MỤC LỤC
Chương
1: Kho báu nhỏ
Chương
2: Cuộc sống không nhà
Chương
3: Một cuộc chạy trốn
Chương
4: Xuất gia lần nữa
Chương
5: Trường Phật học
Chương
6: Thọ đại giới
Chương
7: Thuốc chữa cuối cùng: Thiền quán
Chương
8: Phấn đấu để được học
Chương 9:
Thầy truyền giáo
Chương
10: Vượt đại dương đến Ấn Độ
Chương
11: Xá lợi Phật và Đức Đạt Lai Lạt Ma
Chương
12: Giữa những người hạ tiện
Chương
13: Dưới cây đại Bồ đề
Chương
14: Hành trình trở lại nhà
Chương
15: Đám tang cha
Chương
16: Malaysia
Chương
17: Lời mời đến phương Tây
Chương
18: Đến Mỹ
Chương
19: Nghĩa vụ lao khổ
Chương
20: Bị lầm là phụ nữ
Chương
21: Viên chức Bhante G.
Chương
22: Gặp mẹ lần cuối
Chương
23: Ông có phải là ngài Gunaratana?
Chương
24: Ra riêng
Chương
25: Xây tu viện
Chương
26: Vô giá
Chương
27: Trưởng tăng đoàn Nayaka
Lời
cuối
CÁC TÁC
GIẢ
Bhante
Henepola Gunaratana, người Tích Lan (Sri Lanka), là tác giả của hai quyển sách
do nhà xuất bản Wisdom Publications ấn hành, Mindfulness
In Plain English (Chánh Niệm - Thực Tập Thiền Quán, dịch giả Nguyễn
Duy Nhiên) và Eight Mindful Steps to
Happiness: Walking The Buddha’s Path (tạm dịch: Bát Chánh Đạo: Bước Theo Dấu Chân Phật). Là
một tu sĩ Phật giáo trong gần 65 năm, Sư đã đạt được danh hiệu cao nhất ở Bắc
Mỹ của phái Siyam Nikaya, thuộc Phật giáo Nguyên Thủy. Sau khi qua Mỹ năm 1968,
Sư lấy bằng Tiến sĩ về triết học ở đại học American ở Washington, D.C. Sư đã
qua các nước châu Âu, châu Á, Úc và Nam Mỹ để hướng dẫn các khóa an cư tu
thiền. Năm 1988 Sư thành lập Hội Bhavana, một tu viện/trung tâm tu thiền ở West
Virginia, nơi Sư hiện đang sinh sống.
Jeanne Malmgren, là một Phật tử
thuần thành. Cô là phóng viên báo và tạp chí 23 năm nay. Các bài viết của cô
được giải thưởng Florida Society of
Newspaper Editors (Hội Biên Tập Báo Chí Florida), và Society of Professional Journalists
(Hội Nhà Báo Chuyên Nghiệp). Cô sống ở Seminole, Florida, với chồng, và ba con gái được sinh
ra ở Campuchia.
LỜI NÓI
ĐẦU
Viết tự
truyện có lẽ không phải là chuyện một vị tỳ kheo, một nhà sư Phật giáo nên làm,
vì các tỳ kheo chúng tôi phải luôn phấn đấu để diệt ngã, không phải để tôn vinh
nó. Qua thiền quán và chánh niệm chúng tôi muốn tu tập buông bỏ ái luyến, thực
hành vô ngã. Vậy thì tại sao tôi lại viết cả một quyển sách về mình?
Cũng khá lạ lùng là ý tưởng ấy
lại đến trong những khoá thiền của tôi.
Bất cứ khi nào hướng dẫn một
khoá thiền, tôi thường yêu cầu các thiền sinh viết các câu hỏi ra giấy, rồi bỏ
vào trong một cái hộp. Mỗi tối, sau buổi thuyết pháp chính thức của tôi, giảng
về những điều dạy căn bản của Đức Phật, tôi bốc một vài tờ giấy đó ra khỏi hộp,
từng cái từng cái, và trả lời bất cứ câu hỏi gì ở đó.
Thường các thiền sinh muốn biết
về việc hành thiền: làm thế nào để duy trì được mức độ mà họ đã thực hành được
ở các khoá tu; họ phải làm gì khi quá phẫn nộ đến nỗi không thể ngồi yên; làm
thế nào để thực hành nếu họ không có một vị thầy tốt ở cạnh bên. Tuy nhiên, đôi
khi cũng có người hỏi về cuộc đời tôi:
“Thưa, Sư đã tu được bao lâu rồi?”
“Thưa, là người sinh ra và trưởng thành ở Tích Lan, Sư có cảm giác thế
nào?”
“Thưa, làm sao Sư có thể giữ
được các giới luật của người tu trong cái thế giới đầy những cám dỗ nầy?”
Khi trả lời những loại câu hỏi
này tôi thường lan man, dông dài. Tôi kể những câu chuyện về đời tôi và các
thiền sinh có vẻ rất thích thú. Thiền đường, thường là nơi yên tĩnh, lại đầy
vang tiếng cười. Các thiền sinh thường nói, “Bhante,
Sư nên viết quyển tự truyện của mình”.
Tôi đã đọc một vài câu chuyện
đời của các vị thầy tâm linh nam cũng như nữ, và trong đó, lúc nào hình như
cũng có những việc mầu nhiệm, lạ thường xảy đến cho nhân vật chính. Đôi khi,
nhân vật chính có thể là người đã tạo ra những phép mầu đó.
Đọc những câu chuyện đầy ấn tượng
này, người ta có thể kết luận rằng những người sống về tâm linh dầu gì cũng rất
khác với người bình thường. Nhưng đối với tôi, tôi không thể kể về một sự mầu
nhiệm nào. Suốt cuộc đời, tôi chỉ là một người bình thường. Ngay từ thời trẻ,
tôi đã được dạy rằng, nếu siêng năng làm việc thì tôi sẽ được những kết quả tốt
- không có gì là thần kỳ về điều đó. Có thể dưới nhiều cách nhìn, cuộc đời của
tôi cũng rất giống cuộc đời của bạn.
Vì thế tôi rất do dự khi viết
quyển sách mà các đệ tử của tôi đã đề nghị. Tôi lo âu rằng nó sẽ là một biểu
hiện của ngã mạn, lo sợ rằng người ta có thể nghĩ ở tuổi già, tôi đã trở nên rồ
dại và quá chấp ngã.
“Không nhất thiết là vậy,” một người bạn đã bảo tôi. “Có thể qua câu chuyện đời mình, Sư sẽ để lại một
bài học gì đó”. Tôi đã suy nghĩ về điều nầy. Tôi đã quán sát về
cuộc đời mình và nhận ra rằng, vâng, đây thật sự có thể là một cơ hội để mọi
người thấy rằng giáo lý của Đức Phật là những lời hướng dẫn tuyệt diệu, khiến
cho một người tầm thường như bản thân tôi có được một cuộc đời tràn đầy hạnh
phúc, tràn đầy tự tại.
Là một tu sĩ, tôi đã hiến dâng
cuộc đời mình để bảo vệ và duy trì giáo lý của Đức Phật. Ngược lại, Phật Pháp
cũng đã bảo vệ và duy trì tôi. Đó là những gì tôi đã học được trong suốt 75 năm
của cuộc đời. Căn bản đó là những gì tôi muốn chia sẻ với bạn trong những câu
chuyện dông dài về cuộc đời tôi.
Thí dụ, tôi có thể nói một cách
thành thật rằng bất cứ khi nào tôi cảm thấy tự cao, tự đại trong cuộc đời mình,
thì tôi phải lãnh chịu nhiều đau khổ. Khi còn là một tu sĩ trẻ trong các Phật
học viện, tôi thường dò xét các huynh đệ khác, tôi nói lén, tôi luôn tìm lỗi
của người. Và vì thế, tôi luôn đau khổ.
Đúng ra, tôi phải nói rằng đó
luôn là yếu điểm lớn nhất của tôi: xét lỗi của người. Thoát khỏi được tính xấu
đó dầu chỉ chút ít, tôi cũng phải mất rất nhiều năm, qua rất nhiều cố gắng và
lầm lỗi. Ngay chính bây giờ đôi khi tôi vẫn còn phải tranh đấu với nó. Nhưng
dầu ít hay nhiều, tôi cũng rất hạnh phúc để nói rằng, bây giờ tôi có thể chấp
nhận người khác như họ là. Và cuộc đời tôi (không, kể cả của họ!) đã trở nên
thanh thản hơn cũng nhờ đó.
Nương tựa vào những điều dạy của
Đức Phật, tôi đã tu tập để dần dần tránh xa những xung đột hơn là tạo ra chúng,
hay tệ hơn nữa, đi tìm chúng. Điều đó đã khiến cho cuộc đời của tôi được yên ổn
không thể kể xiết.
Với sự hỗ trợ của Phật pháp và
sự thực hành chánh niệm, điều thay đổi lớn nhất mà tôi đã làm được cho bản
thân, tôi nghĩ, đó là giờ tôi có thể dễ dàng tha thứ cho người, bất kể là họ đã
làm gì, và hãy tin tôi, thiện tánh nầy thật không phải dễ mà có được! Tôi đã
phải thực hành rất lâu, rất tinh tấn mới được. Nhưng sân hận, tự mãn và tánh
hay phán đoán của tôi là những mảnh đất màu mỡ để tôi thực hành. Chỉ vì một
người đã trở thành tu sĩ, không có nghĩa là người ấy lập tức thoát khỏi những
tính cách uế nhiễm hay không quan tâm đến chuyện thế gian. Như bạn sẽ thấy
trong suốt quyển sách, ngay chính trong thế giới được coi là cao thượng của tâm
linh, tôi đã từng cảm nhận – nơi chính bản thân hay nơi người khác - những sự
ganh tỵ nhỏ nhen, hại người, sự thờ ơ và lòng độc ác.
Giờ khi nghĩ lại, tôi thấy rằng
tất cả những việc dường như rất tồi tệ lúc đó, cuối cùng cũng dẫn tới những kết
quả tích cực. Tất cả những người hay những hoàn cảnh mà tôi đã nghĩ là chướng
nghịch, thật ra cũng đã là những vị thầy thúc đẩy tôi đi con đường đã chọn, chỉ
cho tôi những gì tôi cần tu tập để đạt được hạnh phúc.
Nhìn ngẫm lại, tôi rất mang ơn
những chuỗi nhân quả kỳ diệu đã xảy ra trong cuộc đời tôi, mặc dầu, lúc đó,
nhiều điều đã khiến tôi cảm thấy vô cùng đau đớn, bất hạnh. Nếu cha tôi không
phải là một người quá khắc nghiệt, có thể tôi đã không bỏ nhà đi tu. Nếu các vị
thầy của tôi đã không phạt tôi quá nặng, tôi đã không tìm đến các trường truyền
giáo. Nếu tôi đã không bị mất trí nhớ và cần ‘thuốc chữa’, có thể tôi chẳng bao
giờ quan tâm đến thiền. Nếu tôi không cảm thấy chán làm việc với những người hạ
tiện ở Ấn Độ, tôi đã không bỏ Ấn Độ sang Malaysia. Nếu visa của tôi được gia
hạn ở Malaysia,
có thể tôi sẽ chẳng bao giờ phiêu lưu đến nước Mỹ. Và nếu mọi sự đã không tan
vỡ một cách đớn đau ở chùa Phật giáo Washington (Washington Buddhist Vihara),
có thể tôi đã không thiết lập hội Bhavana. Nhưng đó là cuộc đời tôi và tôi biết
ơn tất cả.
Dầu vậy, tôi vẫn thấy đau đớn
khi viết về một số điều nầy, đào xới lại kỷ niệm của những nỗi đau, ưu phiền
cũ. Nhiều lần tôi gần như không còn ý chí và đã muốn bỏ ý định hoàn thành sách.
Trong những khoảng thời gian khi hoài nghi dằn vặt, tôi luôn nhớ đến câu nói
của Mark Twain: “Chỉ có người chết mới nói sự thật.”
Tôi đã nghĩ về những sự thật đôi
khi rất xấu xa trong đời tôi, và tôi cảm thấy lo lắng. Nếu tôi viết về chúng
một cách thành thật, tôi sẽ phơi bày những yếu kém, những thiếu sót của mình.
Nhưng che giấu sự thật - điều đó cũng không đúng. Ngược lại, tính cách của một
tu sĩ không phải là để viết về những lời nói hay hoàn cảnh không được tốt đẹp
đã xảy ra hàng thế kỷ trước, để tiết lộ về những người không tốt với tôi, nhất
là khi nhiều người trong số họ không còn sống để tự bào chữa.
Bên cạnh những nỗi lo đó nền văn
hoá và phong tục nơi tôi sinh ra, không ủng hộ việc công khai các cuộc tranh
chấp, xung đột. Khi các cháu người Sinhala của tôi đọc bản thảo đầu tiên của
quyển sách này, họ rất kinh hoàng. “Sư không thể nói về người ta như vậy,” họ
phê bình. “Tại sao Sư muốn bới lại những vấn đề cũ? Chúng chỉ đem lại phiền não
cho Sư.”
Người cư sĩ Tích Lan không muốn
nghe về những lầm lỗi hay thiếu sót của người tu. Họ thích nghĩ về người tu như
là một người thánh thiện, cao thượng mà họ có thể bái lạy với lòng cung kính.
Trong mối liên hệ tâm linh giữa người tu và hàng cư sĩ Phật giáo Á châu, việc
bày tỏ lòng kính trọng một vị tỳ kheo bằng cách cúng dường hay giúp đỡ vị ấy,
đem lại những phần thưởng tâm linh. Vì thế nếu họ khám phá ra một vị tỳ kheo có
những điều không xứng đáng, sẽ làm đảo lộn cảm giác về tôn ti trật tự của người
cư sĩ.
Nhưng trong nền văn hoá Tây
phương, sự thật rất được đề cao. Vì thế tôi không thể kể câu chuyện của đời
mình, mà bỏ qua những điều không tốt đẹp; đó sẽ là một bản thảo được ‘lược bớt’
và có thể sẽ bị coi là gian dối. Và nếu tôi tự họa mình như một người chưa bao
giờ phải đương đầu với những khó khăn, yếu kém, thì câu chuyện của tôi chắc
chắn không thể giúp ai nhìn thấy được giá trị của Phật pháp, trong việc giúp
tôi đương đầu với những làn tên, mũi đạn của cuộc đời.
Chân lý đầu tiên trong Tứ diệu
đế của Đức Phật là cuộc đời chứa đầy đau khổ. Chúng ta không thể thoát khỏi khổ
đau. Sự chọn lựa duy nhất của chúng ta là phải cố gắng chế ngự các uế nhiễm:
tham, sân và si, nơi bản thân là nguyên nhân gây ra mọi đau khổ. Chế ngự được
các uế nhiễm này là công phu tu tập của cả một đời, mà tôi hy vọng là câu
chuyện đời tầm thường của tôi, cuộc hành trình đi đến chánh niệm của bản thân
tôi, sẽ chứng tỏ điều đó. Và tôi cũng mong, câu chuyện của tôi sẽ minh chứng
rằng, dầu những khổ đau của bạn có mãnh liệt tới đâu, bạn cũng sẽ chế ngự được
chúng.
LỜI
NGƯỜI DỊCH
Tôi có
thú đi nhà sách. Trước đây thì là những góc sách văn học. Giờ mỗi lần được vào
nhà sách Barnes & Nobles, tôi lại thường tìm đến góc sách Phật học.
Lần đó, tôi bị thu hút bởi quyển
sách có màu bìa tối, chữ trắng đen. Thật không có gì hấp dẫn ngoài gương mặt
của một nhà sư. Gương mặt hiền từ, với đôi mắt sáng, và nụ cười mỉm đầy ‘chất
thiền’ đó đã khiến tôi phải mang quyển sách về nhà.
Về nhà, lật đôi ba trang, mới
hay đó là tác giả của một quyển sách thiền mà tôi rất thích khi đọc bản Việt
ngữ của dịch giả Nguyễn Duy Nhiên: Chánh Niệm -Thực Tập Thiền Quán. Thế là tò
mò đọc hết quyển sách, thế là bỗng muốn dịch quyển sách ấy.
Vài ba tháng sau, một người bạn
đạo, chị Tâm Hạnh bỗng gọi điện. Đôi ba chuyện, rồi chị bảo sẽ đi dự khóa thiền
của Sư Gunaratana. À, nhớ ra quyển sách. Nhớ đến ý định sẽ dịch sách. Chị Tâm
Hạnh bảo sẽ hỏi Sư cho mình được dịch. Chỉ vậy. Mà rồi sau đó nhận được thư của
Sư hoan hỷ cho phép mình được dịch. Thật đúng là duyên lành!
Quyển Tự Truyện của Sư
Gunaratana, dĩ nhiên không phải là một tác phẩm văn chương. Nhưng đó là một câu
chuyện đời rất thật của một người rất bình thường như chúng ta. Có những lúc
tôi phải gập sách lại cười khan một mình. Mà cũng lắm khi lại thấy nghẹn ngào,
tức tưởi. Không phải là cách kể chuyện, mà là những câu chuyện khiến người đọc
thêm vững lòng tin vào Phật Pháp.
Quyển sách dịch này còn để lại
trong riêng tôi những kỷ niệm không thể bao giờ quên. Đó là khi tôi dịch chương
22 của quyển sách, khi tác giả kể về lần thăm viếng mẹ lần cuối, cũng là lúc
tôi nhận được tin mẹ tôi bịnh nặng. Rồi Sư lại kể về tâm trạng của người con,
không được ở bên mẹ vào giây phút cuối. Ôi, trang sách là của Sư, mà nỗi lòng
là của người dịch, nên nước mắt tôi cũng ướt dầm.
Xin chân thành cảm ơn Sư
Gunaratana đã bỏ qua những áy náy ban đầu để hoàn thành quyển tự truyện này.
Gấp sách lại, người đọc không hề thấy niềm tin của mình bị lay động bởi những
điều không hay được kể trong sách, mà đọng lại là một tấm gương sáng quyết tâm
tu hành của một bậc chân tu. Và càng thấy gần gủi, thông cảm, yêu kính hơn
những vị tu sĩ mình vẫn gặp hàng ngày.
Mong là bạn cũng được nhiều niềm
vui khi đọc quyển Tự truyện này. Xin hồi hướng công đức dịch thuật đến tất cả
mọi chúng sanh, đến cha mẹ đã quá cố của tôi. Đặc biệt xin cảm ơn chị tôi, Chơn
Đăng Lý Thu Lan, vì đã gánh vác hết mọi việc thời gian mẹ tôi nằm bịnh, để tôi
có thể hoàn tất việc dịch quyển sách này.
Chắc chắn là bản dịch vẫn còn
nhiều thiếu sót. Mong nhận được những sự chỉ giáo của các bậc tôn sư, quý đạo
hữu và độc giả, để những lần tái bản sau được hoàn chỉnh hơn.
Hè 2006
- Việt Nam
Diệu Liên Lý Thu Linh