Chương 5.
Trường Phật học
Khi tỉnh
lại, tôi thấy mình đang nằm trên mặt đất bên bờ sông, một người đàn ông đang
quỳ cạnh tôi. Tôi bắt đầu ói nước sông ra khi đám đông bu quanh đứng nhìn. Sau
đó tôi được kể rằng chú điệu nhỏ, người đã cùng lội với tôi không thể bước lên
khỏi sông, vì trong lúc hoảng loạn, tôi đã níu rách áo quần của chú. Trần
truồng, chú phải đứng nép ở bờ sông, giấu mình dưới nước và la cầu cứu.
May là có một người đàn ông vừa
bước ra khỏi quán trà cạnh bên ga xe lửa, hỏi cớ sự. Chú điệu nhỏ đã chỉ nơi
tôi bị chìm xuống.
"Giờ nầy chắc anh ta đã
chết rồi," chú la lên.
Người đàn ông mặc nguyên cả đồ,
nhảy xuống sông, mò mẫm dưới nước. Đến khi ông tìm được, tôi đã bất tỉnh ở dưới
đáy sông. Ông kéo tôi lên bờ sông và bắt đầu cứu tôi bằng phương pháp hô hấp
nhân tạo trong khi đám đông tụ lại xem.
Dần dần tôi ngồi dậy, ho và ói
nước. Tôi hơi run sợ, nhưng cảm thấy an toàn. Chú điệu nhỏ đi tìm sư phụ của
mình, và hai người đã đưa tôi trở lại chùa của họ, cách đó khoảng năm mươi
thước. Họ cho tôi một tách cà phê nóng với rất nhiều đường và một bộ y khô.
Không lâu sau đó thì tôi trở lại bình thường.
Vị sư trưởng rất tử tế. Ông hỏi
tên tôi và nơi tôi đi đến. Sau khi tôi trả lời, ông sai người ra ga xe lửa mua
vé cho tôi đi Gampaha.
Sau một vài giờ nghỉ ngơi, tôi
lại lên đường. Trớ trêu thay, khi tôi đến trường Phật học ở Gampaha, người đầu
tiên bắt chuyện với tôi, hỏi tại sao giọng tôi nói giống như người bị chết
đuối.
“Tôi chỉ bị cảm,” tôi trả lời.
Tôi quá xấu hổ không thể nói sự thật.
Nhưng ngày hôm sau, trên trang
đầu của một tờ báo có tiếng ở Ceylon
đã có in hình của tôi với câu chuyện về một tăng sĩ trẻ suýt chết đuối dưới
sông ở ga xe lửa Veyangoda. Bạn bè ở trường Phật học đã trêu ghẹo tôi về chuyện
đó hàng năm trời.
Mặc dầu trường Phật học miễn học
phí, nhưng tăng sinh nội trú phải trả khoảng năm rupee một tháng. Tiếc thay,
tôi không có đồng nào để trả, vì thế tôi được cho một căn lều bỏ hoang để ở.
Căn lều chỉ có nền đất, tường lửng chỉ cao khoảng hơn một thước, không có cửa.
Tôi gom mấy bao tải gạo, vài cây tre và dây nhợ để làm một cánh cửa tạm bợ và
che chắn cửa sổ. Để có ánh sáng, tôi dùng một cây đèn đất đốt bằng dầu dừa. Đó
là cái kuti đầu tiên của tôi,
loại thất một gian mà các tăng sĩ hay trú ngụ trong đó, và tôi cũng rất vui
được ở đó.
Phần lớn tôi học hành ở trong
thất. Chẳng lâu sau, tôi nổi tiếng là một tăng sinh thông minh nhất ở trường.
Tôi khám phá ra rằng tôi có một trí nhớ như in, rõ ràng là một quà tặng của
thiện nghiệp. Tôi có thể đọc một quyển sách dài trong mười phút và nhớ tất cả
mọi thứ trong đó. Tôi không biết bằng cách nào; chỉ biết rằng mỗi trang sách
trụ lại trong tâm tôi như một bức ảnh.
Tôi rất hãnh diện về khả năng
thiên phú này của mình, và thường yêu cầu bạn bè thử thách tôi, bằng cách đặt
những câu hỏi từ trong sách. Tôi có thể trả lời câu họ hỏi ở trang số mấy, và
ngay cả dấu chấm phẩy trong câu hỏi.
Có lẽ vì vậy, thầy hiệu trưởng
của trường rất thích tôi, cho tôi làm phụ tá cho ông. Tôi cũng được bầu chọn
làm thủ quỹ, có nghĩa là tôi quản lý, cất giữ tất cả tiền đóng góp được gửi tới
trường, và cả các vật dụng khác như là y áo, thuốc men. Rồi sau đó tôi sẽ phân
phát lại cho các tăng sinh nếu cần.
Vì quyền hạn và bổn phận này của
tôi mà một số bạn học trở nên ganh tỵ với tôi, đã thế, tôi lại còn sanh tánh
hay thóc mách khuyết điểm của các bạn khác với thầy hiệu trưởng; tóm lại, tôi
là một kẻ tồi tệ. Tôi gửi báo cáo này đến báo cáo khác, kẻ vạch từng chi tiết
những sai trái của bạn bè. Tôi biết rằng, lý ra tôi phải quan tâm về các hành
động của mình hơn là tìm kiếm lỗi của người, nhưng vì muốn duy trì lòng tin yêu
của thầy hiệu trưởng nên tôi đã làm thế.
Tôi đã không thực hành lời dạy
của Đức Phật trong kinh Pháp Cú:
Thấy lỗi người thì dễ, nhưng lỗi
mình khó thay. Ta sàng lọc lỗi người như rơm trấu, mà lại giấu lỗi mình, hay
như gã thợ săn giảo quyệt núp sau những cành cây ngụy tạo. Người luôn tìm lỗi
người, luôn xét nét, (vì thế) uế nhiễm của họ càng tăng. Họ rất khó đoạn trừ uế
nhiễm.
Vào những ngày rằm, tôi được
giảng pháp khoảng nửa giờ tại trường. Thường thường những bài Pháp này dựa trên
các sách tôi đã đọc. Nhưng một lần kia tôi nghĩ rằng làm thế sẽ khiến cho thính
giả của tôi nhàm chán, vì thế tôi quyết định “sáng tạo”. Tôi chỉ học thuộc một
bài kinh dài ba trang, một trong những bài giảng của Đức Phật gọi là kinh
Visakhuposatha. Rồi tôi lặp lại với thính giả của mình.
Bài thuyết pháp thể nghiệm thất
bại. Tôi đọc xong bài kinh chỉ trong mười phút, sau đó tôi chỉ lảm nhảm thêm
năm phút nữa về điều gì, tôi cũng không nhớ nữa. Thật xấu hổ. Đó là một bài học
quý giá cho tôi về giá trị của sự chuẩn bị chu đáo. Từ đó, tôi luôn chuẩn bị
cẩn thận từng bài thuyết pháp của mình. Tôi thường chọn một câu trong kinh Pháp
Cú rồi giảng rộng ra dùng những câu chuyện trong phần chú giải. Kinh Pháp Cú
bao gồm 423 câu, phần lớn dạy về giới luật và đạo đức. Ngoài ra cũng có hàng
trăm câu chuyện rải rác khắp nơi trong tàng kinh Phật giáo để minh họa cho các
đề tài được nói đến trong kinh Pháp Cú. Tôi rất thích kể những câu chuyện này,
để tạo cho người nghe một căn bản về đạo đức Phật giáo.
Mãi lâu sau này, qua bao năm tu
tập, tôi mới cảm thấy đủ tự tin để thuyết pháp mà không cần chuẩn bị trước.
Ở trường Phật học, vào tuổi mười
bảy, cuối cùng tôi cũng bỏ được tật hút thuốc lá. Đó là một thói quen tôi đã
huân tập nhiều năm, nhưng tiếc thay tôi chỉ thay đổi cái ghiền này bằng cái
ghiền khác. Thói quen mới của tôi là ăn trầu, một hỗn hợp gồm lá trầu, cau, vôi
và sợi thuốc lá.
Chẳng bao lâu sau tôi trở thành
cây hài của trường. Mỗi tối, tôi đều tụ tập bạn bè lại, kể chuyện tiếu lâm cho
họ nghe hằng giờ đồng hồ. Tôi rất thích làm cho họ cười.
Một trong những câu chuyện tiếu
của tôi là về một vị bảo trợ của chùa, người rất bực tức vì quý tu sĩ ở đó
không bao giờ mang đồ cúng dường của ông dâng trước tượng Phật. Vì thế ông cột
một sợi dây quanh cổ tượng Phật rồi treo tượng lên xà nhà. Khi các tăng sĩ khám
phá ra điều đó, hỏi ông tại sao, ông bảo đó là một sự tự tử. “Tượng Phật bảo
rằng không thể sống ở một nơi như thế,” ông giải thích.
Cũng lạ là thầy hiệu trưởng
không phản đối những câu chuyện tiếu lâm bất kính đó. Thường thường, sau màn
trình diễn của tôi, chúng tôi vào phòng ông, cùng thưởng thức việc ăn trầu với
ông. Ông là một người rất tinh tế trong việc đối xử với các tăng sinh trẻ. Ông
nghiêm khắc, nhưng cũng rất hoà nhã. Ông biết cách khuyến khích chúng tôi mà
không ép buộc, nếu không, chúng tôi cũng chẳng màng đến chuyện học hành. Ông
khuyến khích chúng tôi trở nên những tăng sĩ gương mẫu. “Các cư sĩ luôn ngưỡng
mộ quý thầy,” ông nói. “Họ biết rằng quý thầy đã hy sinh các dục lạc để dâng
hiến cuộc đời cho việc hành pháp, vì thế quý thầy phải xứng đáng với lòng kính
trọng đó.”
Gần như không bao giờ tôi có
đồng nào, nhưng không hề gì. Chỗ ở khiêm nhường của tôi được miễn phí, đồ ăn
thì do đi khất thực, và thay vì phải mua sách giáo khoa, tôi mượn các bạn và
chép lại bằng cách viết tay. Tôi chỉ nghĩ đơn giản là tôi đã có tất cả mọi thứ
cấn thiết để hoàn tất chương trình học của mình. Tôi rất tự tin ở bản thân cũng
như ở Tam Bảo - Phật, Pháp và Tăng.
Tôi cảm thấy như là Đức Phật vẫn
còn sống và đi bên tôi xuyên suốt cuộc đời, hỗ trợ tôi bất cứ những gì tôi cần.
Tôi tin chắc rằng Phật pháp sẽ bảo vệ tôi vì tôi đã phấn đấu không ngừng để học
hỏi những điều Phật dạy. Và tôi nghĩ rằng vì tôi là thành viên của Tăng đoàn,
tôi sẽ không gặp khó khăn, trở ngại để có những thứ tôi cần. Ngay cả bây giờ,
nhiều thế kỷ sau, tôi vẫn cảm thấy Tam Bảo luôn hộ trì cho tôi. Tất cả những
nhu cầu vật chất của tôi dần dần đều được thoả mãn, mà không cần vất vả kiếm
tìm.
Một ngày kia, một sư huynh nhờ
tôi cạo tóc giùm. Đó là việc thường xảy ra trong tu viện, nhưng tôi chưa bao
giờ cạo tóc cho ai, ngay chính cho bản thân. Tôi bảo với ông điều đó, nhưng ông
khư khư nói, “Cũng đến lúc thầy phải học.”
Việc cạo râu tóc là một phần
quan trọng của giới luật trong các tu viện Phật giáo. Cả tăng và ni đều phải
làm thế. Một chiếc đầu cạo nói lên sự sạch sẽ, khiêm cung và nó cũng giúp ta
tránh được vấn đề phải giết chí trên đầu! Đó cũng là biểu tượng của sự xả bỏ,
nhằm giúp tăng ni bớt bám víu vào vẻ đẹp hình thức bên ngoài. Nếu quý tăng ni
không phải mất nhiều thì giờ gội, chải, sửa soạn tóc tai, thì họ có nhiều thời
gian hơn dành cho việc theo đuổi những vấn đề tâm linh.
Vinaya hay là
giới luật ở tu viện, dạy rằng tăng ni có thể để tóc dài chừng năm centimét. Có
người thì cạo tóc mỗi tháng một lần, thường là ngay trước ngày rằm. Người khác
thì cạo mỗi tuần, hay có khi mỗi ngày.
Điều lệ này quan trọng đến nỗi
một lưỡi dao cạo bén là một trong tám thứ được kể trong nhóm sở hữu (thường
được gọi là nhu yếu phẩm) mà người tu sĩ được tiếp nhận lúc thọ giới. (Những
vật dụng khác là nội y; áo để quấn quanh mình; áo ngoài hai lớp như một tấm
mền; một dây nịt vải; một đồ lược nước; một bộ kim chỉ; và một bình bát.)
Khi vị sư huynh nhất định là tôi
phải cạo tóc cho ông, tôi đảnh lễ và đồng ý làm theo truyền thống. Tôi thấm
nước lên đầu ông, chà xà bông lên đó, và cầm lưỡi lam lên. Đứng phía sau ông,
tôi kéo lưỡi dao trên da đầu và một miếng da khoảng hai centimét tụt khỏi đầu
ông! Ngay lập tức máu tuôn ra. Tôi sợ quá đến nỗi tôi bắt đầu run lên.
“Thưa đại đức, xin hãy tha thứ
cho con,” tôi nói, rồi chạy đi tìm một tăng sinh khác. Thầy ấy mang vào một ít
nước lạnh để rửa vết thương. Rồi trong khi tôi đứng nhìn trong sự xấu hổ và sợ
hãi, thầy cạo nốt phần tóc còn lại của vị đại đức không may. Dĩ nhiên vào thời
đó chúng tôi không có băng cá nhân, nên vị sư huynh kia phải đi khất thực với
một cục thuốc dán trên đầu.
Nhờ vào trí nhớ như chụp ảnh,
tôi học rất nhanh. Tiếng Sinhala, Pali và Santrit là những môn bắt buộc. Và
tiếng Tamil, Ấn Độ và tiếng Anh là tuỳ chọn. Không cần nhiều cố gắng, tôi học
được tất cả các môn. Như để thưởng tôi, cuối cùng tôi được phép vào sống trong
ký túc xá với các tăng sinh khác, mặc dầu tôi tiếp tục không có khả năng để trả
tiền trọ. Tôi được phép đến ở chung phòng với một sadi khác.
Rủi thay, người bạn cùng phòng
ganh tỵ với tôi. Một ngày kia tôi kéo trong túi ra một quyển sách giáo khoa
tiếng Anh mỏng, mà tôi đã mượn của người khác, tôi thấy nó đã bị xé hai. Tôi lo
lắng không biết làm sao để đền tiền quyển sách, và bắt đầu khóc. Một tăng sinh
khác ở phòng bên cạnh nghe tôi thút thít, đã hứa giúp đỡ bằng cách mua một
quyển sách khác.
Vài ngày sau đó, người bạn cùng
phòng đã thú nhận rằng thầy đã xé sách của tôi vì ganh tỵ với sự nổi tiếng và
học giỏi của tôi ở trường. Chiều hôm đó chúng tôi giải quyết mọi khúc mắc và
dần trở thành bạn tốt của nhau.
Dần dần, ngày thọ đại giới của
tôi cũng đã được định. Đó là ngày 25 tháng 6, năm 1947. Tôi rất phấn khởi và
hạnh phúc. Cuối cùng tôi cũng sẽ được làm một vị tỳ kheo với đầy đủ giới luật,
ước mơ của tôi cũng đã thành hiện thực. Trước một hội đồng tăng già trang
nghiêm, tôi sẽ thọ các giới luật mới khắt khe hơn. Thay vì là một sadi với mười
giới luật, giờ tôi sẽ chấp nhận thọ 227 giới luật -những giới luật mà một tỳ
kheo Phật giáo nguyên thủy phải tuân hành.
Tôi gần như không thể chờ đợi
lâu hơn.
Buồn
thay, ngay từ ban đầu, đã có một bóng mây trong quá trình đó. Vấn đề không phải
là tôi có đủ tư cách để trở thành một tỳ kheo không, mà là vấn đề chính trị
trong hội đồng Tăng Già Phật giáo ở Ceylon. Những vấn đề chính trị nầy
đe dọa sẽ trì hoãn giấc mơ mà tôi đã ấp ủ cả đời.