Đời sống
Giảng Giải 38 Pháp Hạnh Phúc
Pháp sư Maha Thongkham (Bình Anson hiệu đính, 2006)
22/08/2554 23:20 (GMT+7)
Kích cỡ chữ:  Giảm Tăng


KỆ NGÔN I

 

HẠNH PHÚC THỨ NHẤT

Asevanā ca bālānaṃ
Không thân cận với kẻ ác

 

 

Trên thế gian này có nhiều giống người, chỉ khác nhau ở màu da, phong tục, tiếng nói, nhưng chung qui có thể chia hai hạng người là:

- Balā: người ác.

- Pandita: người thiện tri thức.

Phật dạy chúng sanh cần phải học để biết người ác đặng lánh xa, vì khi ta thân cận với người ác rồi, thì không thể nào chạy khỏi đều khổ sở trong ác đạo.

Vì vậy, ta nên học để hiểu rõ thái độ và cách cư xử của người ác cho rõ ràng để tránh xa. Trước hết, ta phải học cho biết rõ thái độ người ác cũng như chúng ta, nghĩa là không có gì khác chúng ta về thể chất. Người ác không phải chỉ là hạng người côn đồ, cướp bóc, hay nghèo khó, thất học hoặc bệnh tật, mà có khi họ lại là người cao sang, quyền quí, học thức, thượng lưu trong các giai cấp xã hội đều có người ác. Tìm biết một người ác là một chuyện không phải dễ vậy.

Trong kinh Phật có dạy hai cách thức để nhận ra người ác là:

1. Cách thức của các bậc trí thức giàu kinh nghiệm đời hiểu rõ tâm lý của người ác.

2. Cách thức của đấng Giác ngộ, ngài hiểu rõ tâm địa của kẻ ác bằng trí tuệ.

Mặc dù là của đấng Giác ngộ hay của các bậc trí thức, hai cách thức ấy chung qui đều dạy tâm lý của người ác để chúng ta biết mà lánh xa, ví như khoa học dạy chúng ta biết chứng bệnh của người bệnh và cách tránh xa của bệnh ấy. Vậy theo thiết tưởng chúng ta cũng nên học cho biết rõ hai cách thức để lánh xa người ấy.

Trước hết xin giải về cách nhận thức kẻ ác theo lời giảng giải của các bậc trí thức. Ở đây, tôi xin nhắc lại tích xưa về tiền thân của Đức Phật Thích Ca trong bộ Túc sanh truyện để quí vị dễ nhận thức.

Lúc quá khứ có một vị trưởng giả ở thành Ba La Nại tên là Akitta. Sau khi cha mẹ quá vãng. Ông nhận thấy đời là vô thường, khổ não, vô ngã; và quan tâm được rằng sau khi dứt ba tấc hơi thì mọi vật ở đời mình đã có đều không đem theo một vật nào, mà chính thân hình mình cũng không đem theo được. Vì vậy nên ngài mới bố thí hết của cải của ngài, không biết số lượng bao nhiêu mà kể. Rồi ngài xuất gia làm đạo sĩ ở trong rừng tuyết lạnh.

Ngài hành theo hạnh tri túc. Ngài chỉ ăn lá cây và trái cây rụng ở gần bên ngài thôi. Pháp hành cao thượng của ngài như thế đã đến tai Đức Đế Thích. Thiên vương Đế Thích mới hiện xuống và nói với ngài: "Bạch Đại đức, tôi rất hoan hỷ với hạnh tri túc của ngài. Vì vậy tôi đến đây và xin hứa với ngài rằng ngài mong ước điều gì, tôi cũng xin vui lòng giúp ngài đoạt thành như ý".

Vị đạo sĩ ấy đáp rằng: "Tâu Đại vương, lời hứa của ngài thật là quí giá, nhưng sự mong ước của bần đạo không có gì khó".

Thiên vương nói: "Trẫm biết rồi, chính Đại đức thọ thực lá và trái cây rụng gần bên ngài thôi".

Đạo sĩ nói: "Tâu Đại vương, hiện giờ lá và trái cây vẫn còn. Nếu Đại vương có lòng từ bi ban bố hạnh phúc cho bần đạo, thì bần đạo có một điều rất mong muốn là..."

Đức Đế Thích nói: "Đại đức cứ thật tình báo cho tôi biết, tôi hết lòng giúp đỡ ngài, thuốc men hay là y phục chi chi, xin ngài cứ bảo"

Đạo sĩ nói: "Tâu Đại vương, bần đạo không cần những thứ ấy". Đức Đế Thích nóng lòng hỏi: "Vậy vật chi, bạch Đại đức?"

Vị đạo sĩ nói: "Điều cần thiết nhất là xin cho tôi đừng gặp kẻ ác, không bao giờ làm công chuyện gì có kẻ ác nhúng tay vào".

Đức Đế Thích hỏi: "Đại đức ghét kẻ ác đến thế à?"

Vị đạo sĩ nói: "Chẳng những thế, xin cho tâm của bần đạo không ưa thích và xu hướng theo những kẻ ác".

Đức Đế Thích nói: "Vậy là lời thỉnh cầu của ngài là không bao giờ muốn gặp, mặc dù là tin tức của kẻ ác và cũng xin đừng nghe đến".

Vị đạo sĩ đó: "Phải đúng như vậy".

Đức Đế Thích hỏi: "Bạch ngài, ngài có thể cho tôi biết người ác đã từng làm gì đối với ngài?"

Đạo sĩ nói: "Tâu Đại vương, xin Đại vương đừng bắt tôi nói chuyện đã qua của kẻ ác đã làm. Nhưng bần đạo xin nói sơ lược hành động của người ác là:

1. Kẻ ác hằng rủ người làm điều sai lầm.

2. Kẻ ác làm những chuyện không phải phận sự của chúng.

3. Kẻ ác thường nhận thức sai lầm, cho quấy là phải.

4. Kẻ ác, mặc dù chúng ta nói sự chân thật, lời hay lẽ phải, họ cũng không nhận thức, mà còn hờn giận, chuốc oán, gây thù.

5. Kẻ ác không chịu hành theo lẽ phải, nghĩa là không theo luật lệ của chính phủ.

Người ác thường hay có những điều xấu xa như thế nên bần đạo nguyện lánh xa."

Dưới đây tôi trình bày 5 loại hành động của người ác theo quan niệm của vị đạo sĩ ấy.

1. Anayam nayati dummedho: Kẻ ác thích rủ rê xúi giục kẻ khác làm điều ác, tức là kẻ ác hằng rủ người làm điều sai lầm.

Khi muốn biết người thiện hay ác chúng ta nên quan tâm xem người ấy rủ rê xúi giục ta làm những gì, thiện hay ác.

Ta chớ nên quên rằng người ác bao giờ cũng có ý định rất khác thường, là làm cho người khác đau khổ. Như ta đã biết, không phải người ác toàn là những hạng mà ta gọi là côn đồ du đãng, trái lại, lắm khi người ác lại là người mà ta tưởng là hạng trí thức, giàu sang vinh dự, và cũng có khi chúng ta tin tưởng sùng kính như bậc tu hành, bên ngoài ta xem như vậy, như là một vị đại đức xứng đáng với sự lễ bái cúng dường của chúng ta, hay là người nối chí từ bi của Đức Từ Phụ để tế độ chúng sanh. Vì vậy, chúng ta không nên tin càn mà không suy xét, phân biệt cho kỹ, mà chúng ta phải dùng trí tuệ mà nhận định, kẻo sai lầm như tích vua A Xà Thế: ông Đề Bà Đạt Đa là một vị đệ tử của Phật, người bấy giờ lầm tưởng là đấng có giới đức trang nghiêm, nhưng thật sự ông là người rất là ác, ông xúi giục vua A Xà Thế giết cha để đoạt ngôi và xúi vua hại Phật, để tranh dành lãnh đạo Tăng đoàn. Sở dĩ đức vua A Xà Thế tin tưởng nơi ông, vì ông là một nhà sư mang lá cờ của Phật. Hơn nữa nhà vua vì nhiều đức tin, nhưng thiếu trí tuệ, nên dễ bị rủ rê xúi giục, mới phạm tội trọng như thế.

2. Adhurāyam nyunjati: Kẻ ác thường làm chuyện không phải phận sự của chúng.

Kẻ ác thường can thiệp vào việc làm của người gần bên mình hay là của tất cả mọi người, để làm cho người ta bực mình hay đau khổ. Để tránh nạn can thiệp nguy hại ấy, khi chúng ta làm việc gì đang trôi chảy, hoặc có kẻ khác chen vào, xúi điều này, giục mưu nọ, chúng ta nên quan tâm suy nghĩ cho kỹ, không nên vội tin cho rằng kẻ ấy có thiện chí đối với ta, giúp ta, nên suy nghĩ cho kỹ rồi mới tin theo, nên nhận định rằng kẻ ấy thành tâm thiện chí giúp ta hay không.

Tiện đây tôi xin nhắc lại một chuyện ngụ ngôn để quí vị thấy và làm, và cho quí vị dễ nhớ.

Có một vị trưởng giả, ruộng đất cò bay thẳng cánh mà bề làm ăn rất phát đạt dễ dàng, nhờ tá điền và người làm công đối với ông hết lòng thành thật. Ông trưởng giả ấy có nuôi một bầy chó thật dữ để giữ nhà.

Nhưng về sau lợi tức của ông càng ngày càng kém đi. Ông ta lấy làm lạ vì số ruộng và người làm công đều như cũ mà cũng không ai thiếu lúa ruộng của ông. Ông hỏi lại người quản gia thì đâu đâu cũng không có gì sai sót. Ông điều tra mãi không ra duyên cớ. Ông mới hỏi người chăn bầy trâu của ông, chừng ấy ông mới vỡ lẽ rằng: Bầy chó dữ của ông không giữ nhà mà hằng ngày chúng đi ví cắn trâu bò, làm cho đàn trâu bò không ăn uống gì được. Vì vậy, đàn trâu bò đau yếu, công việc cày ruộng và kéo xe của chúng sút kém, khiến lợi tức của ông bị kém đi. Ông trưởng giả nghe vậy mới dạy đem bầy chó đi bỏ hết. Từ ấy, câu chuyện đồng áng của ông mới trở lại mức bình thường.

Trong câu chuyện ngụ ngôn này, bầy chó đã không làm phận sự giữ nhà mà đi làm chuyện ngoài phận sự của mình, nên đem tai hại cho người chủ như thế.

Xin nhắc thêm một tích nữa để quí vị dễ nhớ hơn.

Có một người làm vườn của Vua Bārānasī, hắn định đi xem lễ, bèn gọi người phụ tá lại bảo rằng: "Ta định đi xem lễ trong vài ngày, vậy các người ở nhà lo chăm sóc vườn, lo tưới cây, đừng bỏ bê nhé."

Khi người làm vườn đi xong, người cầm đầu nhóm phụ tá ấy mới gọi những người phụ tá và bảo rằng: "Người làm vườn đối với ta thật là tốt, vậy chúng ta thay anh ấy tưới cây, nhưng trước khi tưới, chúng ta hãy nhổ hết cây ấy lên xem rễ nó ăn xuống bao sâu, đặng tưới cho vừa sức nó". Tất cả những người kia vâng lời người cầm đầu, làm y như lời dạy bảo. Những cây bị nhổ lên, đều héo và chết hết.

Đức Bồ tát, tiền thân của Đức Thích Ca, nghe thấy chuyện này, mới nói rằng: "Những kẻ ngu muội không hiểu việc làm của mình, mà thày lay làm ngoài phận sự, nên đem tai hại đến cho mình và người khác."

Khi ấy ngài mới ngâm câu kệ rằng:

Nave anatihaklisalena

Attha carita sukhāvaha

Hapeti arāmiko dummedho

Kapiarāmiko tathā

Nghĩa là người ngu muội dù cố làm điều lợi ích để tìm sự an vui cũng không kết quả được, trái lại, bị hư hại cũng như những người làm vườn kia.

3. Dunnado seyyaso hoti: Kẻ ác thường nhận thức sai lầm, cho quấy là phải.

Theo câu Pāli này, ta nhận thấy sự nhận thức này có hai điều tương quan là nhận thức sai lầm và hành động sai lầm, bắt nguồn ở nơi tâm là thích điều quấy.

Nguyên người ác thường thích đều hung ác, xấu xa, như hiếp đáp kẻ khác, cướp giựt, hành hung. Ai ai cũng thấy các điều đó thật là đáng ghê, đáng ghét. Nhưng trái lại, những kẻ ác lại cho các điều đó là cử chỉ anh hùng, là hay, là giỏi, nên có khi đem những hành vi quá ác ấy khoe khoang và lấy làm tự đắc.

Người ác thường có ba tư cách để nhận thức được dễ dàng.

- Người ác thích điều quấy.

- Tự mình làm điều ác, mà không biết ăn năn, trái lại thỏa thích và đem khoe với người khác.

- Thấy kẻ khác làm ác như mình, thì rất thích và khi nghe người khác làm ác như mình, lại càng thích.

Những người ác ấy thường thù ghét người lương thiện, xem người lương thiện là đối thủ của họ, mặc dù người lương thiện vẫn sợ họ và nhường nhịn họ trong mọi việc.

4. Sammāvuttapikuppati: Kẻ ác mặc dù chúng ta nói chơn chất hay nói sự thật, chúng cũng oán giận ta.

Tâm lý của người ác, theo câu này, khỏi phải giảng giải nhiều cũng dễ hiểu. Đã là người ác thì họ không bao giờ chịu nhận lẽ phải, hay là sự chân thành của người khác đối với họ, mặc dù người nói lời chân thật ấy với tấm lòng từ bi, hay người nói là thầy tổ, cha, mẹ, hoặc là quyến thuộc, hoặc vợ chồng, họ cũng đều không bao giờ nghe theo. Họ không chịu nhận sự thật, không chịu phục thiện.

5. Vinayam so na janati: Kẻ ác không chịu hành động theo luật lệ.

Kẻ ác không bao giờ chịu hành động theo luật lệ của chính phủ hay của tôn giáo nào, mà chỉ biết làm theo bản tánh ác của họ thôi.

Sự thật, luật lệ của một quốc gia là để bảo đảm phần nào hạnh phúc cho con người. Kẻ ác thì không chịu câu thúc trong luật lệ ấy, lại cứ thích vượt khỏi vòng luật lệ để thỏa mãn ác tâm của mình và gây tổn hại cho người khác.

Trên kia, kẻ ác được mô tả theo nhận định của bậc trí thức, còn dưới đây thì Đức Phật phân tích kẻ ác theo trí thức của Ngài.

Trong Tam Tạng Kinh, Đức Thế Tôn có dạy trong đoạn kinh Uparipaññāsaka, bài kinh Bāla-panditasutta rằng: Tini bhikkhave bālassa bāla-lakkhanāni bālaninittāni - Này các thầy Tỳ khưu người ác có ba thái độ thấy rõ là:

- Duccintacinti: Suy nghĩ ác.

- Dubhāsitabhasī: Nói lời ác.

- Dukkhatamnakarī: Làm điều ác.

Nói một cách khác thì, theo lời Phật dạy, thái độ của người ác là nghĩ cũng ác, nói cũng ác, mà làm cũng ác, nghĩa là thân, khẩu, ý đều ác.

Thế nào gọi là suy nghĩ ác, nói ác, làm ác? Lời chú giải trong kinh có dạy rằng suy nghĩ ác có ba điều là tham lam thái quá, mưu hại kẻ khác và oán thù, và tà kiến, là không tin nghiệp nhân quả và luân hồi. Nói ác là nói dối, nói đâm thọc, chửi rủa, mắng nhiếc, nói biếm, nói lời vô ích. Làm ác là sát sanh, trộm cắp, tà dâm.

Ba thái độ ấy có khi tác động ở trong tâm chúng sanh, có khi phát hiện ra ngoài mặt, nên trong bộ chú giải 38 Pháp Hạnh phúc, ba thái độ ấy chia ra làm hai hạng là:

1. Ác bên ngoài: người ác trong thế gian này chia ra làm hai loại là:

- Andhabala: ác ôn, nghĩa là hạng người này hung dữ, khiến người ta kinh sợ như là bệnh ôn dịch, họ có thể giết người bằng mọi cách, hoặc bằng vũ lực, hoặc bằng mưu kế, miễn là hại được người mới vừa lòng. Hạng người này phạm đủ thập ác, không thể tránh một điều nào.

- Kalianabala: kẻ ác, nhưng vẫn còn điểm thiện tâm, nghĩa là đôi khi cũng làm lành, hoặc giúp đở người nghèo khó, bệnh tật v.v... Vì lòng nông nổi mà họ làm ác, nhưng lúc nào đó, họ lại ăn năn, mặc dù không ai dạy bảo. Như vậy là hạng người này có ngày tu hành, không hoàn toàn theo thập ác.

2. Ác bên trong: ác tính trong lòng của ta. Cũng ngụ ý nói ác tính trong lòng của chúng sanh chưa dứt trừ hẳn phiền não. Ác tính ấy là 27 điều ác của tâm, mà Phạn ngữ gọi 14 điều là: Akusala cetasika (ý ác), và 13 điều là Annasa mana cetasika (tác ý có hành động khác nhau).

Những ác tính kể trên có tính cách xấu xa khác nhau, làm cho thiện tâm lu mờ và yếu hẳn đi, không đủ khả năng nhận định được lẽ phải quấy, nên tâm, hằng phóng túng và dã dượi buồn ngủ. Mặc dù tâm ấy không thật là ác nhưng không thiện, không tham thiền, bố thí được.

Ba thái độ ác trên đây sẽ đem lại cho chúng sanh tám điều tai hại trong kiếp này và vị lai:

1. Làm mất lợi ích kiếp này và vị lai của mình và người thân của mình.

2. Thân, khẩu, ý của mình bị nhơ đục.

3. Làm cho tên tuổi xấu xa, hay càng ngày càng lu mờ đi, trong xã hội không ai nhắc tới.

4. Bậc trí và tất cả ai cũng ghê tởm như một món đồ bẩn thiểu.

5. Ai ai cũng cố xa lánh không dám gần và kinh sợ, như sợ một tai họa, nói theo ngôn ngữ chiến tranh bây giờ, thì sợ một quả bom nổ chậm.

6. Kẻ ác tâm không được sáng suốt để phán đoán điều phải lẽ quấy, tâm không có an lạc.

7. Kẻ ác làm cho danh tiếng trong họ hàng bị lu mờ, hay bị người đời xóa bỏ đi.

8. Kẻ ác sau khi chết, sanh vào bốn đường ác đạo.

Vì vậy chúng ta không đến gần kẻ ác, mà phải hành theo những điều sau đây:

- Không đến gần kẻ ác.

- Không ngồi gần kẻ ác.

- Không nghe kẻ ác.

- Không chơi với kẻ ác.

- Cố gắng xa lánh kẻ ác.

- Cố tâm trì giới, bố thí, tham thiền.

Người không thân cận với kẻ ác sẽ được 12 quả báo lành là:

1. Người không thân cận với kẻ ác là người được hạnh phúc tuyệt đối.

2. Người không chơi với kẻ ác là người đi trên chánh đạo.

3. Người không chơi với kẻ ác người gieo trồng Giới-Định-Tuệ.

4. Người không chơi với kẻ ác là người đi theo pháp học, pháp hành và pháp thành.

5. Người không chơi với kẻ ác là người không cắt đứt điều lợi ích quá khứ, hiện tại và vị lai, nghĩa là khi thân thiện với người ác, thì tự mình làm tội lỗi, không làm lành, thì quả lành của mình làm trong kiếp trước không thể trổ quả được, như vua A Xà Thế vì thân cận với Đề Bà Đạt Đa để cho Đề Bà Đạt Đa xúi giết cha, hại Phật, nên phạm ngũ nghịch đại tội, không thể đắc đạo quả được, mặc dù ngài có duyên lành để dành từ kiếp trước.

6. Người không chơi với kẻ ác là người ở trong thiện pháp.

7. Người không chơi với kẻ ác là người hằng được các bậc trí thức ngợi khen.

8. Người không chơi với kẻ ác hằng được thạnh lợi.

9. Người không chơi với kẻ ác được bậc trí thức yêu mến.

10. Người không chơi với kẻ ác thì không đi vào đường tội lỗi.

11. Người không chơi với kẻ ác sẽ được sanh về cõi trời.

12. Người không chơi với kẻ ác thì hạnh phúc đến với họ hằng ngày, không lo sợ tai họa gì do người ác gây nên.

Theo đây tôi xin nhắc lại một vài tích xưa trong Túc sanh truyện, để mình học lời dạy của Đức Phật về sự thân cận với kẻ ác và người thiện.

 

Chuyện Két

Khi xưa trên một ngọn đồi gần rừng Tuyết Lãnh, trong một ổ két có hai con két con. Ngày nọ có bão tố, két bị lạc mỗi con một nơi. Một con rơi vào nơi cư ngụ của các đạo sĩ, một con lại rơi vào làng của kẻ cướp. Hai con chim đều được hai nơi nuôi dạy tử tế.

Ngày nọ đức vua xứ Pañcala đi săn, vì bị lạc đường nên ngài mới nằm nghỉ trưa dưới một cội cây bên bờ suối gần làng bọn cướp. Két của bọn cướp trông thấy đức vua trang sức vàng ngọc, mới gọi bọn cướp và bảo rằng: "Chúng ta hãy đến giết người kia để cướp của". Nhà vua nghe được kinh sợ, lật đật chạy trốn. Ngài lại đi lạc vào nơi cư ngụ của chư vị đạo sĩ. Két của đạo sĩ trông thấy đức vua mới nói: "Người ơi, từ xa người đến đây chắc là mệt nhọc lắm, xin mời người vào ngồi nghỉ, nơi đây là đất lành, không có gì kinh khủng đâu".

Đức vua lấy làm trong sạch với két và nghĩ thầm rằng: "Cùng một loài két với nhau, một con ở với bọn cướp thì hung ác, còn con ở với bậc chơn tu thì thiện lương".

Tích này cho chúng ta thấy rằng, mặc dù là loài diều thú nhưng chúng bị ảnh hưởng cái ác và thiện của người nuôi. Thế thì con người làm sao chạy khỏi ảnh hưởng của ác và thiện?

 

Chuyện Cây Xoài

Ngày xưa đức vua Dadhavāhana ngự đi tắm dưới sông, trước khi ngài tắm, các quân lính phải giăng lưới quanh nơi ấy để phòng ngừa tai nạn. Trong khi ấy có một trái chín trôi từ rừng Tuyết Lãnh mắc vào lưới, quân hầu vớt được đem dâng cho Vua. Ngài thấy trái lạ mới cho gọi tất cả thợ rừng để hỏi là trái chi. Những người ấy bảo rằng đó là trái xoài, một thứ trái có vị ngọt và mùi thơm. Nhà vua bèn thọ thực, nhìn nhận trái xoài ấy có mùi vị ngọt ngon. Ngài mới truyền lấy hột đem về trồng nơi thượng uyển và dạy phải chăm nom kỹ lưỡng và đặc biệt tưới bằng sữa tươi. Ba năm sau, cây xoài sanh được trái, mùi vị ngon thơm tho. Đức vua muốn khoe trái quí của xứ mình với lân bang trồng được giống quí ấy, nên trước khi đem biếu, ngài dạy phải lấy dùi nhọn đâm thủng mầm non của trái xoài. Vì vậy các nhà vua lân quốc lấy hột đem trồng nhưng không mọc được.

Một vị vua liền cho lấy hột xoài lên để tìm xem duyên cớ, thì mới thấy cái mầm trong hột đã bị đâm hư rồi. Vị vua ấy hiểu được ác ý của vua Dadhavāhana, liền nghĩ ra kế độc, bèn sai một người làm vườn tin cậy đến xin vào làm vườn của vua Dadhavāhana để tìm phương hủy diệt cây xoài ấy. Người làm vườn đến tâu cùng vua Dadha-vāhana rằng: "Tâu Hoàng thượng, hạ thần là người chuyên môn về nghề trồng cây và hoa, đã từng làm nhiều nơi và phục dịch cho nhiều nhà vua rồi, các ngài hài lòng với hạ thần, nay hạ thần muốn đến hầu Hoàng thượng". Đức vua lấy làm hài lòng thâu nhận người ấy vào làm.

Khi được vào làm, người ấy mới đem dây thần thông trồng ở nơi gốc xoài và trồng cây sầu đâu gần đó. Dây thần thông bò trên thân cây xoài, còn cây sầu đâu lớn lên giao nhành với cây xoài trở nên đắng. Thi hành xong phận sự phá hoại, người làm vườn trốn đi.

Ngày nọ vua Dadhavāhana ngự vào vườn thượng uyển, truyền quan hầu bẻ xoài cho ngài dùng. Xoài ấy trở nên đắng và không còn thơm như trước. Đức vua mới phán hỏi vị quốc sư ở gần bên rằng: "Này hiền khanh, tại sao mùa này xoài trở nên đắng, hôi, màu không đẹp như trước?".

Vị quốc sư quan sát kỹ chung quanh thấy một sự việc mới tâu rằng: "Tâu Đại vương, cây xoài này trước kia được vun trồng chu đáo, tưới sữa tươi, hiện giờ bị dây thần thông và cây sầu đâu là loại đắng quấn nhau và giao nhành, nên làm mất mùi vị của xoài". Vị quốc sư mới ngâm câu kệ rằng:

Vannagandhrasupeto

Amdayam ahuva puri

Tameve pujam labhamāno

Kehamb kutukapphalo

Pucinanda parivāro

Ambote dadhvāhanam

Mulam mulenasanlattham

Sākhāsākham nisevare

Asatasan nivāsene

Tenambo katukap phalo

Nghĩa là: "Cây xoài này trước có màu, mùi vị tốt ngon, trong khi được cúng dường (nhờ được săn sóc chu đáo), nhưng hiện giờ bị đắng bởi tại sao? Tâu Hoàng thượng, cây xoài của ngài bị cây sầu đâu và dây thần thông ở chung, rễ và rễ xen lẫn nhau, nhành với nhành giao nhau. Vì mọc chung chạ với dây thần thông và cây sầu đâu nên xoài của ngài không còn vị ngon ngọt, mà trở nên đắng như thế".

Tích này chỉ cho ta thấy rằng sự thân cận chung lộn có ảnh hưởng như thế. Nếu ở với người lành thì được an vui, ở với kẻ ác thì phải đau khổ, như câu tục ngữ Việt Nam ta dạy: "Gần mực thì đen, gần đèn thì sáng", và "Ở bầu thì tròn, ở ống thì dài".

Cây xoài là vật vô tri vô giác mà còn bị ảnh hưởng như thế. Vậy, chúng ta nên lấy đó làm gương, và chúng ta biết thương mình thì nên xa lánh kẻ ác, dù người ấy là quyến thuộc của mình. Chúng ta thường sợ kẻ ác hơn thương mình, vì vậy thường hay xu hướng theo kẻ ác làm tội như rượu trà, cờ bạc, đàng điếm, vì là kẻ khác xúi giục, nếu không theo họ thì sợ họ buồn, hoặc sợ người ta cười là không biết xã giao v.v...

 

 

HẠNH PHÚC II

Paṇḍitānañca sevanā
Thân cận với bậc thiện trí thức

 

Thiện trí thức là người tương phản với người ác. Trí thức mà chúng ta thường hiểu có hai hạng khác nhau là:

1. Hạng trí thức theo quan niệm của người đời, hạng này khác hơn hạng trí thức trong Phật giáo. Hạng trí thức ấy là những vị học cao hiểu rộng, có bằng cấp to lớn, được tước vị cao sang như bác sĩ hay kỹ sư.

2. Hạng trí thức theo quan niệm Phật giáo, họ không luôn là người khoa bảng, hay kẻ lục thường tài, mà họ là người hoàn toàn trong sạch không làm tội lỗi do thân, khẩu, ý.

Theo Phật giáo bậc trí thức là bậc có thiện tâm, không phạm vào thập ác, mà có những thái độ như lời Phật dạy trong bộ Pháp Cú Kinh:

Ditthe dhamme ca yo attho

Yo attho samparayiko.

Atthabhisamaya dhiro

Panditoti pavuccati.

Nghĩa là: "Người hiểu lợi ích đời hiện tại, lợi ích đời vị lai và lợi ích cao quí nhất, đó là trí thức".

Hiểu lợi ích đời hiện tại là không hành theo tà pháp, không làm trái luật của chính phủ, không làm phiền người bên mình, tức là thọ trì giới luật của Phật.

Hiểu lợi ích của vị lai là hiểu rằng đời không bền vững, của không đem theo được xuống mồ, nên không bỏn xẻn, ích kỷ, dám đem tiền của ra giúp đỡ người đời, bố thí cho nhân loại được nhờ.

Hiểu lợi ích cao quí nhất là do tu hành theo Giới-Định-Tuệ trong kiếp hiện tại này để mau giải thoát khỏi vòng sanh tử luân hồi.

Lời Phật dạy đó có thể giải một cách thiết thực để chúng sanh tuân hành trì cho đúng bậc thiện trí thức. Bậc thiện trí thức theo Phật ngôn đó phải:

- Phân biệt lẽ phải, lẽ trái.

- Làm phước (bố thí).

- Hiểu rõ nguyên nhân sanh lợi và nguyên nhân sanh tai hại.

Hơn nữa bậc trí thức còn thực hành theo bốn điều lợi ích khác là:

1. Utthanasampada: siêng năng làm phận sự của mình, một là siêng năng làm công việc có tiền phụng dưỡng mẹ cha, giúp đỡ vợ con và quyến thuộc, việc làm không thuộc về tà mạng và tà nghiệp, hai là siêng năng trau giồi thân, khẩu, ý cho trong sạch.

2. Arakkhasampada: hết lòng gìn giữ của cải đã có, nghĩa là đừng dễ duôi, dễ mất và tiêu phí tiền của, như cờ bạc, rượu chè v.v.. và gắng lo trì giới hạnh của mình đã có, vì đây là của rất quí báu ta có thể đem về ngày vị lai, đây là của tinh thần.

3. Kalyānamitta: có bạn lành, nghĩa là nên thân cận với các bậc trí thức, bậc có giới đức trang nghiêm để học thêm các pháp giải thoát.

4. Sammajivita: nuôi mạng chân chính, nghĩa là không làm gì phạm với luật đời và luật đạo.

Ngoài ra bốn điều lợi ích kể trên, người gọi là trí thức còn phải có hành theo những pháp sau đây:

1. Saddhā: có đức tin, tin Nhân Quả và Nghiệp.

2. Sīla: trì giới, người trí thức nếu là người tại gia ít nhất phải có ngũ giới trong sạch, trên nữa là Bát quan trai.

3. Cāga: biết bố thí.

4. Pañña: có trí tuệ để nhận định tà, nẻo chánh và biết suy nghĩ thấy rõ ba tướng là vô thường, khổ não và vô ngã.

Trong bộ Chú giải 38 sự Hạnh phúc còn có dạy rằng: phàm người trí thức còn có mười đặc ân để chúng sanh nhận thức được là:

1. Dhīro: người có trí tuệ và trí nhớ.

2. Pañña: người có trí tuệ nhận thức rõ rệt vô thường, khổ não, vô ngã.

3. Bahusutto: người học nhiều hiểu rộng về pháp học, pháp hành và pháp thành.

4. Dhorayho: người hết lòng tinh tấn hành theo pháp hành là Chỉ quán và Minh sát tuệ.

5. Sīlava: người có giới đức trong sạch.

6. Vatavanto: bậc có đức hạnh thanh cao, nếu là bậc xuất gia thì bậc hằng giữ hạnh đầu đà, nếu là cư sĩ thì hành hạnh tri túc.

7. Ariyo: bậc xa kẻ thù, nghĩa là xa phiền não.

8. Sumedho: bậc có trí tuệ, nghĩa là người gắng lo bồi đắp thánh tuệ là tuệ giải thoát.

9. Tadiso: người không rung động, nghĩa là người tin chắc nơi Tam Bảo không có gì làm nao động, mặc dù là miếng mồi cao quí đến đâu.

10. Sappuriso: bậc có thân, khẩu, ý trọn lành.

Khi thân cận với các bậc trí thức, phải thực hành như thế này thì mới có kết quả:

1. Đến ở gần bên người.

2. Ngồi bên người để nghe lời giảng giải của người.

3. Cố nghe lời giảng giải của người.

4. Nghe pháp của người.

5. Cố nhớ pháp của người đã dạy.

6. Cố suy nghĩ về pháp đã nghe.

7. Khi suy nghĩ thấy rõ và biết rõ đó là chánh pháp thì nên hết lòng hành theo.

8. Hết lòng thực hành theo thiện pháp.

9. Cố hành theo cho 3 điều thanh tịnh phát sanh tức là: Sīlavisuddhi (giới thanh tịnh), Citta-visuddhi (tâm thanh tịnh), Paññāvisuddhi (tuệ thanh tịnh).

10. Cố hành cho mau đắc đạo quả Niết Bàn.

Sự thân cận với các bậc trí thức có những kết quả sau đây:

1. Được thông hiểu pháp học, pháp hành và pháp thành.

2. Được làm ba điều lành là: bố thí, trì giới, tham thiền.

3. Được giác ngộ sáu điều mà Đức Phật gọi là cao quí: Dassanānuttariya (thấy cao quí), Savanā-nuttariya (nghe cao quí), Lābhanuttariya (được cao quí), Sikkhanuttariya (học cao quí), Paricariyanut-tariya (hầu hạ cao quí), Anusarananuttariya (nhớ cao quí).

4. Được hành theo các bậc trí thức.

5. Không sợ có tai hại và oan trái.

6. Biết rõ đường sanh về nơi an lạc là cõi trời và người biết ác đạo mà lánh xa.

7. Tự mình được an vui.

8. Được sự khen ngợi của quần chúng, nhất là của bậc có đạo hạnh thanh cao.

9. Có tên tuổi tốt đồn đãi đi mọi nơi.

10. Không bị đọa vào ác đạo.

11. Được an vui trong kiếp này, và về cõi trời kiếp sau.

Sự thân cận với các bậc trí thức thật là hữu ích, mặc dù chỉ gần các ngài trong một giờ thôi.

Các bậc trí thức ở nơi nào đều đem sự an lành đến nơi ấy. Hơn nữa, các bậc trí thức thường tùy thời cứu nguy cho kẻ khác, như tích của bà hoàng hậu Mallikā, vợ vua Ba Tư Nặc có giải trong bộ kinh Pháp Cú, quyển ba, như sau:

Đêm nọ, đức vua Ba Tư Nặc nghe bốn tiếng la thật to là: "Du, Sa, Na, So", làm ngài lấy làm kinh sợ. Sáng ngày lâm trào, đức vua cho thỉnh các vị Bà la môn chuyên về đoán điềm lành dữ vào triều kiến và phán hỏi nguyên do.

Các thầy Bà la môn ấy mới tâu rằng: "Tâu đại vương, đây là điềm bất thường, có hại đến ngai vàng và hoàng thượng nữa, nếu ngài không tế thần lửa".

Cách thức tế thần lửa ấy thật là dã man. Trước hết phải tìm cho đủ một trăm giống thú đực và cái và trăm đồng nhi nam và đồng nhi nữ. Rồi đào một cái hầm thật to, đốt lửa cháy thật hực xong mới giết cả thú và người lấy máu đổ vào lửa.

Đức vua nghe lời bàn tán của chư vị Bà la môn, lấy làm kinh sợ, mới truyền cho phải lập đàn tràng để tế thần lửa. Trong khi sắp làm lễ, thì đồng nhi nam, nữ kinh sợ, la khóc, những con thú bị nhốt cũng gầm thét. Những tiếng ấy làm rung chuyển cả hoàng hung, bà hoàng hậu lấy làm lạ, mới vào hầu vua và hỏi tự sự. Đức vua mới thuật chuyện ấy cho bà nghe, bà mới tâu rằng: "Thật Hoàng thượng không thông minh chút nào cả. Một khi gần bên ta có Đấng Giác Ngộ là Thiên Nhân Sư, là vị đại trí thức, mà không hỏi, lại đi hỏi và tin các thầy Bà la môn ấy".

Đức vua tỉnh ngộ mới vào hầu Phật và hỏi về bốn tiếng lạ ấy. Đức Thế Tôn dạy rằng: "Bốn tiếng Du, Sa, Na, So ấy là của bọn ngạ quỷ, vốn là quyến thuộc của ngài, chịu đói từ mấy kiếp, đến nay biết ngài sanh làm vua, muốn kêu cầu cứu với ngài, để ngài làm phước hồi hướng phước cho chúng". Đức vua nghe qua lấy làm trong sạch, khi về đến hoàng cung, truyền thả hết người và thú sắp tế lễ. Tất cả ai ai cũng đều tán dương ân đức của hoàng hậu Mallikā.

Nhắc tích này cho thấy rằng các bậc trí thức hằng đem lợi ích cho tất cả mọi người, con người ác như các thầy Bà la môn, hằng làm cho người kinh sợ, chúng ta nên nhớ rằng không phải là người học nhiều hiểu rộng hay là người khoát ngoài một bộ áo tu mà là trí thức, chúng ta cần phải suy nghĩ và quan sát như những đoạn kinh dạy về thiện và ác để phân biệt ác và thiện.

 

 

HẠNH PHÚC III

Pūjā ca pūjanīyānaṃ
Cúng dường đến bậc đáng cúng dường

 

Những nhà nông chuyên nghiệp, lúa đã về đến sân nhà xong rồi, ấy cũng chưa phải là xong chuyện, còn phải làm thêm ba việc cần yếu nữa là:

- Phải loại bỏ phần lúa lép.

- Cất lúa chắc vào bồ.

- Lựa lấy giống lúa tốt để làm mùa sau.

Người đã tu theo Phật chưa phải là trọn đủ như nhà nông sau mùa lúa, còn phải làm thêm ba điều nữa mới hạnh phúc:

- Phải xa kẻ ác, như nhà nông sàng bỏ lúa lép.

- Thân cận với bậc trí thức, như nhà nông chọn lúa chắc cất vào bồ để dành.

- Cúng dường đến các bậc đáng cúng dường, cũng như nhà nông lựa giống lúa tốt để làm mùa sau.

Phần đông chúng ta hiểu rằng cúng dường là lo sắm nhang đèn bông hoa dâng trước tượng Phật, hay dâng đến chư Đại đức. Hiểu như vậy là chưa rốt ráo, chúng ta phải hiểu rõ:

- Ý nghĩa của cúng dường.

- Nhân vật nào đáng cho ta cúng dường?

- Nguyên nhân cúng dường.

Cúng dường đúng lời Phật dạy có một ý nghĩa cao sâu mầu nhiệm hơn. Người có tâm trong sạch đem lễ vật vào chùa cúng Phật hoặc Tăng, người ấy chưa gọi là thông đạt được ráo rốt ý dạy của đấng hoàn toàn giác ngộ.

Ở đầu sách này, dưới mục "Nguyên nhân có pháp hạnh phúc", chúng ta đã phân biệt 38 pháp Hạnh phúc làm hai loại. Một loại của một người học giả quan niệm ra thế nào, rồi tự tin như thế ấy. Còn một loại do đấng Giác ngộ, dựa vào quan niệm của Ngài, căn cứ vào kinh nghiệm hành trì của Ngài đã đắc giác ngộ dưới cội bồ đề, sau nhiều a tăng kỳ kiếp.

Tôi xin nhắc lại trong 38 pháp Hạnh phúc, có 38 cách thức hành trì khác nhau của đấng Giác ngộ đã thuyết. Sự cúng dường cũng là một chi trong 38 chi, hay là một hạnh trong 38 hạnh, mà Phật tử phải hành theo Phật.

Trước hết nên hiểu rõ tiếng Pūja (cúng dường) nghĩa là gì? Chúng ta thường lầm lẫn với tiếng Dāna nghĩa là "bố thí" trong pháp Hạnh phúc thứ XV. Sự cúng dường có ngụ ý là lễ bái một cách kính trọng hay là làm trở nên long trọng. Vì sự tôn kính hay kính trọng như thế gọi là Garavo. Khi xưa các đạo khổ hạnh và người ta nói hành đạo khổ hạnh như thế là cúng dường. Nói như thế cũng chẳng phải.

Theo sách chú giải, sự cúng dường có đủ ba tính chất mới đúng.

- Pagaganha: ca tụng, nghĩa là ca tụng nhân vật mà ta cúng dường, như ta ca tụng ân đức Tam Bảo theo kinh Tam Bảo mà ta hằng tụng, hoặc như ta tụng rằng Phật là đấng Từ bi Ba la mật để tìm đường giải thoát tế độ chúng sanh, Pháp là con đường đức Thế Tôn tìm thấy để đi đến nơi vô sanh bất diệt, Tăng là đấng đã lìa xa thế tục, bỏ cả vạn vật nơi vũ trụ, bỏ cả chính bản thân của mình, chỉ cần sự giải thoát thôi, là đấng nhận thấy rõ rệt luân hồi, khổ não và cố ra khỏi luân hồi, là đấng xứng đáng thay mặt bậc Giác ngộ dắt dẫn chúng ta ra khỏi bể trầm luân.

- Sakkara: vật cúng dường, đây là những vật dụng đem đi cúng dường cho nhân vật mà mình muốn cúng dường, thể hiện lòng sùng bái của ta đối với nhân vật ấy và cũng thể hiện hạnh bố thí của ta.

- Samamana: kính trọng, là kính trọng một nhân vật nào mà ta đem lễ vật đến biếu dâng, nhưng ta không có tâm muốn một tư lợi nào do người ấy ban bố cho ta.

Tóm lại, sự cúng dường phải có đủ ba tính chất do sự ca tụng vật cúng dâng và nhân vật thọ cúng.

Sự cúng dường cũng như sự ăn. Ta chẳng nên nghĩ rằng ăn gì cũng được, miễn là no bụng thôi. Nghĩ vậy là sai lầm. Ta cần ăn, nhưng phải là món ăn bổ ích cho cơ thể ta, nếu không bổ ích cũng không hại đến sức khỏe ta. Sự cúng dường cũng vậy, ta phải biết chọn nhân vật để cúng dường.

Đối tượng mà ta cúng dường là ai?

- Người thọ cúng là một vị nào, hay một đấng, thiêng liêng hoặc một vị giáo chủ nào, là bậc có công đức đối với chúng ta, như cha mẹ và Đức Phật là hai bậc đáng cho ta cúng dường.

- Lời giảng dạy tức là Pháp bảo, tức là lời giảng dạy của Đức Phật mà cũng là con đường của chư Phật tử để noi theo, để đi đến Niết Bàn.

- Cùng một nhóm người, tức thị chư Tăng, là bậc có giới đức thanh cao, người thoát khỏi vòng của sắc, tài, danh lợi, là ngọn cờ của Phật giáo, là người có thể thay Phật để dạy tín đồ, là đấng có chí hướng thanh cao, có đức tánh Từ, Bi, Hỷ, Xả.

Có hai hạng người xứng đáng thọ lãnh cúng dường, là:

1. Người có công đức cao thượng như Đức Phật, là đấng có đủ đức hạnh, là công đức đối với chúng sanh. Vì Ngài là đấng tìm ra đường giải thoát, mà lại đem ra giáo hóa chúng sanh không nài cực nhọc.

2. Người có công sanh dưỡng là cha mẹ, và người có công chỉ dạy con đường giải thoát cho ta, là chư Tăng và các bậc thầy tổ.

Nói tóm lại, sự cúng dường và sự đền ơn có khác nhau. Ta có thể cúng dường chư Phật, vì chư Phật dạy đời không vì tư lợi hay danh vọng, cũng không mong được chúng sanh kính nể, mà chỉ dạy đời với tất cả tấm lòng từ bi, thương chúng sanh phải luân hồi khổ não, chẳng khác nào người mẹ hiền thương con, dạy con với tấm lòng sông biển.

Còn cha mẹ nuôi con cũng chẳng cần sự đền đáp của con và cũng không bao giờ kể công với con. Cha mẹ là Đức Phật đối với con. Người không phụng thờ cha mẹ mà cúng dường đến Đức Phật, thật không bổ ích vào đâu cả, đúng với câu: "Phật trong nhà không thờ, lại đi thờ Phật Thích Ca ngoài đường".

Ngoài hai bậc đã kể trên, người nào giúp đỡ ta, ta nhớ ơn mà lo đền đáp lại bằng cách này cách nọ thì không gọi là cúng dường mà gọi là đền ơn.

Cúng dường có nhiều ý nghĩa:

1. Cúng dường có nghĩa là đệ tử đem lễ vật đến dâng cho thầy tổ để tỏ lòng biết ơn của các ngài dạy cho mình con đường giải thoát.

2. Cúng dường có nghĩa là kính trọng các bậc có đặc ân cao thượng, là giải thoát khỏi luân hồi.

3. Cúng dường theo ý 38 điều Hạnh phúc của Đức Phật đã dạy, khi mình đã hiểu ra nhân vật mà mình hiểu, hiểu rằng nhân vật ấy là bậc thánh nhân, còn nếu không phải là thánh nhân chăng nữa, cũng là gắng hành để giải thoát. Hiểu như thế rồi ta hết lòng kính trọng, hành theo lời giảng dạy của nhân vật ấy để giải thoát khỏi luân hồi. Cách cúng dường như vậy Đức Thế Tôn mới ngợi khen, gọi là cúng dường bằng cách hành theo thánh đạo để tự giải thoát cho mình. Cách cúng dường như thế này mới gọi là cúng dường cao thượng, mà Chư Phật và Chư thánh nhân mới thường lấy làm hoan hỷ.

4. Cúng dường cũng có nghĩa là lễ bái với tất cả tấm lòng cung kính đến đấng có đặc ân cao thượng là:

- Paññāguna: đặc ân là Trí tuệ.

- Karunaguna: đặc ân là Từ ái.

- Visuddhiguna: đặc ân là Trọn lành.

Cúng dường có hai thể cách:

- Amisapūja: cúng dường bằng vật dụng, như là cơm, nước, y phục, nhà và thuốc.

- Patipattipūja: cúng dường bằng sự hành đạo để mau tới nơi giải thoát, như người tại gia cư sĩ, khi tin theo lời Phật dạy, thì quy y Tam Bảo, hành theo ngũ giới, hay bát quan trai giới, thêm nữa có thể gắng tham thiền để mau dứt được phiền não. Đây gọi là cách cúng dường cao thượng đến chư Phật.

Để giải rộng về hai thể cách cúng dường ấy, tôi xin nhắc lại sự tích của một phụ nữ nghèo cúng dường đến Đại đức Ca Diếp:

Gần thành Gājagaha có một hang tên Pipphali. Bên miệng hang ấy có một cây dương. Trong hang ấy có Đại đức Ca Diếp nhập đại định bảy ngày. Sau khi xả định, ngài rảo bước đi bộ, dùng trí tuệ xem người nào có duyên với ngài, thấy có một cô gái rất nghèo giữ ruộng bắp có duyên với ngài, ngài liền mang bát đi đến nơi cô ấy. Khi cô trông thấy Đại đức Ca Diếp, cô liền phát tâm kính thành và rất trong sạch, thầm nghĩ rằng: "Nhiều khi ta có vật cúng dường mà lại không gặp ngài để cúng dường, cũng khi ta không có vật gì lại gặp ngài. Hôm nay ta có vật cúng dường, mà lại gặp ngài thì thật là quí hóa biết chừng nào". Vật mà cô ta có ấy là hột nổ (bắp rang). Cô liền đem hột nổ ấy dâng cúng cho ngài Ca Diếp và phát nguyện rằng: "Bạch ngài, duyên lành của đệ tử gieo trồng hôm nay, xin cho đệ tử đắc những pháp mà ngài đã đắc!" Rồi ngài ra về.

Cô giữ ruộng bắp được làm phước trong lòng vui thích vô cùng. Khi ấy, vì vô ý cô lại đạp nhằm một con rắn độc, cô bị rắn cắn chết liền tại chỗ. Vì trong khi tâm cô vui với phước, cô được sanh về cõi trời Đao Lợi, ví như người đang ngủ giựt mình tỉnh dậy. Cô thấy cô đang ở trong một tòa lầu bằng vàng.

Tích này còn dài hơn nhưng chỉ nhắc sơ lược để chúng ta dễ nhớ và thấy rằng, sự cúng dường đến các bậc đáng cúng dường có được nhiều hạnh phúc như vậy. Sự tích cô giữ bắp còn cho ta thấy rằng, sự bố thí hay cúng dường của ta không trọng về vật nhiều hay quí mà quí ở tấm lòng trong sạch và thành kính của chúng ta. Chúng ta không nên nghĩ rằng giàu mới làm phước được, nghèo không làm phước được. Dù giàu hay nghèo, tùy theo của mình có và tấm lòng trong sạch của mình, sự bố thí của mình mới quí.

Sự cúng dường bằng vật dụng đã cao quý như thế, nhưng sự cúng dường bằng sự hành đạo giải thoát còn cao thượng, quý hơn vô tận vô cùng.

Cúng dường đến Đức Phật bằng cách cao thượng hơn hết là chỉ có sự hành đạo để giải thoát cho mình, như thọ trì giới hạnh trang nghiêm, hành thiền cho tinh tấn, dùng trí tuệ hằng quán xét ba tướng (khổ, vô thường, vô ngã).

Khi Đức Thế Tôn sắp nhập diệt dưới cội Sala, chư thiên, Phạm thiên đem các kỳ hoa dị thảo đến cúng dường cho Đức Phật, để gom lại cao như núi, và rải đầy cả mặt đất. Đức Thế Tôn trông thấy sự cúng dường rất nhiều như thế, ngài mới gọi Đức Ānanda đến mà dạy rằng:

"Sabbaphāli phullakho ānanda yamakasala alakapuppehi tathagatassa sariram okiranti.

"Này Ānanda, hai cây Sala trổ bông trái mùa và rụng trên mình Như Lai, đó là tỏ ý cúng dường Như Lai. Bông Mandārava (Tàu âm là Mạn thú) từ trên không rơi xuống trên mình Như Lai cũng tỏ ý cúng dường Như Lai. Những tiếng đàn ca, kèn trống ở trên không, đều là những món cúng dường Như Lai. Này Ānanda, Như Lai không cho rằng cúng dường trọng thể như vậy là kính mến Như Lai. Này Ānanda, tín đồ nào trong hàng Tỳ khưu và Tỳ khưu ni, thiện nam, tín nữ là người cố gắng hành đúng theo lời dạy bảo của Như Lai, người ấy mới gọi là người kính mến, yêu thương và cúng dường trọng thể đến Như Lai. Vậy, tín đồ trong giáo pháp của Như Lai nên luôn luôn ghi nhớ rằng: ‘Chúng ta phải hành trì theo chánh pháp, không được dễ duôi’, Ānanda này, các người nên nhớ như vậy!".

Đức Thế Tôn dạy thêm: "Ānanda này, Như Lai không phải là đấng để chúng sanh cúng dường bằng các vật cúng dường như vậy. Ānanda này, những công đức mà Như Lai tạo ra và phát nguyện dưới chân của các đấng giác ngộ, nhất là Đức Phật Nhiên Đăng, không phải là để ta muốn những vật cúng dường như vậy, vì lẽ ấy mà Như Lai mới dạy rằng: Như Lai không phải là đấng để cho mọi người cúng dường những hương hoa và các vật dụng nào khác." (trích Dighanikāya - Trường Bộ, bài kinh Parinibbāna - Bát Niết Bàn).

Lời dạy trên đây về sự cúng dường tựa dường như không nhất trí với nhiều lời dạy của Đức Thế Tôn ghi lại trong trong kinh điển, về Ngài hằng giải về quả báu mà sự cúng dường nhỏ nhen như một nắm cát của đứa bé, hay là nhờ nhớ đến ân Đức Phật.

Suy cho cùng thì tánh chất của sự cúng dường vẫn tương đối, tùy trình độ tinh tấn của tín đồ, nên Ngài tùy cơ hội mà thuyết huấn, chỉ muốn cho tín đồ tùy cấp bậc tu hành mà tiến mãi cao lên. Vì lòng từ bi vô lượng vô biên nên Ngài dạy cúng dường bằng công đức tu hành, chứ không phải bằng phẩm vật phàm tục, Ngài e rằng trong tương lai các thầy Tỳ khưu không gắng lo tu học theo Giới-Định-Tuệ, mà lại bày chỉ cho thiện nam, tín nữ cúng dường vật này vật nọ, hay lập ra mấy muôn ngàn cái tháp, mấy triệu cảnh chùa, vì hành đạo như vậy không thể làm cho Phật giáo được thịnh hành, chỉ có hành trì cho chín chắn theo chánh pháp và giới luật thì mới có thể làm cho Phật giáo được trường cửu.

Lời giảng của Đức Thế Tôn về pháp cúng dường trên đây có nhiều điều lợi ích là:

- Tín đồ hành theo chánh pháp được mau giải thoát.

- Khi hành đúng theo kinh luật thì Phật giáo không bị suy đồi.

- Và các vị Tỳ khưu không thể lợi dụng sự lập chùa đúc tượng để thủ đắc tư lợi.

Đức Thế Tôn dạy cúng dường cách cao thượng như thế chỉ có một ý cao sâu mầu nhiệm, là Ngài chỉ muốn chúng sanh phải gắng lo tu hành, mau giải thoát khỏi luân hồi và không muốn để các vị Tỳ khưu bất chính khai thác lòng tín ngưỡng của tín đồ để mưu lợi riêng cho cá nhân mình. Sự thật khi tín đồ hiểu thông lý đạo, thì dù chư Tăng có cấm không cho họ cúng dường, họ vẫn cúng dường như thường, vì họ nhận thấy rằng đó là phận sự và cũng là một phương pháp diệt trừ phiền não là lòng tham.

Đức Thế Tôn không khen ngợi sự cúng dường bằng vật dụng nghĩa là tài thí ấy, Ngài lại khen cúng dường bằng sự hành đạo rằng: "Này Ānanda, trong hàng tứ chúng có một người nào hành đúng theo phận sự của mình, người ấy gọi là người cung kính và cúng dường đến Như Lai. Vì lẽ ấy, các người nên gắng hành theo chánh pháp." (Bộ Digha-nikāya - Trường Bộ, bài kinh Parinibbāna).

Những lời Phật dạy trên đây thật là quý báu vô cùng. Giờ phút nhập diệt đã kề rồi, mà Ngài vẫn không quên những đứa con nhỏ dại đang ở trong những cảnh khổ giữa nhiều cám dỗ và cạm bẫy của ma vương, nên Ngài có dặn lại câu cuối cùng như thế. Chúng ta là hàng Phật tử chân chánh nên nhớ câu này để hành đạo của Ngài.

Vào ngày rằm tháng Giêng, Đức Thế Tôn cho các hàng đệ tử hay rằng, còn ba tháng nữa Ngài sẽ nhập diệt. Các vị Tỳ khưu còn tâm phàm cất tiếng lên than khóc, tiếc thương. Duy có một vị Đại đức tên Tissa không than thở buồn than gì cả, vì ngài nghĩ rằng: "Nghe tin Đức Thế Tôn sắp nhập diệt ngày rằm tháng Tư mà tâm ta vẫn còn nhiều phiền não, vậy ta phải đạt được cho quả A La Hán trong khi Đức Thế Tôn còn sinh tiền". Rồi ngài kiếm nơi thanh tịnh hành trì. Chuyện ấy thấu đến tai Đức Thế Tôn, ngài cho mời vị Đại đức ấy lại hỏi. Vị Đại đức mới bạch rằng: "Bạch Đức Thế Tôn, đệ tử xuất gia từ lâu nhưng chưa đắc đạo quả, đệ tử xét rằng đệ tử không xứng đáng là Phật tử biết thương đấng Từ Phụ".

Đức Thế Tôn đáp: "Lành thay! Này các thầy Tỳ khưu, kẻ nào thật biết thương Như Lai, kẻ ấy nên thực hành như Tissa, vì những người cúng dường ta bằng vật phẩm tràng hoa v.v... không gọi là cúng dường ta, chỉ có người thực hành theo chánh đạo mới gọi là người cúng dường Như Lai rất xứng đáng." Rồi Ngài thuyết câu kệ:

Pavivekarasam pipvā

Rasam up asamassa ca

Nyddaro hotinippāpo

Dhammappitirasampivanpi.

Nghĩa là các bậc thánh nhân hưởng vị của Viveka (thanh tịnh) và vị của sự vắng lặng, vị của hỷ lạc trong thiện pháp (đạo quả và Niết Bàn), các ngài biết sự nóng nảy (của phiền não), và các ngài không tạo ra tội lỗi.

Tóm lại, sự cúng dường cao quý nhất trong Phật giáo là sự hành đạo đúng chánh pháp, để giải thoát cho bản thân mình. Nếu tất cả hàng tứ chúng đều thực hành theo lời Phật dạy, thì Phật giáo sẽ được trường tồn và vẫn hưng thịnh đến năm ngàn năm.