rằng, thức không lìa thân?
Nếu vậy, thế nào được
nói là trạng thái vô tâm?[106] Trong trạng thái đó, chuyển thức[107] diệt chứ
không phải A-lại-da. Nguyên nhân cho sự tồn tại của thức này sẽ được nói sau.
Thức ấy đủ để là thể
của giới, thú và sanh loại,[108] vì đó là quả dị thục có tính phổ biến,[109]
liên tục tiếp nối. Vậy, không cần quan niệm thêm tồn tại mạng căn chân thực.
Thế nhưng, mạng căn
được giả lập y trên chủng tử vốn trực tiếp làm phát sinh thức này, do tính
quyết định của thời gian tồn tại của công năng đặc thù được dẫn sanh bởi
nghiệp.[110]
iv. Vô tâm định và vô
tưởng quả
Lại nữa, do đâu mà
biết hai định vô tâm[111] và dị thục của vô tưởng[112] thực hữu tự tánh biệt
lập với sắc tâm các thứ? Nếu nó không có thực tánh, không thể ngăn cản tâm và
tâm sở khiến chúng không sinh khởi.[113]
1. Nếu trong trạng vô
tâm thực sự tồn tại một pháp cá biệt khác biệt với sắc, tâm; nó có tác dụng
ngăn tâm, được gọi là vô tâm định; thế thì, lẽ ra khi nhập vô sắc, cũng tồn tại
cá biệt một pháp thực hữu khác biệt với sắc, tâm; pháp ấy có tác dụng cản ngại
sắc, được gọi là vô sắc định.
2. Lại nữa, tâm cản
ngại cần gì phải là pháp thực? Như bờ, đê các thứ,[114] tuy giả nhưng cũng có
khả năng ngăn cản.
Ở đây, trong lúc tu
định, bằng nỗ lực của định,[115] vì nhàm tởm tâm và tâm sở thô động, phát khởi
ước nguyện với hạn kỳ đặc biệt ngăn lại tâm và tâm sở, khiến tâm và tâm sở vi
tế dần dần. Khi tâm cực kỳ vi tế,[116] nó huân tập dị thục thức cho trở thành
chủng tử của tâm cực kỳ nhàm tởm. Bằng chủng tử tổn hại và trấn phục tâm này,
tâm thô động dần dần không hiện hành. Y trên phần vị này mà giả lập hai thứ
định.
Chủng tử ấy là thiện,
nên định ấy cũng là thiện.
Trước vô tưởng định,
do mong cầu kết quả vô tưởng,[117] nên chủng tử thành tựu do huân tập ấy dẫn
đến dị thục thức; y trên sự bất hành của tưởng thô động, ngay trên phần vị này,
giả lập vô tưởng. Y trên dị thục mà lập, nên được gọi là dị thục.
Do vậy, ba pháp[118]
này cũng không phải là thực hữu.[119]
v. Tướng hữu vi
Lại nữa, do đâu mà
biết tự thể của các tướng hữu vi là thực hữu biệt lập ngoài sắc tâm các thứ?
Vì Kinh có đề cập. Kinh nói,[120] “Có ba tướng hữu vi của hữu vi” v.v.
Kinh đó không nói tự
thể ấy thực hữu biệt lập ngoài sắc tâm các thứ.
1. Không phải do
chuyển thanh thứ sáu[121] mà được hiểu là tự thể dị biệt. Vì thể của sắc tâm
cũng chính là sắc tâm.
2. Không phải thể của
năng tướng hoàn toàn dị biệt với sở tướng. Không nên nói rằng đặc tính cứng dị
biệt với đất.
3. Nếu đặc tướng của
hữu vi (năng tướng) dị biệt với thể của cái được đặc trưng (sở tướng), thể của
đặc tướng vô vi[122] hẵn cũng phải dị biệt với cái được đặc trưng.
4. a. Lại nữa, tự thể
của các đặc tướng sinh, v.v., nếu cùng tồn tại, vậy trong tất cả thời hẵn phải
cùng loạt dấy lên tác dụng.[123]
b. Nếu vì trái nghịch
nhau nên không nhất loạt khởi lên tác dụng; vậy, thể cũng trái nghịch nhau làm
sao cùng tồn tại?
c. Lại nữa, trụ, dị,
diệt không thể cùng tác dụng.[124]
5. a. Thể của năng
tướng và sở tướng thảy đều bản lai tồn tại, dụng cũng phải như vậy, vì tự tánh
không sai biệt.[125]
b. Nếu nói, dụng ấy
cần hội đủ nhân và duyên; cần hội đủ nhân và duyên thì không phải là bản lai
tồn tại.[126]
c. Lại nữa, sinh v.v.
được quan niệm ấy trở thành vô dụng.[127]
6. (Nếu nói) Cái được
đặc trưng (sở tướng) là hằng hữu,[128] rồi cùng kết hợp với sinh v.v.; thế thì
pháp vô vi hẵn cũng có sinh v.v. Vì không thể quan niệm tại sao trường hợp này
(vô vi) và trường hợp kia (hữu vi) khác biệt nhau.[129]
7. a. Lại nữa, quá
khứ và vị lai không phải là hiện tại, cũng không phải là thường hằng, chẳng
khác gì hoa giữa trời, không có tự tánh thực hữu.[130]
b. Sinh là hữu, làm
sao ở vị lai?[131] Diệt là vô, tất không thể là hiện tại.[132]
c. Diệt nếu không
phải là vô, sinh cũng không thể là hữu.
d. Lại nữa, diệt trái
với trụ,[133] sao có thể quan niệm là đồng thời. Trụ nếu không trái với sinh,[134]
sao lại cho là khác thời?
Như vậy, chủ trương
ấy tiến hay thối đều phi lý.
Thế nhưng, pháp hữu
vi, do bị chi phối bởi nhân duyên, trước không nay có; tạm thời có rồi trở lại
không. Để biểu thị là khác với vô vi nên giả lập bốn tướng.
Trước không nay tồn
tại, trạng thái tồn tại được nói là sinh. Giai đoạn sinh tạm thời ngưng, chính
đó được gọi là trụ. Trong trạng thái trụ, có sự biến dị trước và sau được lập
danh là dị. Tạm thời có, rồi lại không; khi không tồn tại được nói là diệt.
Ba tướng đầu, vì tồn
tại, đồng thuộc về hiện tại. Một tướng sau cùng, vì không tồn tại (vô), thuộc
về quá khứ.[135]
Pháp không tồn tại
(vô) làm sao biểu thị đặc tướng của hữu vi? Để biểu thị cái đó về sau không tồn
tại nên nói là đặc tướng, có gì sai lầm?[136] Sinh, biểu thị pháp hữu mà trước
đó không hiện hữu. Diệt, biểu thị pháp hiện hữu mà về sau không hiện hữu. Dị,
biểu thị pháp ấy không phải ngưng đọng. Trụ, biểu thị pháp ấy tạm thời có tác
dụng.
Do đó, bốn tướng này
ở nơi pháp hữu vi tuy đều được gọi là biểu, nhưng sự biểu thị có khác nhau. Đây
y trên sát-na mà giả lập bốn tướng. Y trên phần vị trong một thời hạn cũng có
thể được giả lập. Sơ khởi được gọi là sinh. Về sau không hiện hữu, được gọi là
diệt. Chuỗi tiếp nối tương tợ sau khi đã sinh được gọi là trụ. Chính sự biến
chuyến của chuỗi tiếp nối này được gọi là dị.
Vậy, bốn tướng đều là
giả lập.
vi. Danh – cú – văn
Lại nữa, do đâu mà
biết thực hữu tồn tại danh, cú, văn, là các bộ phận biểu đạt (của ngôn
ngữ)?[137]
Vì Khế kinh có đề cập. Kinh nói, “Phật sở đắc các bộ phận danh, cú, văn hy
hữu.”[138]
Kinh đó không nói
danh, v.v., tồn tại chân thực biệt lập ngoài sắc tâm các thứ. Do đó, dẫn chứng
ấy bất thành.
1. Nếu danh, cú, văn
dị biệt thanh mà thực hữu, thế thì cũng như sắc v.v., chúng không thể biểu đạt.
2. Nếu cho rằng thanh
làm phát sinh danh, cú, văn;[139] thanh ấy tất có âm vận khuất khúc.[140] Thanh
ấy đủ để biểu đạt, cần gì đến danh?
3. Nếu nói, tính
khuất khúc của âm vận nơi thanh chính là danh, cú, văn, tồn tại thực hữu biệt
lập ngoài thanh;[141] vậy, tính khuất khúc của hình lượng[142] nơi sắc cũng tồn
tại biệt lập với sắc xứ?[143]
4.a. Nếu tính khuất
khúc của âm vận nơi thanh, như tiếng đàn, tiếng sáo, không biểu đạt;[144] thanh
này cũng như thanh kia,[145] không đặc biệt làm phát sinh danh.
b. Lại nữa, ai nói
thanh kia không biểu đạt?[146]
c. Thanh nếu có khả
năng biểu đạt, thanh của chuông, gió hẵn cũng có tác dụng biểu đạt?[147] Thanh
này hẵn cũng như thanh kia không đặc biệt làm phát sinh danh, cú, văn thân thực
hữu.
d. Nếu nói duy chỉ
ngữ thanh[148] mới phát sinh danh;[149] tại sao không nói duy chỉ ngữ mới biểu
đạt?[150]
5. Do lý tính nào mà
xác định rằng biểu đạt là ngữ?[151] Nhưng, do đâu mà biết sự biểu đạt dị biệt
với ngữ?[152] Ngữ không dị biệt với biểu đạt; trời và người đều rõ điều
đó.[153] Quan niệm rằng biểu đạt dị biệt với ngữ, chỉ là gã Thiên Ái [154]chứ
không ai khác.
Chánh nghĩa: Nhưng
trên sự sai biệt của phần vị[155] của ngữ thanh mà giả lập danh, cú, văn, thân.
Danh biểu đạt tự thể.[156] Cú, biểu đạt sự sai biệt.[157] Văn tức tự,[158] là
sở y của hai bộ phận kia. Ba bộ phận[159] này không có tự thể dị biệt ngoài
thanh. Giả và thật dị biệt,[160] do đó chúng cũng không phải là thanh.
Do đây mà đối tượng
của hai vô ngại giải[161] là pháp và từ có sai biệt.[162] Sự bao hàm của thanh
cùng với danh, v.v., trong uẩn, xứ và giới không khác nhau.
Vả lại, ở quốc độ này
mà nói danh, cú, văn được giả lập y trên thanh; nhưng đây không phải là điều
tuyệt đối. Trong các cõi Phật khác, ba bộ phận này có thể được giả lập y trên
ánh sáng, hay hương thơm, hay vị ngọt, v.v.
vii. Tuỳ miên
Có quan điểm cho rằng
các tùy miên[163] dị biệt tâm và tâm sở, được bao hàm trong uẩn bất tương ưng
hành.[164]
Quan điểm này phi lý.
Được gọi là tham v.v... như hiện tham các thứ không phải là không tương
ưng.[165]
Các quan điểm về các
hành không tương ưng còn lại, chuẩn theo trên đây, suy lý mà bác bỏ.
3. VÔ VI
i. Tổng quát
Nói rằng các pháp vô
vi[166] dị biệt tâm và tâm sở mà quyết định thực hữu là không hợp lý.
Vã, pháp quyết định
tồn tại, tổng quát, có ba:
1. Pháp được nhận
thức hiện tại, như sắc, tâm, v.v...[167]
2. Pháp hiện tại được
thọ dụng, như bình, y áo, v.v...[168]
Hai pháp như vậy được
nhận thức phổ quát bởi thế gian, không cần phải chứng minh bằng lý luận.
3. Pháp có tác dụng, như mắt, tai, v.v... Do hoạt dụng như thế này, như thế kia
mà chứng biết tồn tại.[169]
Pháp vô vi không được
nhận thức phổ quát bởi thế gian là quyết định tồn tại. Chúng không có tác dụng
như mắt, tai các thứ.
Giả sử chúng có tác
dụng, như vậy là vô thường. Do đó, không thể quan niệm vô vi quyết dịnh thực
hữu.
Tuy nhiên, các pháp
vô vi vốn là tính chất có thể được nhận thức, hoặc là tính chất được hiển thị
bởi sắc, tâm. v.v., nên cũng như sắc, tâm các thứ, không thể được quan niệm vô
vi tính thực hữu như là biệt lập ngoài sắc tâm các thứ.
ii. Phê bình các quan
điểm
1. Nhất thể.-
a. Lại nữa, hư
không[170] là nhất thể hay đa thù?[171]
Nếu tự thể là một, nó
phổ biến trong tất cả xứ. Vì hư không dung chứa sắc pháp v.v.,[172] tùy theo
pháp mà nó được kết hợp, hư không trở thành nhiều. Vì nơi này nó được kết hợp,
nhưng nơi khác thì không. Nếu không thế, các pháp trở thành phổ biến lẫn nhau.
Nếu nói, hư không
không kết hợp với pháp, vậy nó không dung chứa, cũng như các vô vi khác.
Lại nữa, trong sắc có
hư không hay không? Nếu có, thành tương tạp. Nếu không, không thành phổ biến.
b. Khi kết hoặc[173]
trong một bộ, hay một phẩm, bị đoạn trừ, khi ấy hẵn cũng chứng đắc trạch
diệt[174] đối với các bộ, phẩm còn lại.
Và, khi một pháp do
duyên khuyết mà đạt được sự bất sinh, khi ấy cũng đạt được phi trạch diệt[175]
đối với hết thảy pháp khác.
Như vậy, quan điểm
thể của vô vi là nhất thể là không hợp lý.
2. Đa thù.-
Nếu thể của nó là đa
thù; vậy, vô vi có phẩm loại, hẵn cũng như sắc v.v., không phải là thực vô vi.
Và hư không hẵn cũng không thể phổ biến và bao dung.
Các vô vi mà các bộ
khác quan niệm[176] là thực hữu biệt lập ngoài tâm và tâm sở, cũng chuẩn theo
trên đây mà bác bỏ.
Lại nữa, các pháp vô
vi, vì được quan niệm là không nhân quả, vậy cũng như sừng thỏ, không tồn tại
ngoài tâm và tâm sở.
iii. Duy thức chính
nghĩa
Tuy nhiên, Khế kinh
nơi, có các pháp vô vi, là hư không, v.v. Tổng quát, có hai thứ:
1. Y trên biến thái
của thức giả thi thiết là hữu.[177] Trong quá khứ đã từng nghe tên gọi hư
không, v.v., rồi tùy theo phân biệt mà hiện hữu tướng của hư không các thứ. Do
ảnh hưởng của sự huân tập nhiều lần, khi tâm các thứ sinh khởi thì tướng vô vi
tương tợ hư không các thứ xuất hiện. Tướng xuất hiện này trước và sau tương tợ,
không có biến dị nên giả thuyết là thường.[178]
2. Y pháp tính mà giả thuyết là hữu. Theo đó, chân như được hiển thị bởi không
vô ngã, hữu và vô đều bị phủ định, con đường của tâm hành và ngôn ngữ bị đoạn
tuyệt, không phải đồng nhất cũng không phải dị biệt với hết thảy các pháp. Đó
là lý tính chân thật của pháp, do đó được gọi là pháp tính.
(1) Do lìa các chướng
ngại mà (chân như) được gọi là hư không.[179]
(2) Do lực giản trạch
mà diệt trừ các tạp nhiễm, chứng hội cứu cánh, nên (chân như) được gọi là trạch
diệt.[180]
(3) Do bản tính của
lực giản trạch vốn thanh tịnh, hoặc do được hiển thị bởi khuyết duyên, nên
(chân như) được gọi là phi trạch diệt.[181]
(4) Khổ thọ và lạc
thọ đều được diệt trừ, nên được gọi là bất động.[182]
(5) Tưởng và thọ
không hiện hành nên (chân như) gọi là tưởng thọ diệt.[183]
(6) Năm vô vi này
được được y trên Chân như mà giả lập. Chân như cũng là danh được giả thi thiết.
Để bác bỏ quan điểm cho là vô, nên thuyết là hữu. Để bác bỏ chấp làm hữu nên
thuyết là không. Để không cho là hư huyễn,[184] nên nói là thực. Lý không sai
lầm điên đảo nên gọi là chân như. Không đồng với các tông khác do lìa sắc tâm
v.v. mà thực hữu pháp thường nên gọi là chân như.
Vậy, vô vi không phải
là quyết định thực hữu.
4. NĂNG THỦ VÀ SỞ THỦ
Các pháp mà ngoại đạo
và Tiểu thừa quan niệm không phải là tự tính thực hữu dị biệt tâm và tâm
sở.[185] Vì là sở thủ.[186] Như tâm, tâm sở.[187]
Giác[188] nắm bắt cái
kia, cũng không vin cái kia như là đối tượng.[189] Vì nó là năng thủ.[190] Như
giác vin (tâm) này như là đối tượng.
Các tâm và tâm sở, vì
là y tha khởi, cũng như sự huyễn,[191] không phải chân thực hữu.
Vì để bác bỏ quan
niệm sai lầm rằng tồn tại cảnh thực hữu ở ngoài tâm và tâm sở nên nói duy chỉ
có thức. Nếu quan niệm duy thức là chân thực hữu, như chấp ngoại cảnh, đó cũng
là pháp chấp.
5. ĐOẠN TRỪ PHÁP CHẤP
Tuy nhiên, các pháp chấp,
tổng quát, có hai: câu sinh và phân biệt.
1. Pháp chấp câu
sinh,[192] kể từ vô thuỷ đến nay, do ảnh hưởng bởi nhân nội tại[193] được huân
tập một cách hư dối, luôn luôn cùng tồn tại với thân; không đợi tà giáo và tà
phân biệt, vận chuyển một cách tự nhiên; vì vậy, nó được gọi là câu sinh.
Câu sinh này lại có
hai:
a. Thường tương tục,
tại thức thứ bảy. Thức này duyên vào thức thứ tám mà khởi tướng của tự tâm rồi
chấp là thực pháp.[194]
b. Có gián đoạn, tại
thức thứ sáu. Thức này duyên vào tướng của uẩn, xứ, giới, vốn là những biến
thái của thức; hoặc đặc biệt khởi tướng của tự tâm, rồi chấp là thực pháp.
Hai loại pháp chấp
này, vi tế nên khó đoạn trừ. Về sau, trong Mười địa, trải nhiều lần tu tập quán
pháp không[195] đặc biệt mới có thể trừ diệt.
2. Pháp chấp phân
biệt cũng do[196] ảnh hưởng của duyên ngoại tại trong hiện tại, không cùng tồn
tại với thân, cần chịu ảnh hưởng của tà giáo và tà phân biệt sau đó mới khởi;
vì vậy nói là phân biệt. Nó chỉ tồn tại trong ý thức thứ sáu. Lọai pháp chấp
này cũng có hai:
a. Duyên và uẩn, xứ,
giới được thuyết bởi tà giáo[197] rồi khởi tướng của tự tâm, phân biệt suy
diễn, chấp đó là thực pháp.
b. Duyên vào đặc
tướng của tự tánh v.v.[198] được thuyết bởi tà giáo rồi khởi tướng của tự tâm,
phân biệt suy diễn, chấp đó là thực pháp.
Hai loại pháp chấp
này vì thô nên dễ bị đoạn trừ. Khi nhập sở địa, quán chân như của pháp không
của hết thảy pháp tức thì có thể trừ diệt nó.
Hết thảy pháp chấp
được nói như vậy, nếu là pháp bên ngoài tâm thì hoặc tồn tại hoặc không tồn
tại; nếu là pháp nội tâm, tất cả đều tồn tại.
Vậy, pháp chấp là do
duyên vào những thứ được hiển hiện bởi tự tâm tương tợ như là pháp, rồi chấp đó
là thực hữu.
Nhưng, đặc tướng của
pháp tương tợ ấy sinh khởi do duyên nên là tồn tại như huyễn. Phấp được quan
niệm là thực hữu chỉ do suy diễn sai lầm, quyết định không thực hữu. Vì vậy,
Thế Tôn nói,[199] “Từ Thị, nên biết, những gì là đối tượng của thức, duy chỉ là
biểu hiện bởi thức.” Chúng là tính y tha khởi, như huyễn sự các thứ.[200]
[1] Thuật ký
(tr.266c15), tổng quát, có 11 bộ phái được phê bình: Tát-bà-đa (Sarvāstivāda,
Hữu bộ), Kinh lượng bộ (Sautrāntika), Chánh lượng bộ (Sāmmitīya), Đại chúng
(Mahāsaṅghika)), Nhất thuyết ( Ekavyāvahārika), Kê dận (Kaukkuṭika), Thượng tọa
(Sthavira), Hoá địa (Mahiṃsāsaka), Ẩm quang (Kāśyapiya), Pháp tạng
(Dharmagupta).
[2] Câu-xá 2
(T29n1558, tr.7a13): “Trong sắc uẩn, 10 giới có tính hữu đối (Chân Đế: hữu
ngại; Skt. sapratigha.). Hữu đối có ba: a. Chưóng ngại hữu đối, đối kháng bằng
sự ngăn che (Skt. āvaraṇa-pratighāta), là ngăn cản sự phát sinh của cái khác
trong môi trường của mình. Thí dụ, bàn tay bị ngăn nơi bàn tay khác, hay nơi
hòn đá. Hoặc hòn đá đối với bàn tay hay hòn đá khác. b. Cảnh giới hữu đối, đối
kháng bởi cảnh vực (Skt. viṣayapratighāta), như hoạt trường của con mắt đối với
các cảnh vực khác thuộc sắc. b. Sở duyên hữu đối, đối kháng bởi đối tượng (Skt.
ālambanapratighāta), là tâm và tâm sở trong các đối tượng cá biệt của chúng.
Cf. Du-già 100 (T30n1579, tr.880a11): “Các sắc cản ngại sự thấy của cái khác,
cản ngại sự di chuyển của cái khác, được gọi là hữu đối.”
[3] Skt. apratigha.
Chân Đế: vô ngại.
[4] Kośabhāṣya,
ii.22: sarvasūkṣmo hi rūpasaṅghātaḥ paramāṇur ity ucyate, những gì là tổ hợp
sắc cực kỳ vi tế, được gọi là cực vi. Cf. Câu-xá 4 (tr.18b22). Thuận chánh lý
10 (T29n1562, tr.383c10): “Trong sắc hữu đối, cái được phân tích đến vi tế cùng
cực, không còn phân tích được nữa, được gọi là cực vi.”
[5] Kinh bộ: các cực
vi trong 10 sắc xứ không phải là giả, không phải là đối tượng được nhận thức.
Khi chúng thành hoà hiệp sắc mới có thể làm đối tượng cho nhận thức. Thuận
chánh lý 4 (T29n1562, tr.350c5): “Sở y và đối tượng của 5 thức đều không thực
hữu. Từng cực vi một không thể là cơ sở đối tượng. Nhiều cực vi hoà hiệp mới có
thể.[...] Quan điểm Hữu bộ: Năm thức không lấy cảnh phi thực làm đối tượng. Vì
các cực vi khi hoà tập thì có thể làm đối tượng.” Cực vi hòa tập, thuyết của
Tân Hữu bộ (Chúng Hiền); cực vi hòa hiệp, thuyết của Kinh bộ. Nhị thập luận
thuật ký (T43n1834, tr.992c21): “Kinh bộ sư nói, cực vi thực hữu không phải là
đối tượng của thức.Vì tướng của cực vi không xuất hiện trên 5 thức. Bảy cực vi
hoà hiệp thành a-nâu (aṇu). Tướng của a-nậu xuất hiện trên 5 thức, khi ấy mói
có thể lànm đối tượng cho thức.”
[6] Tì-bà-sa 75, tr.
390a1: «Từng cái một, cực vi không có tính biến ngại (đối kháng). Nhưng tích
hợp nhiều cực vi thì có tính biến ngại.» Diễn bí (tr. 834b05): “Ngại, có hai
nghĩa: chướng ngại và câu ngại.”
[7] Thuật ký: Kinh
bộ, cực vi có phương phần.
[8] Ibid., Hữu bộ,
cực vi không có phương phần.
[9] Nhị thập tụng, t.
13: “Cực vi có phương phần, nó không thể là nhất thể. Nếu không phương phần, nó
không có bóng, không ngăn che. Nếu tụ sắc không khác cực vi, tụ sắc không có
bóng cũng không có ngăn che.”
[10] Nhị thập tụng,
t. 12: Nếu cực vi có 6 phương giác, và mỗi phương giác kết hợp với một cực vi
khác. Cf. Nhị thập luận thuật ký (T43n1834, tr.994a14): “Như sắc a-noa
(aṇurūpa: lân hư sắc), do hiệp 7 cực vi mà thành; giữa một và ngoại biên 6.”
[11] Hòa và tập.
Thuật ký (tr. 267c19): “Hòa 和, đối với Cổ Tát-bà-đa. Tập, đối với
Tân Tát-bà-đa.” Cf. Câu-xá 2 (tr.11c14): “Lại nữa, hòa hiệp sắc (saṃghāta) được
cho là có bộ phận (sāvayatva), do đó nói chúng xúc chạm nhau, không có gì sai
lầm.” Cf. Tì-bà-sa 132 (tr.683c26): cực vi tương xúc, hay không tương xúc? Thuận
chánh lý 8 (T29n1562, tr.372b23): “Nhiều cực vi tụ tập trong khoảng không gian
rộng, nên có thể nói cực vi có bộ phận... Không một cực vi nào hiện tại tồn tại
đơn độc mà không tụ tập.”
[12] Cực vi không
phương giác và bộ phận, chúng hoà trộn nhau hợp thành nhất thể. Cf. Nhị thập
tụng, t. 11: Một cực vi kết hợp với 6 cực vi khác, tức một thành 6 phương giác
(hay bộ phận). Vị tất cả cùng ở trên một điểm. Như vậy, hợp thể (tụ tập) không
khác với cực vi.
[13] Thô sắc và cực
vi như nhau không khác. Cf. Nhị thập tụng, t. 13, xem cht. 180 trên. Thuật ký
(tr. 267b23): Hữu bộ quan niệm cực vi và hoà hiệp sắc đồng nhất. Ngoài cực vi
không có hòa hiệp sắc; ngoài hòa hiệp sắc không có cực vi.
[14] Sở y (āśraya),
cơ sở nhận thức, chỉ 5 căn (indriya). Sở duyên (ālambana), đối tượng nhận thức,
chỉ 5 cảnh (viṣaya).
[15] Lực, chỉ công
năng hay chủng tử làm điều kiện như là nguyên nhân nội tại (nhân duyên:
hetu-pratyaya)
[16] Kośa k. 9c-d: tadvijñānāśrayā rūpaprasādaś cakṣurādayaḥ, sở y của thức ấy
là các tịnh sắc như mắt v.v.
[17] Quán sở duyên
duyên (T31n1624, tr.888c29): “Công năng (śakti/ sāmarthya) như là sắc ở trên
thức được gọi là năm căn... Do làm phát sanh nhận thức, nên suy luận biết là có
căn. Đấy chỉ là công năng chứ không phải là cái được tạo tác ở bên ngoài.” Thuật
ký (tr.268b26): “Quán sở duyên duyên không nói là hiện sắc, mà nói là công
năng.” Cf. Viṃśati k. 9: yataḥ svabījād vijñaptir yad ābhāsā pravartate/ từ
chủng tử của chính nó, thức xuất hiện như là ảnh tượng.
[18] Hữu bộ (Sarvātivāda): tự thể của 5 căn là thực hữu, tồn tại ngoài thức.
Kinh bộ (Sautrāntika): cực vi thực hữu. 5 căn được tạo thành bởi cực vi nhưng
tự thể là giả. Thuyết giả bộ (Prajñaptivāda): tự thể của 5 căn thông cả giả và
thực; tại xứ được nhận thức là giả; tại uẩn được nhận thức là thực.
[19] Sở duyên duyên
(ālambana-pratyaya). Câu-xá ii (tr.53c17): “Cảnh vực đối tượng nào mà thức vin
vào đó để sanh khởi, cảnh vực ấy là sở duyên của thức ấy.” Quán sở duyên duyên
(tr.888b12): “Cái mà thức khi sanh khởi mang theo đặc tướng của nó, cái có tự
thể thực hữu để thức gá vào đó mà sanh khởi, (hội đủ hai nghĩa này) cái ấy được
gọi là sở duyên duyên. Cực vi, dù có tự thể thực hữu để làm phát sanh thức,
nhưng nó chỉ có nghĩa là duyên (pratyaya, điều kiện) chứ không phải là sở duyên
(ālambana: đối tượng của thức).”
[20] Để bản: vị.
Thuật ký: chư.
[21] Tợ tự thức,
Thuật ký (tr.269c12): “Khi nhãn thức duyên sắc, nó mang trên nó đặc tướng tương
tợ sắc. Chính hành tướng ấy được gọi là tợ tự thức.”
[22] Phê bình Chánh
lượng bộ (Sammītiya): bộ phái này cho rằng không cần hội đủ 2 nghĩa, mà chỉ cần
có khả năng phát sanh thức thì được nói là sở duyên. Tức là, thức trực tiếp thu
nhận đối tượng chứ không cần thiết lập đặc tướng tương tợ.
[23] Chỉ 4 duyên:
nhân duyên, đẳng vô gián duyên, sở duyên duyên và tăng thượng duyên. Xem bản
luận, đoạn sau, bản Hán quyển , tr.42a14. Cf. Câu-xá 7 (tr.36b14).
[24] Như tăng thượng
duyên, nhân duyên các thứ đều có khả năng làm thức sanh khởi, nhưng các điều
kiện này không phải là sở duyên.
[25] Chủ trương của
Kinh bộ (Sautrāntika ): cực vi thực hữu, nhưng đặc tướng của nó không xuất hiện
trên thức do đó không phải là đối tượng của thức. Hòa hiệp thể là tập hợp của
nhiều cực vi. Hòa hiệp thể là giả, y trên cực vi thực hữu mà tồn tại. Khi được
nhận thức, đặc tướng của hòa hiệp thể xuất hiện trên thức.
[26] Quan điểm Kinh
bộ: hòa hiệp thể không có thực thể.
[27] Chỉ thức duyên
vào cái hòa thiệp giả.
[28] Kinh bộ: năm
thức không duyên mặt trăng thứ hai. Cf Quán sở duyên duyên (tr.888b16): Cái hòa
hiệp tuy có thể là sở duyên của 5 thức nhưng không phải là duyên, vì tự thể của
nó không thực hữu, như mặt trăng thứ hai.
[29] Phái Tì-bà-sa
của Hữu bộ (Cổ Tát-bà-đa), như Kinh bộ, các được tác thành bởi sự hòa hiệp của
cực vi vốn là giả nên không thể là đối tượng của 5 thức. Nhưng khi hòa hiệp,
từng cực vi mang đặc tướng thô lớn của cái hòa hiệp, khi đó nó có thể làm điều
kiện cho thức sanh khởi. Nhị thập luận thuật ký (tr.992c17): theo Kinh bộ,
nhiều cực vi hòa hiệp; theo Chánh lý (Chúng Hiền), nhiều cực vi hòa tập.
[30] Thuật ký: hòa
hiệp tướng, tức tương tợ nhất tướng.
[31] Thuật ký: đây là
quan điểm của Chúng Hiền. Cf. Chánh lý 4 (tr.350c23): “Năm thức không có công
năng suy diễn (kế đạc) do đó không thể lấy cái hòa hiệp làm đối tượng. Nhưng
các cực vi khi hòa tập, được phân bố đều, bấy giờ chứng làm sở y và sở duyên
chó thức sanh khởi.”
[32] Quán sở duyên (tr.888b25): “Hòa tập như đặc tướng cứng v.v., dù có thể làm
duyên cho nhãn thức nhưng không phải là sở duyên; vì đặc tướng của cực vi vẫn
vậy.”
[33] Quán sở duyên
(tr.888c04): “Các vật như lu, hủ lớn hay nhỏ đều bằng nhau, vì cực vi tác thánh
chúng nhiều hay ít đồng nhau; vậy đặc tướng của tri giác lấy chúng làm đối
tượng sẽ không khác nhau.”
[34] ibid., tr.
888c9: Lượng cực vi bằng nhau, sự khác biệt về hình thể chỉ là giả. Phân tích
vật thể cho đến cực vi, tri giác về vật ấy sẽ mất..
[35] Thức duyên cái
lu có hình thể to lớn hẵn cũng là thức duyên cực vi.
[36] Như thức duyên
sắc cũng có thể duyên thanh.
[37] Quán sở duyên
(tr.888c17): Cái làm sở duyên duyên cho thức là sắc nội tại xuất hiện như là
ngoại tại. Vì đặc tướng của nó xuất hiện trên thức, và nó làm cho thức sanh
khởi.
[38] Du-già 3
(tr.290a17): “Trong sắc tụ không hề tồn tại cực vi. Khi sắc xuất hiện từ chủng
tử riêng biệt, nó xuất hiện như là tụ tập thể, chứ không do các cực vị tập hợp
mà thành. Nhưng do giác huệ (buddhi) mà thể tích của các sắc được phân tích cho
đến biên tế cực nhỏ, rồi phân biệt giả lập là cực vi”
[39] Du-già 54
(tr.598b02): có 5 điều lợi khi giả lập cực vi tồn tại, 1. bằng phân tích một
tập hợp tụ sắc sẽ thuận tiện cho sự tu tập phát triển; 2. dần dần đoạn trừ hữu
thân kiến; 3. dần dần đoạn trừ kiêu mạn; 4. dần dần chế ngự phiền não triền; 5.
nhanh chóng loại trừ các tướng.
[40] Giả tưỏng huệ (Skt. saṃjñā-buddhi?) hay giác huệ (buddhi); cf. Du-già 3
(tr.290a17), 54 (tr.597c19); xem cht. 210 trên. Thuật ký (tr.272c15): bằng giả
tưởng huệ, nghĩa là không phải chia chẻ bằng con dao thực. Hiển dương 18
(tr.569a14): “Cực vi không có tự thể, mà chỉ được giả lập bằng giả tưởng.”
[41] Du-già 3 (tr.):
“Sắc tụ (rūpa-samudāya) có phương phần (dig-bhāga) nên cực vi cũng có phương
phần. Tuy nhiên, duy chỉ sắc tụ có phần (bhāga, bộ phận) còn cực vi thì không.
Vì cực vi chính là phần (là bộ phận của tụ sắc).” Thuật ký (tr.272c21): “Phần,
có 2 nghĩa: 1. phần (bhāga) của phương (dig), 2. phương tức phần. Tụ thô, đủ cả
hai nghĩa; tụ vi tế, chỉ có nghĩa sau.”
[42] Câu-xa 13 (tr.69a01): Kinh nói có ba loại sắc, 1. sắc hữu kiến hữu đối
(rūpaṃ sanidarśanaṃ sapratighaṃ), 2. sắc vô kiến hữu đối (rūpm anidarśanaṃ
sapratigham), 3. sắc vô kiến vô đối (rūpām anidarśanam apratigham ). Cf. Bhāṣya
iv. k 4a. Thuật ký (tr.273a6): sắc vô đối, là sắc thuộc pháp xứ
(dharmāyatanasaṃgraharūpa).
[43] Biểu, vô biểu.
Trí đô, Thành thật (La-thập), Tạp tâm (Tăng-già-bạt-ma) dịch là tác, vô tác.
Bát kiền-độ, Cựu dịch Câu-xá (Chân Đế): giáo, vô giáo. Skt. vijñapti-avijñapti.
Thành nghiệp: “Thân và ngữ biểu hiển ra ngoài để phát biểu những điều được tư
niệm nơi nội tâm; như cá lặn dưới đáy ao, quẩy nước thành sóng để biểu
hiện.”
[44] Thân biểu sắc.
Thuật ký (tr.273a28): “Nói thân biểu, có nghĩa là tích tụ, mà tự thể là sự sai
biệt do bởi hòa hiệp của các sắc sở tạo thành các căn. Nhiều sắc tích tụ thành
thân.”
[45] Chủ trương của
Hữu bộ. Câu-xá 13 (tr.67c8): “Do tác động của tâm tư (cittavaśena) mà thân được
biểu hiện với hình thái (saṃsthāna) như vầy như kia, đó gọi là thân biểu
(kāyavijñapti). Ibid., tụng iv 2cd: thể của thân biểu là loại hình sắc đặc biệt
chứ không phải là hành động.
[46] Câu-xá, tụng iv
3a-c: hình cũng không phải thực hữu; vì (nếu thực hữu) nó sẽ được tiếp thu bởi
hai căn; và vì nó không khác biệt với cực vi. Ibid. 13 (tr.68b02): “Kinh bộ
nói, hình (saṃsthāna) không phải là thực hữu. Khi tụ hiển sắc phát triển nhiều
theo một hướng (ekadigmukhe), căn cứ trên đó mà có khái niệm về trường độ của
sắc.” Thuận chánh lý 33 (tr.532a03): “Có một loại hình sắc đặc biệt, vốn là quả
của bốn đại chủng hiện khởi do tác động của tâm; hình sắc ấy biểu thị tâm, được
gọi là thân biểu.” Ibid., tr.535c23, vềề quan điểm của Thế Thân. Thành nghiệp
luận (T31n1609, tr.781b17): “Hình sắc là gì? Là đặc tính dài. Tức là, ở nơi cái
ấy mà phát sanh giác tưởng về trường độ.” ibid., tr. 781b21: “Nếu trường độ là
sự sai biệt của các vi thì nó cũng như hiển sắc, mà trong các tụ của sắc có thể
nhận thức được trường độ của từng phần tử vi tế.”
[47] Thuật ký
(tr.273b22) cũng như Câu-xá Quang ký 13 đều nói, Chánh lượng bộ của trương thể
của thân nghiệp là động thái (gati). Vākhyā (dẫn bởi L. de la Vallée Poussin)
cho là chủ trương của Độc tử bộ (Vātsīputrīya).
[48] Câu-xá, tụng iv
3: (thể của thân biểu không phải là động thái) vì các pháp hữu vi có tính
sát-na hoại diệt, nếu không, không có cái gì là vô nhân, và nguyên nhân sản
sinh cũng là tác nhân huỷ diệt (Skt. na gatir yasmāt saṃskṛtaṃ kṣaṇikaṃ vyayāt
//2/ na kasyacid ahetuḥ syāt hetuḥ syāc ca vināśakaḥ/)
[49] Câu-xá 13
(tr.67c13): “Pháp hữu vi khi vừa thành tựu tự thể, ngay tức thì hoại diệt. Sinh
ở đâu, nó diệt ngay ở đó; không hề có sự chuyển dịch từ nơi này đến nơi khác.”
[50] Ibid., tr.67c18:
“Cái đã hoại diệt thì không tồn tại nên không phải là quả, do đó không đợi
nhân. Diệt không đợi nhân (ākasmiko vināśaḥ: hoại diệt có tính ngẫu nhiên), vừa
sinh tức diệt. Nếu tối sơ không diệt thì tối hậu nó cũng không diệt.”
[51] Câu-xá 13
(tr.68c9): “Kinh bộ nói cái gì là thân biểu? Hình là thân biểu, nhưng là giả
chứ không phải thực.” Thành nghiệp luận (tr.782b14): “Nhật xuất luận giả
nói...Có một pháp lấy một loại tâm đặc biệt (tâm sai biệt, Skt. cittaviśeṣa =
cetanāvśeṣa, tư sai biệt) làm nhân. Pháp ấy y nơi tay chân mà phát khởi rồi vận
động tay chân. Là tác nhân của sự chuyển dịch, được gọi là hành động (gati), và
cũng nói là thân biểu; được liệt vào sắc xứ.” Thuật ký (tr.274a07): Nhật Xuất
luận giả, biệt danh của Cưu-ma-la-đà (Kumāralāta), bản sư của Kinh bộ.
[52] Thành nghiệp luận, tr. 782b28.
[53] Phong giới thuộc
xúc xứ.
[54] Câu-xá, tụng iv
4d: Hữu bộ Tì-bà-sa cho rằng ngữ biểu là âm thanh của ngôn ngữ 語表許言聲 (Skt. k iv 3d:
vāgvijñaptí tu vāgdhvani.) Thành nghiệp (T31n1609, tr.786a18): “Ngữ tức ngữ
ngôn, mà tự thể là âm thanh. Âm thanh ấy phát biểu điều muốn nói, nên được gọi
là ngữ biểu.”
[55] Chủ trương của
Hữu bộ. Tì-bà-sa 15 (tr.72b22): Phật, trong một sát-na tâm, có thể khởi một
ngữ. Ngữ của 1 sát-na có thể nói một chữ. Thanh văn, Độc giác, trong 1 sát-na
tâm có thể khởi một ngữ; nhưng ngữ trong 1 sát-na này không nói được một chữ.
[56] Câu-xá 1
(tr.3a23): “Vô biểu, tuy tự tánh là sắc nghiệp như nghiệp hữu biểu, nhưng vì
không biểu thị cho kẻ khác nhận biết, nên được gọi là vô biểu.”
(rūpakriyāsvabhāvā’pi satī viñaptivat paraṃ na vijñapayatīty avijñaptiḥ). Năm
chứng minh tồn tại của vô biểu, Câu-xá 13, tụng iv 5ab: Vì kinh nói có 3 loại
sắc, có sắc vô lậu (anāsrava-rūpa), có sự tăng trưởng của phước nghiệp
(puṇyavṛddhi), có nghiệp đạo phi tác (akurvakarmapatha), và có có ngoại pháp xứ
(bāhyam āyatanam).
[57] Thuật ký: “tư
(cetanā) chỉ giới do định (tức tĩnh lự luật nghi) hay do đạo (vô lậu luật
nghi). Nguyện (praṇidhi) tức tán vô biểu (trạng thái không tập trung). Hoặc do
tư mà khởi nguyện để thực hiện các điều thiện hay ác trong phần hạn thời gian
nhiều hay ít.” Câu-xá 13 (tr.68c26): Kinh bộ nói, vô biểu không thực hữu. Vì
nói duy chỉ là sự không làm do bởi thệ ước trong một khoảng thời gian nào đó
(abhyupetya akaraṇamatratvāt). Nó được quan niệm y trên đại chủng quá khứ; mà
đại chủng quá khứ thì bất thực.”
[58] Tăng trưởng
phước nghiệp của người bố thí; tăng trưởng phòng hộ của người thọ giới. Đây chỉ
tán vị vô biểu (vô biểu nghiệp trong trạng thái không định tâm).
[59] Đây chỉ định
cộng giới vô biểu, hay vô biểu của tĩnh lự luật nghi (dhyāna-saṃvara).
[60] Câu-xá 13, tụng
iv 1bd: nghiệp là tư hay ý chí (cetanā) và sở tư hay cái được tác động bởi tư
(cetayitvā). Tư tức ý nghiệp; sở tư là thân nghiệp và ngữ nghiệp.
[61] Thành nghiệp
(tr.785c23), có 3 loại tư: thẩm lự tư, quyết định tư, phát động tư.
[62] Câu-xá 17
(tr.88c01): là đạo lộ của ba nghiệp tham, v.v., nên nói là nghiệp đạo
(abhidhyādayo hi trayaḥ karmaṇaḥ panthāna iti karmapathāḥ).
[63] Ibid., Bảy cái
trước là nghiệp, vì là nghiệp bởi thân và khẩu. Chúng cũng là nghiệp đạo, vì đó
là đạo lộ và tư (cetanā) đi qua. Và vì tư vốn là nguyên động lực của nghiệp
thân và ngữ gá vào nghiệp thân và ngữ như là môi trường để hoạt động
(tatsamutthānacetanāyās tān adhiṣṭhāya pravṛtter iti).
[64] Thành nghệp
(tr.786a03): Tư, vì có hành động, nên gọi là nghiệp. Nghiệp ấy dẫn đến ác thú
hay thiện thú, nên nói là nghiệp đạo.
[65] Câu-xá 4
(tr.22a04): Thế nào là các hành không tương ưng tâm ? Đắc (prāpti), phi đắc
(aprapti), đồng phần (sabhāga), v.v., các pháp này không tương ưng với tâm;
chúng cũng không phải là sắc; được kể trong hành uẩn, vì vậy nói là tâm bất
tương ưng hành (cittaviprayukta-saṃsakārāḥ). Nghĩa đăng (tr.700c4): bác bỏ khái
niệm bất tương ưng hành của các bộ, trừ Kinh bộ và Nhất thuyết bộ. Hai bộ này
cho rằng bất tương hành là giả.
[66] Tuyệt đối không
hiện hữu như lông rùa, sừng thỏ.
[67] Diễn bí
(tr.842c15): dư thực pháp, tức các pháp thực như sắc, tâm các thứ, ngoại trừ
bất tương hành.
[68] Thuật ký: giả
pháp, như bình v.v.
[69] Đây chỉ Hữu bộ.
[70] Skt. prāpti. Câu-xá
4, tụng iv 37a: đắc, là sự thu hoạch và thành tựu 得謂獲成就. Sự thu hoạch
(lābha, pratilambha) cái chưa có được, và có những đã mất, được gọi là đắc. Sự
thủ đắc mà chưa mất, được gọi là thành tựu (samanvaya, samanvāgama).
[71] Hữu bộ dẫn Kinh
chứng, cf. Câu-xá 4 (tr.22a27).
[72] Nguyên Hán:
bổ-đặc-già-la. Skt. pudgala.
[73] Cf. Trung A-hàm
49 (T01n26, tr.736b23).
[74] Dị sanh, tức
phàm phu. Skt. pṛthagjana. Câu-xá 4 (tr. 23b18): “Thế nào là dị sanh tánh? Chưa
thu hoạch Thánh pháp.” (pṛthagjanatvaṃ katamat? āryadharmāṇām alābha iti); cf.
Phát trí 2 (T26n1544, tr.928c5). Kinh bộ (Câu-xá 4, tr. 23c2): “Phần vị sai
biệt (trạng thái đặc biệt) của tương tục chưa từng sanh khởi Thánh pháp, được
gọi là dị sanh tánh.”
[75] Cf. Trường A-hàm
3 (tr.21c10): “Đại Thiện Kiến vưong đầy đủ (Hán: cụ túc = thành tựu, St.
samanvāgata) bảy báu.” Cf. Pali, Mahādassana, D.ii. 170: Mahāsudassano sattahi
ratanehi samannāgato ahosi.
[76] Trong 7 báu,
thuộc hữu tình (sattvākhya) gồm có chủ binh thần bảo, chủ tạng thần bảo, ngọc
nữ bảo, tượng bảo, mã bảo. Phi tình (asattvākhya) gồm châu bảo, luân bảo.
[77] Cf. Câu-xá,
ibid., Kinh bộ dẫn kinh phản bác Hữu bộ. Trả lời của Hữu bộ: trong đó, thành
tựu có nghĩa là tự tại (vaśitvam atra samanvāgamaśabdenoktam). Hữu bộ: chỗ này
thành tựu có nghĩa là tự tại, sao chỗ kia lại chỉ cho thật vật (dravya)?
[78] Thuật ký: nạn
vấn của Luận chủ.
[79] Ibid.
(tr.277c08): pháp hiện hành chưa đắc hay đã mất, trong hiện tại đương nhiên có
chủng tử của các pháp thiện, ác, vô ký. Y trên chủng tử hiện tại mà giả danh là
thành tựu. Giải thích này nhắm trả lời nạn vấn của Hữu bộ: Nếu không có đắc,
thì các chưa đắc, hay đắc nhưng đã mất, và pháp vô vi, tất sẽ vĩnh viễn không
thành tựu.
[80] Câu-xá 4
(tr.22b08): “(Hữu bộ)Tác dụng của đắc là làm nguyên nhân sanh khởi
(utpattihetu: sanh nhân) của các pháp được thủ đắc.” Nhưng, ibid., tr. 22b16,
đắc không phải là sanh nhân của các pháp.
[81] Kinh bộ: nếu
vậy, vô vi không có đắc. Thuật ký: sanh khởi vô vi, vì có đắc, như hữu vi.
[82] Phi tình, chỉ
ngoại vật. Hữu bộ không cho các phi tình có đắc. Câu-xá 4 (tr. 22a17): “không
phải tha tương tục (parasantāna), vì không có sự thành tựu pháp tha thân. Không
phải phi tương tục (asantati), vì không có sự thành tựu pháp phi tình
(asattvākhya).”
[83] Cái đã mất,
Câu-xá 4, tr. 22b09: sở đắc trở thành đã mất khi chuyển giới địa, và khi ly
nhiễm. Diễn bí (T43n1833_p0843a03): do khuyết duyên mà không sanh khởi, cũng
gọi là đã mất.
[84] Câu-xá 4., tr.22b10: Kinh bộ nạn vấn, “pháp sở đắc mà chưa đắc hay đã xả
(mất) do chuyển địa giới hay do ly nhiễm, pháp này hiện tại không có đắc, làm
thế nào sanh khởi?” Hữu bộ đáp: “do câu sanh đắc (sahajaprāptihetka) làm nhân.”
[85] Nhị sanh, Câu xá
4 (tr.22b11): sanh và sanh sanh; ibid., 4 bản tướng (mūlalakṣaṇa): sanh, trụ,
dị, diệt; 4 tuỳ tướng (anulakṣaṇa): sanh sanh (jātịāti), trụ trụ
(sthitisthiti), dị, dị (jarājarā), diệt diệt (anityatānityatā). Thuật ký: đại
sanh và tiểu sanh, gọi là nhị sanh.
[86] Chỉ Hữu bộ, cf.
ibid., tr. 22b11.
[87] Du-già 52
(tr.587a01): “Nếu đắc là nhân khiến các pháp không ly tán, đắc của tất cả pháp
thiện, bất thiện và vô ký vốn đã cộng đồng tồn tại, chúng tuy mâu thuẫn nhau,
nhưng thảy đồng loạt hiện hành.”
[88] Chánh lý 12
(tr.398b22): pháp đã đắc là nhân cho sự không thất tán.
[89] Thuật ký, chỉ
pháp hiện tại và chân như. Kinh bộ: pháp thuộc quá khứ và vị lai không có thực
thể.
[90] Ly hữu tình
pháp, Thuật ký, chỉ các pháp không thuộc hữu tình, tức các pháp vô tình.
[91] Hán: câu 俱; hai trưòng hợp, làm
nguyên nhân sanh khởi, và nguyên không không thất tán.
[92] Du-già 52 (tr.): “Đắc, hoạch, thành tựu là gì? Sanh duyên
(utpatti-pratyaya), nhiếp thọ nhân (parigraha-hetu), tăng thạnh nhân
(utsadatva-hetu) được nói là đắc. Do đạo lý này, biết răng đắc là giả
hữu.”
[93] Ibid., tr.
587a10. Cf. Đối pháp luận 5 (T31n1606, tr.718c5). Hạng sanh Dục giới mà chưa ly
dục nhiễm, các phiền não và tùy phiền não ở đây được nói là thành tựu. Các pháp
tuy có sẵn chủng tử nhưng nếu hiện tại không do luyện tập tăng trưởng thì không
xuất hiện, được nói là tự tại thành tựu (aiśvarya-sampanna).
[94] Đồng phần
(sabhāga) hay chúng đồng phần (nikāya-sabhāga). Phẩm loại 1
(T26n1542_p0694a23): “Chúng đồng phần là gì? Là tính đồng loại (sabhāgatā) của
các hữu tình.” Cf. Tì-bà-sa 27 (T27n1545_p0138a09). Câu-xá 5 (tr. 24a09): “Có
một thực thể được gọi là đồng phần, mà nhờ đó mà có sự loại tợ giữa các hữu
tình (Bhāṣya: sabhāgatā nāma dravyam, sattvānāṃ sādṛśyam),”
[95] Không rõ xuất xứ
kinh. Dẫn chứng, xem Thuận chánh lý 12 (tr.400b01); cf. Câu-xá 5 (tr.24b07):
“Kinh nói, nếu tái sinh trở lại nơi này, nó thủ đắc đồng phần của loài người
(manuṣyānāṃ sabhāgatā, tính chất loại tợ của loài người).”
[96] Câu-xá, ibid.,
“Quan điểm của Thắng luận, do phạm trù phổ quát (Hán: tổng đồng cú nghĩa, Skt.
sāmānyapadārtha) mà phát sinh tri giác phổ quát (sāmānyabuddhi) và ngôn ngữ phổ
quát (Skt. prajñapti: khái niệm phổ quát).”
[97] Thuận chánh lý
12 (tr. 400b16): “Vì sao đồng phần chỉ tồn tại nơi hữu tình chứ không phải nơi
phi hữu tình? Nơi phi hữu tình không có sự tương tợ lẫn nhau về ham muốn khoái
lạc, nghiệp dụng các thứ.”
[98] Thuận chánh lý
12 (tr. 400b28): Đồng phần là nguyên nhân làm phát sinh nhận thức (giác:
buddhi) và khái niệm (thi thiết: prajñapti) tương tợ của sự nghiệp có tính cách
đồng loại.
[99] Kośa, K.ii.45a-b: āyur jivītam ādhāra uṣmavijñānyor hi yaḥ, tuổi thọ chính
là sinh mạng (sự sống), nó duy trì hơi ấm và thức. Cf. Thuận chánh lý 13 (tr.
404b15): Nghiệp duy trì thọ. Thọ duy trì hơi ấm và thức.
[100] Cf. dẫn bởi
Câu-xá 5 (tr. 26a28): “Tuổi thọ, hơi ấm và thức; khi ba pháp này rời bỏ thân,
thân bị bỏ rơi ấy nằm trơ như cây gỗ, không tri giác.” Cf. Tạp A-hàm 21 (T2n99,
tr.150b9), Trung A-hàm 58 (T1n26,tr. 789a4). Cf. Pali, S.ii. 143: āyu usmā ca
viññāṇaṃ yadā kāyaṃ jahantimaṃ/ apaviddho tadā seti , parabhattaṃ acetanaṃ.
[101] Bởi vì hơi ấm
thuộc về sắc pháp.
[102] Thọ và tưởng,
hai tâm sở không thực hữu như là tồn tại ngoài thức.
[103] Thuật ký: Sắc
pháp, tướng phần của thức A-lại-da, được tiếp nhận bởi thân căn, đó là hơi ấm.
Chủng tử của thức này là thọ; vì nó duy trì thức. Thức hiện hành là thức.
[104] Do thiện và bất
thiện đã sanh và chưa sanh mà phân biệt chánh đoạn thành bốn.
[105] Vô tâm vị
(acittaka), trạng thái nhập vô tưởng định (asajñi-samāpatti) và diệt tận định
(nirodha-samāpatti). Trong hai trạng thái này, thức bị loại, do đó thọ và hơi
ấm đáng lẽ không tồn tại.
[106] Đã nói là vô
tâm thì thức không hiện diện.
[107] Chỉ cho 6 hay 7
chuyển thức (pravṛtivijñāna).
[108] Chỉ 3 giới, 6
thú và 4 sanh.
[109] Biến, có mặt
trong cả ba cõi.
[110] Cf. Câu-xá 5
(tr.26b16), dẫn quan điểm của Kinh bộ: thế lực cho thời hạn tồn tại của đồng
phần (nikāyasabhāgasya sthitikālāveghaḥ) được dẫn sanh bởi nghiệp phổ biến cả
ba cõi; cái đó được nói là thể của thọ.
[111] Hai vô tâm định
(acitta-samāpatti), xem cht. 277 trên.
[112] Vô tưởng dị
thục, hay vô tưởng quả. Câu-xá 5 (tr.24b19): “Dị thục (vipāka) ở trên Quảng quả
(Bṛhatphala)... Trong trời Quảng quả, có vị trí cao nhất, như trung gian tĩnh
lự, được gọi là Vô tưởng thiên. Vô tưởng hữu tình (asajñisattva) cư trú tại
đó.”
[113] Câu-xá, ibid.,
“Có pháp khiến cho tâm, tâm sở diệt, pháp đó được gọi là vô tưởng. Đó là vật
thể thực hữu, có tác dụng ngăn tâm và tâm sở pháp vị lai không cho sinh khởi
như ngăn cản dòng sông chảy.”
[114] Xem cht. 285
trên. Thuật ký: quan điểm của Hữu bộ, cực vi là thực; tổ hợp sắc là giả. Do đó,
bờ, đê, bình hủ các thứ là tổ hợp sắc nên giả. Nhưng chúng có khả năng ngăn cản
nước chảy.
[115] Định gia hành; Câu-xá 5 (tr.25c14), “(Về sự khác biệt giữa hai định)...
khác biệt về gia hành (prayogato’pi): vô tưởng định được dẫn đầu bởi tác ý về
xuất ly tưởng; diệt tận định, bởi chỉ tức tưởng.”
[116] Thuật ký: vào
sát-na cuối cùng ngay khi tâm tiến sát đến định.
[117] Câu-xá, ibid.,
“Tu vô tưởng định với mục đích gì? Vì cho rằng vô tưởng là chân giải giải
thoát; do mong cầu giải thoát ấy mà tu vô tưởng định. Vô tưởng là dị thục
(quả).”
[118] Vô tưởng định,
diệt tận định và vô tưởng dị thục.
[119] Bản Hán, hết
quyển 1.
[120] Cf. Tăng nhất
A-hàm 12 (T2n125, tr.607c14): “Đây là ba tướng hữu vi của hữu vi. Biết tập khởi
do đâu. Biết sẽ biến thiên. Biết sẽ diệt tận.” Cf. Pali, Anguttara 1.152,
tīṇīmāni bhikkhave saṃkhatakhaṇāni. katamāni tīṇi. uppado paññāyati, vayo
paññāyati, ṭhitassa aññathattaṃ paññāyati. “Có ba đặc tướng hữu vi của (pháp)
hữu vi. Sự sinh khởi được biết. Sự diệt tận được biết. Sự biến thái của cái
đang tồn tại được biết.” Hữu bộ lập bốn tướng, Kośa k.11.45c-d: lakṣaṇāni punar
jātir jarā sthitir anityatā, etāni hi saṃskṛtasya catvāri lakṣaṇāni, “Đây là
bốn đặc tướng của hữu vi: sinh, lão, trụ, vô thường.” Kinh nói có 3, trong đó, trụ
dị ( Skt. sthityanyathātva: sự biến thái của cái đang tồn tại) được phấn tích
thành trụ (an trụ) và dị (biến dị).
[121] Ngữ pháp
Sanskrit, biến cách danh từ thứ sáu chỉ sở thuộc cách, giả thiết hai sự thể
biệt lập để cái này là sở thuộc của cái kia. Thuật ký dẫn thí dụ: như chiếc áo
của Thiên Thọ.
[122] Cf. dẫn chứng
của Tì-bà-sa 39 (T27n1545, tr.199c25): “Có ba tướng hữu vi của hữu vi. Sự sinh
khởi của hữu vi cũng có thể được liễu tri; tận và trụ dị cũng có thể được liễu
tri. Không có sự sinh khởi của vô vi để có thể được liễu tri; không tận và trụ
dị để có thể được liễu tri.”
[123] Tì-bà-sa,
ibid., bác bỏ Thí dụ sư (Dārṣṭāntika) quan niệm ba tướng hữu vi không cùng tồn
tại trong cùng một sát-na. Hữu bộ chủ trương, trong một sát-na biểu hiện đủ ba
tướng. Thể đồng nhất, nhưng dụng có trước sau. Thuận chánh lý 13 (tr. 9b29):
“Trạng thái (phần vị) phát khởi tác dụng của bốn tướng không đồng nhau... Cùng
trong một thời, mỗi tướng phát sinh tác dụng riêng biệt.”
[124] Thuật ký, dẫn
thí dụ: như khổ và lạc.
[125] Thuật ký: quan
niệm của Hữu bộ, dụng không tách rời thể. Thể của pháp là hằng hữu.
[126] Kośa k.ii.
46c-d: janasya janikā jātir na hetupratyayair vinā, sự sinh làm phát sinh cái
được sinh không phải không do nhân và duyên.
[127] Câu-xá 5
(tr.28c04), Hữu bộ: đặc tướng sinh thuộc vị lai, nhưng do sự hòa hiệp của nhân
và duyên (hetupratyayasāmagrya) nó làm sinh khởi pháp được sinh hiện tại. Kinh
bộ, nếu vậy pháp được sinh khởi do ảnh hưởng của nhân duyên, cần gì đến đặc
tướng sinh?
[128] Hữu bộ: thể của
pháp hữu vi thường hàng tồn tại trong cả ba thời. Pháp vô vi cũng hằng hữu.
[129] Câu- xá, ibid., thể của vô vi hằng thường hiện hữu, sao không nói là
sinh? Kinh bộ và Hữu bộ đều quan niệm pháp vô vi không sinh.
[130] Kinh bộ, pháp
thuộc quá khứ và vị lai không có tự thể.
[131] Thuận chánh lý
14 (tr.409c24): đặc tướng sinh thuộc vị lai; khi xuất sinh, nó khiến cho các
pháp sinh khởi. Chính đó là tác dụng. Công năng (tiềm thế) không phải là tác
dụng (hiện thế). Cf .Tì-bà-sa 3 (tr.12b04): Các pháp có thể có tác dụng ở vị
lai, có 3 loại: nội pháp như khổ pháp trí nhẫn; ngoại pháp như áng sáng mặt
trời v.v.; nội ngoại pháp như đặc tướng sinh.
[132] Câu-xá 5 (tr.27c29): “Trong từng sát-na từng sát-na, cái trước kia không
hiện hữu (bản vô) nay hiện hữu, gọi là sinh; sau khi hiện hữu, nó không hiện
hữu nữa (vô), gọi là diệt (Bhāṣya: pratikṣaṇam abhūtvā bhāva utpādaḥ; bhūtvā’
bhāvo vyayaḥ). Cf. Thuận chánh ly 14 (tr.410c23): “Từ chưa sinh là vô mà sẽ
sinh là hữu; từ đã sinh là hữu mà sẽ diệt là vô; cho nên cái vô thuộc quá khứ
và vị lai cùng cái hữu thuộc hiện tại không có tính cố định.”
[133] Phát trí: “Thế
nào là trụ? Hết thảy các hành đã sinh mà chưa diệt.” Dẫn bởi Bhāṣya: sthitiḥ
kataṃā? utpannānāṃ saṃskārāṇām avināśaḥ.
[134] Bhāṣya: jātir
apūrvo bhāvaḥ sthitiḥ prabandho, sinh, là trước kia không mà nay hiện hữu; trụ,
là chuỗi tiếp nối của nó.
[135] Câu-xá 5
(tr.28a23): Hữu bộ, 4 tướng hữu vi; sinh thuộc vị lai; trụ, dị và diệt thuộc
hiện tại. Tì-bà-sa 38 (tr.198a23): Pháp mật bộ (Dharmagupta) nói 3 tướng đầu
thuộc hữu vi, tướng diệt thuộc vô vi. Du-già 46 (tr.544b02): “Trong từng
sát-na, các hành hữu vi đều có ba tướng hữu vi. Sau sát-na là tướng thứ tư của
hữu vi.”
[136] Thuật ký: như
lông rùa, trước không tồn tại, sau cũng không tồn tại, nên không lập làm đặc
tướng.
[137] Kośa k.ii.
47a-b, nāmakāyādayaḥ saṃjñāvākyākṣara-
samuktayaḥ, danh
thân, cú thân và văn thân là tổng thuyết (hợp thể) của ý tưởng, chương cú và âm
tiết. Trong đó, nāmakāya chỉ các danh từ như rūpa (sắc), śabda (thanh), v.v.;
padakāya, chỉ thành cú hay mệnh đề như anityā bata samskārāḥ, “ôi, các hành là
vô thường.” vyañjana, văn = akṣara, âm tiết như nguyên âm: a ā i ī; phụ âm: k,
c, ṭ, t, p.
[138] Cf. dẫn bởi
Thuận chánh lý 14 (tr. 413c20).
[139] Hữu bộ có hai
giải thích về danh từ: thanh sinh luận và thanh hiển luận; Câu-xá Quang ký 5
(T41n1821, tr. 109b29): sinh, như hạt giống nảy sinh mầm. Hiển, như đèn rọi
sáng vật. Kinh bộ bác bỏ (Câu-xá 5, tr. 29b8): vì tự thể của ngữ (vāk) là âm
thanh (ghoṣamātra), nên mọi âm thanh, như tiếng kêu của con vật, cũng sinh
(janayati) hay hiển (dyotayati) danh.
[140] Câu-xá, ibid.,
do âm thanh đặc biệt phát sinh danh. Sphuṭatha: viśiṣṭa eṣa ghoṣo yo
varṇātmikaḥ sambhāvitaḥ, âm thanh sai biệt là thanh phát âm khuất khúc.
[141] Thuận chánh lý
14 (tr. 414a6), đặc tướng của thanh là không sai biệt; tính khuất khúc của nó
là do các âm tiết như k(a), c(a), ṭ(a), t(a), p(a). Các âm tiết này là ngữ
thanh, tiếp nối nhau, hòa hiệp phát sinh danh (nāma); danh soi rõ nghĩa
(nāmārthaṃ dyotayati). Vậy, danh tồn tại dị biệt thanh. Vì Sanskrit là ngôn ngữ
đa âm, một từ do nhiều âm tiết hợp thành.
[142] Chỉ hình dạng
vuông, tròn, dài, ngắn, v.v. của sắc xứ.
[143] Thuận chánh lý
14 (tr. 414c02): Sai biệt của thanh biểu đạt theo khế ước. Sai biệt của sắc,
như xanh và vàng, nhận biết không theo khế ước.
[144] Thuật ký, phản
vấn của Hữu bộ. Cf. Thuận chánh ly 14 (tr. 414a21): Duy chỉ thanh chưa đủ để
biểu đạt. Phải do ngữ phát ra âm tiết (tự). Âm tiết hợp thành danh. Danh mới
biểu đạt ý nghĩa.
[145] Thanh này, chỉ
thanh nội xứ, tức tiếng nói. Thanh kia, chỉ tiếng đàn, sáo, v.v.
[146] Chỉ tiếng đàn
sáo. Thuật ký, trong Đại thừa, tiếng cây rừng cũng thuyết pháp; cũng như ngôn
ngữ của người huyễn hoá. Tức cũng biểu đạt ý nghĩa. Tì-bà-sa 122 (tr. 639c2):
Ngôn ngữ (của người) huyễn hoá có phải là nghiệp không? Có thuyết nói, cũng là
nghiệp, vì do tâm phát. Có thuyết nói, không phải ngữ nghiệp, mà chỉ là ngữ
thanh.
[147] Quan điểm Hữu
bộ, chỉ nội thanh xứ mới có khả năng biểu đạt. Ngoại thanh xứ như tiếng gió,
tiếng chuông, không có biểu đạt. Tiếng đàn sáo có âm vận khuất khúc; tiếng gió,
chuông không có khuất khúc.
[148] Câu-xá 5 (tr.
29a24): ngữ là âm thanh (ghośo hi vāk)... nhưng không phải duy âm thanh đều là
ngữ (na vai ghoṣamātraṃ vāk).
[149] Thuận chánh lý
14 (tr. 414a21): Không phải duy chỉ thanh (ghośamātra) đủ để hiển nghĩa. Phải
do ngữ (vāk) phát ra âm tiết (tự; akṣara). Âm tiết tạo thành danh (nāma). Danh
mới biểu nghĩa.
[150] Thuật ký, ngữ
thanh là nội thanh... Không phải hết thảy nội thanh đếu sinh danh. Không phải
hết thảy nội thanh đều biểu đạt.
[151] Phản bác của
đối phương (Hữu bộ). Cf. Nhập A-tì-đạt-ma 2 (T28n1554, tr.987c27): “Ngữ âm
không trực tiếp biểu đạt ý nghĩa. Khi phát âm lửa, không vì thế mà bỏng miệng.”
[152] Kinh bộ chủ
trương pháp thể không thực hữu trong quá khứ và vị lai. Khi phát danh từ rūpa
(sắc); trong đó âm -pa sinh thì âm rū- đã diệt. Danh không thực hữu nên không
thể biểu đạt ý nghĩa; “Danh là thanh được ước định ý nghĩa.” (Bhāṣya:
tatrārtheṣu kṛtvādhiḥ śabdo nāma; cf. Câu-xá 5, tr.29b25). Do đó không thể quả quyết
cái biểu đạt ý nghĩa ước định (tức danh, theo Hữu bộ) có tự thể biệt lập với
ngữ.
[153] Cf. Câu-xá 5
(tr. 29b18): “Bậc trí phân tích kỹ không thấy có sự khác biệt ngữ (vāk) và văn
hay tự mẫu (vyañjana).”
[154] Thiên Ái
(Devānāṃ-priya), chỉ người ngu khờ. Câu-xá Quang ký 4 (T41n1821, tr.77b3):
“Phương Tây gọi đùa nhau là Thiên Ái; nghĩa là, chỉ nhờ trời mà sống được
thôi.”
[155] Phần vị sai
biệt (Skt. vyavasthāna), Thuật ký 2b (): “Như tiếng Phạn chước-xô (Skt. cakṣu:
con mắt). Nói chước hay xô, chưa chỉ cho cái gì; đó gọi là phần vị của tự. Hai
tiếng ấy hiệp lại mới biểu đạt pháp thể, chỉ cho con mắt; đó gọi là phần vị của
danh. Lại thêm a-tát-hòa-phược 阿薩和縛 (Skt. āsrava: lậu),
cho nghĩa là “con mắt hữu lậu.” Đó là phần vị của cú.
[156] Danh, tên gọi bản
thân một sự vật. Bhāṣya: tatra saṃjñākaraṇaṃ nāma, danh là sự tác tưởng, tức
gây ấn tượng về một sự vật. Thuận chánh lý 14 (tr.413a02): “Tổng thuyết của
tưởng gọi là danh thân (saṃjñāmuktayo nāmakāyāḥ)... Tổng thuyết, nghĩa là hiệp
tập (samavāya).” Câu-xá Quang ký 5 (tr. 108a23): “Tiếng Phạn na-ma, có các
nghĩa như tuỳ (đi theo), quy (về), phó (chạy đến), triệu (kêu gọi)... Tiếng
Phạn tăng-nhã (saṃjñā), dịch là tưởng, có nghĩa là cùng lập khế ước.
[157] Câu-xá Quang ký
5: Tiếng Phạn bạt-đà (pada), dịch là tích (dấu chân)... Phạn bạc-ca (vākya),
dịch là chương ... Sai biệt, nghĩa là mỗi sự vật có phẩm tính và hoạt dụng
riêng. Như nói, “Đề-bà-đạt-đa dẫn con bò mun đến vắt sữa cho Hòa-thượng
uống.”
[158] Quang ký,
ibid., tiếng Phạn tiện-thiện-na (vyañjana) dịch là chương hiển (rõ bày).. Phạn
ác-xoa-la (akṣara), dịch là tự, nghĩa là không lưu chuyển.
[159] Quang ký,
ibid., tiếng Phạn ca-da (kāya) dịch là thân, nghĩa là tụ tập.
[160] Thuật ký
(288c4): “Giả, tức danh,v.v... Thực, thanh là thực hữu.”
[161] Bốn vô ngại
giải (catasraḥ pratisaṃvidaḥ): pháp (dharma-), nghĩa (artha-), từ (nirukti-),
biện (pratibhāna-).
[162] Thuật ký
(88c10): pháp vô ngại giải lấy giả danh làm đối tượng. Từ vô ngại giải lấy
thanh thực hữu làm đối tượng.
[163] Tùy miên
(anuśaya): tùy tùng miên phục, nằm tiềm phục theo, chỉ sáu phiền não căn bản.
Định nghĩa, cf. Câu-xá 22 (tr.108a21): vi tế (aṇava), tùy tăng (ubhayato’
nuśerate), tuỳ trục (anugata) hay tùy phược (anubadhnanti). Cf. Tì-bà-sa 50
(tr. 257b16).
[164] Quan điểm Hữu
bộ, các tùy miên là các hành tương ưng tâm. Đại chúng bộ (Mahāsaṅghika), Hoá
địa bộ (Mahīśāsika): hành không tương ưng tâm. Kinh bộ: thể của tùy miên không
phải tương ưng, cũng không phải không tương ưng (Câu-xá 19, tr. 99a1).
[165] Hiện tham,
Thuật ký (tr. 289b01): hiện hành tham. Câu-xá 19 (tr. 99a4): “Phiền não trong
trạng thái ngủ gọi là tùy miên; trong trạng thái thức gọi là triền
(paryavasthāna). Ngủ, là khi chủng tử tiềm phục theo mà không hiện hành. Thức,
là khi phiền não hiện khởi quấn chặt (triền) tâm.” Thuật ký, ibid., quan điểm
của Duy thức, các tùy miên là các pháp thuộc tâm và tâm sở. Chúng là các chủng
tử trong thức thứ tám.
[166] Vô vi pháp,
Skt. asaṃskṛta-dharma; Tì-bà-sa 76 (tr. 392c21): “Pháp không sinh, không diệt,
không nhân, không quả, mang đặc tướng vô vi; đó là pháp vô vi.” Hữu bộ thừa
nhận có 3 pháp vô vi: hư không, trạch diệt, phi trạch diệt. Kinh bộ không thừa
nhận vô vi là thực hữu (Câu-xá 6, tr. 34a12). Hữu bộ dẫn kinh chứng, thuyết
minh vô vi thực hữu (Câu-xá 6, tr. 34b20). Cf. Pali, A.iii.34, yavatā cundi
dhammā saṅkhatā vā asaṅkhatā vā virago tesaṃ aggaṃ akkhayati, “Này Cundi, trong
các pháp hữu vi và vô vi, ly dục là tối thượng.”
[167] Thuật ký
(289b25), gồm các pháp được nhận thức bằng hiện lượng.
[168] ibid., pháp
giả, nhận thức bằng phi lượng.
[169] ibid., pháp
được nhận thức bằng tỷ lượng.
[170] Câu-xá 1 (tr.
): "Tự thể không chướng ngại, là hư không (vô vi); trong đó, là trường vận
động của sắc (Bhāṣya: anāvaraṇasvabhāvam kāśam, yatra rūpasya gatiḥ).
[171] Cf. Tì-bà-sa 10
(tr. 46a17): “Tất cả hư không vô vi, hoặc được quan niệm là một vật; hoặc được
quan niệm là nhiều vật.”
[172] Diễn bí 2
(852c12): “Trong và ngoài pháp đều là hư không, nói là hư không (bao) dung và
(phổ) biến.”
[173] Kết, Skt.
saṃyojana, chỉ phiền não, vì trói buộc và dẫn dắt đến tái sinh. Kết có 5 bộ
(pañca nikāyāḥ) phiền não: kiến khổ đoạn cho đến kiến đạo đoạn, và tu sở đoạn.
Mỗi bộ có 9 phẩm phiền não (nava-prakārāṇāṃ kleśānām), tức 9 bậc sâu cạn.
[174] Trạch diệt,
định nghĩa của Câu-xá, k.i. 6a: pratisaṃkhyā-nirodho yo visaṃyogaḥ, trạch diệt
là sự ly hệ (dứt trừ kết phược); tức là diệt đạt được do tuệ giản trạch.
[175] Phi trạch diệt,
Skt. apratisaṃkhyā-nirodha, diệt đạt được không do giản trạch, mà do khuyết
duyên nên pháp vĩnh viễn không tái sinh trong tương lai (Câu-xá, k.i. 6c-d:
utpādātyantavighno’nyo nirodho’ pratisaṃkhyayā).
[176] Đại chúng bộ
(Mahāsaṅghika), Nhất thuyết bộ (Ekavyavahārika), Thuyết xuất thế bộ
(Lokottaravāda), Kê dận bộ (Kaukkuṭika), thừa nhận có 9: ngoài 3 vô vi như Hữu
bộ, thêm 4 vô sắc xứ, duyên khởi chi tính và Thánh đạo chi tính. Hoá địa bộ
thừa nhận 9, thay 4 vô sắc xứ, bằng bất động, thiện pháp, bất thiện pháp và vô
ký. Duy thức thừa nhận 6: như Hữu bộ, thêm bất động, tưởng thọ diệt và chân
như.
[177] Thuật ký
(tr.291a03): “Do biến thái của thức, nó không có bản chất. Như cực vi.” Liễu
nghĩa đăng (tr.714a21): “Thức biến, tức đối tượng độc ảnh xuất hiện từ chủng tử
của kiến phần chứ không có chủng tử riêng biệt.”
[178] Cf. Hiển dương
18 (tr.572a25): “Hư không vô vi, do đặc tướng của đối tượng của tâm tương tự
nên giả lập là thường.”
[179] Chân như được
nhận thức với đặc tướng không chướng ngại, khi ấy được gọi là hư không vô vi.
Cf. Kośa k.i. 5d: tatrākāśam anavṛtiḥ, ở đây, hư không (vô vi) là cái không
chướng ngại.
[180] Cf. Câu-xá 1 (tr.
1c15), Bhāṣya: yaḥ sāsravair dharmair visaṃyogaḥ sa prati-saṃkhyānirodhaḥ ...
prajñāviśeṣas tena prāpyo nirodhaḥ, “Trạch diệt, là sự thoát ly các pháp hữu
lậu ... tức diệt đạt được do trí tuệ đặc thù.”
[181] ibid., k. 1.
6c-d: utpādātyantavighno’ nyo nirodho’ pratisaṃkhyayā, “phi trạch diệt, là một
loại diệt khác do vĩnh viễn cản ngại sự sinh khởi (tương lai).”
[182] Skt. aniñja.
Thuật ký (tr. 291b19): “Khi thoát ly dục tham của tĩnh lự thứ ba (biến tịnh
dục, śubhakṛtsnarāga) mà đạt được sự diệt trừ hết thảy khổ lạc; chân như khi ấy
được gọi là bất động vô vi.” Cf. Du-già 53 (tr, 592c13); Tạp tâm luận 2 (tr.
700a29); Hiển dương 1 (tr. 484c04).
[183] Skt. saṃjñāvedayitanirrodha. ibid.,: Thoát ly dục tham của vô sở hữu xứ
(akiñcanyā-yatana), tưởng và thọ không hiện hành.
[184] Bác bỏ Nhất
thuyết bộ (Ekavyavahārika), cho rằng hết thảy pháp thế gian và xuất thể gian
duy chỉ giả danh, không thực thể.
[185] Thuật ký
(292b13), các pháp chỉ ba tụ pháp: sắc, bất tương ưng hành và vô vi. Trừ tâm và
tâm sở.
[186] Sở thủ và năng
thủ (Skt. grāhya-grāhaka), xem tụng 19 phần sau.
[187] Tâm và tâm sở
khi trở thành đối tượng nhận thức.
[188] Giác (buddhi),
trí năng, chỉ hoạt động của tâm và tâm sở
[189] Khi tâm này là
tha tâm trí, lấy tâm và tâm sở kia làm đối tượng. Cf. Nhị thập luận (T31n1590,
tr.77a24): “Tha tâm trí không nhận thức đối tượng một cách như thực, cũng như
trí nhận thức tự tâm.” Cf. Viṃśati, k.19: paracittavidāṃ jñānam ayathārthaṃ
kathaṃ yathā/ svacittajñānaṃ.
[190] Skt. grāhaka, xem cht. 358.
[191] Cf. Nhiếp Đại
thừa luận thích 5 (T31n1597, tr.344a20): 8 thí dụ, huyễn sự, v.v., cho đến
trăng dưới nước và biến hoá, chỉ cho tính hư vọng bất thực của pháp y tha khởi.
[192] Skt.
sahaja-dharmagraha.
[193] Nội nhân lực,
tác động của chủng tử (bīja) như là nguyên nhân nội tại.
[194] Thuật ký tập
thành 12 (tr.294c14): “An Tuệ nói, thức thứ sáu đủ cả ngã và pháp chấp. Thức
thứ bảy chỉ có pháp chấp. Tám thức đều có pháp chấp.”
[195] Thắng pháp
không quán; Thuật ký (293b28): giản trừ du quán tâm. Thuật ký tập thành 12 (251b15):
giai đoạn chưa đoạn trừ mê hoặc, trí căn bản và hậu đắc đều là du quán.
[196] Thuật ký, ibid., kể luôn cả ảnh hưởng nguyên nhân nội tại (chủng tử).
Ngoại duyên, tức tà giáo.
[197] Thuật ký, ibid., uẩn, xứ, giới mà Tiểu thừa quan niệm cũng xem như tà
giáo.
[198] Tự tánh (prakṛti), v.v., các quan điểm của Số luận (Saṃkhyā) và các triết
thuyết khác.
[199] Cf. Giải thâm
mật 3 (T16n0676, tr.698b2).
[200] Xem cht. 363 trên.