KỆ NGÔN IX
HẠNH PHÚC XXXI
Tapa
Cố gắng đoạn tuyệt điều ác
Tapa: tiếng
này đã nói nhiều trong các đoạn trước, có nghĩa là thiêu đốt, nóng hoặc là lửa.
Tôi xin nhắc lại rằng tiếng Tapa là tiếng đã có trước khi Đức Thế Tôn
thành đạo, là một tiếng cổ của đạo Bà la môn thường dùng. Về sau, Đức Thế Tôn
truyền bá giáo pháp lại dùng tiếng Tapa mà theo ý nghĩa khác hơn, để chỉ
sự hành động khác hơn xa. Vì vậy tôi tưởng nên giải rõ thế nào là Bà la môn
giáo, thế nào là Phật giáo.
Bà la môn giáo là một tôn giáo
có lẫn với giáo pháp cổ truyền của người trong cõi Diêm Phù. Bà la môn giáo
thịnh hành về miền Bắc cõi Diêm Phù là từ sông Gangā
và Bārānasī lên miền Bắc, Bà la môn giáo thuộc về đa thần giáo. Bà la
môn giáo tin rằng thế gian mà chúng sanh có đây là do nơi Phạm thiên tạo ra, và
phải đặt dưới quyền điều khiển của Phạm thiên. Tín đồ muốn cho Phạm thiên sửa
đổi định mạng của mình, thì phải có phương pháp cúng dường và cầu khẩn do các
thầy Bà la môn chủ trương cầu với Phạm thiên.
Sau này có Phật giáo, truyền bá
rất nhanh và rất mạnh trong dân chúng, số tín đồ theo Phật giáo càng ngày càng
nhiều không kể xiết. Bà la môn giáo lại đổi lại là Hindu.
Hindu giáo trộm lấy Phật ngôn
đem về dạy tín đồ của mình. Tín đồ Phật giáo là một số của Bà la môn giáo. Vì
vậy nên khi cần giảng giải giáo pháp, Đức Phật lại dùng ngay tiếng của Bà la
môn để dạy, một là tiện cho người thời ấy hiểu, hai là chỉ cho thấy sự khác
biệt của triết lý hai tôn giáo, như tiếng Yanna, Hindu giáo dạy ý là
giết thú để cúng dường cho Phạm thiên, nhưng trái lại, Phật giáo dùng tiếng Yanna
với nghĩa là bố thí; tiếng Brahma (Phạm thiên) trong Hindu giáo là vị
chúa tể tạo ra vũ trụ và chúng sanh, nhưng theo Phật giáo, là cha mẹ, tiếng Brahma
trong Hindu giáo chỉ là người hiểu thông kinh luật của Hindu, nhưng trong
Phật giáo, là người diệt trừ phiền não. Còn rất nhiều tiếng như thế nhưng xin
miễn giải.
Nhờ Đức Thế Tôn đem những tiếng
ấy lại dùng và chỉ cho thấy ý nghĩa khác nhau, nên rất nhiều người trí thức ở
Bà la môn giáo nhận thấy lẽ phải, nên trở theo giáo pháp của Đức Phật.
Tiếng Tapa của Bà la môn
giáo chỉ 16 điều là:
1. Gabbhā Dhāna: sự mang
thai bào, ý nói khi có thai người mẹ phải cho người trong gia đình biết và có
cách thức cúng và hành theo phương pháp của Hindu.
2. Punnusavan: cách thức
rước hồn của đứa trẻ vào thai.
3. Sīmātayan: cách thức
chia tóc của người có thai ra có giới hạn, nghĩa là cách thức chải đầu của
người có thai.
4. Jātakarasa: cách thức
sanh.
5. Nāmakarana: cách thức
đặt tên.
6. Annaparana: cách thức
đút cơm.
7. Cudakarana: cách thức
để tóc.
8. Kannābeda: cách thức
xỏ tai.
9. Bijārambha: cách thức
bắt đầu học văn chương hay nghề.
10. Yannoparita: cách
thức cầm chỉ để làm lễ.
11. Bedarambha: cách thức
học kinh Phệ đà.
12. Samāpatti: cách thức
làm lễ khi học xong.
13. Samañvantana: cách
thức khi học xong rồi về nhà.
14. Bibah: cách thức làm
lễ khi đính hôn.
15. Banaparāsa: cách thức
hành Tapa.
16. Sanyāsi: cách thức
xuất gia.
Trong 16 điều này, điều thứ 10
không phải là phận sự của người phụ nữ và điều 16 tùy ý người hành theo.
Ta thấy 16 điều này đi từng bậc
một. Pháp Hạnh phúc của Phật giáo cũng hành từng giai đoạn một.
Hindu giáo dạy hành Tapa rằng
đợi đến đúng ngọ, hành giả ngồi giữa trời rồi đốt lửa xung quanh mình, mới lần
đầu thì lửa để xa hành giả chừng một sải tay, sau càng ngày càng đem lại gần.
Hành giả học tham thiền thế nào đạt đến một mức độ không còn thấy cảm xúc với
sự nóng. Hành Tapa như vậy Bà la môn giáo gọi là đốt phiền não.
Theo lịch sử Phật pháp, thì Đức
Từ Phụ của chúng ta khi chưa đắc đạo, nghĩa là trong vòng sáu năm khổ hạnh, Ngài
cũng thực hành Tapa theo thể thức của Bà la môn giáo. Sau này, Ngài mới
thấy Chánh đạo.
Sau khi thành đạo được 9 tháng,
Ngài thuyết câu này tại Vương Xá Thành: "Sự tinh tấn nhẫn nại là pháp cao
quí nhất của Tapa".
Trong câu này, Đức Phật dùng
tiếng Tapa theo Phật giáo, chỉ pháp nhẫn nại, chớ không theo quan niệm
của Bà la môn, là hơ hay thiêu phiền não.
Muốn giải rõ Tapa tôi xin
chia ra làm hai phần: định nghĩa tiếng Tapa và cách hành Tapa.
Tapa có
nghĩa là làm cho nóng, như nấu nước uống. Phạn ngữ là Udakam Tapati:
nóng lòng, Paccā taya ti dukaram: sự hành động tội lỗi nóng lòng (ăn
năn) về sau. Ta có thể định nghĩa tiếng Tapa là hơ, nướng, nấu, nung,
thiêu đốt.
Theo Phật pháp, Tapa ngụ
ý chỉ sự làm cho nóng, nhưng làm cho nóng những phiền não trong tâm ta, vì
những phiền não ấy thường nhiễu nhương tâm ta, không để tâm ta yên tịnh nên ta
phải đốt nó.
Sự nhẫn nại là một pháp Tapa.
Có câu Phật ngôn dạy: Khanti tapo tapassino, nghĩa là nhẫn nại là Tapa
của người hành tinh tấn.
Giới là một pháp Tapa.
Trong Túc sanh truyện Somasaka có nói rằng ta sẽ dứt bỏ những trần dục
bằng Tapa, ý nói sự trì giới không cho phạm.
Bát quan trai giới là Tapa,
vì bát quan trai giới là pháp ngăn ngừa không cho ác pháp sanh trong tâm và
đánh đuổi ác pháp ấy ra khỏi tâm.
Có 3 pháp quan trọng:
- Yonisomanasikāra: dùng
trí nhớ và trí tuệ quan sát tâm.
- Virya: tinh tấn.
- Indriyasamvara: sự thu
thúc lục căn.
1. Dùng trí nhớ và trí tuệ quan
sát tâm: Bất cứ trường hợp nào, đời hay đạo, ta cũng cần phải có trí nhớ và trí
tuệ để quan sát chuyện làm càn và làm bướng. Trí nhớ và trí tuệ quan sát tâm là
một pháp Tapa có thể diệt trừ được các ác pháp trong tâm và ngăn ngừa
không cho các phiền não bên ngoài xâm nhập vào. Đức Thế Tôn biết tâm chúng sinh
hằng chạy theo trần, nên làm nô lệ cho phiền não, nên ngài dạy phải dùng trí
nhớ và trí tuệ quan sát tâm. Em của Đại đức Xá Lợi Phất là người có đủ trí nhớ
và trí tuệ quan sát tâm, nên giải thoát được.
Khi xuất gia, Đại đức Xá Lợi
Phất còn có một người em trai và một cô em gái ở nhà. Mẹ ngài là người tà kiến,
không tin theo Phật giáo, nên ngài mới yêu cầu chư Tăng, khi nào thấy em trai
ngài có xin xuất gia, thì cứ tự tiện cho, không cần có sự ưng thuận của mẹ
ngài.
Bà mẹ thấy con trai trưởng của
bà là Đức Xá Lợi Phất xuất gia, bà sợ con trai út cũng xuất gia theo anh, nên
bà lo cưới vợ cho con. Ngày rước dâu, theo phong tục người thời ấy, thì phải
chọn một người rất già mà còn đủ vợ chồng đến xối nước trên tay của cặp tân
hôn, nên trong họ chọn được bà ngoại của cô dâu là người có đủ điều kiện. Khi
làm lễ, bà ngoại vợ đến nắm tay cặp tân hôn rồi xối nước và nói rằng: "Bà
cầu chúc cho hai cháu được như bà hôm nay" (ý nói rằng bà cầu xin hai cháu
ăn ở với nhau cho đến răng long tóc bạc như bà đây vậy).
Em của Đức Xá Lợi Phất nhìn vợ
thì thật là đẹp, khi xoay qua trông thấy bà ngoại vợ già, miệng móm, da nhăn
tóc bạc, coi thật xấu. Ông mới thầm nghĩ rằng: "Bà ngoại vợ ta khi còn trẻ
cũng đẹp như vợ ta hôm nay, sắc đẹp ấy không còn nữa phải chịu số phận như thế.
Vậy sắc đẹp đâu còn tồn tại mãi được, trên đời này không có chi trường tồn bền
vững. Khi mà sắc đẹp của vợ ta phai lợt với thời gian, thì còn thú vị gì nữa?
Thảo nào mà anh của ta đi tìm đường giải thoát".
Suy nghĩ đến đó, chàng phát tâm
chán mùi tục lụy, ý chàng muốn xuất gia theo gương của anh. Chang mới nghĩ ra
được một kế. Trên đường đi rước dâu, chàng giả bộ đau bụng, cứ đòi xuống đi
sông mãi.
Nhiều lần như vậy, bà mẹ tưởng
con mình bị kiết lỵ, nên không để ý, để cho chàng tự do và cho xe rước dâu về
trước, để chàng đi sau. Dịp may đã đến, chàng bèn thẳng vào chùa ở gần, xin chư
Tăng cho xuất gia.
Chư Tăng hỏi: "Ngươi có
được phép của cha mẹ cho xuất gia chăng?"
- Bạch Đại đức, không!
Chư Tăng
không dám cho xuất gia. Đức Thế Tôn cấm không cho người xuất gia trong khi cha
mẹ không cho phép.
Khi đã hết sức yêu cầu, mà chư
Tăng không bằng lòng cho xuất gia, chàng mới la to rằng: "Bớ người ta! Ăn
cướp đồ tôi đây!". Chư Tăng lấy làm lạ hỏi rằng: "Gã kia! Ngươi đã
điên rồi chăng? Tại sao ở giữa Tăng chúng mà ngươi lại la lên như thế? Ai cướp
của ngươi?"
- Bạch chư Tăng, trong vòng sanh
tử luân hồi đệ tử đã bị Ma vương cướp lấy duyên lành của đệ tử rất nhiều rồi;
và hơn nữa tử thần đã lấy sanh mạng của đệ tử cũng nhiều rồi và rồi đây tử thần
sẽ cướp lấy sanh mạng này đi thì làm sao gặp được chân lý của Phật?
Chư Tăng
nghe nói có lý mới hỏi: "Ngươi là con của ai?"
- Bạch chư Đại đức, đệ tử là em
của ngài Xá Lợi Phất.
Chư Tăng mới sực nhớ đến lời của
Đức Xá Lợi Phất nên cho phép người em của ngài xuất gia, rồi về sau, em ngài Xá
Lợi Phất đắc quả A La Hán.
Nhắc lại tích này để quí vị thấy
rằng, trong lúc đám cưới ngài đã trông thấy sự thay đổi của thân này, dùng trí
tuệ quan sát thấy vô thường, khổ não, và vô ngã, bỏ sự nghiệp giàu sang và vợ
đẹp mà xin xuất gia. Nhờ vậy mà đắc được quả A La Hán.
Trí nhớ và trí tuệ có quả báo
cao thượng vô cùng vô tận như thế, vậy ta nên áp dụng trí tuệ trong mỗi trường
hợp dù trong chuyện rất nhỏ. Có vậy, ta mới tránh khỏi tai nạn và tội lỗi, mà
đó cũng là nguyên nhân làm cho ta đắc đạo quả.
2. Tinh tấn: trong bộ kinh Anguttaranikāya,
Đức Thế Tôn có dạy rằng: "Sự cố gắng tiêu trừ tất cả sự lười biếng gọi là Tapa".
Vì nhờ sự cố gắng ấy mới tiêu trừ sự lười biếng và đắc được minh sát tuệ, Đạo
quả và Niết Bàn. Người đời cũng vì lười biếng mà không tu hành tinh tấn. Ta nên
nhớ việc gì ta làm chưa xong là món nợ chưa trả hết.
Trong bộ kinh ấy Đức Thế Tôn dạy
thêm rằng: "Không bao giờ Như Lai giải đãi, vì Như Lai nghĩ rằng mặc dù
máu, thịt của ta khô đi, chỉ còn da gân và xương, ta cũng chẳng màng, nếu ta
chưa được quả Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác bằng sự tinh tấn".
"Này các thầy Tỳ khưu, Như
Lai đắc được tuệ giác vì sự không dễ duôi. Pháp an vui tuyệt đối là sự giải
thoát khỏi luân hồi. Như Lai đắc bằng sự không dễ duôi. Này các thầy Tỳ khưu,
các thầy nên gắng tinh tấn, đừng thối chuyển, nên cố phát nguyện rằng máu thịt
của ta có khô cũng chẳng màng, bao giờ ta không đến nơi giải thoát hoàn toàn
bằng sự tinh tấn của người nam, thì ta không thối chuyển.
"Này các thầy Tỳ khưu,
trong thời gian không lâu, các thầy sẽ đắc quả an vui tuyệt đối, sẽ đến nơi
cùng tột của Phạm hạnh. Vì lẽ ấy các thầy nên học nằm lòng rằng: chúngta là
người có sự cố tinh tấn không giải đãi, ta phát nguyện rằng dù máu thịt
...v.v...
Chú giải bài kinh Caturangaviriya
giải thích Đức Thế Tôn dạy câu này ngụ ý rằng khi Như Lai chưa đắc quả Vô
thượng Chánh đẳng Chánh giác, Như Lai cố hành theo pháp tinh tấn, không hề thối
chuyển dù thân này có tiều tụy, còn da bọc xương mà không đắc đạo quả cũng
không bỏ sự tinh tấn diệt trừ phiền não. Nhờ vậy mà dưới cội cây bồ đề, Như Lai
thắng Ma vương, diệt tận gốc phiền não.
Vậy, chúng ta không nên thối chí
ngã lòng, nên cố gắng cho đến hơi thở cuối cùng, như thầy Tỳ khưu trẻ trong sự
tích sau đây.
Có một thầy Tỳ khưu trẻ tuổi,
học thiền định ngay với Đức Thế Tôn. Ông vào rừng cố hết sức tham thiền ba
tháng không hề dám giải đãi, nhưng không kết quả chi cả. Ông mới nghĩ đến lời
của Đức Thế Tôn dạy và cho rằng mình là một trong bốn hạng người không thể đắc
quả trong kiếp này, vậy thì ở rừng rất là vô ích, nên ông trở về chiêm ngưỡng
tôn nhan của Đức Từ Phụ và nghe pháp ở chùa Kỳ Viên. Có nhiều vị Tỳ khưu biết
thầy Tỳ khưu trẻ tuổi ấy chán nản sự hành đạo, nên mới vào Phật và bạch chuyện
ấy.
Đức Thế Tôn mới dạy Tỳ khưu trẻ
tuổi ấy rằng: "Thầy Tỳ khưu, thầy là người xuất gia theo giáo lý của Như
Lai, là con đường giải thoát, sao ngươi không làm ra con người để kẻ khác nhận
biết người tri túc, ít tham vọng, người thanh tịnh, người không chung đụng với
thiện tín, là vị Tỳ khưu có nhiều tinh tấn?
"Kiếp trước rất nhiều ngươi
nhờ sự cương quyết tinh tấn của một mình ngươi, mà được uống nước trong khi ở
giữa bãi sa mạc. Tại sao bây giờ ngươi lại thối chuyển bỏ tinh tấn?"
Khi ấy có nhiều vị Tỳ khưu muốn
hiểu rõ chuyện quá khứ, nên cầu xin Đức Thế Tôn thuyết Túc sanh truyện ấy cho
nghe.
Lúc quá khứ, có một đoàn người
đi buôn bằng xe, có 5 trăm cỗ xe đi bán tại xứ Bārānasī, phải đi qua một bãi sa
mạc 60 do tuần (một do tuần là 16 kilômét). Vì vậy nên những người đi qua bãi
sa mạc phải chuẩn bị đủ nước, gạo, cỏ v.v... cho đủ dùng. Họ đi ngang qua sa
mạc chỉ đi ban đêm, nên người dẫn đường hay mỏi mệt. Khi đoàn xe ấy đi được 59
do tuần, người hướng đạo hay dạy phải bỏ bớt đồ cần thiết để nhẹ xe, cho đỡ khổ
bò.
Vì đi đường nhiều đêm, người
hướng đạo mỏi mệt ngủ quên, xe lại đi về chỗ cũ, khi xem sao mới biết là đi
lạc, thì tình thế không còn cứu vãn được nữa, đành ngừng xe nghỉ. Vật tối cần
cho người đi trong sa mạc là nước uống, mà lúc đó đoàn đã hết nước rồi. Người
hướng đạo mới lo đi tìm nước. Đi cả ngày mới thấy có nơi nọ có cỏ mọc được; mới
nghĩ rằng thế nào ở dưới chỗ đó cũng có nước nên cỏ mới mọc được, liền gọi đoàn
người đến đào. Khi đào chỗ ấy sâu đến 60 hắc tay, mà không có nước, ai ai cũng
ngã lòng. Người hướng đạo xem thấy phía dưới có một tảng đá to, y kê tai nghe
có tiếng nước chảy, y mới gọi người phụ của y đến bảo rằng: "Này con, một
khi mà ta bỏ sự trì chí, thì cả đoàn đều chết khát, vậy con lấy khúc sắt này
xuống đập cho bể tảng đá ấy, tức thì có nước". Người phu ấy vâng lời xuống
đập bể tảng đá, tức thì thấy quả có một môi nước to bằng thân cây thốt nốt, nhờ
đó mà cả đoàn khỏi bị chết khát.
Khi nhắc tích này xong, Đức Thế
Tôn thuyết rằng: "Những người không nản chí đào giếng giữa sa mạc, cũng
như các bậc trí thức kiên chí, không lười biếng, không dễ duôi, sẽ được sự tĩnh
lặng".
Đức Thế Tôn thuyết thêm pháp Tứ
Đế. Vị Tỳ khưu ấy quán niệm về minh sát tuệ, đắc quả A La Hán. Đức Phật mới dạy
rằng người hướng đạo ấy là Như Lai, còn người đập tảng đá ấy chính là thầy Tỳ
khưu trẻ tuổi ấy.
Tapa là sự
tinh tấn đem lại hạnh phúc như đã trình bày trên.
3. Thu thúc lục căn (Indryasamvara):
Chú giải bộ kinh Mangalasutta có giải rằng thu thúc lục căn gọi là Tapa,
vì Tapa là pháp thiêu hủy các ác pháp như tham lam, sân hận, si mê. Hơn
nữa Tapa có nghĩa tổng quát là ngăn ngừa, tiêu trừ các pháp ác.
Sự để trí nhớ không cho tâm
phóng túng theo cảnh trần gọi là thu thúc, vì thu thúc có nghĩa là chặn đứng
(không cho lục căn tiếp xúc với tục trần).
Biết chặn đứng không cho lục căn
tiếp xúc với lục trần gọi là thiêu hủy các pháp ác. Đức Thế Tôn biết khi lục
căn không thu thúc bị trần cảnh xâm chiếm, thì phiền não phát sanh, thì đạo
hạnh phải bị hư hoại, như sự tích vị đạo sĩ sau đây:
Thời quá khứ có một vị đạo sĩ
tên Lomassa-kassapa là tiền thân của Đức Phật. Ngài hành đạo tại rừng Tuyết
Lãnh. Vì sự hành Tapa của ngài rất là tinh tấn, nên sức nóng xông lên đến Đức
Đế Thích. Đức Đế Thích lấy làm lạ không biết vì nguyên nhân nào, ngài xem lại
mới biết rằng có vị đạo sĩ hành Tapa. Ngài mới nghĩ phương pháp để chặn đứng sự
hành Tapa của vị đạo sĩ ấy.
Đêm khuya lại, ngài mới hiện đến
long sàn của đức vua, phát hào quang sáng rực và gọi đức vua bảo rằng:
"Đại vương hãy tỉnh dậy, trẫm đây là Đế Thích, đến mách cho đại vương biết
rằng nếu đại vương muốn là chúa tể cả cõi Diêm Phù này thì hãy giao công chúa
cho vị quốc sư Seyyaha, bảo đem đến rừng Tuyết Lãnh cám dỗ cho được ông đạo sĩ
tên Lomassakassapa. Rồi đại vương nhờ đạo sĩ ấy giết thú tế thần lửa, nhờ quả
ấy đại vương sẽ không già, đau và chết, cũng như Thiên Vương Đế Thích, và làm
chúa cõi Diêm Phù Đề".
(Chúng ta thấy hành vi của Đức
Đế Thích dường như thật ác, nhưng kỳ thật, ngài biết rằng đã là Bồ tát bởi sự
hành đạo, vì sự hành đạo của ngài làm nóng nảy đến Đế Thích, bởi Đế Thích kém
đức hạnh hơn).
Sáng ngày, lâm triều đức vua
thực hành theo lời của Đế Thích. Vị quốc sư đem công chứa Candadevī đến trêu
ghẹo đạo sĩ. Vì không thu thúc, nên vị đạo sĩ bị sắc đẹp của công chúa làm lung
lạc, bằng lòng theo quốc sư về thành làm lễ tế thần lửa. Người trong xứ tựu đến
xem rất đông. Dân chúng thấy vị đạo sĩ mình còn mặc đồ đạo sĩ mà đi sát sanh,
nên những người ấy mới la lên rằng: "Ông đạo sĩ, ông làm chuyện không hợp
lẽ đạo". Rồi họ mới nói câu kệ:
Balam cando balamsuriyo
Balam samana brahmanā
Balam velāsamuddassa
Balāti balāti balamitthiyo.
Nghĩa là mặt trăng có sức mạnh
(làm cho sáng bầu trời ban đêm), mặt trời có sức mạnh. Sa môn và Bà la môn cũng
có sức mạnh (là nhẫn nại). Nhưng chỉ có hàng phụ nữ có sức mạnh hơn tất cả các
sức mạnh khác.
Vì công chúa Candadevī cám dỗ
được vị đạo sĩ Lomassakassapa là người đắc được pháp Tapa, phải về làm lễ tế
thần lửa.
Ý câu này nói rằng những sức
mạnh nào trên thế gian này, cũng không bằng sức mạnh của phụ nữ các bậc xuất
gia hành Tapa đến đỗi làm cho Thiên Vương Đế Thích nóng nảy, mà vẫn còn bị cám
dỗ vì sắc đẹp. Vì vậy các bậc trí thức nên biết rằng chỉ có sắc đẹp của phụ nữ
là mạnh nhất.
Trong lúc người ta la như thế,
vị đạo sĩ ấy đưa cây đao lên toan chặt đầu tượng để tế thần. Trước cái chết ấy,
tượng kinh sợ rống lên, kế đó những loại thú khác cũng rống la vang rền. Vị đạo
sĩ nghe tiếng la rống của thú và tiếng than khóc của người, làm cho ông có
thoạt nghĩ: "Chúng sanh đều kinh sợ chết, mà tự ta giết hằng bao nhiêu
người để đổi lấy hạnh phúc của dục tình, mình ta thật là đáng thẹn với các bậc
trí thức".
Ông lại tự dạy lấy mình rằng:
"Việc làm của ngươi thật là đê tiện". Ông liền bỏ dao xuống, rồi ông
niệm lại đề mục của ông, như khi còn ở rừng, ông đắc tứ thiền lại như trước.
Ông liền bay lên hư không, dạy nhà vua hãy bỏ sự cúng dường không hợp theo lẽ
đạo và nên phóng sanh. Nhà vua trông thấy sự phi thường như thế, liền vâng lời
hành theo lời răn dạy của vị đạo sĩ.
Tích này chỉ cho ta thấy rằng
nếu vị đạo sĩ ấy thu thúc lục căn, không nhìn sắc đẹp của công chứa, thì không
phải chịu chỉ trích của dân chúng và sự hối hận.
Vì vậy, trong bộ Chú giải Sabbavasutta
có dạy người tu hành phải biết thu thúc lục căn và có trí nhớ quan sát tâm
trong mọi trường hợp. Một khi thiếu trí nhớ, không thu thúc lục căn thì thật là
khó sửa trị.
Điều này có thể ví như nhà vua
muốn cho dân chúng được an cư lạc nghiệp, thì một mặt tra xét kẻ bất lương cho
nghiêm ngặt, còn một mặt thì phải tuần phòng và phải đóng cửa thành, không cho
kẻ bất lương xâm nhập.
Tapa có
nhiều pháp khác nhau. Theo đây tôi xin kể những pháp có tên là Tapa:
1. Nhẫn nại.
2. Trì giới (ngũ giới, bát quan
trai, tứ thanh tịnh giới ...).
3. Học thông kinh luật của Đức
Thế Tôn dạy.
4. Hành hạnh đầu đà.
5. Hành thiền định.
6. Hành minh sát tuệ.
7. Thu thúc lục căn,
8. Hành hạnh tinh tấn,
Hành Tapa được hạnh phúc
là:
1. Là đại phước.
2. Là người không dễ duôi.
3. Là người vâng giữ hành theo
Phật ngôn.
4. Là người thông hiểu theo
phương pháp hành đạo.
5. Diệt bỏ được những điều xấu
xa.
6. Không chung đụng với ác pháp.
7. Tự mình đi đến cõi trời.
8. Người có chánh tư duy.
9. Thường được hưởng quả an vui.
10. Là người sẽ đắc đạo quả Niết
Bàn.
HẠNH PHÚC XXXII
Brahmacariya
Hành Phạm hạnh
Phạm hạnh có nghĩa là hành theo
pháp cao thượng, nghĩa là hành theo các pháp mà các bậc trí thức ngợi khen, như
Giới-Định-Tuệ.
Hành Phạm hanh nghĩa là hành
theo pháp Tứ vô lượng tâm là từ, bi, hỉ, xả.
Người hành theo Phạm hạnh là
người muốn sanh về cõi Phạm thiên, là ít nhất phải đắc sơ thiền.
Hành theo Phạm hạnh là sửa chữa
mình trở nên người trong sạch, thân, khẩu, ý xa lìa các tội ác, mặc dù tội ấy
rất nhỏ.
Hành theo Phạm hạnh là vâng giữ
theo lời Phật dạy không dám dễ duôi.
Quý vị xem đến đây là Hạnh phúc
thứ XXXII, chắc quí vị nhận định mỗi hạnh phúc là một pháp, mà người muốn được
hạnh phúc phải vâng giữ hành theo thì sẽ được hạnh phúc, chớ không có thần
thánh nào ban bố cho hạnh phúc cả. Và chắc quí vị cũng thấy rằng Phật giáo
không phải là thần thánh hóa, là con đường muốn hạnh phúc phải noi theo đường
ấy. Vậy, 38 pháp Hạnh phúc là con đường đưa người đi tới nơi giải thoát, hạnh
phúc đi tuần tự. Cho nên, muốn giải thoát phải vâng giữ hành theo từng hạnh
phúc một.
Chú giải kinh Hạnh phúc có dạy
các bậc trí thức là hành chánh kiến, hành theo hạnh cao thượng. Sự hành động
cao thượng ấy gọi là Brahmacariya, nghĩa là Phạm hạnh, vì những hành
động ấy không có lẫn lộn với ác pháp, nhưng trái lại, làm cho lòng từ bi tăng
trưởng.
Trong bộ Chú giải kinh Hạnh
phúc, Đại đức Sirimangala có dạy Phạm hạnh có mười điều là:
1. Dāna: bố thí.
2. Veyyavacca: sự cố gắng
giúp đỡ trong các việc phước thiện của người khác.
3. Pancasīla: thọ trì ngũ
giới.
4. Appamannā: niệm tứ vô
lượng tâm.
5. Methunavirati: xa lánh
sự dâm dục.
6. Sadārasantusa: sự tri
túc đối vợ nhà (không ngoại tình).
7. Viriya: sự tinh tấn.
8. Uposatha: thọ bát quan
trai giới.
9. Ariyamagga: thánh đạo.
10. Sāsanā: lời giáo huấn
của Đức Thế Tôn.
Tôi xin giải rộng ra:
1. Bố thí là Phạm hạnh: Trong
Túc sanh truyện có nói tiền thân của Đức Thích Ca sanh lại là một vị trí thức,
tên Vidhura là người có đức hạnh. Ngài được mời đến cõi Long Vương tên Varuna.
Trông thấy sự cao sang của Long vương, ngài mới hỏi: "Tâu Đại vương, ngài
có nhiều oai lực, sức mạnh, hào quang chiếu rất sáng, vậy là nhờ quả của nghiệp
chi?"
- "Trong hai người, trẫm và
hoàng hậu, khi sanh làm người, là người có đức tin, làm chủ sự bố thí, nhà của
trẫm ví như giếng nước, nghĩa là nơi hội họp của Bà la môn và Sa môn, trẫm lo
phụng sự đầy đủ.
Khi ở trong cõi người, trẫm hết
lòng thành kính bố thí những tràng hoa, vật thơm, vật thoa, đến chỗ ngủ, nhất
là nệm chiếu, chỗ cư ngụ (nhà), y phục, cơm nước, thuốc. Sự bố thí là Phạm hạnh
của trẫm. Tất cả những gì trẫm được trong cõi này đều nhờ của quả của Phạm hạnh
của trẫm đã tạo ra. Này thiện trí thức, đây là đền đài của trẫm".
Theo câu của vị Long Vương nói
trên đây, bố thí là một Phạm hạnh. Bố thí là nguyên nhân phát khởi làm cho ta
có tác ý lành, có thể đem của cải ra cho người khác.
Người muốn cho bố thí phước báo
được hoàn toàn trong sạch phải có đủ nguyên nhân. Trong Tam Tạng, bộ Anguttaranikāya,
Đức Thế tôn dạy Ngài ngụ tại Kỳ Viên tịnh xá của trưởng giả Cấp Cô Độc, gần
thành Thất La Phiệt, có một bà tín nữ bố thí đúng theo 6 pháp đến chư Tăng,
trong ấy có Đại đức Xá Lợi Phất và Mục kiền Liên. Đức Thế Tôn trong thấy bằng
tuệ nhãn, nên ngài gọi các thầy Tỳ khưu đến dạy rằng: "Này các thầy Tỳ
khưu, cô tín nữ tên Velukandakinadamatā đang bố thí hợp 6 chi đến chư
Tăng, có Xá Lợi Phất và Mục Kiền Liên là tọa chủ. Vậy 6 chi ấy la gì? Là người
thí chủ phải có 3 chi, và người thọ thí phải có 3 chi.
Ba chi của thí chủ là:
- Thí chủ phải có tâm trong sạch
trước khi bố thí.
- Lúc đang bố thí tâm cũng phải
trong sạch.
- Khi cho xong cũng làm cho tâm
trong sạch.
Ba chi của người thọ lãnh là:
- Người thọ lãnh hết tham ái
hoặc đang hành để diệt trừ lòng tham ái.
- Hết sân hận hoặc đang hành để
diệt trừ sân hận.
- Hết si mê hoặc đang hành để
diệt trừ si mê.
Người bố thí được quả báo là:
- Dānam Saggasopānam: bố
thí la cái thang đi đến cõi trời.
- Dānamā Pāyassa channam:
bố thí cho được bốn đường ác, nghĩa là nhờ bố thí mà khỏi sanh vào ác đạo.
- Dānam sahāyasambhūtam:
bố thí là người bạn đường ngày vị lai.
- Pātheyya muttānam: bố
thí là tư lương (vật thực riêng) Niết Bàn, rất cần yếu của người đi đường xa
(là luân hồi).
- Mokkhappathavanam: bố
thí là con đường đi đến Niết Bàn.
2. Sự gắng giúp đỡ trong việc
làm phước thiện của người khác: Bộ chú giải Hạnh phúc kinh có dạy tiếng Veyyavaca
ở đây nghĩa là gắng tìm kiếm giúp đỡ người trưởng thượng hay người có ơn hoặc
các bậc xuất gia như Sa môn, Tỳ khưu, Bà la môn, những gì mà các ngài cần ta
giúp.
3. Thọ trì ngũ giới: Ngũ giới là
Phạm hạnh thứ ba. Ngũ giới là 5 điều luật chẳng phải khi Phật thành đạo mới có
5 điều luật ấy; thật ra, 5 điều này đã có từ trước. Nếu trong thế gian này,
người không thọ trì ngũ giới thì thế giới không tồn tại được vì nạn giết hại
nhau.
Ngũ giới là một trong Phạm hạnh.
Nhờ có ngũ giới nên chúng sanh cũng được an vui, trong bộ Anguttaranikāya
Đức Thế Tôn có dạy:
Yo param nātipateti
Musavadam na bhasati
Kayassa bheda sappanno
Sugatimiti vuccati.
Nghĩa là người trong đời này, kẻ
nào không sát sanh, không nói dối, không trộm của người, không tà dâm, không
uống chất say, kẻ ấy gọi là người dứt được năm nghiệp chướng. Thiện trí thức
gọi là người có giới đức, người có trí, sau khi quá vãng được sanh về cõi trời.
Theo câu Phật ngôn thì ngũ giới
là nhân đưa ta đến cõi trời, được an vui, không mất tiền mua.
Trong bài kinh Mahaparinibbāna,
bộ Digha-nikāya, Đức Thế Tôn có dạy rằng: Này các thầy Tỳ khưu, người có
giới hạnh trong sạch được 5 điều quả báo là:
- Người có giới đức đầy đủ trong
sạch sẽ được nhiều tài sản quí báu, nguyên nhân bởi không dễ duôi. Đây là quả
thứ nhất.
- Người có giới đức đầy đủ trong
sạch sẽ được tiếng tốt đồn đi khắp nơi. Đây là quả thứ hai.
- Người có giới đức đầy đủ trong
sạch, khi hội họp với dòng vào nhà vua, chúa, Bà la môn v.v... cũng không kinh
sợ gầm mặt xuống (nghĩa là không hổ thẹn vì có lỗi). Đây là quả thứ ba.
- Người có giới đức đầy đủ trong
sạch là người không si mê khi quá vãng. Đây là quả thứ tư.
- Người có giới đức đầy đủ trong
sạch, sau khi bỏ thân này, sẽ được sanh về cõi trời. Đây là quả thứ năm.
Ngũ giới đã giải trên gọi là
Phạm hạnh.
4. Tứ vô lượng tâm: Trong bài
kinh Mahā-govinda bộ Dighanikāya, Đức Thế Tôn có dạy rằng:
Có lúc nọ Đức Thế Tôn ngụ tại
núi Gijjha-kūta, gần thành Vương Xá. Khi ấy có vị Càn thát bà tên Pāñcasikha từ
cõi trời đến hầu Đức Thế Tôn giữa đêm thanh vắng. Ông Pāñcasikha mới hỏi Đức
Thế Tôn về lời ông đã nghe vị Phạm thiên tên Samankumāra dạy chư thiên rằng:
"Có thầy Bà la môn tên
Mahāgovinda là một trong 7 vị đại thần của vua Renura xuất gia, sau ấy có nhiều
người xuất gia theo làm đệ tử ông, phần đông đều thuộc dòng hoàng tộc. Thầy Bà
la môn Mahāgovinda tham thiền tứ vô lượng tâm, đắc được phi phi tưởng thiền,
ngài thường giảng giải lý cho hành đệ tử rằng vị nào vâng giữ được thực hành
theo, đều được sanh về ít nhất là cõi trời. Sự xuất gia của người ấy được kết
quả tốt lành tùy theo Phạm hạnh của mình. Bạch Đức Thế Tôn ngài còn nhớ chuyện
ấy chăng?"
- "Này Pāñcasikha, Như Lai
biết rõ chuyện ấy lắm. Vì Mahāgovinda ấy là Như Lai đây. Như Lai có thuyết pháp
chỉ cõi trời Phạm thiên cho đệ tử.
Nhưng Pāñcasikha này, những Phạm
hạnh này không phải pháp hành thoát khỏi luân hồi, không phải hành để hiểu rõ
luân hồi, không phải hành để thức tỉnh khỏi luân hồi, không phải hành hầu đến
Niết Bàn. Hành như thế chỉ đến cõi Phạm thiên là cùng.
Này Pāñcasikha, nhưng Phạm hạnh
nào là Bát Chánh Đạo, mới là pháp hành đắc được quả Niết Bàn".
Trong cuộc đối thoại trên đây,
Đức Thế Tôn dạy tứ vô lượng tâm là Phạm hạnh. Tứ vô lượng tâm theo Phật dạy,
mỗi một chi có 11 điều quả báo. Nhưng mỗi chi có kết quả khác nhau.
- Sự dứt bỏ oán thù là quả của
từ tâm.
- Sự dứt bỏ điều làm hại người
là quả của tâm bi.
- Sự dứt bỏ điều bực tức hoặc
không vừa lòng là quả của tâm hỉ.
- Sự tiêu diệt của tham ái là
quả của tâm xả.
Hơn nữa, tâm từ là phương pháp
làm cho con người không oán thù; tâm bi là phương pháp làm cho người không có
sự làm hại kẻ khác; tâm hỷ là phương pháp làm cho người không có nhiều bực tức,
không vừa lòng; tâm xả là phương pháp làm cho người dứt được lòng tham ái.
Người muốn rải lòng từ, bi, hỉ,
xả phải có những phương pháp là:
- Anodhiso pharanā: rải
không phân biệt nam nữ.
- Odhiso pharanā: rải còn
phân biệt nam nữ.
- Disāpharanā: rải cùng
phương hướng.
Phương pháp rải không phân biệt
nam nữ có năm pháp:
a) Sabba sattā averā
abyapajjhā anīghā sukhī attānam paribārantu: nghĩa là: tất cả chúng
sanh đừng cột oan trái nhau, đừng oán thù nhau, đừng có khổ, hãy giữ mình cho
được an vui.
b) Sabbe pānā averā: tất
cả loài có thức tánh đừng cột oan trái nhau, đừng oán thù nhau, đừng có khổ,
hãy giữ mình cho được an vui.
c) Sabbe bhūtā averā: tất
cả hàng Bhūta (hạng đã sanh) đừng cột oan trái nhau, đừng oán thù nhau,
đừng có khổ, hãy giữ mình cho được an vui.
d) Sabbe puggalā averā:
tất cả Puggalā (người) đừng cột oan trái nhau, đừng oán thù nhau, đừng
có khổ, hãy giữ mình cho được an vui.
e) Sabbe
attabhāvapariyapannā: tất cả Atta-bhāva (tất cả những người còn
sống) đừng cột oan trái nhau, đừng oán thù nhau, đừng có khổ, hãy giữ mình cho
được an vui.
Dưới đây tôi xin chú giải những
pháp nói trên.
Satta: (chúng
sanh) nghĩa là người còn dính, ý nói người còn ham mê tình dục, là người còn
phiền não, còn dính trong luân hồi.
Pāna: nghĩa
là hạng còn sống bằng hơi thở ra vào.
Bhūta: nghĩa
là người sanh trong cảnh giới.
Puggalā: nghĩa
là người ta.
Attabhāva: nghĩa
là thuộc hạng có thức tánh, hay biết rằng có thân này.
Năm hạng trên chỉ khác nhau
trong danh từ, nhưng chung qui đều là chúng sanh,
Phương pháp rải còn phân biệt
nam nữ có 7 pháp:
a) Sabbe atthiyo averā
abyapajjhā ānighā sukhi attānam parihārantu: tất cả hàng phụ nữ đừng cột
oan trái nhau, đừng oán thù nhau, đừng có khổ, đừng làm hại nhau, hãy giữ mình
cho được an vui.
b) Sabbe pursā averā: tất
cả người nam đừng cột oan trái nhau...
c) Sabbe purisā averā:
Tất cả các bậc Thánh nhân đừng cột oan trái với nhau... (Sự thật thì các bậc
Thánh nhân không bao giờ cột oan trái với nhau, nhưng đây bài kinh kể cho đủ
các hạng và để tương đối với các câu sau thôi).
d) Sabbe anariya averā:
tất cả hạng không phải Thánh nhân (tức là phàm nhân) đừng cột oan trái nhau...
e) Sabbe devā averā: Tất
cả chư thiên đừng cột oan trái nhau...
f) Sabbe manussā averā: Tất
cả nhân loại đừng cột oan trái nhau...
g) Sabbe vinipārtikā averā: Tất
cả hạng sinh vào ác đạo đừng cột oan trái nhau...
Phương pháp rải đi khắp các
hướng có 10 pháp:
a) Sabbe puratthimāya disāda
averā, abyapaj-jhā, anīghā skhī attānam parihārantu: Tất cả chúng sanh ở
hướng Đông xin đừng cột oan trái nhau, đừng oán thù nhau, đừng có khổ, hãy giữ
mình cho được an vui.
b) Sabbe pacchimāda disāya
sattā averā: Tất cả chúng sanh ở hướng Tây...
c) Sabbe uttaraya disāya
sattā avera: Tất cả chúng sanh ở hướng Bắc...
d) Sabbe dakkināya disāya:
Tất cả chúng sanh ở hướng Nam...
e) Sabba puratthimāya
anudisāya sattā averā: Tất cả chúng sanh ở hướng Đông Nam...
f) Sabbe dakkhināya anudisāya
sattā: Tất cả chúng sanh ở hướng Đông Bắc...
g) Sabbe pachimāya anudisāya
sattā averā: Tất cả chúng sanh ở hướng Tây Nam...
h) Sabbe Uttarāya anudīsāya
sattā averā... Tất cả chúng sanh ở hướng Tây Bắc...
i) Sabbe hetthimāya disāya
sattā averā: Tất cả chúng sanh ở hướng dưới...
j) Sabbe uparimāya disāya
sattā averā: Tất cả chúng sanh ở hướng trên...
Cách rải lòng bi, hỉ, xả cũng
như rải lòng từ vậy.
Tứ vô lượng tâm nếu muốn giải
tóm tắt thì như vầy:
- Tâm từ: Sabbe sattā averā
hontu - tất cả chúng sanh không nên cột oan trái nhau.
- Tâm bi: Sabbe sattā dukkhā
pamuñcantu - tất cả chúng sanh khỏi khổ.
- Tâm hỉ: Sabbe sattā
laddhasampattito māvi-gacchantu - tất cả chúng sanh đừng bị hư hoại tài sản
là sự an vui thạnh lợi của mình.
- Tâm xả: Sabbe sattā
kamassaka kamma-dāyadā - tất cả chúng sanh có nghiệp của mình, nghiệp là
sản nghiệp của mình (phải thâu nhận không thể từ chối được).
Theo những lời giảng của những
bậc trí thức, thì người muốn rải lòng từ phải nghĩ đến nổi khổ của chúng sanh
làm đề mục. Đề mục của tâm bi là khi thấy chúng sanh đau khổ mà thương hại. Đề
mục của tâm hỉ là nghĩ đến của cải mà người ta đã được để vui theo, chớ không
ganh tỵ. Đề mục của xả là khi thấy chúng sanh được vui hay bị khổ đều nghĩ rằng
đây là do nơi quả của nghiệp mà họ tạo ra từ kiếp trước nên không bi quan hay
vui mừng.
5. Sự xa tránh điều dâm dục: Tại
sao lại xa tránh dâm dục? Vì pháp này là pháp của người còn ham mê trong vòng
luân hồi, của người thế tục, không phải của các bậc xuất gia. Người giết hại
nhau một phần cũng vì còn lẫn với sự bất hảo ấy. Nên người xa lánh dâm dục là
người hành phạm hạnh.
6. Sự biết tri túc với vợ nhà:
Nghĩa là người đã có vợ chỉ biết thương yêu vợ nhà mà thôi, không tư tình với
kẻ khác; phụ nữ cũng biết yêu thương chồng thôi không ngoại tình. Rất nhiều gia
đình vì thiếu pháp này nên hằng bị xáo trộn nếu không nói là tan vỡ. Vậy nên sự
biết tri túc trong tình dục là phạm hạnh đem an lành đến cho gia đình.
7. Sự tinh tấn: Nghĩa là không
bỏ qua việc lành. Đây xin nhắc lại Phật ngôn để làm tài liệu.
- Idha bhikkhave
bhikkhunākammam kattab-bamhoti: Này các thầy Tỳ khưu, vị Tỳ khưu trong Phật
giáo, khi nào có phận sự cần phải làm không thể bỏ qua được, thầy Tỳ khưu ấy
nghĩa rằng: Thế nào ta cũng làm chuyện này, khi ta làm xong rồi chưa chắc ta có
gì hành đạo được; vậy ta phải cố gắng hành tinh tấn trước, hầu được đặc ân mà
ta chưa được. Thầy Tỳ khưu ấy liền cố tinh tấn. Đây là nguyên nhân sanh ra sự
siêng năng.
- Puna caparam bhikkhave:
Này các thầy Tỳ khưu, một lẽ nữa, khi thầy Tỳ khưu làm xong việc, mới nghĩ
rằng: Ta đã làm việc ấy xong, trong khi ta làm, ta không cố gắng hành đạo; vậy
(bây giờ) ta phải cố gắng hành, để đặc ân mà ta chưa được. Đây là nguyên nhân
sanh ra sự siêng năng.
- Puna caparam bhikkhave:
Này các thầy Tỳ khưu, thầy Tỳ khưu có việc đi xa, thầy Tỳ khưu nghĩ rằng: Thế
nào ta cũng phải đi xa (trong khi) đi, ta không thể hành đạo được đầy đủ; vậy
trước hết ta phải cố gắng hành (tròn phận sự) hầu đuợc đặc ân mà ta chưa được.
Thầy ấy cố tinh tấn. Đây là nguyên nhân thứ ba của sự phát sanh sự siêng năng.
- Puna capara bhikkave:
Này các thầy Tỳ khưu, khi thầy Tỳ khưu nghĩ rằng: Ta đã đi đường xong rồi,
trong khi đi, ta không thể chủ ý hành phận sự được; vậy ta nên chủ ý cố tinh
tấn hành đạo, hầu được đặc ân mà ta chưa được. Thầy Tỳ khưu ấy cố hành. Đây là
nguyên nhân thứ tư của sự phát sanh siêng năng.
- Puna caparam bhikkhave:
Này các thầy Tỳ khưu, thầy Tỳ khưu vào xóm khất thực, không được vật thực nào
mặc dù rất rẻ tiền, hoặc không đủ no, vị ấy nghĩ rằng: Ta khất thực vật thực
không đủ no, thân ta được nhẹ nhàng vừa hành thiền định được; vậy ta cố gắng
tinh tấn hành, hầu được đặc ân mà ta chưa được. Thầy Tỳ khưu ấy cố gắng hành.
Đây là nguyên nhân thứ năm làm cho phát sanh sự siêng năng tinh tấn.
- Puna caparam bhikkhave:
Này các thầy Tỳ khưu, hơn nữa có thầy Tỳ khưu vào xóm khất thực, khi được vật
thực vừa đủ no, vị ấy mới nghĩ rằng: Ta khất thực vật thực vừa đủ no, thân ta
được an vui, vừa với sự hành thiền định; vậy ta nên cố gắng hành, hầu được đặc
ân mà ta chưa có. Thầy Tỳ khưu ấy cố gắng hành. Đây là nguyên nhân phát sanh sự
siêng năng thứ sáu.
- Puna caparam bhikkhave:
Này các thầy Tỳ khưu, thầy Tỳ khưu có chút bệnh nghĩ rằng: Ta là người có bệnh
, thế nào bệnh này cũng tăng thêm; vậy ta nên gắng tinh tấn hành đạo, hầu đắc
được đặc ân mà ta chưa đắc. Thầy Tỳ khưu ấy cố hành theo. Đây là nguyên nhân
thứ bảy của sự tinh tấn, siêng năng.
- Puna caparam bhikkhave:
Này các thầy Tỳ khưu, khi thầy Tỳ khưu vừa mới lành bệnh mới nghĩ rằng: Ta đã
mạnh rồi, nhưng chừng bệnh ấy cũng có thể trở lại được; vậy ta phải cố gắng
trước, hầu được đặc ân mà ta chưa được. Thầy Tỳ khưu ấy cố hành. Đây là nguyên
nhân sanh ra sự siêng năng thứ tám.
Người cố tâm hành theo thiện
pháp, khi biết nhân phát sanh sự lười biếng và siêng năng thì hãy cố dứt sự
lười biếng, không nên để thối chuyển. Đây là Phạm hạnh thứ 7.
8. Bát quan trai giới: Là 8 điều
răn cấm của Đức Thế Tôn, đã có giải ở đoạn trước.
Trong bộ Mahānipā ta có
tích của đức vua Nimarāja rằng:
Đức vua Nimarāja trị vì tại xứ
Mithalā thành Vedeha, là một nhà vua rất nhân từ, trong những ngày bát quan
trai giới ngài thường đi bố thí. Ngày nọ nhằm ngày bát quan trai giới, ngài thọ
giới xong, đêm lại ngài tự hỏi rằng: "Bố thí và thọ bát quan trai giới,
điều nào cao quí hơn?". Ngài không giải quyết được. Đức Đế Thích biết nên
mới hiện xuống. Đức vua Nimarāja biết là Thiên Vương Đế Thích nên mới hỏi về sự
nghi ngờ của mình.
Thiên vương đáp bằng câu kệ:
Hinena barahmacariyena
Khattiyam upapajjati
Yekāyeupamajjhant
Anāgārā tapassino
Nghĩa là người nào được sanh vào
dòng vua là do Phạm hạnh bậc thấp, sanh làm chư thiên là do Phạm hạnh bậc
trung, sanh vào cõi Phạm thiên là nhờ Phạm hạnh trong sạch. Người xuất gia nếu
có Tapa, thì sẽ được sanh vào cõi Phạm thiên. Thí chủ không thể sanh vào cõi
Phạm thiên được.
Chú giải dạy rằng Phạm hạnh bậc
thấp là do nhờ sự trì giới của ngoại đạo, chỉ cố xa sự dâm dục mà thôi. Vì
những hạng này, không hiểu phương pháp nào hơn Phạm hạnh bậc trung là thọ trì
bát quan trai giới có tham thiền được cận định, sau khi chết được sanh vào cõi
trời.
Đây là nói sự bố thí phước báu
không cao thượng bằng thọ trì bát quan trai giới; quí vị muốn biết rõ hơn xin
xem thời pháp về bát quan trai giới.
9. Thánh đạo: Nghĩa là con đường
của các bậc thánh nhân, con đường này đi đến nơi vô sanh bất diệt là Niết Bàn.
Trong bài kinh Brahmacariya
bộ Samyutta-nikāya, Đức Thế Tôn có dạy về Thánh đạo như vầy:
Một thuở nọ Đức Thế Tôn ngự tại
Kỳ Viên tịnh xá. Khi ấy có một Tỳ khưu vào hầu Đức Thế Tôn và bạch rằng:
"Bạch Đức Thế Tôn, Đức Thế Tôn thuyết Phạm hạnh là chi? Một lẽ nữa, đâu là
nơi cùng tột của Phạm hạnh?"
- "Này thầy Tỳ khưu, con
đường có đủ tám chi là con đường cao thượng, gọi là Phạm hạnh; con đường có đầy
đủ tám chi ấy là chánh kiến, chánh tư duy, chánh ngữ, chánh nghiệp, chánh mạng,
chánh tinh tấn, chánh niệm, chánh định. Nơi hết tham ái, sân hận, si mê là nơi
cùng tột của Phạm hạnh".
Theo bài kinh này, Đức Thế Tôn
dạy Thánh đạo là Phạm hạnh. Sau đây tôi xin nhắc lại một ít Phật ngôn dạy về
Thánh đạo:
"Này các thầy Tỳ khưu, thấy
rõ điều khổ, thấy rõ ái dục là nguyên nhân sanh khổ, thấy rõ Niết Bàn là nơi
diệt khổ, biết con đường đi đến Niết Bàn là nơi không có khổ. Các thầy Tỳ khưu
này, Như Lai gọi các thầy ấy là có chánh kiến.
Này các thầy Tỳ khưu, suy xét về
việc xuất gia, suy nghĩ trong sự không oán thù, suy nghĩ trong sự không làm hại
nhân vật nào khác. Như Lai gọi là chánh tư duy.
Này các thầy Tỳ khưu, xa lánh sự
nói dối, nói biếm, nói đâm thọc, mắng nhiếc, chửi rủa, nói lời vô ích, Như Lai
gọi là chánh ngữ.
Này các thầy Tỳ khưu, xa lánh
sát sanh, trộm cướp, tà dâm, Như Lai gọi là chánh nghiệp.
Này các thầy Tỳ khưu, dứt bỏ tà
mạng, hành theo chánh mạng, Như Lai gọi là chánh mạng.
Này các thầy Tỳ khưu, vị Tỳ khưu
trong Phật giáo, thoả thích trong sự tinh tấn và cố tinh tấn gom tâm lại, làm
cho tâm trụ lại một chỗ, hầu ngăn ngừa các pháp ác chưa phát sanh, không cho
phát sanh. Thầy Tỳ khưu thỏa thích trong sự tinh tấn, làm cho tâm trụ vào một
chỗ hầu dứt hết các pháp ác đã phát sanh rồi. Thầy Tỳ khưu thỏa thích trong sự
tinh tấn cố tinh tấn, gom tâm lại, cố làm cho tâm trụ vào một chỗ, hầu để vun
trồng mầm phước thiện chưa phát sanh cho sanh lên. Thầy Tỳ khưu làm cho sự thỏa
thích phát sanh là tinh tấn, cố tinh tấn làm cho ta tâm trụ vào một chỗ, hầu
làm cho phước thiện càng mạnh mẽ thêm. Này các thầy Tỳ khưu, bốn điều này gọi
là chánh tinh tấn.
Này các thầy Tỳ khưu, vị Tỳ khưu
trong Phật giáo, hằng quan sát thân này là vật trược (niệm thân), cố tinh tấn
tiêu trừ phiền não, là người không dễ duôi, dứt bỏ tham, sân, si, không chấp
rằng ngũ uẩn là của ta, Như Lai gọi là chánh niệm.
Này các thầy Tỳ khưu,vị Tỳ khưu
trong Phật giáo, để tâm vắng lặng (nghĩa là không say mê theo ngũ trần) đắc
được sơ thiền, đến ngũ thiền, người có trí nhớ đầy đủ, Như Lai gọi là chánh
định.
10. Lời giáo huấn: Là lời giảng
dạy của Đức Thế Tôn. Lời giáo huấn của Đức Phật là Tam Tạng Pháp bảo, có tám
muôn bốn ngàn pháp môn. Tam Tạng Pháp bảo có thể nói tóm tắt là:
a) Adhisīlasikkha: giới,
chỉ về sự ngăn ngừa, chế ngự thân và khẩu cho trong sạch.
b) Adhisamadhisikkha:
định, chỉ về tham thiền theo chỉ quán và minh sát.
c) Adhipaññasikkha: tuệ,
chỉ về minh sát tuệ, quan sát thấy ba hướng là vô thường, khổ não và vô ngã.
Hành Phạm hạnh được hạnh phúc
là:
1. Là việc làm đại công đức.
2. Là người không dễ duôi.
3. Là người hành theo Phật dạy.
4. Các bậc trí thức ngợi khen.
5. Tam học là giới, định, tuệ
được phát triển.
6. Làm cho mình được giải thoát.
7. Hoàn toàn an vui.
8. Bồi đắp Ba la mật.
9. Chắc chắn khỏi luân hồi.
10. Diệt được phiền não hoàn
toàn.
HẠNH PHÚC XXXIII
Ariyasaccāna dassanaṃ
Nết Hạnh Thấy Các Diệu Đế
Trước khi đắc quả Vô thượng
Chánh đẳng Chánh giác, Đức Thế Tôn cũng là người như chúng ta, nhưng sở dĩ Ngài
được giải thoát và chúng ta cùng sùng kính ngài, học theo lời giảng dạy của
Ngài, là nhờ Ngài đắc được pháp gọi là Tứ Diệu Đế. Bài pháp Ngài thuyết đầu
tiên tại vườn Lộc Giả ở Barānasī là Tứ Diệu Đế, bởi Ngài nhận thấy rằng
Tứ Diệu Đế là sự thật của các bậc Thánh nhân. Sự thật của Pháp này là xa hẳn kẻ
thù là phiền não, sự thật mà các bậc thánh nhân phải đắc. Tứ Diệu Đế như là ấn
chứng của Phật ngôn. Vì Tứ Diệu Đế làm cho người tu Phật đã hành theo chân
chính đắc được đạo quả và không còn khổ nữa.
Phạn ngữ là Ariyasacca,
ta dịch là Diệu Đế, có bốn chi. Tiếng Ariyasacca, có thể chia ra làm hai
phần: Ariya nghĩa là cao quí, Sacca nghĩa là sự thật, tóm hiệp
lại thì:
- Tứ Diệu Đế là sự thật rất cao
quí.
- Tứ Diệu Đế làm cho người trở
nên cao quí.
1. Tứ Diệu Đế là sự thật rất cao
quí: vì là khuôn vàng thước ngọc, hay là một tiêu biểu có đầy đủ sự thật không
ai sửa đổi được. Dù Đức Phật sau này có thuyết về pháp Tứ Diệu Đế cũng dạy đúng
như Đức Phật hiện tại không sai một nét nào.
Tứ Diệu Đế cao quí ví như kim
cương. Kim cương là vật có màu sắc đẹp, cứng rắn, không có gì làm hoại, sét không
ăn, không bị nhiễm mùi vị của vật gì. Người trong thế gian này ai cũng chuộng
kim cương. Không phải kim cương có giá trị cao quí vì sự quảng cáo của con
người, mà chính mình kim cương có tính chất cao quí.
2. Tứ Diệu Đế làm cho con người
trở nên cao quí: nghĩa là khi hành giả thấy rõ pháp Tứ Diệu Đế bằng tuệ nhãn,
pháp mà vị hành giả ấy đắc, là làm cho hành giả trở nên cao quí. Ví như phòng
khách của chúng ta bày đồ quí giá, sơn màu tươi đẹp lộng lẫy, thì phòng ấy trở
nên đẹp và trông nơi nào cũng vui mắt. Bây giờ cũng phòng ấy mà chúng ta sơn
đèn, đốt đèn leo lét, đồ không giá trị, chuột rút om sòm, thì phòng ấy thật là
đáng ghê và chắc chắn rằng không ai muốn ngồi một phút nào hết. Tâm ví như
phòng ấy. Nếu tâm trang điểm bằng pháp Tứ Diệu Đế thì sáng suốt, đẹp, cao quí,
nhược bằng các pháp như tham lam, sân hận, si mê, tà kiến, oán thù v.v... thì
tâm ấy trở nên tồi tệ, không ai muốn gần và những người đã gần lại tìm thế đi
cho xa.
Sự thật của Tứ Diệu Đế là Khổ,
Tập, Diệt, Đạo. Khi người bắt đầu thấy bằng tuệ nhãn thì phiền não cũng bắt đầu
xa lần, rút lui dần. Khi càng ngày ta càng hiểu thông, thì phiền não cũng rút
đi thật xa. Khi ta trông thấy rõ triệt để, thì không còn phiền não tí nào trong
tâm, người ấy đã trở nên một người khác, mà Phật giáo gọi là bậc Thánh nhân,
nghĩa là người cao quí. Thông hiểu pháp Tứ Diệu Đế làm cho người cao quí trở
nên Thánh nhân là vậy.
Muốn thông hiểu pháp Tứ Diệu Đế,
phải hiểu theo thứ tự gọi là hiểu Ba Luân và Mười Hai Thể, xin quí vị xem bảng
kèm theo.
Trong bảng này, hành giả thấy
rằng Tứ Diệu Đế gồm 4 điều. Mỗi điều phải hiểu rõ đến 3 lần, 4 điều là 12 lần,
vòng đi vòng lại, nên gọi là 12 thể. Ba vòng ấy gọi là Ba Luân.
Điều tổng quát là sự hiểu biết
về Tứ Diệu Đế khác hơn tất cả những sự hiểu biết thông thường, vì đó là hiểu
biết bằng trí tuệ và diệt trừ được phiền não. Đối với Tứ Diệu Đế, hiểu biết và
thực hành phải đi đôi. Nếu hiểu biết mà không thực hành là không đắc đạo được.
Quí vị hãy xem kỹ lại ở cột thứ 3 có đề: "Hiểu lần thứ 3", "Ta
đã hiểu rõ rồi" (số 9). Nếu chưa rõ là chưa hiểu, nên chưa đắc đạo quả,
chưa gọi là Thánh nhân được. Khi ta biết rằng ta đã hiểu rõ rồi, đây mới là sự
thật.
TỨ
DIỆU ĐẾ
|
BA
LUÂN
|
|
HIỂU
LẦN THỨ NHỨT
|
HIỂU
LẦN THỨ NHÌ
|
HIỂU
LẦN THỨ BA
|
KHỔ
|
1. Khổ
có thật
|
5.Khổ
cần phải hiểu
|
9. Ta
đã hiểu khổ rồi
|
TẬP
|
2. Ái
dục sanh khổ có thật
|
6. Ái
dục phải diệt
|
10. Ta
diệt ái dục rồi
|
DIỆT
|
3.
Diệt có thật
|
7.
Phải hành thấu rõ diệt
|
11. Ta
đã làm cho rõ rệt rồi
|
ĐẠO
|
4. Đạo
có thật
|
8.
Phải hành cho rõ Đạo
|
12. Ta
đã hành Đạo đầy đủ rồi
|
Hiểu rõ khổ có thể ví như hiểu
rõ thuốc, như vầy:
1. Biết rằng đây là thuốc chữa
bệnh.
2. Biết rằng thuốc này nên uống.
3. Biết rằng đã uống thuốc rồi.
Trong ba cái biết, biết quan
trọng nhất là biết đã uống thuốc rồi.
Giờ xin quí vị đem sự hiểu Tứ
Diệu Đế của quí vị lại so với bảng trước, xem quí vị hiểu tới trình độ nào? Vị
nào hiểu Luân thứ nhất, chưa gọi là hiểu hoàn toàn, vì mới biết khổ do nơi nghe
pháp; ta cũng có biết luân hồi là khổ, nhưng chỉ biết bằng tâm chứ không bằng
trí tuệ.
DIỆU ĐẾ THỨ I: KHỔ ĐẾ
Diệu đế thứ nhất là Khổ. Khi ta
nghe nói khổ, ta không nhận thấy cái gì là quan trọng tai hại của khổ. Vì ai ai
cũng biết đời là khổ cực đủ điều. Nhưng thật ra, sự hiểu biết về khổ của chúng
sanh và thánh nhân có khác nhau, vì các bậc thánh nhân hiểu khổ, thấy khổ bằng
tuệ; còn ta thấy bằng tâm trong cảnh ngộ, khi qua khỏi cảnh ngộ ta lại quên đi
khổ cũng như khi lâm bệnh, chúng sanh thấy khổ, nhưng khi mạnh thì lại quên
khổ. Trái lại, thánh nhân dù bệnh hay không, cũng thấy có thân này là là khổ,
là ở khổ.
Hơn nữa, chúng sanh chỉ biết
khổ, nhưng không biết nguyên nhân sanh khổ, nên không sợ lắm. Riêng các bậc
thánh nhân thấy rõ khổ, biết khổ và biết rõ nguyên nhân sanh khổ, nguồn gốc của
khổ. Đây, xin ví dụ sự biết bệnh của người bệnh và sự biết của vị bác sĩ. Người
bệnh biết rằng ta bệnh nhưng không biết do đâu có bệnh. Vị bác sĩ biết bệnh và
nguyên nhân sanh bệnh, mà còn biết thuốc để trị bệnh.
Vị bác sĩ tôi tạm ví như Đức
Phật, vì Ngài biết khổ và nguyên nhân sanh khổ. Hơn thế nữa, Ngài lại biết
phương pháp dập tắt khổ. Còn người bệnh là chúng ta đây, chỉ biết khổ nhưng
chịu chết với khổ, chớ không có phương pháp nào chạy khỏi khổ.
Đây tôi xin nhắc lại Phật ngôn
trong bài kinh Chuyển Pháp Luân, Đức Phật thuyết lần đầu tiên tại vườn Lộc Giả.
Trước hết tôi xin nói có hai cái
khổ để quí vị dễ nhận định.
1. Sabbavadukkha: khổ
theo liền với thân. Phật ngôn dạy trong bài Chuyển Pháp Luân rằng: Này các thầy
Tỳ khưu, sanh khổ, già khổ, chết khổ. (khổ này liền với thân vì khi có thân là
có khổ này theo liền).
2. Pakinnadukkha: khổ nếu
sau khi có thân này là: khổ vì sự trái ý nghịch lòng, khổ vì thất vọng, khổ vì
bực tức, khổ vì uất ức, khổ vì thân ái biệt ly, khổ vì oán thù hội ngộ, khổ vì
sự ly biệt người yêu, khổ vì không được như ý (những khổ này đến sau khi có
được thân này).
Khổ, nói chung lại, chỉ có một
là Sankhitena Pancupatthanakkandhadukkha: tóm lại sự chấp lấy thân ngũ
uẩn là khổ.
Chúng ta thấy khổ trên đây chia
ra hai loại: Khổ do thân này và khổ mới đến sau. Còn câu chót Đức Thế Tôn dạy:
Vì ta còn chấp lấy thân này nên có khổ, nghĩa là còn có thân là có khổ.
Lẽ ra tôi phải viết ra mười hai
cái khổ. Tôi không giải những cái khổ ở phần nhì, vì quí vị hiểu và chắc chắn
gặp nó luôn luôn trên đường đời. Trong loại khổ đi chung với thân ngũ uẩn -
sanh, già, chết - chắc quí vị thắc mắc tại sao tôi không kể đau, vì đúng theo
Phạn ngữ không có đề cập đau. Các bản chú giải có thêm vào nên tất cả có 13 thứ
khổ, vì thế trong kinh nào cũng có Đau và Tứ khổ.
1. Sanh khổ: nghĩa là khi sanh
ra có thân này, giờ nào là khổ theo liền bên trong vào ấy.
Sanh khổ có 3 điều:
- Khổ khi còn trong thai bào.
- Khổ khi sanh.
- Khổ vì sự sanh. Ý nói vì có
sanh, nên có những khổ khác theo bên.
Như đã nói trên, khổ có 13 chi.
Tôi xin ví dụ sanh như cái đùm của bánh xe và 11 cái khổ kia là căm xe. Bánh xe
này lăn đi được là do nơi bộ máy điều khiển là ái dục.
Để chứng minh sanh khổ, Đức Phật
có dạy 10 điều sanh khổ:
a) Biến tướng khổ: là sự tuần tự
biến chuyển của bào thai, thay đổi mãi cho tới khi có đủ các bộ phận. Bắt đầu
thọ khổ khi mới tượng lên cho tới lớn, có đủ bộ phận thì bị nhiều điều khổ, do
vật thực của mẹ ăn vào.
b) Kinh sợ khổ: đứa bé chịu
nhiều nỗi kinh sợ như bà mẹ làm việc nặng nhọc xóc xáo, hoặc trợt chân vấp té
v.v...
c) Hoành sanh khổ: cái khổ khi
thai bào xoay trở, lúc xoay đầu xuống hay xoay ngang hông mẹ, đứa bé kinh sợ
không khác nào chim con bị bão lớn.
d) Nạn sanh khổ: trong lúc sanh
nở gặp khó khăn. Đứa bé bị gió nghiệp chướng đẩy cho xoay đầu xuống để sanh,
đứa nhỏ kinh sợ như người bị rớt từ trên cao xuống. Khi sanh ra, hài nhi phải
bị cọ ép ví như tượng to chui ra kẻ đá nhỏ. Thực tế hơn, chỉ có quí bà nào đã
làm mẹ rồi mới hiểu.
e) Hàn thống khổ: khi vừa sanh
ra, da còn non lại bị đem đi tắm, sự đau rát ấy có ai biết ra sao, chỉ có đứa
bé ấy mới biết thôi.
f) Thọ nghiệp khổ: sau khi sanh
ra đến khôn lớn, tiền nghiệp lại đến trả quả. Nếu nghiệp ác thì chịu khổ sở đủ
điều, nào là bị hiếp đáp đói khổ v.v... không sao kể hết.
g) Quả báo khổ: sau khi lớn lên,
lại bị quả báo như bị kẻ khác phao vu, bị người làm hại, mặc dù là vô can, hoặc
bị tai nạn chiến tranh.
h) Duyên sanh khổ: vì có sanh
nên sanh khổ, chúng sanh bị đọa vào ác đạo cũng do sanh ra mà có.
i) Chúng sanh sanh vào cõi súc
sanh bị hành hạ khổ cũng là duyên sanh khổ.
j) Chúng sanh bị đói khát trong
cảnh quỷ đói cũng duyên sanh khổ.
Mười khổ trên đây có thể chia ra
làm hai loại: từ 1 đến 5 thì sanh là khổ; từ 6 đến 10 thì sanh là nhân khổ.
2. Già là gì? Già nghĩa là mọi
vật trong thân hình ta đều thay đổi như: tóc đen hóa trắng, mắt sáng hóa mờ,
tai lại điếc v.v... Tóm lại vật gì trong thân ta khi trước tốt mạnh, nay đổi
lại xấu, yếu, hư gọi là già. Đức Phật gọi đó là Jarā nhưng theo Phạn ngữ
nghĩa là cũ. Ý nói rằng thân ta đây ví như cái xe, mà cái xe của người chủ rất
tham lam, chở nhiều làm việc suốt ngày đêm, nên mau hư, mau cũ. Cái xe cũ thì
quí vị biết nó có trạng thái ra sao? Thân này cũng vậy, có một mình ta mà còn
phải lo ăn uống v.v... mà còn chở thêm của cải vợ con v.v... sự làm và lo quá
sức nên mau già. Khi đã gọi là già, thì không có gì trong cơ thể không biến đổi
thành tồi tệ.
Đức Phật dạy có hai cái già:
- Parijinna: sự già là sự
thay đổi hình dáng, nghĩa là khi ta còn nhỏ, từ từ lớn lên hình dáng thay đổi,
sự tuần tự thay đổi của con người từ bé đến 30 tuổi, người ta không cho tuổi ấy
già, mà gọi là trưởng thành hay lớn.
Vì trong tuổi ấy, càng lớn càng
mạnh, đẹp, các cơ quan trong mình không thấy yếu mà trái lại lại mạnh thêm. Ai
ai cũng ưa thích tuổi này. Vì vậy nên người ta không thấy Tứ Diệu Đế. Theo lời
Phật dạy, cái gì thay đổi thì gọi là già. Nhưng cái già kể trên che án trí tuệ
của con người.
- Paripakka: già làm cho
ta thấy rõ rệt là da nhăn, mắt mờ, tai điếc, răng rụng, tay chân run rẩy, chính
mình không còn làm chủ cơ thể của mình được. Cái gì già mới là khổ thật sự, vì
cái già này làm giảm cả sức lực, đem lại cho ta nhiều bệnh hoạn.
3. Bệnh: là những gì phụ với già
để tàn phá các bộ phận trong người của chúng ta, bệnh ấy làm chúng ta mau già
hơn, cũng như cái xe khi đã bị hư một bộ phận nào dù có sửa chữa lại, cũng vẫn
không còn hoàn hảo bằng mới.
4. Chết: chỉ là sự hư hoại thân
hình nầy. Vậy chết làm cho con người khổ cách nào? Khi ta chưa chết, ta chưa
thấy cái khổ ấy, chỉ có người chết mới thấy rõ. Cái chết là khổ làm tất cả các
cái khổ khác dồn vào, như mến tiếc vợ, con, của cải, cái chết làm mất vui thích
của mình trong đời này, vì chính mình không có làm gì lành.
Thử nhắm mắt lại và nghĩ rằng
khi ta chết ta có đem theo gì? Khi thấy ta bỏ cả vạn vật thì hỏi ta có khổ
không?
Nếu khi ta nhận thấy rằng ta có
đem theo được những việc làm lành như bố thí, trì giới v.v... thì ta thấy lòng
ta bớt lo sợ. Nhưng trái lại, nếu thấy có nhiều tội, thì ta càng kinh sợ hơn.
Vậy xin quí vị tự nghĩ mà sửa chữa thân, khẩu, ý.
Diệu Đế thứ nhất là khổ. Đức
Phật dạy hãy biết khổ cho rõ rệt, như bác sĩ hiểu rõ bệnh của bệnh nhơn.
Khổ mà Đức Phật dạy có thể chia
ra làm hai loại trạng thái: sanh, già, đau, chết là trạng thái của sắc uẩn, còn
các khổ kia như sự uất ức, v.v... là trạng thái của tưởng, hành, thức.
DIỆU ĐẾ THỨ II: TẬP ĐẾ
Đức Thế Tôn đã dạy về khổ cho
chúng sanh thấy để kinh sợ hầu tránh khỏi, chẳng khác nào Đức Thế Tôn dạy rằng
cọp là thú ăn thịt người, rồi Đức Thế Tôn mới đem cọp ấy về nhốt trong những
chuồng bằng sắt rất chắc, gọi chúng sanh đến xem cho biết cọp có những gì đáng
sợ, và nên nhớ hình dáng nó để tránh xa, hay chống lại.
Tập đế đây ví như sự hành động
của cọp. Tứ Diệu Đế là pháp khó nhận thức cho hoàn toàn được. Đức Thế Tôn phải
mất 6 năm khổ hạnh mới giác ngộ, và khi Ngài muốn đem ra thuyết, Ngài còn phải
chọn xem ai là người có đủ trí tuệ nhận thức rõ được pháp ấy.
Vậy nơi đây tôi xin cố hết sức
sưu tầm những gì mà tôi biết để giải theo đây hầu quí vị là người muốn tìm
đường giải thoát.
Tập đế là nguyên nhân sanh khổ,
tức là nhân làm cho chúng ta khổ như đã giải ở trên.
Đây là câu Phật ngôn trong bài
kinh Chuyển Pháp Luân: "Này các thầy Tỳ khưu, đây là nhân sanh khổ thật
sự, ái dục là nhân làm cho chúng sanh vào cảnh giới nữa, rồi lẫn lộn ưa thích
cảnh giới như dục giới, sắc giới và vô sắc giới".
Nhân làm cho sanh khổ gọi là Tập
đế, đó là ái dục. Tác động của ái dục là nhân làm cho con người phải sanh lại
một cõi nào trong ba cõi tùy theo sự thèm muốn của ái dục.
Muốn cho dễ hiểu tôi xin chia ra
bốn điều là:
- Nhân làm cho sanh khổ.
- Phận sự của ái dục.
- Ái dục có ba loại.
- Phận sự của hai Diệu đế.
1. Nhân làm cho sanh khổ: Sự
sanh khổ thì ai cũng biết, nhưng Đức Phật lại dạy về khổ, chẳng qua để làm sáng
thêm cái hiểu biết của con người.
Chỉ có điều là nguyên nhân sanh
khổ là một vấn đề mà không ai hiểu, và là một pháp tuyệt đối, chỉ có Đức Phật
mới nhận thấy thôi. Trong thời kỳ Đức Phật mới hành đạo, người trong cõi Diêm
Phù tin rằng chúng sanh phải bị khổ, vì do nơi một đấng thiêng liêng hành phạt,
và còn tin rằng có loài phi nhân quấy nhiễu làm cho con người khổ. Vì vậy có
những người tu khổ hạnh, để làm cảm động đến các đấng thiêng liêng mà ban phước
cho họ. Họ tin tưởng rằng những khổ mà ta phải chịu là vì thần thánh phạt, là
do nhân bên ngoài, nhưng theo Đức Phật thì ái dục mới là nhân sanh khổ. Vì vậy
nên Phật giáo là một giáo pháp tuyệt đối, khác hơn các tôn giáo khác trong thời
kỳ ấy, mà cho đến nay nữa. Vì lẽ này nên tôi mới dám nói rằng Đức Thế Tôn tìm
thấy và dạy chúng ta một phương pháp tuyệt đối mới mẻ. Thời pháp đầu tiên mà
Ngài thuyết tại vườn Lộc Giả về Tứ Diệu Đế đã làm cho 5 vị Kiều Trần Như nhận
thức rõ rệt rằng Ngài đã đắc quả Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác, vì các vị ấy
chưa từng nghe ai dạy rõ ràng như vậy, và Tứ Diệu Đế vượt khỏi tầm hiểu biết
của họ cũng như người ta thời ấy.
Có điều đáng chú ý là nhân nào
làm cho sanh khổ. Khổ ấy không lựa một ai, giàu cùng khổ, nghèo cùng khổ, kẻ có
quyền cao chức lớn cũng khổ. Người ta thường nghĩ vì nghèo khó khổ, vì bị hung
kiết, v.v..., nhưng Đức Thế Tôn dạy nguyên nhân sanh khổ là ái dục.
2. Phận sự của ái dục: Thật ra,
ái dục ngụ ý chỉ sự tham muốn. Sự tham muốn ấy là nền tảng của tâm và tất cả
của chúng sanh ai ai cũng không chạy khỏi, ngoại trừ bậc A La Hán, Độc giác và
Chánh đẳng Chánh giác. Tôi xin ví dụ ái dục ấy như trái xoài. Trái xoài ấy đã
có tính chất của nó, là mùi vị, màu sắc và mộng (mầm) trong trái xoài, nó có
thể mọc ra cây xoài khác, còn như màu sắc, mùi vị của trái xoài thì ví như tham
lam, sân hận vì si mê vậy.
Nếu ái dục là lòng ham muốn,
nhưng lòng muốn thành Phật, hay muốn độ đời, khi đã thành Phật rồi có phải là
ái dục hay là ham muốn chăng?
Ái dục có nghĩa là muốn có cái
gì không có, có rồi muốn cho có thêm. Trái lại muốn thành Phật thì lại bỏ cái
gì đã có và ngừa không cho những gì sanh ra. Khi thành Phật rồi thì lại dạy
chúng sanh bỏ tất cả những gì đã có cho thật hết.
3. Ái dục có 3 loại:
- Kāmatanhā: ái dục trong
cõi dục, là muốn sanh làm con người giàu sang, quyền chức, xinh đẹp, nên khi
làm một việc phước thiện nào như bố thí đều nguyện vào cõi dục (đây kể cả 6
tầng trời dục giới).
- Bhavatanhā: ái dục trong
cõi sắc. Cõi này không có dục vọng như vợ chồng, quyền chức v.v... nhưng còn có
sắc. Hành giả tham thiền tinh tấn để mau đắc một trong tứ thiền, để sanh vào
cõi 16 cõi trời sắc giới. Tuổi sống của cõi ấy rất, lâu không tính bằng năm
được, chỉ có thể dùng trái đất này mới ví được. Cõi thấp nhất cũng bằng tuổi
một phần ba trái đất. Và tuổi nhiều nhất là 16.000 kiếp trái đất. Vì sống quá
lâu, nên chư Phạm thiên trong cõi này là an vui nhất và thường bị lạc vào
thường kiến, nên gọi là ái dục trong dục giới.
- Vibhavatanhā: ái dục
trong cõi vô sắc. Sự thèm muốn sanh vào cõi vô sắc, nên hành giả cố hành cho
đắc được thiền vô sắc, hầu sanh vào cõi vô sắc. Những người sanh vào cõi này,
nghĩ rằng vì có sắc nên còn luân hồi, khi không còn sắc nữa, chính là Niết Bàn rồi.
Vì vậy người sanh vào cõi này thường lạc vào đoạn kiến.
Để biết rằng ái dục tai hại đến
bậc nào, tôi xin nhắc lại câu Phật dạy: Tanhāponobbhavika: ái dục tạo
tác hiện tại.
Vì sự thèm khát ngũ trần lục dục
trong cõi dục, hay thèm khát sanh vào cõi sắc hay vô sắc, cũng vẫn là còn ái
dục, chỉ khác nhau ở chỗ thô siểng hay vi tế thôi, nhưng chung qui vẫn cũng
phải luân hồi. Tóm lại, khi lòng người còn ái dục dù là vi tế hay thô siểng gì,
cũng vẫn còn phải luân hồi.
Vì vậy nên Đức Thế Tôn dạy:
"Tập đế là nguyên nhân sanh khổ. Ta nên cố gắng dứt bỏ".
4. Phận sự của hai Diệu đế:
Trong hai Diệu đế đầu, Khổ đế và Tập đế, Khổ đế là điều ta cần phải hiểu cho
thật rõ, nhưng không có gì phải đối phó với nó, vì chỉ cần biết rõ thôi. Về Tập
đế, điều ta cần phải biết cho rõ là vì nguyên nhân nào mới sanh khổ, vì đâu đưa
đến, v.v... Ta biết cho thật rõ nguyên nhân đặng cố gắng diệt. Ví như người
chữa lửa, cần biết lửa bắt đầu cháy ở đâu, chữa ngay chỗ ấy chớ không chữa ở
ngọn lửa (ngọn lửa ấy ví như khổ hiện tại).
Về phương pháp diệt ái dục, xin
xem Diệt đế và Đạo đế sau đây.
DIỆU ĐẾ THỨ III: DIỆT ĐẾ
Diệt đế và Đạo đế là hai phương
pháp diệt khổ, chỉ có Đức Thế Tôn giác ngộ trước nhất, là pháp rất huyền diệu
mà người phải đạt bằng tuệ nhãn chớ không thể biết rằng tâm được. Ta có thể ví
đó như hai vị thuốc để trừ hai thứ bệnh nan y, là khổ và nguyên nhân sanh khổ.
Ở trên, tôi ví Khổ và Tập với
cọp, Đức Thế Tôn đem cọp ấy về nhốt, ta quan sát hình dáng, tính cách và nhược
điểm của nó để ta trừ và tránh nó tùy trường hợp. Khi ta biết cọp có những
nhược điểm gì, hình dáng ra sao, thì ta tránh dễ dàng, mà trừ nó cũng không
khó.
Muốn diệt trừ Khổ đế và Tập đế
ấy chỉ có Diệt đế và Đạo đế.
Đây lời Phật dạy lời Diệt đế:
"Này các thầy Tỳ khưu, đây
là pháp diệt khổ thật sự, sự diệt các điều thèm khát, không có dư sót của ái
dục, dứt bỏ không còn dính dáng với ái dục, không còn bận bịu, không còn nhớ
tưởng."
Lời Phật dạy cho ta thấy rằng
Diệt đế là dập tắt lửa ái dục, nhưng Phật nói nhiều cách khác nhau để ta dễ
hiểu. Trong Diệt đế, Đức Phật đề cập đến Niết Bàn là nơi dập tắt hẳn mầm của ái
dục
Hạnh phúc XXXIV dạy về pháp làm
cho thấy rõ Niết Bàn, tôi xin giải ở sau.
DIỆU ĐẾ THỨ IV: ĐẠO ĐẾ
Phật giáo có đến tám muôn bốn
ngàn pháp môn, nhưng chung qui chỉ có một cứu cánh là giải thoát.
Đạo diệu đế là phương pháp diệt
trừ ái dục. Trong kinh Chuyển Pháp Luân, Phật dạy muốn diệt ái dục phải hành
theo Bát Chánh Đạo.
Đây Phật ngôn dạy về Bát Chánh
Đạo:
1. Sammāditthi: chánh
kiến
Này các thầy Tỳ khưu, sự hành
đến chỗ hết khổ là Bát Chánh Đạo, là chánh kiến v.v..
Trong bài kinh Maggavibhanga,
Đức Phật dạy rằng: Này các thầy Tỳ khưu, chánh kiến là gì? Chánh kiến là:
- Hiểu rõ khổ.
- Biết rõ nhân khổ.
- Biết rõ sự diệt khổ.
- Biết rõ phương pháp hành để
diệt khổ.
Theo đây, chúng ta thấy chánh kiến
là sự thấy chân chánh, nghĩa là thấy rõ pháp Tứ đế.
2. Sammāsankappa: Chánh
tư duy.
Này các thầy Tỳ khưu, chánh tư
duy là gì? Chánh tư duy là:
- Suy nghĩ xuất thế gian khổ.
- Suy nghĩ không oán thù.
- Suy nghĩ không làm hại người.
Suy nghĩ xuất thế gian nghĩa là
suy nghĩ về sự xuất gia. Đây có chỗ chú giải rằng người tại gia cư sĩ không thể
xuất gia được, thì thọ bát quan trai giới và cố niệm Phật, diệt trừ tội ác, khi
mình suy nghĩ, thấy việc mình đã làm trong ngày.
3. Sammāvācā: Chánh
ngữ
Này các thầy Tỳ khưu, chánh ngữ
là gì? Chánh ngữ là:
- Tác ý tránh xa sự nói dối.
- Tác ý tránh xa sự nói đâm
thọc.
- Tác ý tránh xa sự nói hung dữ,
độc ác, rủa, chưởi.
- Tác ý tránh xa nói lời vô ích.
4. Sammākammantā: Chánh
nghiệp
Này các thầy Tỳ khưu, chánh
nghiệp là gì? Chánh nghiệp là:
- Tác ý tránh xa sự sát sanh.
- Tác ý tránh xa sự trộm cắp.
- Tác ý tránh xa sự thông dâm.
Chánh nghiệp là việc làm chân
chính, không phạm vào các điều ác. Đây có ý dạy ngay vào các hạng cư sĩ phải
thọ trì ít nhất là ngũ giới. Hơn ấy nữa, là gắng tham thiền trong ngày bát quan
trai giới.
5. Sammā ājiva: Chánh
mạng.
Này các thầy Tỳ khưu, chánh mạng
là gì? Cháng mạng là dứt bỏ sự nuôi mạng tà ở bậc thánh nhân trong Phật giáo.
Nuôi mạng chân chánh ấy là:
- Không buôn thú, trái lại phóng
sanh.
- Không buôn người, trái lại,
cứu người khi lâm nạn.
- Không buôn ruợu, không cho
người ruợu; trái lại, lo phương pháp nào có thể răn đời, như bố thí pháp.
6. Sammāvāyama: Chánh
tinh tấn.
Này các thầy Tỳ khưu, chánh tinh
tấn là gì? Chánh tinh tấn là thầy Tỳ khưu trong Phật giáo cố vun trồng sự tinh
tấn, không cho các pháp ác chưa phát sanh lên phát sanh lên được, giữ tâm vững
chắc không rung động vì các hoàn cảnh bên ngoài, cố gắng diệt trừ các pháp ác
đã có trong tâm cho cùng tận, cố gắng làm cho các thiện pháp chưa phát sanh lên
được, được sanh lên, cố gắng vun trồng các thiện pháp đã có được tốt đẹp thêm.
7. Sammāsati: Chánh
niệm
Này các thầy Tỳ khưu, Chánh niệm
là gì? Chánh niệm là thầy Tỳ khưu trong Phật giáo luôn luôn quán tưởng thấy
thân trong thân, cố ý tinh tấn thiêu đốt phiền não, có sự ghi nhớ và biết mình,
diệt trừ sự vui, buồn, suy nghĩ thấy thọ trong thọ v.v... Nói tóm lại là suy
nghĩ tứ niệm xứ. Hay nói cho dễ hiểu hơn, chánh niệm nghĩa là hành theo tứ niệm
xứ (xin xem quyển này của Đại đức Hộ Tông)
8. Sammāsamādhi: Chánh
định
Này các thầy Tỳ khưu, chánh định
là gì? Chánh định là thầy Tỳ khưu trong Phật giáo vắng lặng trần cảnh, vắng
lặng các pháp ác, nhập vào sơ thiền có tầm, sát, hỉ, lạc, an, định. Sau khi dứt
bỏ lần tầm, sát, thì đắc nhị thiền, từ từ dứt từng pháp thô siểng. Thầy Tỳ khưu
cố tinh tấn hành như thế gọi là chánh định.
Tóm lại, chánh định là phương
pháp làm cho tâm người trở nên yên lặng khỏi ác pháp. Sự định tâm được do một
trong 40 đề mục của Phật dạy gọi là chánh định.
Bát Chánh Đạo ví như chìa khóa
mở cửa Niết Bàn:
Trong phẩm kinh Saccasamyutta
Tacicayagga bài kinh Gavampati, Đức Thế Tôn có dạy: Người nào biết
Khổ đế là người thấy rõ Tập đế, Diệt đế và Đạo đế. Người nào mà thấy rõ Tập đế
thì thấy rõ Khổ diệt và Đạo Đế. Người nào thấy rõ Diệt đế là thấy rõ Khổ, Tập
và Đạo đế. Người nào thấy rõ Đạo đế là thấy rõ Khổ, Tập và Diệt đế.
Tóm lại, người mà giác ngộ được
thánh quả không phải chỉ học hay nghe pháp, hay giải thông được pháp Tứ Diệu
Đế, là được thánh quả, mà phải hiểu rõ rằng trí tuệ, hay thấy rõ bằng tuệ nhãn.
Để chứng minh rõ sự thật là thế
nào tôi xin đem lời Phật ví dụ để quí vị thấy rõ hơn:
1. Thí dụ thứ nhất:
Khổ đế ví như chứng bệnh của
chúng sanh; Tập đế ví như căn bệnh của chúng sanh; Die6ṭ đế ví như căn bện đã
được chữa lành; Đạo đế ví như phương thuốc trị bệnh của chúng sanh
2. Thí dụ thứ hai:
Khổ đế ví như món đồ nặng đang
vác; Tập đế ví như nguyên nhân bắt buộc phải vác những vật ấy; Diệt đế ví như
sự liệng bỏ vật nặng ấy; Đạo đế ví như phương pháp liệng bỏ vật nặng ấy.
3. Thí dụ thứ ba:
Khổ đế ví như người có oán thù;
Tập đế ví như nguyên nhân của sự oán thù; Diệt đế ví như sự cởi mở của mối oán
thù; Đạo đế ví như phương pháp cởi mở oán thù.
4. Thí dụ thứ tư:
Khổ đế ví như cây có thuốc độc;
Tập đế ví như rễ cây có chất độc; Diệt đế ví như sự đào bứng tận rễ của cây có
chất độc; Đạo đế ví như phương pháp đào bứng hết rễ cây có chất độc.
Muốn đắc được Tứ Diệu Đế thì chỉ
có một phương pháp là hành minh sát tuệ. Khi hành minh sát thì có 16 tuệ phát
sanh là:
1. Nāmarūpaparicchedañāna:
trí tuệ thấy rõ danh và sắc và phân biệt được danh và sắc.
2. Paccayaparikagahañāna:
hiểu nhân, hiểu quả của danh và sắc (ý nói biết nguyên nhân của danh, sắc).
3. Sammāsanañāna: thấy
danh và sắc là vô thường, khổ não và vô ngã.
4. Udayañāna: thấy rõ
nhân của và danh và sắc.
5. Kangañāna: thấy rõ sự
diệt của danh và sắc.
6. Bhayañāna: thấy danh
và sắc là vật đáng kinh sợ.
7. Adinavañāna: thấy danh
và sắc đầy tội lỗi, khổ đau.
8. Nibbidāñāna: chán nản
danh sắc.
9. Muncitukamyatañāna: muốn
giải thoát khỏi danh và sắc.
10. Patisankhañāna: cố ý
gắng hành để được vào Niết Bàn.
11. Sankhārupekkhāñāna:
để tâm vô tư trong danh và sắc.
12. Saccānulomikañāna:
thấy rõ Tứ Diệu Đế.
13. Gotabhūñāna: lấy Niết
Bàn làm đề mục.
14. Maggañāna: diệt phiền
não bằng đạo tuệ.
15. Phalañāna: có Niết
Bàn là đề mục.
16. Paccavekkhanañāna:
Quan sát lại những phiền não mà chính mình chưa diệt được.
Phật dạy: Người còn luân hồi là
vì chưa thấy Tứ Diệu Đế bằng tuệ nhãn.
Sự thấy Tứ Diệu Đế được hạnh
phúc là:
1. Làm cho thấy rõ danh và sắc.
2. Không còn si mê trong phiền
não và khổ nữa.
3. Làm cho giải thoát khỏi bể
luân hồi.
4. Làm cho đắc được đạo quả.
5. Đưa ra khỏi vòng sanh tử luân
hồi.
6. Không còn sinh tử trong tam
giới.
HẠNH PHÚC XXXIV
Nibbānasacchikiriyā
Nết hạnh làm cho thấy rõ Niết Bàn
Niết Bàn có nghĩa là ra khỏi
vòng cương tỏa của ái dục, ý nói ra khỏi nơi bị trói buộc, hay khỏi luân hồi.
Niết Bàn có nghĩa là dập tắt lửa
tham lam, sân hận, si mê.
Niết Bàn có nghĩa là không có sự
trói buộc, ý nói ra khỏi 10 điều trói buộc.
Niết Bàn có nghĩa là ra khỏi nơi
bị cột dính mãi mãi trong luân hồi
Phạn ngữ Nibbāna và Bắc
phạn là Niravana, đều nghĩa là Niết Bàn nhưng cần chiết tự để dễ hiểu. Ni
có nghĩa là thoát ra, Vana có nghĩa là phiền não, là rừng. Theo thể thức
văn phạm của Phạn ngữ, chữ V của Vana đổi lại B cho dễ
đọc. Nếu đã đổi V thành B và chữ Ni đứng trước ta có thể
thêm chữ B vào sau chữ Ni thành là Nibbāna, có nghĩa là
"ra khỏi phiền não" hay "ra khỏi rừng".
Tại sao lại gọi là "ra khỏi
rừng"? Vì rừng là nơi trú ẩn các loại dã thú, đầy nguy hiểm đối với người
lạc đường. Rừng ấy ví như cõi Ta bà thế giới, đầy sự nguy hiểm và dã thú, đầy
kẻ ác, mà ta là người đi lạc trong luân hồi. Vậy người đi đến Niết Bàn là người
đi ra khỏi rừng, hay là khỏi luân hồi.
Niết Bàn có những đặc điểm này
là:
- Có sự hoàn toàn an tịnh là
trạng thái.
- Có sự không chết là vị.
- Có sự không giới hạn là hiện
tượng.
Niết Bàn có hai hạng là:
- Saupādisesanibbāna: hữu
dư Niết Bàn. Niết Bàn này của vị Thánh Nhân để tới bậc A la hán mà chưa nhập
diệt, còn mang thân ngũ uẩn này. Vậy hữu dư Niết Bàn (Niết Bàn còn dư) ngụ ý
nói còn có ngũ uẩn.
- Anupādisesanibbāna: vô
dư Niết Bàn, nghĩa là khi vị A la hán dứt bỏ thân này nhập diệt, thì không còn
dư sót gì hết.
Hai hạng Niết Bàn ấy có chỗ cũng
gọi là:
- Kilesanibbāna: phiền
não Niết Bàn, ý nói thánh nhân đã hoàn toàn diệt hết phiền não, nhưng chưa nhập
diệt.
- Khandhanibbāna: ngũ
uẩn Niết Bàn, nghĩa là A la hán đã bỏ thân ngũ uẩn này và đã nhập diệt.
Đức Thế Tôn có dạy rằng: Dve
imā cakkhu-mātāpa kāsitā, hai Niết Bàn ấy, Như Lai là đứng có tuệ nhãn,
người đã diệt được ái dục và tà kiến, đã thuyết rằng khi người đắc quả A La Hán
mà chưa nhập diệt thì gọi là hữu dư Niết Bàn, còn đã nhập diệt thì gọi là vô dư
Niết Bàn.
Đại ý câu này nói: Niết Bàn của
các bậc Tu Đà Hườn, Tư Đà Hàm, A Na Hàm gọi là hữu dư Niết Bàn. Vì các vị này
là Thánh nhân nhưng chưa đi đến nơi hoàn toàn giải giải thoát. Còn vị nào đắc A
La Hán đời này rồi nhập diệt, thì gọi là vô dư Niết Bàn, nghĩa là không còn ở
trong tam giới này nữa; nhưng khi vị A La Hán chưa nhập diệt thì cũng gọi là
hữu dư Niết Bàn.
Niết Bàn không có hình thể nên
không có gì ví dụ được. Trong bộ kinh Mi Lãn Đà Vấn Đạo Đức Na Tiên Tỳ Khưu,
ngài Na Tiên có dạy đức vua Mi Lãn Đà rằng: "Tâu Đại vương, Niết Bàn không
có chi sánh bằng, không thể chỉ hình thức được, và không thể nào đem ra nói
bằng lời được, vì Niết Bàn tuyệt đối ngoài tất cả các sự vật.
"Tâu Đại vương chỉ có người
hành minh sát tuệ thì càng ngày càng hiểu rõ danh sắc, diệt trừ phiền não, tâm
hoàn toàn không còn mê theo danh sắc, nghĩa là người hoàn toàn đến Niết Bàn.
"Người đắc Niết Bàn chỉ có
riêng người ấy biết mà thôi, cũng như người bệnh, chính họ mới biết bệnh của họ
đã thuyên giảm, vì khi bệnh hành thì thật khổ, mà chừng cái khổ ấy từ từ mất lần
đi, thì người bệnh mới nhận thấy rõ rệt. Vì vậy Đức Thế Tôn dạy pháp đắc trong
tâm".
Tôi có thấy trong bài kinh Nibbānasatrapali
có một thầy Bà la môn Jambūkhādaka hỏi Đại đức Xá Lợi Phất rằng:
"Niết Bàn là gì?"
Đại đức đáp: "Này thầy, sự
không còn tham,sân, si là Niết Bàn."
Lại chuyện nhữa rằng, ngày nọ có
thầy Tỳ khưu bạch hỏi Đức Thế Tôn về vấn đề Niết Bàn.
Đức Thế Tôn dạy: "Nếu có
người đau nặng, sắp chết, bổng nhiên có một vị lương y đến chẩn mạch, và sau
xem mạch xong mới bảo rằng: Bệnh tuy nặng nhưng ta có thể chữa được, uống đôi
thang thuốc thì sẽ mạnh. Này các thầy Tỳ khưu, vậy người bệnh ấy có phải hỏi:
Ngài tên gì? Từ đâu đến? Học với thầy nào? Đầu thang với bao nhiêu vị thuốc? Và
tìm thuốc ở đâu? Sau khi mạnh sẽ ra sao?"
- "Bạch Đức Thế Tôn, người
bệnh ấy sẽ không bao giờ hỏi những điều vô lý ấy, mà chỉ có yêu cầu xin thuốc
thôi".
Đức Phật kết luận: "Này các
thầy Tỳ khưu, Như Lai là một vị lương y mà các thầy là những bệnh nhân đang ở
trong tình trạng nguy kịch, chỉ còn chờ chết. Thế mà các thầy còn nông nổi hạch
hỏi Như Lai Niết Bàn là gì? Làm sao chứng Niết Bàn? Niết Bàn ở đâu? Như Lai chỉ
thuốc cho các thầy, các thầy cứ uống theo toa của Như Lai, thì căn bệnh sẽ khỏi
hẳn, chừng ấy các thầy sẽ thấy và biết Niết Bàn là gì, ở đâu, ra sao v.v... Vả
lại sự tranh thủ thời gian để sống và trị bệnh đừng cho bệnh càng nặng thêm, đó
mới là điều trọng yếu, còn ngoài ra đều là vấn đề phụ thuộc."
Căn cứ theo Phật ngôn trên đây,
ta nhận thấy Đức Phật không dạy suông mặt lý thuyết, mà dạy chúng sanh thực hành
rồi sẽ thấy kết quả và giá trị của việc làm.
Để trở lại hữu dư và vô dư Niết
Bàn, tôi xin nhắc lại câu Phật dạy trong phẩm Sattamasulla Dutivavagga ở
bộ Itivuttaka rằng: "Này các thầy Tỳ khưu, trong kiếp hiện tại này,
thầy Tỳ khưu nào là người xa phiền não, hết thụy miên phiền não, đã hoàn bị
phạm hạnh, nhiệm vụ phải làm đã làm xong, quăng bỏ gánh nặng, đã làm xong điều
lợi ích cho mình, đã cởi mở kiết sử pháp là nhân tạo ra hiện hữu, đã giác ngộ
và giải thoát, song còn có ngũ uẩn, thì đó gọi là hữu dư Niết Bàn.
Còn vị Tỳ khưu nào đã làm xong
phận sự trên, đồng thời tịch diệt không còn ngũ uẩn nữa, gọi là vô dư Niết
Bàn".
Trong câu Phật ngôn trên đây,
tiếng "phiền não" là ngụ ý chỉ tham, sân, si và "hết thụy miên
phiền não" là dứt được 4 trầm nịch:
- Kāmāsavo: trầm nịch
trong tình dục.
- Bhavāsavo: trầm nịch
trong tam giới.
- Ditthisavo: trầm nịch
trong tà kiến.
- Avijjasavo: trầm nịch
trong vô minh.
Còn tiếng "đã hoàn bị phạm
hạnh" nghĩa là đã tu hành đúng theo 10 pháp: chánh kiến, chánh tư duy,
chánh ngữ, chánh nghiệp, chánh mạng, chánh tinh tấn, chánh niệm, chánh định,
chánh tuệ, chánh giải thoát.
Còn tiếng "nhiệm vụ phải
làm đã làm xong" ý nói các ngài đã diệt được hết phiền não bằng
Giới-Định-Tuệ.
Tiếng "đã quăng gánh
nặng" là các ngài đã bỏ ba gánh rất nặng là:
- Khandhabbāra: gánh nặng
là ngũ uẩn.
- Kilesabbāra: gánh nặng
là phiền não.
- Abbidankhārabbāra: gánh
nặng là tạo nghiệp.
Tiếng "đã làm xong điều lợi
cho mình", ý nói cố gắng hành đạo để được đắc quả A la hán.
Tiếng "đã cởi mở kiết sử
pháp là nhân tạo hiện hữu" ý nói đoạn tuyệt 10 pháp trói buộc:
1. Sakkāyaditthi: thân
kiến.
2. Vicikicchā: hoài nghi.
3. Sīlabhattāparāmāsa:
giới cấm thủ.
4. Kāmacchanda: thích thú
trong trần dục.
5. Byāpāda: sân hận.
6. Rūparāga: thích thú
trong cõi sắc.
7. Arūparāra: thích thú
trong cõi vô sắc.
8. Mano: ngã chấp.
9. Uddhacca: phóng tâm.
10. Avijjā: vô minh.
Tiếng "đã giác ngộ" ý
nói không còn lầm lẫn cho rằng vạn vật đem an vui cho ta, và thân này là ta.
Thấy rõ Niết Bàn được hạnh phúc
là:
1. Được an vui trong kiếp hiện
tại.
2. Không còn đọa vào ác đạo.
3. Giải thoát khỏi khổ và phiền
não.
4. Được sự an vui hoàn toàn,
tuyệt đối.
5. Không còn luân hồi.