Chương 2.
Cuộc sống không nhà
Khi tôi
lớn hơn, ý muốn được trở thành một người tu sĩ càng tăng lên. Trước khi xuất
gia, tôi rất thích giả bộ tôi đã là một tu sĩ. Tôi sẽ quấn quanh mình một miếng
vải trắng, giống như các vị sư quấn y quanh mình, rồi ngồi xuống một gốc cây
trong rừng. Tôi tưởng tượng rằng các cây chung quanh là người, rồi thuyết cho
đám đông thính giả thầm lặng đó, hay đọc tụng lại một vài đoạn kinh bằng tiếng
Pali mà tôi đã nghe ở chùa. Rồi tôi cũng ngồi xuống, giả vờ như mình đang lắng
sâu trong “thiền định”, dầu lúc đó tôi chẳng biết thiền là gì.
Từ thuở đó, tôi đã tin rằng
nghiệp của tôi là phải trở thành người tu sĩ. Điều đó không có nghĩa là “số
kiếp” của tôi phải là như thế, vì trong Phật giáo không có những quan niệm như
thế. Đúng hơn, đó là vì tất cả các nhân đã tích lũy trong quá khứ, không biết
là đã bao lâu rồi, khiến bây giờ tôi lại muốn trở thành một tu sĩ Phật giáo. Có
thể tôi đã là một tu sĩ trong một kiếp trước -không được thành công lắm, vì rõ
ràng tôi vẫn chưa đạt được giác ngộ trong kiếp này, nhưng cũng không hoàn toàn
thất bại, vì tôi đã có duyên lành được tái sinh làm người, được có thêm cơ hội
để hoàn thiện công phu tu tập của mình. Dầu không phải như thế, thì sự thôi
thúc được xuất gia, niềm khao khát sâu xa được mặc chiếc áo nhà tu cũng đã chớm
nở trong tôi rất sớm.
Khoảng năm mười một tuổi, tôi đã
không còn thích thú gì trong những trò quậy phá và đánh nhau của đám con trai,
mà tôi và Rambanda thường ưa thích, và tôi cũng không còn hứng thú trong chuyện
học. Tôi chỉ muốn được gia nhập vào tăng đoàn Phật giáo, theo truyền thống Á
châu cổ xưa của hơn hai ngàn năm trăm năm trước. Những câu chuyện của các thiếu
niên vào thời Đức Phật còn tại thế, với những ước muốn trở thành người tu tương
tự như tôi, làm tôi say mê. Một trong những câu chuyện như thế là về một cậu bé
tên gọi là Culapanthaka.
Culapanthaka được sinh ra ở ven
đường, khi mẹ cậu trên đường trở về quê ngoại. Ở Ấn Độ vào thời cổ xưa, người
phụ nữ có thai, theo truyền thống, phải trở về nhà cha mẹ ruột để sinh con, và
thường những nhọc nhằn trong cuộc hành trình dẫn đến việc sinh con trên đường
về. Thái tử Siddhattha Gotama (gọi trong tiếng Phạn là Siddhartha Gautama),
người mà sau này trở thành Đức Phật, được sanh trong một khu rừng nhỏ bên đường
vì mẹ của thái tử, hoàng hậu Mahamaya đang trên đường trở về nhà cha mẹ ruột.
Mẹ của Culapanthaka có hai người
con trai, cả hai đều được sinh ra bằng cách đó, ở ven đường. Người đầu tiên bà
đặt tên là Mahapanthaka –“người lữ hành lớn”. Người thứ hai tên là
Culapanthaka, có nghĩa là người “lữ hành tí hon.” Vì người mẹ rất nghèo, bà để
hai con trai lại cho cha mẹ bà nuôi ở Rajagaha.
Mahapanthaka thường đi theo ông
ngoại đến nghe Đức Phật thuyết pháp, và điều đó lôi cuốn ông dần dần trở thành
một tăng sĩ. Vài năm sau, người em Culapanthaka cũng đi theo bước chân anh.
Mahapanthaka muốn dạy Pháp cho
em mình, nhưng thấy cậu bé là người quá kém thông minh. Culapantakha không thể
nhớ đến một câu kinh đơn giản trong mấy tháng trời. Mahapanthaka rất thất vọng
và đã nghĩ rằng nếu em mình không thể học Pháp thì không thể tiếp tục làm tăng
sĩ.
“Em nên cởi bỏ y áo rồi về nhà
đi”, ông bảo với em trai mình.
Culapantakha rất buồn khổ. Ông
rất thích cuộc sống tu hành và được làm đệ tử Đức Phật. Ông không biết phải làm
gì, nhưng biết rằng ông không muốn phải hoàn tục.
Không lâu sau đó, Jivaka
Komarabhacca, người thỉnh thoảng làm lương y cho Đức Phật, yêu cầu Mahapanthaka
thỉnh Đức Phật và tăng đoàn ở tu viện đến dùng bữa trưa tại nhà ông.
Mahapanthaka thay mặt tăng đoàn chấp nhận lời mời, rồi nói thêm, “Đến ngày mai
Culapanthaka sẽ không còn ở tu viện nữa. Tôi đã yêu cầu thầy ấy hoàn tục nhưng
tôi sẽ đến cùng với Đức Phật và tăng đoàn”.
Nghe giọng nói quyết liệt của
anh mình, Culapantakha đau buồn thảm thiết, với đôi mắt đẫm lệ, ông thu xếp vật
dụng rồi rời tu viện. Nhưng khi ông vừa đi ra, Đức Phật thấy ông và hỏi tại sao
ông buồn vậy, ông kể cho Phật nghe những gì đã xảy ra.
Đức Phật nói: “Thầy không cần
phải cởi bỏ y áo, từ bỏ đời sống tu sĩ chỉ vì thầy không thể thuộc một câu
kinh. Đây, tôi có thể chỉ cho thầy một việc mà thầy có thể hiểu một cách dễ
dàng”.
Đức Phật đưa cho ông một miếng
vải trắng và nói, “Hãy cầm mảnh vải này ra ngồi ngoài sân. Tay
trái thầy cầm mảnh vải, lau lên bàn tay mặt, lặp đi lặp lại câu ‘Chùi sạch,
chùi sạch, chùi sạch’”.
Culapantakha làm đúng như lời
Phật dạy. Ông ngồi dưới nắng, cầm mảnh vải lau vòng vòng trên bàn tay mặt, lặp
lại câu chú bất thường mà Đức Phật đã dạy cho ông để thực hành chánh niệm.
Sau một lúc ông nhìn lại. Miếng
vải trắng đã trở thành đen, lem luốc bởi mồ hôi trong tay ông. Mặc dầu đọc câu
chú về làm sạch, nhưng ông đã làm dơ hết miếng vải!
Bỗng nhiên, Culapantakha chứng
ngộ rằng tất cả đều vô thường. Tất cả những gì ông ưa thích, tất cả những gì
ông đã nếm trải, đã chống đối, không có gì là ngoại lệ, tất cả đều vô thường
như miếng vải trắng sạch đó. Ngay lúc đó, Culapantakha đã trở nên giác ngộ,
nhận thức rõ ràng được sự vô thường của vạn vật. Ông trở vào tu viện ngồi dưới
một cội cây và dùng năng lực tâm linh huyền bí của một người đã hoàn toàn giác
ngộ, tạo ra hàng trăm tăng sĩ giống hệt như ông.
Trong lúc đó, các vị tăng khác ở
tu viện đã đi với Đức Phật đến nhà Jivaka. Đức Phật không thấy Culapantakha, do
đó Ngài đã từ chối thọ thực.
“Bạch Đức Thế Tôn, có chuyện
gì?” Jivaka lo lắng hỏi. “Còn thiếu gì nữa chăng?”
Đức Phật hỏi: “Ông có chắc rằng
tất cả tăng đoàn đã đến chăng?”
“Bạch Đức Thế Tôn, con chắc rằng
tất cả đã đến. Đại đức Mahapanthaka đã xác nhận điều đó”.
“Dầu vậy,” Đức Phật từ tốn nói,
“hãy cho người trở lại tu viện xem còn có tăng sĩ nào ở lại phiá sau”.
Jivaka sai người trở lại tu
viện. Người đó nhanh chóng trở lại mặt xanh như người chết.
“Bạch Đức Thế Tôn cả tu viện đầy
tăng sĩ!”, ông thưa. “Người thì đang hành thiền, người đang vá áo, người lau
chùi, người gánh nước, người kinh hành, người đọc tụng kinh pháp.”
Đức Phật bảo người kia trở lại
tu viện tìm thầy Culapantakha. Ông ta làm theo. Và khi ông làm thế, thì tất cả
tu sĩ -hàng trăm người- trả lời, trong một giọng, “Tôi là Culapantakha.”
Người đàn ông kinh hoàng. Ông
trở về nhà Jivaka, báo lại những gì ông đã chứng kiến. Sau đó Đức Phật dạy ông
trở lại, nắm lấy áo một vị. “Nếu ngươi làm thế,” Đức Phật nói, “các tu sĩ khác
sẽ biến mất.”
Người đó đã y theo lời Phật dạy.
Và ông đã đưa vị tên là Culapantakha về để thọ thực. Sau khi thọ thực, Đức Phật
yêu cầu Culapantakha thuyết một bài Pháp. Người anh, Mahapanthaka và các vị
tăng còn lại đều ngạc nhiên. Tại sao Đức Phật lại trân trọng một người yếu kém
như thế, một vị tu sĩ tồi tệ đến nỗi không nhớ đến một câu kinh?
Nhưng Culapantakha đã thuyết một
bài Pháp tuyệt diệu, dựa ngay trên sự chứng nghiệm của mình về vô thường. Mọi
người đều bàng hoàng trước sự hiểu biết sâu rộng của ông.
Theo câu chuyện này, trong tiền
kiếp ông đã là một vị sư rất thông minh, nhưng đã chế ngạo một huynh đệ kém
thông minh, đang cố gắng với nhiều khó khăn để học thuộc lòng một đoạn kinh.
Cho nên trong kiếp kế tiếp của Culapantakha, nghiệp của ông đã trổ quả: Một mặt
ông không thể học một câu kinh trong bốn tháng, mặt khác ông lại có thể đạt
được giác ngộ và thần thông. Cả hai đều là kết quả của những nghiệp trước đó,
tốt và xấu. Một câu chuyện với hai chủ đích: vừa sách tấn, vừa cảnh cáo!
Cũng giống như Culapantakha, tôi
rất kiên quyết theo đuổi mục đích của mình. Tôi van nài cha mẹ tôi để được đi
tu mãi, đến nỗi dần dần họ cũng coi điều yêu cầu của tôi là nghiêm chỉnh, chứ
không phải là bốc đồng thoáng qua. Tôi còn rất trẻ để có thể được xuất gia
ngay, nhưng tôi có thể ở trong chùa và học tập làm chú tiểu. Nhiều cậu bé đã
làm như thế, và nhiều người trong số họ đã trở thành tu sĩ khi họ lớn lên.
Gia đình nào có một trong những
người con trai của họ gia nhập tăng đoàn thì được coi là rất vinh dự. Khi một
người xuất gia, tất cả họ hàng đều được công đức tâm linh. Ngay chính như người
thanh niên đã lập gia đình, khi anh ta quyết định xuất gia, bỏ vợ lại nhà cũng
không bị khiển trách. Người vợ cũng được công đức bởi sự xuất gia của chồng.
Vì thế dầu ngần ngại, cuối cùng
cha tôi cũng đồng ý để tôi thử sống ở chùa. Mẹ tôi khóc vì bà không muốn tôi
rời xa nhà, nhưng bà thấy không thể lay chuyển quyết định của tôi -ngay chính
tử vi của tôi cũng đã tuyên đoán như thế! Và mẹ tôi chắc chắn không phải là
người mẹ duy nhất ở Ceylon phải đưa đứa con trai nhỏ nhất của mình vào đời sống
tôn giáo; vì Phật giáo quá phổ biến trong nền văn hoá của chúng tôi, điều đó
xảy ra luôn.
Cha tôi đi hỏi một vị chiêm tinh
gia trong làng để chọn một ngày may mắn cho tôi rời nhà. Thời đó, thuật chiêm
tinh quyết định những biến cố quan trọng trong cuộc đời của chúng tôi. Người ta
xem sao để quyết định khi nào xuống giống, khi nào lập gia đình, khi nào chôn
người chết, khi nào cắt tóc cho đứa trẻ lần đầu tiên, khi nào bắt đầu một công
việc quan trọng, kể cả khi đào móng xây nhà.
Mặc dầu sự tiên đoán của thuật
chiêm tinh có vẻ trái nghịch với giáo lý Phật giáo về nghiệp luật của nhân quả,
niềm tin vào thuật chiêm tinh vẫn hiện hữu bên cạnh Phật giáo, và không ai nghĩ
điều đó có vấn đề gì.
Vào ngày đã chọn, mẹ tôi nấu một
ít cơm sữa cho tôi. Đó là một sự chiêu đãi đặc biệt. Khi đứa trẻ học đánh vần
lần đầu tiên, bà mẹ nấu cơm sữa. Hay khi đứa trẻ lần đầu tiên đến trường, bà mẹ
nấu cơm sữa. Để mừng sinh nhật hay năm mới, người ta cũng nấu cơm sữa. Hàng
năm, vụ mùa đầu tiên thường được dùng để nấu cơm sữa dâng cúng cho các vị sư.
Và dĩ nhiên, đó chính là cơm sữa
mà cô thôn nữ Sujata đã dâng cho thái tử Siddhattha Gotama gầy yếu, sau khi
Ngài quyết định từ bỏ cách tu khổ hạnh. Ngài đã nhận sự cúng dường đó. Chén cơm
sữa đã giúp Ngài hồi sức để có thể dũng mãnh toạ thiền dưới gốc cây bồ đề và
đạt được giác ngộ, rồi sau đó giảng dạy về con đường trung đạo.
Khi đang ăn chén cơm sữa mà mẹ
đã nấu cho ngày rời xa nhà của tôi, tôi nhìn thấy những giọt nước mắt bắt đầu
lăn trên mặt mẹ và các chị tôi. Rambanda cũng đang kiềm giữ những giọt nước
mắt.
Khi thời điểm phải rời nhà đến
gần, cha tôi xuất hiện, trong bộ xà rông và áo sơmi trắng tốt nhất của ông. Ông
bảo tôi đã đến lúc phải đi. Tôi cũng mặc vào chiếc áo sơmi và cái xà rông
trắng.
Lúc đó thì anh tôi oà lên khóc,
và bỗng nhiên tôi cảm thấy rất khó ra đi. Những tình cảm lẫn lộn làm tôi nghẹn
ngào. Tôi rất hạnh phúc, vì cuối cùng cũng được đến ở chùa, nhưng tôi cảm thấy
rất buồn vì phải xa gia đình. Với sự ra đi này, tôi coi như đã từ bỏ cuộc sống
gia đình để theo một cuộc sống được gọi là ‘vô gia cư’, cuộc sống của một vị tu
sĩ Phật giáo.
Cả gia đình tụ ra trước nhà để
tiễn tôi đi. Tôi quỳ gối trước mặt mẹ, và chạm trán xuống đất dưới chân bà.
Bà vuốt đầu tôi bằng cả hai tay.
“Nguyện cầu Tam Bảo phù hộ cho
con,” bà thầm thì, giọng nói nghẹn ngào. “Cầu chư thiên phù hộ con. Cầu cho con
được sống lâu sức khoẻ. Cầu cho con khỏi mọi tai nàn”.
Và rồi bà bắt đầu khóc.
Tôi đứng dậy và mẹ tôi hôn lên
trán tôi, ôm chặt lấy tôi.
Cha tôi và tôi đi bộ hàng giờ
trên con đường bụi bặm để đến ngôi chùa, nơi sẽ là mái nhà mới của tôi. Chúng
tôi không có hẹn trước, cha tôi đã không báo với nhà chùa rằng tôi sẽ đến. Các
vì sao đã báo rằng đó là một ngày tốt để tôi rời nhà, và đúng như thế.
Gần cuối ngày, chúng tôi đến
thành phố Kosinna, ở quận Rambukkana. Ngôi chùa nằm trong một đồn điền dừa ở
cuối con đường đất. Khuôn viên chùa bao gồm một giảng đường, khu nội viện của
các tăng và một chánh điện riêng biệt. Ngoài sân có vài chiếc ghế và rất nhiều
cây hoa, cũng như là các luống trầu cho ra những lá trầu mà các vị sư thường
nhai vì chất gây nghiện nhẹ của chúng.
Cha dẫn tôi đến trước vị sư trụ
trì, là một người đàn ông nhỏ thó, khoảng sáu mươi tuổi. Sau này tôi được biết
rằng ông đã lập gia đình trước khi xuất gia, đã sống trong ngôi nhà ở cạnh vườn
dừa, và có được một người con trai lớn.
Cha ở lại chùa với tôi khoảng
hai tiếng đồng hồ; rồi ông về. Tôi rất mệt và chỉ muốn đi ngủ. Gia đình và thời
thơ ấu của tôi dường như đã xa thẳm.
Sáng hôm sau vị sư trưởng đưa
cho tôi một quyển sách tiếng Pali căn bản, ngôn ngữ mà Đức Phật đã sử dụng và
được dùng trong các kinh điển Phật giáo nguyên thủy. Sư bảo rằng tôi phải thuộc
lòng tất cả mọi thứ trong sách để chuẩn bị cho sự xuất gia của tôi, và sư hoạch
ra những bổn phận tôi phải làm.
Tôi và ba cậu bé khác ở chùa
phải đi vòng quanh đồn điền để lượm những trái dừa rụng và đem chất chúng ở
nhiều nơi. Chúng tôi cũng phải quét nhà, lượm củi để nấu ăn, kéo nước, rửa
chén, và giặt đồ. Căn bản chúng tôi là những người lao động không công -cũng
một loại nô lệ.
Những bổn phận thuộc về tôn giáo
của chúng tôi bao gồm hái hoa để chưng trên bàn thờ trong chánh điện, và dự các
buổi đọc kinh mỗi sáng chiều.
Các cậu bé khác thì nấu ăn mỗi
ngày. Công việc của tôi là đến nhà cũ của vị sư trưởng, để mang những thức ăn
đặc biệt do người vợ trước của ông chuẩn bị. Chỉ có ông được quyền dùng các món
này.
Ba cậu bé ở trong chùa tất cả
đều lớn và to con hơn tôi. Những ‘cậu bé ở chùa’ nầy không phải là các chú
tiểu, như tôi sẽ trở thành sau nầy, nhưng họ được có cơ hội lãnh hội một nền
giáo dục tôn giáo bằng cách sống ở chùa, và làm việc để bù cho tiền ăn ở của
họ. Một cậu phải coi sóc các luống trầu. Cậu nữa quản lý nhà bếp. Đứa thứ ba
thì trông chừng những con chó chạy rong trong khuôn viên chùa. Thường họ làm
những việc mà một vị tu sĩ không được phép làm do giới luật, thí dụ như là nấu
ăn hay đi chợ.
Đây sẽ là cuộc sống mới của tôi.
Nhưng tôi chỉ sống ở chùa đó
được khoảng ba tháng.
Một ngày kia tôi đang ở trong
nhà bếp rửa nồi. Hai đứa trẻ khác đứng gần đó cãi nhau dữ dội. Một đứa chọi đứa
kia cục đá nhưng lại trúng cườm tay tôi. Bàn tay tôi lập tức sưng lên và rất
đau đớn.
Tôi viết cho cha một lá thư và
kể cho ông nghe câu chuyện. Vài ngày sau đó, cha đến để dẫn tôi về. Ông nói,
‘Tôi không muốn con trai tôi ở bất cứ chùa nào mà có những người bạo lực.’ Ông
cho rằng cha có thể đánh con, điều đó hợp lý, nhưng không nghĩ rằng những hành
động như thế lại có chỗ ở trong chùa. Tôi trở về nhà với cha.
Mẹ và các chị tôi rất vui mừng
được gặp lại tôi, và thật tuyệt vời được trở về với Rambanda. Tất cả chúng tôi
lại tiếp tục sống như trước kia.
Phần lớn thời gian của tôi là
chạy qua chạy lại giữa nhà cha mẹ, và nhà nơi người chị cả của tôi sống với
chồng chị và đứa con gái. Họ nói với tôi rằng họ rất thích có một đứa con trai
trong nhà, thế thì tại sao tôi không đến sống với họ?
Điều đó thật hấp dẫn. Tôi thương
cả hai rất nhiều, và cháu gái tôi cũng giống như là em tôi. Hoàn cảnh của tôi,
lúc đó có vẻ rất bấp bênh. Tôi đã gần mười hai tuổi và đã nghỉ học bốn tháng rồi.
Nhưng ước muốn được trở thành
một tu sĩ vẫn còn cháy bỏng trong tôi. Tôi rất nhớ những ngày được mặc áo tu.
Vì thế tôi xin cha tìm một ngôi chùa nào khác chấp nhận tôi.
Vài tháng sau, vào tháng giêng
năm 1939, anh rể tôi nói với cha rằng anh có nghe về một ngôi chùa khác, ở làng
Malandeniya, đang tìm một cậu bé để cho xuất gia. Chùa đó được gọi là Sri
Vijayarama, có nghĩa là ‘sung túc và thắng lợi.’ Cha và anh rể nghĩ rằng
Malandeniya cách nhà tôi khoảng chín kilômét, nhưng họ cũng không chắc chắn vì
chưa có ai trong chúng tôi đã từng đến đó.
Lần thứ hai tôi rời nhà cũng
giống như lần đầu tiên: cũng cơm sữa của mẹ; xà rông trắng tinh; nước mắt và
cảm giác vừa phấn khởi vừa đau buồn của tôi. Tôi cảm thấy hạnh phúc khi nghĩ
đến tương lai được làm một tu sĩ. Đồng thời nhớ lại những kinh nghiệm của tôi ở
ngôi chùa trước, lòng tôi đầy âu lo khi phải đến sống ở một nơi xa lạ, với
những người xa lạ.
Lần này, cả cha và anh rể đều
cùng đi với tôi trong chuyến đi này. Khi chúng tôi ra đi, mẹ bảo với anh rể tôi
rằng, “Hãy chăm sóc con trai mẹ. Vì con sống gần chùa đó, hãy báo cho mẹ biết
tin tức của nó.”
Rồi chúng tôi cất bước, khi mẹ
đứng bên cửa nhà. Tôi cứ ngoái đầu lại để nhìn bà, và mỗi lần như thế, bà vẫn
còn đứng đó, xa dần xa dần, cho đến khi tôi không còn nhìn thấy mẹ nữa -và còn
lâu hơn nữa những giọt nước mắt trên má tôi mới khô đi.
Không có con đường nào từ làng
tôi dẫn đến Malandeniya. Chúng tôi phải đi dọc theo những lối đi băng qua ruộng
lúa, qua các dòng suối nhỏ và các đồn điền cao su. Thỉnh thoảng, chúng tôi đi
qua những ngôi làng nhỏ khác. Mỗi lần như thế, chúng tôi lại hỏi đường đến
Malandeniya, người ta lại bảo chúng tôi đi xa thêm chút nữa.
Cuối cùng thì chúng tôi cũng đến
được một ngôi chùa có dây thép gai rào quanh. Sau này chúng tôi biết rằng người
ta làm vậy để không cho trâu bò trong xóm vào chùa ăn những cây dừa non trên
mặt đất. Ở cổng, có một hàng rào tre, che dây thép gai để chúng không làm vướng
xà rông khi người ta bước qua đó.
Khi chúng tôi bước vào, một đàn
chó ùa ra sủa như để chào đón chúng tôi, sau đó là một vài cậu bé, và cuối cùng
là vị trụ trì, một người có tầm cao trung bình, với đôi mắt sáng và một chiếc
mũi dài. Ông cười, để lộ hàm răng bợn đen vì trầu cau.
Cha, anh rể và tôi lập tức quỳ
xuống dưới đất và lễ bái ba lần. Nhà sư ra dấu cho chúng tôi đi vào bên trong
chùa và chỉ chiếc chiếu trên sàn nhà nơi chúng tôi có thể ngồi xuống.
Danh xưng của Sư là
Kiribatkumbure Sonuttara Mahathera. Mahathera,
‘trưởng lão,’ hàm ý rằng Sư đã là một vị tỳ kheo ít nhất ba mươi tám năm. Giờ
Sư đã gần sáu mươi tuổi và có vẻ rất thân thiện; nụ cười thường ở trên môi.
Cha giới thiệu về tôi và thưa
với Sư rằng tôi muốn đến sống ở chùa và xuất gia. Nhà sư nhìn tôi từ đầu đến
chân, rồi gật đầu.
Thật đơn giản. Tôi đã được chấp
nhận.
Cha và anh rể tôi nán lại khoảng
một tiếng đồng hồ tiếp chuyện với Sư rồi cáo từ. Ngay khi họ vừa đi khỏi, tôi
cảm thấy một làn sóng cô đơn phủ trùm lấy tôi. Tôi muốn chạy theo họ và bảo
rằng tôi đã thay đổi ý định, rằng tôi muốn về nhà.
Tôi bắt đầu khóc, và không thể
dừng lại sau hàng giờ.
Sư Sonuttara an ủi tôi, bảo rằng
ở chùa, tôi sẽ có được một mái ấm, tôi sẽ được học Pháp từ các vị thầy uyên
thâm. Rồi Sư đưa cho tôi một manh chiếu cũ và một cái gối dơ để trải trên nền
nhà cứng làm giường.
Chánh điện gồm có một sàn gỗ dựng
trên bốn cây cột cao khoảng hơn một thước. Giữa sàn là một tượng Phật bằng đất
sét cũ kỹ và xấu xí.Tôi nhớ tượng Phật đó có đôi mắt nhìn dữ tợn, ghê khiếp,
không giống chút nào với những tượng thanh thoát thường thấy ở hầu hết các
chùa. Rõ ràng là người nặn tượng chưa từng học qua về những phẩm chất của Đức
Phật, mà họ phải biểu hiện trong các bức tượng của Ngài.
Ở một bên tượng Phật dữ tợn đó
là hình của vị thần da xanh Vishnu, một trong những vị thần lớn của Ấn Độ giáo.
Ở bên kia là hình của Humiyam Devata, một vị hung thần mà cho đến ngày nay vẫn
còn một số người Sinhala tôn thờ. Người ta cầu nguyện vị thần này để nhờ uy lực
của thần chống lại kẻ thù của họ. Vishnu và Huniyam có mặt trên bàn thờ của một
ngôi chùa Phật giáo, là một sự chọn lựa lạ lùng, nhìn chung ba hình ảnh nầy
thật đối chọi nhau.
Trong một gian nhà khác, cách
chánh điện khoảng sáu thước, có ba phòng, tất cả đều dơ bẩn, u ám: đó là chỗ
ngủ của sư trưởng, một phòng khách dành cho các sư vãng lai, và một căn phòng
chứa đồ. Bên ngoài có một hành lang, nhỏ dẫn đến nhà bếp. Có một khoảng diện
tích hẹp là góc ăn uống, cũng rất dơ bẩn, và một bếp lò bằng gỗ với ba hòn gạch
để lên trên, nơi người ta có thể đặt những chiếc nồi lên đó nấu.
Phía sau nhà bếp là căn nhà vệ
sinh, chỉ dành riêng cho sư trưởng sử dụng. Mấy đứa trẻ chúng tôi được bảo phải
giải tỏa ngoài đồng trống, phía sau khuôn viên chùa. Và khi nào chúng tôi làm
việc đó, là mấy con heo hàng xóm sẽ đến và ủi sạch cho chúng tôi.
Cũng giống như ở ngôi chùa đầu
tiên, tôi cũng có rất nhiều bổn phận phải làm. Tôi phải bửa củi nấu ăn, gánh
nước từ giếng lên, quét sân, hái hoa chưng bàn Phật, nấu ăn, rửa chén, và cho
hơn cả chục chó mèo chạy rông trong chùa ăn.
Bên cạnh những công việc này tôi
còn phải học thuộc lòng những bài kinh tiếng Phạn từ các sách gọi là Sataka,
nghĩa đen là “một trăm” nhưng thường ám chỉ “một trăm câu thơ tán thán Đức
Phật.” Khi thuộc lòng hết một quyển sách, chúng tôi sang qua quyển khác. Một
trong những quyển sách Sataka giải thích về một trăm lẻ tám danh hiệu của Đức
Phật, quyển khác lại giới thiệu về chín phẩm chất đáng ngưỡng mộ của Đức Phật,
vân vân.
Mục đích của việc bắt mấy đứa
trẻ chúng tôi học thuộc những bài kinh nầy là vì ba việc: để dạy chúng tôi phát
âm tiếng Phạn đúng; để giới thiệu với chúng tôi về những phẩm chất của Đức
Phật; và quan trọng hơn cả, theo tôi, là để phát khởi sự tín tâm, thành ý trong
những đầu óc non trẻ của chúng tôi.
Mỗi chiều, khi chúng tôi phải
trả bài học thuộc lòng trong ngày, Sư Sonuttara sẽ vặn nhỏ ngọn đèn dầu xuống
để chúng tôi không thể ăn gian bằng cách đọc từ trong sách ra. Nếu tôi sai hay
không thuộc đủ các bài kinh, Sư sẽ nổi giận và đánh tôi. Những cái đánh của Sư
thì giống như ‘dụng cụ hỗ trợ học tập’, không hoàn toàn giống như sự bạo lực,
đã khiến tôi phải rời ngôi chùa đầu tiên.
Tuy nhiên, thường thì tôi học
khá thuộc bài. Tôi có vẻ là người học mau hiểu biết, và thầy tôi rất vừa lòng.
Trong ba tháng, Sư đã tuyên bố rằng tôi tiến bộ nhiều, và đã sẵn sàng để được
làm lễ thọ giới Sadi.
Sư Sonuttara cũng xem lịch để chọn một ngày
giờ tốt cho buổi lễ. Rồi ông gửi lời mời cha mẹ tôi và khoảng hai mươi tăng sĩ
từ các chùa khác trong vùng. Vị sư trưởng lão nhất trong vùng, Sư Alagoda
Sumanatissa Nayaka Mahathera, sẽ đứng ra chủ lễ và truyền giới cho tôi. Ngày
hôm trước buổi lễ, cả chùa bận rộn với các sinh hoạt khi các vị khách lần lượt
đến, và dân làng ở Malandeniya chuẩn bị thức ăn cho các khách tăng.
Rất nhiều bà con của tôi cũng
đến trong ngày trọng đại đó, kể cả cha, anh rể, và Rambanda, người anh trai
thân thiết của tôi. Mẹ tôi không thể đi xa như thế vì đau lưng. Bà rất đau khổ
vì không thể có mặt ở đây, cha đã nói với tôi như thế, và tôi cũng rất buồn.
Vào lúc mười giờ sáng, tất cả
mọi người đều tụ lại trước hiên của khu nội viện tăng. Thông thường lễ xuất gia
sẽ được tổ chức trong chánh điện, nhưng vì có quá nhiều khách dự, thầy tôi
quyết định làm lễ ở một nơi rộng rãi hơn.
Tôi mặc áo chemise và xà rông
trắng. Cha cùng với tôi tiến đến chỗ quý sư đang ngồi trên sàn nhà cạnh bên một
bàn thờ vừa được dựng lên, đối mặt với đám đông.
Tôi quỳ xuống trước vị lão sư,
Sumanatissa, và đảnh lễ Sư ba lần. Sư bảo tôi xin phép cha để được bước vào
cuộc sống không nhà của người tu. Vì thế tôi quỳ xuống trước mặt cha và lập lại
nghi lễ vái lạy ba lần, mỗi lần đều để trán chạm xuống nền nhà ngay chỗ chân
cha, để bày tỏ lòng kính trọng. Tôi vẫn còn nhớ gương mặt nghiêm trang của cha
khi nhìn xuống tôi.
Khi tôi quay trở lại phía các
sư, Sư Sumanatissa lấy kéo cắt một vài lọng tóc của tôi, và dạy tôi lặp lại
theo Sư: “Tóc trên đầu, lông trên thân, móng tay chân, răng, da.” Các bộ phận
thân thể là những đối tượng thiền quán đầu tiên của tôi. Đây là lời chỉ giáo
truyền thống dành cho tất cả những ai vừa xuất gia, phản ảnh lãnh vực đầu tiên
trong Tứ niệm xứ của Đức Phật, đó là thân vật chất.
Trong kinh Mahasatipatthana, bài
kinh về Tứ Niệm Xứ, một trong những bài kinh chánh yếu của Đức Phật, đã chỉ bày
cho chúng ta bốn lãnh vực mà ta cần chú tâm thẳng đến: thân, thọ, tâm và đối
tượng của tâm.
Nếu thật sự quán sát bốn lãnh
vực nầy với sự chú tâm hoàn toàn, không xao lãng, và rõ ràng, chúng ta bắt đầu
thấy rằng chúng luôn biến đổi với thời gian. Chúng chuyển biến, thay đổi từ
phút này qua phút khác, khiến ta không thể bám vào khoảng khắc của chúng. Quán
tưởng về bốn đối tượng không ngừng chuyển đổi nầy, ta sẽ thấy sự vô thường của
vạn vật thể hiện trong chính sự hiện hữu của chúng ta.
Hơn thế nữa, chúng ta sẽ thấy
rằng không có sự khác biệt giữa chúng ta và tha nhân. Mỗi người và tất cả chúng
ta, là một tổng thể của thân, thọ, tâm và pháp. Hiểu được như thế, chúng ta sẽ
trở nên đồng cảm với người khác. Lòng ganh tỵ và chia rẽ sẽ tan dần, và được
thay thế bằng lòng bi mẫn và tâm từ bi.
Nhưng đó không phải là điều dành
cho một đứa trẻ mười hai tuổi đang trong buổi lễ xuất gia của mình –tất cả
những điều đó, vẫn còn là một mục đích xa vời trong ngày mà chú sadi nhận chủ
đề thiền quán đầu tiên của mình. Các vị trưởng lão cũng có thể hướng dẫn cho
các chú sadi đến bất cứ lãnh vực nào của tứ niệm xứ, nhưng họ luôn chọn thân,
vì lãnh vực đó rất dễ, ngay chính người sơ cơ cũng có thể cảm nhận. Thân thì,
có thể nói là ở ngay đây, với tất cả những ham muốn, đau khổ, kiêu mạn phát
khởi ngay nơi thân. Nhưng khi quỳ gối trước thầy tôi, tôi hoàn toàn mù mịt về
những gì tôi sẽ tu tập sau nầy, về niệm xứ đầu tiên nầy.
Vị lão sư bỏ mấy lọng tóc vào
lòng bàn tay tôi. Đó là dấu hiệu để một vị tăng trẻ bước đến, dẫn tôi ra ngoài
để cạo hết phần tóc còn lại trên đầu tôi.
Nghi lễ cạo tóc, biểu tượng của
một người tu sĩ từ bỏ những bám víu vật chất thế gian, lúc nào cũng được diễn
ra ở nơi kín đáo, tránh xa sự chứng kiến của các cư sĩ. Khi đầu tôi đã được cạo
sạch trơn, tôi đi tắm ở giếng chùa, sau nhà bếp. Sau đó tôi mặc lại bộ quần áo
trắng.
Khi quay lại phòng họp, tôi đội
trên đầu một bọc vải đã được xếp lại -đó là y của tôi. Tôi quỳ trước thầy tôi.
Tụng bằng tiếng Pali, tôi thỉnh cầu Sư chấp nhận bộ y mà tôi có, và truyền giới
cho tôi làm sadi, để tôi có thể chấm dứt mọi khổ đau và đạt được Niết Bàn.
Tôi lạy ba lạy nữa.
Rồi Sư Sumanatissa làm lễ quy y
tam bảo và truyền mười giới là những đạo đức căn bản trong cuộc sống mới của
tôi. Sư đọc tụng bằng tiếng Pali và tôi lập lại theo Sư:
Con nguyện quy y Phật.
Con nguyện quy y Pháp.
Con nguyện quy y Tăng.
(Được tụng ba lần)
Con xin giữ giới không sát hại.
Con xin giữ giới không trộm cắp.
Con xin giữ giới không tà dâm.
Con xin giữ giới không nói dối.
Con xin giữ giới không uống rượu
và các chất gây nghiện.
Con xin giữ giới không ăn sái
giờ.
Con xin giữ giới tránh xa sự múa
hát, chơi các nhạc cụ, xem múa hát.
Con xin giữ giới không đeo tràng
hoa, thoa nước thơm, trang điểm, làm đẹp thân thể.
Con xin giữ giới tránh xa chỗ
nằm ngồi quá cao sang và đẹp đẽ.
Con xin giữ giới không nhận vàng
bạc.
Sau khi đọc tụng những lời này,
tôi thỉnh cầu thầy tôi hãy chia sẻ công đức mà tôi đã có được do xuất gia:
“Bạch Sư, xin hãy hoan hỷ chấp nhận mọi công đức mà con đã có được, và cho phép
con được chia sẻ những công đức của Sư.”
Rồi tôi đảnh lễ Sư ba lần, cũng
như đảnh lễ tất cả các vị tăng sĩ khác.
Cuối cùng, Sư Sumanatissa ban
cho tôi danh hiệu mới: Gunaratana, “Báu vật của Giới hạnh.”
Giờ thì tôi đã là một Sadi.
Tôi được cho một cái gối nhỏ và
được ngồi giữa các tăng sĩ khác, dầu không được quá gần! Tôi ngồi xuống và một
nhóm nhỏ các cư sĩ bước đến, mỗi người vái chào và đặt một món quà nhỏ trước
mặt tôi. Có khăn lông, xà phòng, một cây dù - những đồ vật thật hữu dụng cho
tôi trong cuộc đời mới, đơn giản này.
Ngày lễ được kết thúc với một
bữa ăn thịnh soạn. Tôi cùng dùng bữa với các vị sư khác, ngồi trên sàn nhà.
Thực phẩm do các cư sĩ cúng dường ở chùa chỉ dành cho các tu sĩ, vì thế trước
đó tôi chưa bao giờ được phép nếm qua. Thiệt là ngon.
Ngày hôm đó thực sự là một cao
điểm trong cuộc đời tôi. Tất cả mọi thứ đều tuyệt vời, chỉ trừ một việc: người
mẹ thương yêu của tôi vắng mặt. Tôi nhớ mẹ rất nhiều.
Hai tuần sau đó tôi được về thăm
mẹ. Bà quá đỗi vui mừng được gặp lại đứa con trai út của mình, giờ với chiếc
đầu cạo bóng, mình mặc bộ y màu vàng của một vị tu sĩ xuất gia.
Bà trải một cái khăn sạch dưới
chân tôi, và đau đớn quỳ xuống để vái chào tôi. Cả ba lần, trán bà đều chạm
xuống khăn.
Ngược lại với ngày tôi rời nhà
ra đi, khi ấy tôi đã lạy chào mẹ. Giờ mẹ lại bày tỏ lòng kính trọng đối với
tôi. Thật là một giây phút xúc động mãnh liệt cho cả hai chúng tôi.
“Chú tiểu đáng yêu của mẹ,” mẹ
nói, mắt rướm lệ, “con không bao giờ được hoàn tục. Cuộc đời tu sĩ là tốt nhất
cho con. Đó là một cuộc sống giải thoát. Đừng bao giờ nghĩ đến việc bỏ tu.”
Kể từ ngày hôm đó, mỗi lần tôi
về thăm nhà, mẹ tôi đều lặp lại nghi lễ và lời căn dặn đó, lúc nào cũng nói,
“Con trai, đừng bao giờ bỏ tu.”
Sau lễ xuất gia, cuộc sống ở
chùa lý ra phải thay đổi, vậy mà không phải thế. Vẫn còn những bài kinh phải
học, các công việc phải làm, những hình phạt phải hứng chịu. Tuy nhiên các bữa
ăn thì khác. Giờ, theo giới luật, tôi không được ăn sau giờ ngọ. Căn bản là
chúng tôi có một bữa ăn chính trong ngày. Bữa ăn có được bằng việc đi khất thực
quanh làng. Là người vừa mới xuất gia, đó là nhiệm vụ của tôi.
Mỗi ngày, sau khi xong việc buổi
sáng, tôi rời chùa khoảng chín giờ ba mươi sáng. Một bình bằng đồng to, khoảng
cỡ một nồi xúp, được máng vào một miếng vải to bản, treo quanh cổ tôi, miệng
bình được đậy lại bằng vải cotton.
Bổn phận của tôi là thọ nhận
thức ăn cho cả hai, sư trưởng và tôi, từ mỗi nhà trong sáu mươi hay khoảng đó
nhà trong làng. Dân làng đứng trước cửa nhà họ, với những tô cơm hay rau hay
bánh ngọt trong tay. Khi tôi chậm rãi bước qua, trong im lặng và tránh giao
tiếp bằng mắt, họ sẽ đặt một muỗng đầy thực phẩm cúng dường của họ vào bình bát
của tôi.
Ngày nay, việc khất thực vẫn còn
được thực hành ở các làng khắp Á châu. Thật là một cảnh tượng đẹp đẽ - một hàng
dài các tu sĩ đi trong im lặng, chân trần và dừng lại trước nhà của các cư sĩ.
Dân làng thành kính chấp tay vái chào khi đặt thức ăn vào bình bát. Không một
lời trao đổi.
Sự thực hành này là một truyền
thống lâu đời được áp dụng để tạo ra sự liên hệ tương quan giữa người tu và cư
sĩ. Các tu sĩ, những người vì giữ giới không nấu ăn, tiếp nhận sự nuôi dưỡng từ
các cư sĩ. Người cư sĩ, bằng cách cúng dường thực phẩm cho người tu, được công
đức tâm linh và hỗ trợ sự tiếp nối con đường của Đức Phật.
Nhưng đối với tôi, việc đi khất
thực bao giờ cũng đầy căng thẳng. Tôi phải đến tất cả sáu mươi nhà và trở về
chùa đúng mười một giờ sáng. Nếu tôi chỉ trễ năm phút, thầy tôi cũng nhất quyết
không ăn. Giới luật đặt ra cho người tu là phải xong bữa trước ngọ, và thầy tôi
không muốn phải ăn một cách hối hả. Vì thế tôi phải nhanh chân đi qua làng,
không dám thiếu sót nhà nào, vì như thế sẽ khiến cho người ở nhà đó không được
có công đức cúng dường thực phẩm, rồi họ sẽ than phiền với thầy tôi và tôi sẽ
bị quở phạt.
Trong làng có rất nhiều chó,
chúng cũng đói. Khi nhìn thấy một đứa trẻ mang bình bát đầy thức ăn nóng sốt,
thơm lừng, chúng trở nên rất hung tợn. Tôi cố gắng xua đuổi chúng bằng cây dù
tôi mang theo để bảo vệ tôi khỏi ánh nắng mặt trời thiêu đốt. Nhưng tôi khó mà
thành công.
Đôi khi tôi cố gắng chạy trốn lũ
chó, nhưng với chiếc bình bát nặng treo quanh cổ, điều đó không dễ dàng. Không
thể tránh được tôi bị vấp ngã, đổ thức ăn ra đất. Lũ chó sẽ rượt theo tôi, gầm
gừ cắn táp. Nhiều khi tôi trở về chùa với đôi chân chảy máu và một bình bát chỉ
còn một nửa đồ ăn.
Vài người dân làng hình như cảm
thấy tội nghiệp cho tôi. Bất cứ khi nào có một con chó nào đó cắn tôi, vài ngày
sau họ sẽ đến chùa và tuyên bố rằng con chó đó đã “chết”. Kết cục như thế không
phải là điều tôi muốn xảy ra chút nào, nhưng dù sao nó cũng đã xảy ra.
Mỗi ngày sau bữa ăn, tôi phụ hai
cậu bé ở chùa dọn dẹp nhà bếp, rồi tôi phải đi bộ gần ba cây số để đến một ngôi
chùa ở làng kế bên, nơi vị trụ trì ở đó sẽ dạy tiếng Pali cho tôi. Tôi có thể
học thuộc kinh một cách dễ dàng, vì thế vị thầy này rất thích tôi. Rồi sau buổi
học, tôi lại nhanh chóng trở về chùa của tôi, để làm các công việc trong chùa
và công phu chiều, một nghi lễ tán tụng các phẩm chất của Phật, Pháp, và Tăng.
Sau buổi lễ, chúng tôi dùng trà
và tôi phải học tiếp nữa. Thường chúng tôi đi ngủ lúc chín giờ ba mươi tối.
Chuông đánh thức sẽ nổi lên lúc bốn giờ sáng hôm sau.
Giống như cha tôi, Sư Sonuttara
rất nóng tính. Sư dùng ngôn ngữ không tế nhị để chửi rủa tôi và mấy cậu bé
trong chùa. Nếu chúng tôi phạm bất cứ điều luật gì, hay xao lãng công việc hàng
ngày, dù chỉ chút ít, Sư cũng không ngần ngại gì để đánh chúng tôi với bất cứ
thứ gì trong tầm tay: đá, roi, gạch, chổi, hay ngay cả dao.
Vì thế tôi hết sức cố gắng để
tuân theo các luật lệ. Ngay khi vừa thức dậy lúc bốn giờ mỗi sáng, tôi bắt đầu
chuẩn bị điểm tâm và đun nước. Đến năm giờ, thầy tôi cần nước để rửa mặt. Sau
đó tôi phải đi hái hoa tươi và chưng trên bàn thờ, chuẩn bị cho công phu buổi
sáng lúc năm giờ rưỡi.
Điểm tâm sẽ phải sẵn sàng đúng
sáu giờ. Sư Sonuttara muốn mấy cái đĩa cho chó ăn phải để cạnh bên chỗ sư ngồi,
để chính tay sư có thể cho chúng ăn. Chúng tôi không được ăn cho đến khi sư đã
dùng xong, rồi chúng tôi phải ngốn vội thức ăn để có thể nhanh chóng bắt tay
vào các nhiệm vụ khác. Sau khi đã thọ giới làm sadi, tôi được phép ngồi cạnh sư
để ăn, nhưng sư ngồi trên ghế với đĩa thức ăn trên bàn. Tôi ở gần bên, ngồi
trên sàn nhà, với đĩa đồ ăn để trên một chiếc ghế đẩu thấp trước mặt tôi.
Khi tôi đi khất thực về lúc mười
một giờ, chúng tôi lại trải qua một nghi lễ tương tự để phục vụ buổi trưa, rồi
ngốn vội bữa ăn của chính mình.
Một giờ trưa là lúc thầy chúng
tôi phải có trà trên một chiếc bàn đặc biệt. Sau đó tôi đi qua chùa kia để học
tiếng Pali, và không được về trễ hơn ba giờ chiều.
Vườn cây và hoa phải được tưới
xong lúc năm giờ rưỡi, sau đó tôi có thì giờ để vội vã đi tắm, trước thời khóa
tụng kinh buổi chiều lúc sáu giờ. Sáu giờ rưỡi, tôi châm trà cho Sư. Bảy giờ
tôi trả bài thuộc lòng cho sư. Sau đó, tôi chuẩn bị trầu cau cho sư ăn lúc bảy
giờ rưỡi. Rồi là dọn dẹp lần cuối trước khi đi ngủ.
Vào ngày rằm và mùng một, chúng
tôi rất thích được khỏi làm những công việc hàng ngày nầy. Thay vì là các lao
động chân tay, chúng tôi trở thành chủ đối với những người dân làng đến để ở
lại chùa vào ngày đặc biệt đó. Phần đông họ là những người già cả, không biết
đọc hay viết. Ở hầu hết các chùa, quý sư sẽ đọc các câu chuyện Jataka và giải
thích về ý nghĩa quan trọng của chúng cho các cư sĩ nghe.
Jataka là những câu chuyện về
tiền thân của Đức Phật. Cả bộ sách có khoảng 550 câu chuyện. Mỗi câu chuyện
biểu hiện lại cho ta thấy Đức Phật trong những kiếp sống trước đã có các phẩm
chất cao thượng như thế nào: rộng lượng, đạo đức, xả ly, trí tuệ, tinh tấn,
nhẫn nại, chân thật, kiên quyết, từ bi, và hỷ xả. Đôi khi trong các câu chuyện
nầy, Đức Phật có thể ở trong kiếp thú; nhưng Ngài luôn là một vị Bồ Tát, hay
người ở trong giai đoạn chuẩn bị thành Phật.
Vì đã học đến lớp bốn, tôi trở
thành như là một người hùng đối với những người dân làng thất học đến chùa. Họ
thích lắng nghe tôi đọc các câu chuyện bằng cái giọng mới lớn, như con gái.
Một ngày kia, tôi nhớ đang kể
một câu chuyện từ tiền thân của Đức Phật. Tôi nói rằng sau khi rời cung điện
của vua cha và cắt tóc, hoàng tử Siddhattha trở thành một nhà tu khổ hạnh. Ngài
quấn y vàng quanh người và khất thực trong bình bát.
Một trong những người dân làng
đang lắng nghe, một ông lão giống như ông nội tôi, nói, “Này chú tiểu, tôi nghĩ
chú sai rồi. Y vàng và bình bát chưa có mặt trên thế gian này cho đến khi thái
tử Siddhattha trở thành Phật và bắt đầu thiết lập Tăng đoàn.”
Tôi trả lời ông: “Thưa ông, cái
bình bát trong tiếng Phạn là patra,
có nghĩa là bất cứ một đồ chứa gì có nắp ở trên. Chắc chắn rằng những vật dụng
như thế đã được sử dụng trước khi Đức Phật có mặt. Những người ăn xin thường sử
dụng chúng. Và tiếng Phạn cho y vàng là kashaya
vastra, để chỉ bất cứ mảnh vải vàng nào. Vậy tại sao thái tử
Sidhattha không thể quấn y áo màu vàng?”
Theo tôi nhớ, câu trả lời của
tôi đã làm ông lão rất vừa lòng.
Nhưng không phải mọi thứ ở chùa
đều trôi chảy như thế. Một ngày kia mấy cậu bé trong chùa, chúng đều lớn hơn
tôi, mời tôi hút thuốc với chúng. Tôi hút, và thế là một thói quen nghiện hút
đã thành hình. Chúng tôi không có tiền để mua thuốc lá, vì thế chúng tôi đã lấy
cắp thuốc lá từ phòng của sư trưởng, nơi sư cất để khi nhai trầu, sư trộn với
trầu cau.
Chúng tôi cuộn thuốc lá trong
những mảnh giấy báo và bí mật hút. Thỉnh thoảng sư bắt gặp chúng tôi hút thuốc
và đánh chúng tôi vì tội đó. Nhưng điều đó cũng không làm chúng tôi suy chuyển;
chúng tôi chỉ trở nên cẩn thận hơn để không bị bắt gặp.
Một ngày kia sau khi khất thực
trở về, tôi đốt một điếu thuốc ve tròn nhỏ trong nhà bếp và bắt đầu hút. Thầy
tôi xuất hiện, đang bưng một cái thau trên đường ra giếng tắm.
Sư dừng lại, nhìn thẳng vào tôi:
tôi đã bị bắt quả tang. “Sư sẽ không đánh con lần này,” ông nói. “Nhưng nếu Sư
bắt gặp con hút lần nữa thì sư sẽ phải làm gì với con? Con nói cho sư nghe đi.”
Tôi nghẹn lời. Sự giận dữ của
thầy tôi rất đáng sợ. Tôi biết là chỉ có một câu trả lời cho câu hỏi đó.
“Nếu Sư thấy con hút thuốc lần
nữa, Sư đánh con bao nhiêu cũng được,” tôi trả lời.
Nhưng tôi không bỏ thuốc được;
tôi đã bị ghiện mất rồi. Vài tuần sau tôi lại bị sư bắt gặp. Sư Sonuttara đánh
tôi bằng tay không.
Sau đó, sư khoá thuốc lại để
chúng tôi không thể lấy cắp. Lần nữa, chúng tôi cũng không nản lòng mà chỉ trở
nên mưu chước hơn: chúng tôi bán dừa, khăn lông, khăn tay, và gạo, bất cứ thứ
gì đến tay chúng tôi -thường là vật thực của cư sĩ cúng dường- để mua thuốc lá.
Khi gần đến tuổi dậy thì, tôi
cảm thấy rất muốn được độc lập. Tôi không còn quá sợ những cơn giận không đoán
trước được của Sư Sonuttara. Những hình phạt quá khắt khe của Sư dường như bất
công và tàn nhẫn quá nên tôi bắt đầu oán hận sư.
Tôi cũng bắt đầu cảm thấy tôi
không được học hành đầy đủ. Tôi đã mười ba tuổi mà chỉ mới học xong lớp bốn -một
thành đạt trong những ngày đó, nhưng đối với tôi vẫn chưa đủ. Cả thầy tôi lẫn
vị sư ở chùa làng bên, người dạy tôi tiếng Pali, đều không được học hành đàng
hoàng. Tôi muốn học thêm nữa, một ước muốn theo tôi suốt đời.
Tôi bắt đầu cảm thấy ở chùa
giống như ở tù. Đây không phải là đời sống tôn giáo huy hoàng mà tôi đã mơ
tưởng đến.
Một ngày, sau khi thọ trai, Sư
Sonuttara đi nghỉ trưa. Một trong mấy cậu bé kia muốn hái trái cam trên cây bên
ngoài phòng Sư. Nó bắt đầu chọi đá lên cây để trái cam rụng xuống.
Tiếng động đánh thức thầy chúng
tôi. Sư bước ra khỏi phòng, giận dữ muốn biết ai là người đã làm huyên náo. Cậu
bé bảo đó là tôi, là tôi đã chọi đá.
Và bỗng nhiên lúc đó tôi cũng
nổi giận. Tôi hỏi cậu bé, bằng thứ ngôn ngữ rất khó nghe, tại sao nó nói dối
Sư. Sư Sonuttara quay qua tôi. Sư bảo tôi vô lễ. Sư bảo sư không cần biết ai đã
chọi đá, nhưng vì tôi vô lễ, tôi là người phải bị phạt.
Sư với lấy cây chổi và đánh tôi
tới tấp, cho tới lúc tôi ngã ra sàn nhà. Tôi không còn thở nổi.
Đó là giọt nước tràn ly cho tôi.
Chiều hôm đó, tôi thu gom sách
vở như thường lệ khi tôi phải đến chùa Kebilitigoda học tiếng Pali. Tôi bắt đầu
ra cửa, đúng lúc thầy tôi và những đứa trẻ khác đi về hướng phía sau chùa, để
đào một nhà vệ sinh mới. Tôi canh cho họ đi qua, rồi tôi lặng lẽ trở vào bên
trong, vứt sách xuống.
Tôi vào phòng nơi mấy cậu bé ở
chùa để đồ, tóm lấy một cái áo chemise và xà rông trắng. Không một chút nuối
tiếc, tôi cởi y ra rồi mặc áo chemise và xà rông vào.
Một niềm hưng phấn trỗi dậy
trong lòng, tôi lẻn ra cửa trước chùa, bước qua cổng hàng rào dây thép, đi trên
con đường gồ ghề.
Tôi
không còn là một chú tiểu nữa. Tôi đã được tự do.