KỆ NGÔN
VIII
HẠNH PHÚC XXVII
Khantī
Nhẫn nại
Khantī nghĩa là
nhẫn nại, mà cũng có nghĩa là món vật trang điểm, thiêu đốt các tội ác sức
mạnh, nước, ngăn đón, vắng lặng, đè nén diệt trừ, đạo binh hùng. Nhưng đây tôi
xin giải riêng nghĩa nhẫn nại thôi.
Nhẫn nại có nghĩa là nhịn nhục
và nín thinh.
Khi người lớn la rầy kẻ dưới, dù
oan, kẻ dưới vẫn nín thinh, không trả lời lại, hoặc vì lễ nghi, hay vì quyền
lợi, đó không gọi là nhẫn nại, mà gọi là nín thinh, hay gắng mà chịu đựng vì
sợ, chỉ tạm gọi là nhẫn nại.
Có câu Phạn ngữ rằng: Bhayāhi
setthavaco khamatha saram bhahetu pana sādisassa, nghĩa là: Người chịu đựng
sự la rầy mắng nhiếc của người có quyền chức lớn hơn mình vì sợ, nín chịu với
người ngang hàng mình, là nhờ sự nhịn. Người nào nhịn chịu sự mắng nhiếc rầy la
khinh bỉ của người nhỏ hơn mình, người ấy mới gọi là nhẫn nại.
Chú giải câu Phạn ngữ ấy có dạy
rằng: "Câu gọi là nhẫn nại có nghĩa là chịu đựng với những lời của kẻ dưới
mình, như người dưới quyền, nhỏ hơn, gia đình thuộc hạng bần tiện, người nhịn
chịu được với những hạng người ấy mới gọi là nhẫn nại cao thượng".
Sự nhẫn nại ví như lửa để thiêu
đốt phiền não. Phật có dạy: Chúng sanh nào thương kính Như Lai nên hành hạnh
nhẫn nại.
Phương ngôn có câu: "Gặp
Phật thì tu, gặp quỷ thì trừ". Gặp Phật thì đã đành, vì Đức Phật dạy ta
làm lành lánh dữ, và ta người muốn giải thoát, tất nhiên muốn gặp Phật, thì khi
gặp là tu. Còn câu "gặp quỷ phải trừ" vậy phải trừ bằng phương pháp
nào đây? Câu phương ngôn nói trên đúng được một phần, là gặp Phật phải tu. Còn
câu sau thì Phật giáo không thể chấp nhận được, vì chủ trương của Phật là bao
giờ cũng nhẫn nhịn, nên tôi xin sửa phần ấy là "gặp quỷ ta cần phải tu
nhiều hơn". Vì quỷ là nhân làm cho ta uất ức buồn phiền, mà ta nhịn chịu
được như thế mới thấy ta tu, nhược bằng gặp quỷ ta tranh đấu với quỷ, thì ta
cũng là quỷ, chớ không còn là người tu. Theo tôi những quỷ ấy là nhân thử
thách, xem ta tu tới mức độ nào. Vì gặp quỷ là nhân ta đem ra thứ lòng nhẫn nại
của ta. Quỷ không khác là lửa, mà hạnh nhẫn nại của ta quí như vàng. Nhờ có lửa
hồng ta mới có dịp thử được tuổi vàng mà ta có.
Nhẫn nại có ba tác dụng:
1. Tītikkha khantī: nhẫn
nại do oai lực của sự nhịn chịu. Ý nói đè nén tâm không cho tâm chạy theo tham
lam, sân hận, si mê, không cho phiền não biểu lộ ra ở thân, khẩu, ý. Người mà
nhẫn nại như thế thì làm cho giới được trong sạch.
2. Tapakhantī: sự nhẫn
nại là một thứ lửa thiêu đốt phiền não bên trong bằng thiền định. Ý nói người
nhẫn nại hành thiền định để diệt trừ phiền não bên trong.
3. Adhvanakhantī: nhẫn
nại đè nén phiền não vắng lặng và có thể chặn đứng phiền não do minh sát tuệ,
nghĩa là do nơi minh sát tuệ có thể nhổ tận phiền não ngủ ngầm trong tâm rất
khó tận diệt, gọi là thụy miên phiền não.
Nhẫn nại có ba đối tượng:
1. Nhẫn nại với sự khổ: ý nói
khi người bệnh hoạn hay chuyện khổ lòng, không khi nào rên la, than oán gì cả.
2. Nhẫn nại với sự cực nhọc: ý
nói khi người làm việc nhiều không hề buồn hay than vãn, vẫn cố gắng làm cho kỳ
được, nghĩa làm xong phận sự của mình.
3. Nhẫn nại với sự đau lòng: ý
nói khi mình vì sự trái nghịch lòng, cũng gắng chịu không hề than vãn oán trách
gì cả, không bao giờ phê bình không nói chuyện của người khác. Các câu này có ý
nói khi bị người chê bai chỉ trích cũng chẳng hề quan tâm để ý, đúng theo Phật
ngôn dạy: Tasseva tena āpiyo yo kuddham patiku jjhati, người mà giận trả
lại người giận mình, người ấy càng tệ hơn người giận mình.
Sự nhẫn nại mà nói theo Pháp
chính là Adosa citta, nghĩa là tâm vô sân, tâm này thuộc về tâm đại
thiện, Phạn ngữ gọi là Mahākusala. Tâm không sân là trạng thái của tâm
không cột oan trái, có sự không nóng nảy là phận sự, có sự mát mẻ là hiện
tượng, có tâm rất thận trọng là nhân, làm cho nhẫn nại phát sanh.
Thái độ của nhẫn nại là:
1. Assunantoviya: bị
người chửi mắng làm như không hay không biết gì hết.
2. Apassannoviya: làm như
không thấy người đang chửi mắng mình.
3. Bhadrakotamanasikāro:
chỉ biết để tâm vào thiền định.
4. Damo: cố dạy tâm mình,
hay đè nén tâm không cho vọng động vì những chuyện bên ngoài, là chửi mắng.
5. Upasano: cố đến gần
thiện pháp và xa ác pháp như oan trái, oán thù, làm hại người .v.v...
6. Acandikko: không hung
dữ.
7. Anassuroph: không làm
cho người bị lụy, nghĩa là không làm cho ai khóc, chỉ biết làm cho người vui
cười với việc thiện.
8. Attamanatā: tâm được
thư thả, nghĩa là luôn luôn có an lạc.
Chú giải có dạy rằng Tỳ khưu có
lòng nhẫn nại là người có tính cách làm như điếc, không cần nghe những lời của
kẻ khác khen hay chê, hoặc chửi mắng; hay làm như người bại xuội, nghĩa là
không đánh đập mình, cũng như vị đạo sĩ tên Khantīvādī hằng cố gắng làm
cho tâm mình trong sạch bằng đức tánh nhẫn nại, hoặc như Đại đức Punna,
là vị mà Đức Thế Tôn tuyên dương công đức là người nhiều nhẫn nại nhất trong
hàng đại đệ tử Phật. Tôi xin lần lượt nhắc sự tích ấy theo Túc sanh truyện.
Trong lúc quá khứ, Đức Bồ tát
sanh vào dòng Bà la môn Kunda ở tại kinh đô Bārānasī. Ngài xuất gia làm đạo sĩ
ở tại rừng Tuyết Lãnh rất lâu. Ngày nọ ngài về thành Bārānasī ở tại vườn thượng
uyển. Lúc ấy đức vua Bārānasī tên là Kulāpu uống rượu say, dẫn phi tần vào vườn
thượng uyển chơi. Đức vua vì say nên ngủ quên. Các phi tần thấy vua ngủ, nên rủ
nhau đi chơi, gặp vị đạo sĩ đang ngồi dưới cội cây, mới rũ nhau đến làm lễ và
nghe pháp.
Sau khi tỉnh rượu, đức vua không
thấy có một phi tần nào hầu ngài, nên nổi giận xách gươm đi kiếm. Khi ấy có một
vương phi được vua yêu nhất, giựt lấy gươm ngài. Khi ngài ngự đến cội cây, thấy
vị đạo sĩ mới hỏi: "Này thầy Sa môn, ngươi hằng dạy người bằng pháp
gì?"
- Tâu Đại vương, bần đạo hằng
dạy về pháp nhẫn nại.
- Nhẫn nại là gì?
- Nhẫn nại là sự không sân hận,
trong khi kẻ khác chửi mắng, đánh đập, khinh bỉ mình.
- Nếu vậy, ta sẽ trông thấy
ngươi có pháp nhẫn nại hay không.
Rồi ngài truyền đao phủ thủ
rằng: "Người hãy đè vị đạo sĩ này xuống, đánh khắp châu thân y hai ngàn
roi cho trẫm!". Đao phủ thủ làm y theo lời. Rồi đức vua hỏi: "Ngươi
hằng dạy người pháp gì?"
- Tâu Đại vương, bần đạo hằng
dạy về nhẫn nại, có lẽ Đại vương tưởng rằng nhẫn nại ở theo da của bần đạo
chăng? Nhẫn nại không ở theo da của bần đạo đâu, nhẫn nại ở trong thâm tâm của
bần đạo.
- Các người hãy chặt tay và chân
của vị đạo sĩ này cho trẫm! Vua phán lịnh ấy cho đạo phủ đã tuân hành.
Đoạn Vua hỏi như trước. Đạo sĩ
tâu rằng: "Tâu Đại vương, bần đạo hằng dạy về nhẫn nại. Đại vương tưởng
rằng, nhẫn nại ở theo tay chân của bần đạo chăng? Nhẫn nại không có ở theo tay
chân của bần đạo đâu!"
Vua liền phán:
- Các ngươi hãy lắc tay xẻo mũi
tên đạo sĩ này cho ta.
Sau khi đao phủ thực hành xong,
đức vua cũng hỏi như trước. Vị đạo sĩ cũng trả lời như trước. Đức vua tức giận
vô cùng, mới nện gót chân lên ngực đạo sĩ, rồi bỏ đi. Mặt quả địa cầu có sức
chở nổi núi non, nhưng không chở nổi tội lỗi của nhà vua, nên nứt làm đôi. Đức
vua bị đất sụp chết, sanh vào A tỳ địa ngục.
Sau khi vua ra đi, có một vị
quan hầu vào lau máu cho đạo sĩ và nói rằng: "Bạch ngài nếu ngài có giận,
xin ngài giận nhà vua làm khổ ngài, đừng phiền chúng tôi."
Đạo sĩ nói: "Nhà vua nào
truyền chặt chân tay, cắt tai xẻo mũi ta, ta cầu xin đức vua ấy được sống lâu.
Vì người như ta không bao giờ biết giận."
Quí hóa thay, cao thượng thay,
hạnh của vị đạo sĩ, mặc dù ngài đã chết, nhưng hương lành cũng vẫn còn lưu lại
đến hôm nay. Ngài đã nêu gương quí báu về đức nhẫn nại. Người muốn biết rằng
mình có tu hay không, là biết trong trường hợp phải sanh hận, tham lam v.v...
Nếu muốn tu theo pháp nhẫn nại, phải có trí nhớ, nhớ rằng: Những trường hợp làm
lung lạc ta, đó là những cơ hội thử thách lòng ta, xem ta tu đến mức độ nào, ta
nên nhớ dùng nhẫn nại để thắng những thử thách ấy. Người có đủ lòng nhẫn nại là
người có đủ khí cụ thắng những người hung ác, như Đại đức Punna trong
Túc sanh truyện.
Có một người phú thương tên
Punna ở xứ Sunāparanta đi đến kinh đô Savatthā (Thất La Phiệt), được vào hầu
Phật và nghe pháp, ông phát tâm trong sạch muốn xuất gia, nên ông gọi người
quản lý đến bảo y đem hết của cải của ông và trao lại cho em là Culapunna. Rồi
ông xuất gia và học tham thiền với Đức Thế Tôn. Khi ông ở tại thành Thật la
phiệt không được kết quả tốt đẹp, ông mới nghĩ rằng nơi đây phong thổ không hạp
với ông, ông muốn đi về xứ Sunāparanta, nên vào hầu Đức Phật xin đi về xứ đó.
Đức Thế Tôn hỏi: "Thầy muốn
đi ở nơi nào"?
- Bạch Đức Thế Tôn, đệ tử xin đi
xứ Sunāpa-ranta.
Đức Thế Tôn biết rõ rằng, ông là
người có rất nhiều đức nhẫn nại vô lượng vô biên. Nhưng Ngài hỏi để ngài giải
đức nhẫn nại cho chư vị Tỳ khưu nghe và cho thiện tín được thấy đức nhẫn nại
của ông Punna.
Trong tạng Kinh, bộ
Majjhimanikāya, bài kinh Punnavādasutta thuật rằng Đức Thế Tôn hỏi: "Này
Punna, người xứ Sunāparanta rất hung ác, thô lỗ. Punna, nếu người xứ ấy chửi
ngươi, dọa nạt ngươi, thì ngươi có phương pháp chi đối phó với người xứ ấy?
- Bạch Đức Thế Tôn, nếu người xứ
Sunāpa-ranta chửi mắng, dọa nạt đệ tử, đệ tử nghĩ rằng, những người xứ
Sunāparanta thật là tử tế, vì họ không đánh đệ tử bằng tay. Bạch Đức Thế Tôn,
trong trường hợp này đệ tử nghĩ như vậy.
- Này Punna. Nếu người xứ
Sunāparanta họ sẽ đánh ngươi bằng tay, trong trường hợp này nhà ngươi đối phó
thế nào?
- Bạch Đức Thế Tôn, người xứ
Sunāparanta đánh đệ tử bằng tay, đệ tử sẽ nghĩ rằng, những người xứ Sunāparanta
thật là tử tế, vì những người ấy chưa chọi đệ tử bằng đá. Bạch Đức Thế Tôn
trong trường hợp này đệ tử nghĩ như vậy.
- Này Punna, nếu người xứ
Sunāparanta chọi ngươi bằng đá, trong trường hợp này, ngươi mới đối phó thế
nào?
- Bạch Đức Thế Tôn, người xứ
Sunāparanta chọi đệ tử bằng gạch đá đệ tử cũng vẫn nghĩ rằng, những người xứ
Sunāparanta thật là tử tế, vì họ chưa đánh đệ tử bằng cây. Bạch Đức Thế Tôn
trong trường hợp này đệ tử nghĩ như vậy.
- Này Punna, nếu người xứ
Sunāparanta đâm ngươi bằng kiếm, chém ngươi bằng dao, trong trường hợp này ngươi
đối phó bằng cách nào?
- Bạch đức Thế Tôn, nếu những
người Sunā-paranta đâm đệ tử bằng kiếm, chém đệ tử bằng dao, đệ tử nghĩ rằng
những người xứ Sunāparanta thật là tử tế, vì họ chưa giết đệ tử. Bạch Đức Thế
Tôn trong trường hợp này đệ tử nghĩ như vậy.
- Này Punna, nếu những người xứ
Sunāpa-ranta sẽ giết ngươi, trong trường hợp này ngươi đối phó thế nào?
- Bạch Đức Thế Tôn, nếu những
người Sunā-paranta họ sẽ giết đệ tử, đệ tử sẽ nghĩ rằng, chư Thinh văn đệ tử
Phật, chán nản gớm ghê thân này, các ngài hằng muốn trừ nó, riêng phần đệ tử
không kiếm nhưng may lại được. Bạch Đức Thế Tôn trong trường hợp này đệ tử lại
lại nghĩ như thế.
Đức Thế Tôn tỏ lởi hoan hỷ rằng:
"Lành thay! Lành thay! Punna ngươi là người có tâm thanh tịnh, là sự nén
lòng, ngươi có thể đi đến ở xứ Sunā-paranta. Vậy ngươi hãy tùy tiện đi".
Theo tích này ta thấy ngài Punna
nhẫn nại trong bảy trường hợp: chửi, dọa nạt mắng nhiếc, đánh bằng tay, chọi
bằng đá gạch, đáng bằng cây, chém bằng dao, đâm bằng kiếm, giết chết.
Nhẫn nại cao cả như thế mới đáng
gọi là Phật tử. Nhờ đức nhẫn nại ấy mà ngài Punna chinh phục được tất cả
lòng người trong xứ ấy, những người chửi mắng ngài đều trở nên tín đồ của ngài.
Riêng ngài, nhờ đức nhẫn nại ấy nên ngài đắc quả A La Hán tại xứ Sunāparanta.
Chúng ta hãy noi theo gương ngài mà vâng giữ hành theo nhẫn nại.
Hạnh nhẫn nại mà được hoàn toàn
cao quí, cũng nhờ có hạng quí báu, ta nhẫn nại được mới kết quả, chớ nếu ta ở
chung với bậc thiện nhân, thì có ai làm cho ta buồn giận mà có nhẫn nại. Nói
vậy, không có nghĩa là xúi giục quí vị thân với người ác, mà là để quí vị nhớ,
khi nào gặp quỷ thì gắng mà nhẫn nại, đừng chống đối với nó, một là mất sự nhẫn
nại, hai là gây thêm nhiều oan trái oán thù, thật là phiền lắm vậy.
Người mà có đủ đức nhẫn nại như
Đại đức Punna mới là người đáng làm hướng đạo về phương diện nhẫn nại,
đáng làm gương lành cho chúng ta soi và hành theo. Gương nhẫn nại của ngài có
hai điều đặc sắc:
1. Ngài là bậc hy sinh cho lẽ
đạo, mặc dù biết rằng Sunāparanta là nơi khó khăn nhiều rắc rối.
2. Một khi ngài đã xuất gia cố
tâm giải thoát, thì ngài không nài lao khổ, miễn được giải thoát là lòng mà nhờ
ấy mà ngài truyền bá được phép mầu cho người trong xứ ấy.
Chú giải của bài kinh Sunāparanta
có dạy rằng: Sự nhẫn nại là sự nhịn nhục chịu đựng mọi sự việc, không hề làm
hại kẻ khác, không làm cho kẻ khác rơi lụy buồn khổ. Tika của bài kinh
này là dạy rằng: Sự nhẫn nại là sự nhịn chịu với sự làm ác, nói ác của kẻ ác
đối với mình và hơn nữa không hề oán giận. Vì phần đông chúng ta không thể nhịn
được những sự bực tức vẫn còn trong tâm. Vậy ta cần phải có trí nhớ để quan sát
lòng ta, xem lòng ta có sự bực tức không, nếu còn thì ta biết rằng ta chưa đủ
đức tính nhẫn nại, chỉ mới học được sự im hơi lặng tiếng thôi. Vì lòng oán hận
là vòng oan trái hãy còn trong tâm, đây là phiền não ngủ ngầm trong tâm. Nếu ta
thấy lòng ta mát mẽ vui vẻ thì ấy mới thật là nhẫn nại. Người làm chủ tâm mình
được, thì ngoài mặt như trong lòng, không chút giận hờn oán ghét và trái lại
vui vẻ như thường, nhất là rất hài lòng vì thấy sự tu tập của mình được tiến
hóa, không bị trần cảnh chế ngự, như thế mới là người làm chủ tâm.
Tika của bài
kinh Sabbāvasutta trong bộ Mullapaññāsaka có dạy rằng: Nhẫn nại
gọi là nhịn nhục, ý nói sự nhịn chịu với những điều (sỉ nhục) của kẻ khác (đối
với mình) mà mình không oán giận... Chú giải bộ kinh Sabbāvasutta ta
dạy: Nhẫn nại là sự nhịn chịu với cả sự khó khăn, như hai vị Đại đức trong hai
tích sau đây:
a) Có vị Đại đức tên là
Lomasanagathora, ở hành đạo tại hang tên Piyangu trong núi Cetiyapappata. Khi
ấy nhằm mùa nóng, trời thật nóng, nhưng ngài vẫn tự nhiên ngồi tham thiền giữa
nơi trống trải, mồ hôi đổ ra. Chư đệ tử thấy
ngài như vậy nóng lòng nên đến bạch xin ngài vào ngồi trong mát.
Ngài đáp: "Vì ta sợ nóng
nên mới ngồi đây". Rồi ngài mới quan sát đến cái nóng ở địa ngục còn cao
gấp không biết bao nhiêu tỷ tỷ lần của sự nóng này, nhờ vậy nên đắc quả A La
Hán tại chỗ ấy. Đây là gương lành mà chúng ta nên noi theo.
b) Lại có tích của vị Đại đức
khác. Khi vị Đại đức này đi khất thực thiếu cơm ăn cả ba ngày, sự đói khát làm
cho ngài rất khổ, nhưng không vì lẽ ấy làm cho ngài nãn lòng, ngài càng quan
tâm suy nghĩ đến cái khổ như vầy: Khi ta còn luân hồi trong cõi sa bà này, thì
đã biết là bao nhiêu lần ta sanh làm ngạ quỷ (quỷ đói) phải bị đói khát hơn đây
vô lượng vô biên.
Khi ấy tâm ngài rất kinh sợ về
sự luân hồi. Ngài dùng minh sát tuệ quan sát vô thường, khổ não, và vô ngã nên
đắc A la hán quả.
Tích sau này ngụ ý khuyên ta
không nên để những sự khổ bên ngoài như đói, khát, nóng, lạnh v.v... chi phối
mà bỏ dở sự tu hành, mà làm mất lòng cao quí của ta.
Những thành tích vẻ vang của các
bậc Đại đức ấy giúp cho ta thấy rằng: Các vị tiền nhân của chúng ta đã làm được
lợi ích cho họ và nhờ đức nhẫn nại. Vì vậy nên Đức Phật dạy nhẫn nại là một
hạnh phúc mà toàn thể chúng sanh đều phải mong ước.
Trong Túc sanh truyện tên Sarabhanga
kể rằng:
Có một vị đạo sĩ tên Sarabhanga
bạch với Đức Thế Tôn rằng: "Người dứt được lòng sân hận thì không bao giờ
có sự than vãn. Các vị đạo sĩ hằng khen tặng để không quên ơn người. Những
người nhịn chịu được chê bai khinh bỉ của kẻ khác, các bậc trí thức gọi là nhẫn
nại cao thượng."
Đạo sĩ Sarabhanga cũng có dạy
rằng: "Người nhận chịu được những lời rầy la của người lớn hơn mình là vì
lẽ sợ, nhịn chịu được lời nói của người ngang bằng mình là vì sợ oan trái oán
thù, chỉ có người chịu nhịn được với những lời lẽ của kẻ nhỏ hơn mình, hèn kém
hơn mình, các bậc trí thức mới hằng ca tụng ngợi khen người ấy là người nhẫn
nại cao thượng."
Vậy nhận chịu được những lời nói
và hành động của người nhỏ hơn mình mới gọi là nhẫn nại.
Khi xưa thường có trận giặc giữa
A tu la vương và chư thiên. Lúc nọ Đức Đế Thích thắng trận bắt được A tu la
vương tên là Vepacitta đem về trói lại cột cờ. A tu la vương chửi mắng Đức Đế
Thích rằng: "Ngươi là kẻ cướp, là kẻ hung ác, ngươi là bò, là lừa, là lạc
đà, là loại địa ngục, là súc sanh, người không còn đường sanh về cõi trời nữa,
chỉ còn sanh vào ác đạo thôi. Không phải ngươi thắng hoài đâu. Ngày nào A tu la
thắng, khi ấy ta sẽ cột ngươi như thế này, để ngươi nằm trước A tu la và sẽ
đánh ngươi."
Khi ấy có một vị chư thiên tên
Matalī hỏi Đức Đế Thích rằng: "Đại vương nhẫn nại để cho bọn A tu la chưởi
mắng như thế này, vì sợ hay vì nhẫn nại?"
- Không phải ta sợ Vepacitta mà
nín đâu, mà chỉ vì sự nhẫn nại, nhẫn nại mới là cao quí tuyệt đối. Kẻ nào có
sức mạnh (các thứ thế lực) mà lại nhẫn nại đối với kẻ dưới tay mình, yếu thế
hơn mình mới là cao quí. Vì kẻ yếu hơn mình, mình có thể hiếp đáp được trong
mọi trường hợp (nếu ta muốn).
Ý Đức Đế Thích nói rằng: A tu la
vương trong tay ngài muốn hành hạ cách nào cũng được, nhưng đây là sự nhẫn nại
của ngài. Chú giải có dạy rằng: Làm lợi ích cho ai cũng không bằng làm lợi ích
cho mình, mà những phương pháp làm lợi ích cho mình cao quí nhất là nhẫn nại.
Đức Phật dạy trong Pháp Cú kinh
rằng: "Người không làm hại kẻ khác chửi mắng mình, đánh đập mình và bắt
mình, người mà nhẫn nại được như vậy. Như Lai gọi người ấy là người có sức
mạnh, có một đạo binh hùng mạnh (là nhẫn nại), gọi người ấy là Bà la môn".
Chú giải của câu Phật ngôn này
dạy rằng: Người nhịn nhục được với tất cả sự khổ nhục vì bị người khác đưa đến
không buồn giận,vì có nhiều lòng nhẫn nại. Đức đánh đuổi được tội lỗi một cách
dễ dàng. Chú giải bài kinh Vasettha viết rằng người không giận trả lại
người sân hận là người thắng được trận giặc mà khó có người thắng được. Theo
câu này cho ta thấy rằng sự giận trả lại người sân hận, là sự rất hèn. Người
muốn có sự nhẫn nại, trước hết nên tập trí nhớ để kềm chế tâm và quan sát tâm,
đừng để tâm đi quá phạm vi của nó là nhẫn nại.
Nhờ có trí nhớ nên ta không quên
mình, không bị bên ngoài chi phối. Nên nhớ rằng người đang giận dữ là người
thiếu cả lương tri, nên mới la lối hay làm những gì mà khi họ không thể làm,
khi chưa giận dữ. Như thế họ không khác nào người điên.
Đức Phật có dạy sự nhẫn nại sẽ
thắng được khó khăn trên đời. Sự nhẫn nại ví như lưỡi gươm rất bén, cắt đứt
được tất cả trở ngại trên đường đời như trong đường đạo.
Xin nhắc lại nhẫn nại có 5 điều
quả báo:
1. Piyomanāpo: người có
nhẫn nại là người có rất nhiều người thương quý mến yêu.
2. Naverabahulo: người có
nhẫn nại là người không có nhiều oan trái.
3. Navajabahulo: người có
nhẫn nại người không có nhiều tội lỗi.
4. Navajjabahulo: người
có nhẫn nại là người không kinh sợ si mê trong khi sắp lâm chung.
5. Sugatim: người có nhẫn
nại là người được sanh về cõi trời sau khi chết.
Có rất nhiều Phật ngôn nhắc nhở
người không nên sân hận và nên nhẫn nại. Tôi xin nhắc lại đôi câu để quí vị làm
tài liệu:
Akkodham vadabandhaca aduttho yo
titikkhati
Khantibalam balanīkam tamaham
brūmi brah-manam.
Nghĩa là người nào không làm hại
người chửi mắng, đánh đập, bắt bớ (mình), người có sự nhẫn nại (với những thái
độ vừa kể) như thế, ta gọi người ấy là người có sức mạnh là nhẫn nại, có đoàn
quân tinh nhuệ, là người thả trôi hết các tội lỗi.
Sadatthaparama attha khantya
bhiyyo na vij-jati yo nave balavasanto dubbalassa titikphati tama-hu paramam
khamtim niccam khipati dubbalo.
Nghĩa là tất cả sự lợi ích, chỉ
có sự lợi ích của ta là quý nhất, không có sự lợí ích nào cao quý bằng sự lợi
ích của nhẫn nại. Kẻ nào có uy quyền sức mạnh mà nhịn chịu người yếu kém hơn
mình, các bậc trí thức hằng ngợi khen sự nhẫn nại cao quý tuyệt đối mà người
yếu thế thường hay luôn quấy rầy.
Sự nhẫn nại làm cho người được
hạnh phúc là:
1. Là phước vĩ đại.
2. Tạo nên sự đoàn kết.
3. Có rất nhiều người thương
mến.
4. Không có sự quấy ác là oan
trái oán thù.
5. Được hưởng mọi sự cao quý.
6. Được ba điều lợi ích.
7. Được đồ trang điểm rất quý
giá.
8. Được gọi là bậc trí thức.
9. Là người làm cho tâm mình an
trụ.
10. Là người ôn hòa.
11. Là người có tứ vô lượng tâm.
12. Là người chắc chắn sẽ đến
Niết Bàn.
HẠNH PHÚC XXVIII
Sovacassatā
Nết hạnh người dễ dạy
Nết hạnh người dễ dạy sẽ giảng
về ba điểm:
- Hạng người dễ dạy.
- Phương pháp hành cho ra người
dễ dạy.
- Hạnh phúc sanh lên do sự dễ
dạy.
Hạng người dễ dạy: Đó là
hạng người, khi có ai dạy điều hay lẽ phải, không tỏ vẻ buồn giận hay làm như
không nghe, trái lại tỏ vẻ hết lòng biết ơn người chỉ bảo lỗi của mình. Người
đời không ai tránh khỏi sự lầm lỗi, may có người nhắc nhở thì gắng ăn năn hối
cải, mới mong được an vui.
Các bậc trí thức nói về người dễ
dạy rằng người ấy có một bửu vật để nương nhờ, vì Phật có dạy trong bài kinh Sattamasutta,
bộ Anguttara-nikāya, rằng: "Này các thầy Tỳ khưu, các thầy nên dễ
dạy, có nhẫn nại vui lòng vâng giữ lời chỉ dạy, hạnh này mà hạnh các thầy nương
nhờ". Trong câu Phật ngôn này nói nhẫn nại theo chú giải có dạy. Trong lúc
đã phạm vào điều quấy, bị người chỉ trích không bao giờ buồn, hơn nữa nếu làm
phải có người chỉ trích cũng không cãi lại. Như thế mới hoàn toàn.
Trong bài kinh Ammānasutta,
Đại đức Mục Kiền Liên có dạy rằng nếu có vị Tỳ khưu nào trình bày rằng:
"Xin quý ngài vui lòng chỉ bảo những điều sai lầm để lánh, điều chánh để
tôi hành", ngoài miệng nói như vậy, nhưng khi có người chỉ bảo thì không
tuân theo, đây không gọi là dễ dạy. Người dễ dạy không yêu cầu các bậc trí thức
chỉ dạy, nhưng khi nghe thấy điều xấu xa của kẻ khác thì cố xa lánh những điều
xấu ấy, gắng hành điều lành, người ấy cũng gọi là người dễ dạy.
Người dễ dạy có hai hạng: một
hạng đáng khen và một hạng đáng chê. Phật ngôn dạy trong bài kinh Kakacupamasutta
rằng: "Này các thầy Tỳ khưu, vị Tỳ khưu nào là người dễ dạy, có tính dễ
dạy vì lẽ là được lợi lộc như y phục, vật thực, chỗ ở, thuốc. Như Lai không gọi
vị ấy là người dễ dạy. Này các thầy Tỳ khưu, vì nếu các vị ấy không có y phục,
vật thực, chỗ ở và thuốc, thì sẽ không dễ dạy."
Đây ý Đức Phật dạy rằng người
làm bộ vâng lời để kẻ khác thường cho đồ, chứ không thực tâm hành theo. Có câu
Phật ngôn dạy: "Này các thầy Tỳ khưu, các thầy Tỳ khưu nào không vì lẽ
được lợi lộc cúng dường, không vì lễ lộc mà dễ dạy, Như Lai mới gọi là người có
tánh dễ dạy."
Vậy các thầy Tỳ khưu nên nhớ
rằng chúng ta chỉ cúng dường (sự hành đạo) do Pháp bảo, kính trọng pháp làm ra
người dễ dạy, chớ không phải vì lễ lộc mà vâng lời làm như người dễ dạy.
Người hết lòng cung kính giáo
pháp, không ỷ mình giàu có, sang trọng, quyền chức, niên cao, kỷ trưởng mà dễ
dạy; những người ấy gọi là người biết hành theo pháp giải thoát, như trong tích
của ngài Rādha sau đây:
Ngài Rādha trước kia là Bà la
môn, nhưng sau khi xuất gia theo Phật giáo, nhưng vì già không đủ trí nhớ để
hành theo phạm hạnh. Vì ông già, nên thường nghĩ đời sống thừa của ông còn rất
ít, nên ông cố hết sức hành và vâng lời dạy bảo của ngài Đại đức Xá Lợi Phất,
nên sau ba tháng xuất gia ngài đắc quả A La Hán.
Đức Xá Lợi Phất dẫn ngài về lễ
Phật. Đức Thế Tôn hỏi: "Xá Lợi Phất, đệ tử của thầy có dễ dạy không?"
- Bạch Đức Thế Tôn, thầy Rādha
thật là dễ dạy, một khi đệ tử chỉ bảo điều nào, thì vâng giữ hành theo, không
buồn giận hay tỏ vẻ bất bình.
Nhân dịp ấy, Đức Thế Tôn mới dạy
rằng: "Này các thầy Tỳ khưu, lẽ cố nhiên khi làm một vị Tỳ khưu nên dễ dạy
như Rādha, mặc dù chỉ trích cũng không buồn. Này các thầy Tỳ khưu, người dạy
bảo ta không khác nào người chỉ mỏ vàng cho ta".
Trong câu này Đức Phật ngụ ý dạy
rằng có người nghèo bị mắng chưởi xong lại chỉ cho một hầm vàng, người nghèo ấy
không bao giờ buồn giận, trái lại còn được mang ơn vì được hầm vàng. Cũng như
khi ta làm tội, có người trông thấy chỉ dạy ta, ta bỏ ác về thiện, thì sẽ được
an vui trong hiện tại và hạnh phúc trong vị lai, khác nào ta được mỏ vàng vô
giá, thì ta có lý gì mà giận.
Những người dễ dạy hằng gặp được
sự hạnh phúc, nhất là khỏi khổ và được an vui hay giải thoát khỏi luân hồi, như
sự tích trong Túc sanh truyện tên Vatipalattha trong Dutiyavagga
Eka-nirāta như sau:
Có năm trăm người lái buôn, sắm
các vật liệu để đi buôn xa, vì phải trải qua những biển to và đi ngang qua một
hòn đảo tên Tambapānni, là nơi nhiều dạ xoa cái. Khi có ghe thuyền bị đắm, dạ
xoa vớt người lên đem về, trước là thỏa mãn tình dục sau thì ăn thịt. Đi đến
hòn ấy, ghe của năm trăm người bị đắm. Dạ xoa vớt cả về đảo. Dạ xoa ấy nói:
"Hôm nay thật là may mà tôi vớt được các người về, chồng chúng tôi cũng là
lái buôn, trước đây ba tháng, đi buôn bị đắm ghe chết hết, chúng tôi ở đây
thiếu người hầu bạn, vậy các người ở lại với chúng tôi". Những người ấy vì
ham mê sắc đẹp, nên không ngần ngại, nhận chịu liền. Trong số ấy có ông thuyền trưởng
lấy làm lạ, vì mỗi đêm vợ ông đi vắng một lúc mới về. Ông sanh nghi mới rình
xem thì bắt gặp vợ ông hiện nguyên hình là dạ xoa ăn thịt người.
Ông thừa dịp kêu các người kia
trốn, chỉ có 250 người nghe lời ông trốn thôi, còn những người kia vì ham mê
theo trần dục nên không nghe lời. Trong khi đó có con ngựa tên Valāhaka ở tại
rừng Tuyết Lãnh có thần thông bay đến hòn đảo ấy và gặp 250 người kia hỏi có
muốn về quê hương không. Những người ấy xin về, ngựa cho lên lưng bay đi, đưa
những người về tới quê hương được an vui.
Sau khi thuyết tích này cho chư
vị Tỳ khưu trong dịp ngài Xá Lợi Phất dắt đệ tử Rādha về lễ Phật, Đức Thế Tôn
mới dạy rằng: "Này các thầy Tỳ khưu, những người lái buôn vì say đắm sắc
đẹp của dạ xoa nên bị hại, những người kia biết nghe lời mới khỏi chết được
hạnh phúc. Nếu hàng tứ chúng không nghe lời giáo huấn của Như Lai thì sẽ bị khổ
trong bốn đường ác đạo (vì những việc ác). Nếu biết vâng giữ và thực hành theo
lời của Như Lai, thì sẽ có ba điều lợi ích là: được sanh về cõi trời, cõi Phạm thiên
và Niết Bàn". Rồi Đức Thế Tôn mới dạy câu kệ: "Kẻ nào không thành
thật thực hành theo lời của Như Lai, kẻ ấy bị tai hại như những người đi buôn
vậy. Còn kẻ nào biết vâng lời thì sẽ đến nơi an vui".
Trong lời dạy trên đây Đức Phật
nói đến hàng tứ chúng, chứ không chỉ nói đến hàng xuất gia. Bài kinh Chattasutta
trong bộ Anguttara Nikāya có dạy rằng: "Các thầy Tỳ khưu khó dạy,
hành theo phương pháp trở nên người khó dạy, không nhẫn nại, không nghe lời
giảng dạy. Hai điều này làm cho Phật giáo suy đồi. Những vị Tỳ khưu nào dễ dạy,
chính những vị ấy là những vị trọng Pháp bảo. thật sự những người ấy gọi là
người dễ dạy".
Nếu ta muốn biết ai là người dễ
dạy thật sự thì hãy xem hành động của họ:
a) Nghe lời giáo huấn một cách
kính trọng.
b) Vâng giữ hành theo thiện
pháp, ý nói hiểu rằng mình quấy rối, cố dứt bỏ cái quấy và cố hành theo điều
thiện, không nghĩ rằng mình hành để người khen tặng.
c) Biết ơn người chỉ bảo, ý nói
ngoài ra sự hành theo lời dạy bảo của các bậc trí thức, còn biết ơn không luận
người dạy mình ấy trẻ hay già, hoặc hạng người nào, miễn là chỉ đường người
giải thoát cho mình là mình biết ơn.
Làm thế nào mới trở nên người dễ
dạy? Nếu muốn trở nên người dễ dạy, có 16 điều mà Đức Thế Tôn
đã dạy trong bộ kinh Majjhimanikāya Mullapaññāsaka. Đó là:
1. Pāpiccha: không tham
muốn đê tiện.
2. Attukkhamsakh hoti:
không tự cao mà chê kẻ khác.
3. Kodhena hoti
kodhabhibhūto: không sân hận, không dễ bị sân hận.
4. Kodhahetu upanahī:
không oán hận.
5. Kodhahetu abisante:
không chửi mắng kẻ khác.
6. Kodhasamantam vacam
niccharenti: không cãi lại.
7. Cudiko codakena codakam
apasadeti: không cãi lại khi bị cáo.
8. Cudiko codaken codakanissa
paccaro peti: tiên cáo cũng chẳng cáo bị cáo.
9. Cudipo codakena
codakanissa paccaro peti: người bị cáo cũng không thưa lại bị cáo.
10. Người bị cáo cũng không dấu
lỗi, nếu có và cũng không chối.
11. Người bị cáo cũng chẳng đôi
co hỏi chứng cứ.
12. Không nên quên ơn các bậc có
ơn, và nhắc nhở sự lỗi lầm.
13. Không ganh tị.
14. Không khoe mình.
15. Không cứng đầu.
16. Không tà kiến, nghĩa là chưa
thấy bằng mắt thì không tin .
Mười sáu điều này có được trong
tâm những ai là người có thể đi đến nơi an lạc.
Người dễ dạy có 11 thái độ:
1. Avikkhepo: không lẫn
tránh khi mình phải bị các bậc trí thức răn dạy.
2. Atunhibhavo: không yên
lặng, nghĩa là không phải chỉ nghe mà thôi, còn phải thực hành theo lời dạy.
3. Guadosa acintano:
không bao giờ để tâm oán hận, hay ghét các bậc trí thức dạy mình.
4. Ativiya ādāro: vui
lòng với những lời giảng dạy.
5 Ativiya gāravo: hết sức
kính trọng lời giảng dạy, nghĩa là khi nghe rất cung kính.
6. Ativiya nicamanatam:
tỏ ra lễ phép.
7. Sādhūñti vacanakaranata:
có lòng phấn khởi và thỏa thích khi được nghe lời giáo hóa.
8. Avippatikūlaggato:
không hề hành trái với lời giảng dạy.
9. Avippacanīkasato: thích
sự hành đúng theo chánh pháp.
10. Padakkhinaggahi: hằng
thọ lãnh lời giáo huấn một cách rất cung kính.
11. Khamo: là người nhẫn
nại.
Hạnh phúc sanh lên do sự dễ dạy: Dễ dạy
đem sự hạnh phúc đến như:
1. Là pháp mà mình nương nhờ
được.
2. Là người mà các bậc trí thức
rất vui lòng dạy bảo.
3. Là nguyên nhân dứt bỏ được
tội lỗi và làm cho phước thiện tăng trưởng.
4. Là nguyên nhân làm cho người
khác thương mến chỉ dạy Chánh pháp.
5. Là người ở gần với sự đắc đạo
quả.
6. Là nguyên nhân đắc được ba
điều an lạc.
HẠNH PHÚC XXIX
Samaṇānañca dassanaṃ
Nết hạnh được thấy, được gặp các vị Sa môn
Vấn đề Sa môn xin giảng về ba
điểm:
1. Người thế nào gọi là Sa môn.
2. Sự được thấy được gặp các bậc
Sa môn.
3. Khi được thấy được gặp các
bậc Sa môn sẽ được gì?
Phạn ngữ Samana tạm dịch
là Sa môn có nghĩa là thanh tịnh hay trong sạch. Thầy Sa môn là người xa thập
ác, không làm hại người hay vật, không ganh tị, là người có thân, khẩu, ý lành.
Tóm lại Sa môn nghĩa là không có
phiền não, hay phiền não đã vắng lặng rồi.
Thầy Sa môn là người thường hay
quán tưởng, suy xét để sưu tầm chân lý, là người đang hành trình trên con đường
của các bậc thánh nhân.
Những người tự xưng mình là Sa
môn nhưng không có những pháp của vị Sa môn, những người ấy ví như kẻ cướp, rất
lợi hại, mà nhà chức trách không biết để bắt. Vì tướng cướp ấy không có khí
giới trong tay mà chỉ có lớp áo nhà tu bên ngoài.
Nơi đây tôi xin đem mấy câu Phật
ngôn dạy trong bộ kinh Pháp Cú hầu quí vị làm tài liệu.
Na mundake samano abbato valikam
bhanam icchā lobhasamāpanno kim bhivisati: Người không phải thành
vị Sa môn vì đầu trọc, chỉ nói rỗng, không lo làm phận sự, có đầy sự ganh tị,
tham lam thì gọi là Sa môn sao được?
Lại có câu: Yo ca sameti
papani anum thūlani sabbaso smitatahi papanam samanoti pavuccati, người mà
Như Lai gọi là Sa môn, phải là người dứt bỏ sự làm tội lỗi lớn nhỏ.
Đây là pháp để chúng ta nhận
định vị Sa môn:
1. Upasamitakileso: các
phiền não trong lòng đều vắng lặng.
2. Bhavitakayavacñcittappanno:
thân. khẩu, ý và trí tuệ đã được tiến hóa.
3. Uttamasamathasamannagato:
có sự dạy mình rất hoàn toàn.
Vị Sa môn có những thái độ sau
đây:
1. Không làm hại nhân vật nào
cả, nghĩa là nếu còn làm hại nhân vật nào hay xúi dục kẻ khác làm hại nhân vật
khác, thì người ấy không gọi là Sa môn. Sa môn là người diệt bỏ những sự giết
hại nhau và mặc dù lời nói hơi bất khiếm nhã cũng không bao giờ dùng đến.
2. Không vì tư lợi. Thầy Sa môn
tự thấy, nếu còn sống ngày nào, dùng những ngày sống ấy để lo tu hành hầu mau
giải thoát thôi, không hề làm việc gì ngoài việc tu. Thầy Sa môn không hề làm
gì, nói gì đến sự lợi lộc cho mình, ít nhất là sự mơ ước tư lợi cho mình cũng
không bao giờ nghĩ đến, và nếu có, thì cố gắng diệt trừ.
3. Hành theo pháp Sa môn. Thầy
Sa môn là người xa hẳn thế tục, nên không có phận sự gì có dính dáng đến thế
tục, chỉ có phận sự là dạy mình, nghĩa là luôn luôn lánh phiền não, cũng như
người thợ bạc luôn luôn lọc lấy vàng nguyên chất, vứt bỏ cặn bã dơ trong vàng.
4. Hành theo pháp Tapa. Tapa
nghĩa là lửa hay là nóng, ý nói rằng thầy Sa môn luôn luôn lo diệt trừ phiền
não bằng các phương pháp như trì giới, nhẫn nại tham thiền minh sát tuệ.
Sa môn xét trong nghĩa thanh
tịnh thì là thân thanh tịnh, không lẫn phiền não như đánh đập hay giết hại
người hay thú. Thầy Sa môn ở nơi nào, không bao giờ làm hại nơi ấy, khi đứng
dưới cây cũng không làm rụng một lá cây. Đức Thế Tôn có khen Đức Mục Kiền Liên
rằng ngài là bậc có thần thông, mà không bao giờ làm phiền lòng một chúng sanh
nào.
Khẩu thanh tịnh nghĩa là không
bao giờ phạm vào một tiếng nói vô ích trong ác khẩu.
Tâm thanh tịnh nghĩa là tâm đi
ngoài vòng tội lỗi, nghĩa là không để phiền não xâm nhập vào và nếu chưa đắc
quả cao thượng thì rất có tâm diệt trừ phiền não bên trong.
Phật ngôn còn có dạy thêm pháp
để ta nhận biết vị Sa môn: Onodaro yo sahetu jigaccham danta tapasix
mitapanabhojano aharahetu nakaroti tam ve na ram samanamahu loke.
Nghĩa là người nào có nhẫn nại
với sự đói khát, dạy mình, hành theo pháp Tapa (pháp nóng), biết độ
lượng về vật thực và không vì miếng ăn mà làm tội, thì Như Lai gọi người ấy là
Sa môn.
Vị Sa môn nào có đủ bốn pháp
trên nên gọi là Sa môn.
Sa môn đối với bậc xuất gia và
Tỳ khưu như thế nào? Xuất gia là tiếng nói chung, chỉ các bậc trí thức trông
thấy người còn có gia đình là còn khổ, nên dứt bỏ gia đình hoặc thọ bát quan
trai ở trong rừng làm đạo sĩ, hay thọ thập giới, cũng ở trong rừng làm đạo sĩ
để hành một hạnh nào theo ý của mình.
Tỳ khưu, Phạn ngữ gọi là Bhikkhu,
nghĩa là Khất sĩ, hay nói dễ hiểu hơn, là xin ăn; còn có nghĩa cao hơn, là
người diệt trừ phiền não. Vị Tỳ khưu là một vị trong Phật giáo phải hành theo
Tứ thanh tịnh giới (xin xem quyển Luật Xuất Gia của Đại đức Hộ Tông).
Chủ giải có dạy nếu người nào
được gặp các bậc Sa môn thì nên:
1. Upasankamanam: đến
gần, ý nói đến hầu để học hỏi pháp giải thoát, ngoài ra nên giúp đỡ các ngài
những gì ta có thể giúp.
2. Upatthānam: cúng dường
tứ vật dụng đến các ngài
3. Anūsāsanam: nhớ đến
các ngài, ý nói nhớ đến công, đức của ngài và các Pháp của các ngài dạy ta.
4. Savanam: nghe lời dạy
bảo của các ngài, không dám dễ duôi.
5. Dassanam: thấy, gặp, ý
nói thấy và gặp bằng nhục nhãn, nghĩa là khi ta trông thấy các bậc có giới, đức
trong sạch, thì tâm ta phát sanh lòng tôn kính và muốn vào hầu để học pháp.
Nhưng đây chỉ nói là sự thấy và gặp bằng nhục nhãn khiến phát tâm trong sạch.
Phát tâm như vậy vẫn được quả báo như trong sự tích sau đây:
Ngày nọ Đức Thế Tôn ngự đến hang
Indasalā, có một con chim cu đang đậu bên vệ đường, trông thấy Đức Thế Tôn có
hào quang sáng ngời, nó liền phát tâm trong sạch. Đến sáng ngày Đức Thế Tôn ngự
đi khất thực, chim cu lại bay theo, vì nó thấy Đức Thế Tôn trang nghiêm. Ngày
khác, chim cu thấy Đức Thế Tôn ngự đi, có chư Tăng theo hầu, mỗi vị đều có lục
căn thu thúc, càng làm cho Đức Thế Tôn thật là trang nghiêm không tả được. Chim
cu phát tâm kính thành và rất trong sạch, không còn biết làm sao để tỏ lòng
kính thành, liền bay xuống đứng giữa đường đi, hai cánh chấp lên, đầu cuối
xuống tỏ vẻ đảnh lễ Đức Thế Tôn. Đức Thế Tôn thấy vậy biết định ý của chim cu
nên Ngài mỉm cười và bảo Ānanda rằng: "Này Ānanda, chim cu này có tâm
trong sạch với Như Lai và chư Tăng, là bậc có đức hạnh cao thượng, sau khi chết
sẽ được sanh về cõi trời và về sau sẽ đắc quả Độc Giác Phật, tên là Somanassa,
đây là do nơi quả của sự được thấy gặp các bậc Sa môn".
Trong bộ kinh Bojjhangasamyutta
Đức Thế Tôn có dạy rằng:
"Này các Thầy Tỳ khưu, vị
Tỳ khưu nào có giới, định, tuệ giải thoát và giải thoát tri kiên đầy đủ, này
các thầy Tỳ khưu, thì sự trông thấy, gặp các vị ấy, Như Lai gọi là sự thấy đem
sự lợi ích; khi được vào hầu các vị ấy, được xuất gia theo các vị ấy, thì Như
Lai gọi là thấy và gặp sự lợi ích vĩ đại.
Tại sao vậy? Các thầy Tỳ khưu
khi người được nghe pháp của các vị ấy thì sẽ được hai điều là xa thân và xa
khẩu (ý nói thân xa nơi đô thị, ở nơi thanh vắng, khẩu thanh tịnh, không nói
lời vô ích).
Khi các thầy Tỳ khưu xa hai điều
ấy thì tâm hằng nhớ đến các thiện pháp và suy nghĩ các thiện pháp, hằng niệm
tưởng các pháp gọi là Satisamboj-jhanga, niệm giác chi, nghĩa là nhờ sự
niệm (nhớ) ấy mà giác ngộ (niệm đây có ý nói là tứ niệm xứ).
Một khi được có trí nhớ đầy đủ
rồi, thì có trí tuệ thông hiểu các pháp, khi có trí tuệ thông hiểu các pháp ráo
rốt thì đắc được Dhammavicaya-sambojjhanga, trạch pháp giác chi, nghĩa
là sự nghĩ mà giác ngộ.
Khi cố gắng suy nghĩ các pháp
được chu đáo thì đắc được Viryasambojjhanga, tinh tấn giác chi, nghĩa là
nhờ sự tinh tấn mà giác ngộ.
Khi sự cố gắng tinh tấn được
hoàn toàn rồi, thì đắc được hỷ lạc; đây không phải hỷ lạc của tình dục, hỷ lạc
này sanh lên do sự tinh tấn, gọi là Piti-sambojjhanga, hỉ giác chi,
nghĩa là hỉ lạc là nhân giác ngộ.
Khi thầy Tỳ khưu cố gắng hành
thêm hoàn toàn, thì tâm sẽ được thanh tịnh. Khi thân tâm được thanh tịnh thì Passadhisambojjahanga,
khinh an giác chi, nghĩa tâm thanh tịnh là nhân giác ngộ phát sanh.
Khi thân, tâm được trong sạch an
vui triệt để phát sanh chừng ấy Samadhisambojjhanga, định giác chi,
nghĩa là sự an trụ của tâm là nhân sanh giác ngộ phát sanh.
Này các thầy Tỳ khưu, khi mà tâm
được hoàn toàn an trụ thì Upekkhasambojjhanga, xả giác chi, nghĩa là sự
bỏ hết mọi việc còn có tính cách luân hồi trong tam giới, là nhân giác ngộ phát
sanh."
Theo bài kinh Sampaññasīlasutta
trong Patha-mavagga, Đức Phật có dạy rằng: "Này các thầy Tỳ khưu,
sự gặp sự thấy các vị Tỳ khưu ấy, sự vào hầu các vị Tỳ khưu ấy, sự vào ngồi gần
các vị Tỳ khưu ấy, sự xuất gia theo các thầy Tỳ khưu ấy, Như Lai gọi là được
nhiều sự lợi ích. Tại sao vậy? Vì khi thầy Tỳ khưu thân thiện, vào hầu, vào
ngồi gần các vị Tỳ khưu như thế (ý nói có đức hạnh thanh cao), thì làm cho giới
đức của ta chưa trong sạch trở nên trong sạch, thiền định chưa trong sạch trở
nên trong sạch, trí tuệ chưa được viên mãn hoàn toàn viên mãn, giải thoát chưa
được hoàn toàn lại được hoàn toàn, giải thoát tri kiến chưa được hoàn toàn thì
lại được hoàn toàn mỹ mãn".
Theo những lời giảng giải trên,
ta thấy sự gặp thấy các bậc Sa môn như vậy mới cao thượng, mới gọi là nết hạnh
được thấy, được gặp các bậc Sa môn. Được thấy và gặp các bậc Sa môn bằng tuệ
nhãn, như vậy mới hoàn toàn cao thượng tuyệt đối.
Thấy bằng tuệ nhãn có sáu điều
thù thắng:
1. Trông thấy thánh pháp của các
bậc thánh nhân thấy là minh sát tuệ, đạo quả, thập nhị duyên khởi.
2. Sự thấy rõ đặc ân của thánh
pháp là: Giới, Định, Tuệ và đạo quả.
3. Đạt được các pháp mà các bậc
thánh nhân đã đắc, định, tuệ và đạo quả.
4. Đã thành thánh nhân bởi đắc
minh sát tuệ.
5. Thấy biết rõ sự thật của Niết
Bàn.
6. Đắc đường lục thông.
Sự gặp thấy các bậc Sa môn được
hạnh phúc là:
1. Được làm phước thiện.
2. Thấy bồ đề phần phát sanh.
3. Được đắc giới, định, tuệ,
giải thoát và giải thoát tri kiến,
4. Được xuất gia theo các ngài.
5. Mắt không bị mây mù (vô minh)
che án.
6. Không dễ duôi.
7. Được cúng dường Tam Bảo.
8. Giải thoát khỏi phiền não.
9. Được đến nơi vô sanh bất
diệt.
HẠNH PHÚC XXX
Kālena dhammasākacchā
Tánh cách biện luận Phật pháp theo thời
Sự biện luận Phật pháp theo thời
làm cho trí tuệ tăng trưởng, làm cho tâm được an vui trở nên thấy xa hiểu rộng.
Biện luận Phật pháp có mục đích giải cho rõ lý của Phật ngôn. Người biện luận
luôn luôn không nên lấy ý kiến của mình. Tôi không nói rằng ý kiến của con
người là quấy, nhưng ý kiến ấy phải cho đầy đủ nhân quả, lý lẽ và hợp tình cảnh
mới có thể chấp nhận được. Điều cần yếu muốn biện luận Phật pháp, trước hết ta
nên bỏ lòng ngã ái tự cao, cho rằng ta đây là người thông hiểu hơn những người
có mặt nơi đây, nhưng vì ngã mạn như thế mình không chịu nghe theo ý kiến, hay
lời nói đúng theo Phật pháp của người khác. Tám muôn bốn ngàn pháp môn của Phật
truyền lại không phải là ít, ta không nên ngã mạn khi học sơ qua ba chuyện Túc
Sanh truyện hay một ít pháp số, mà tự xem mình là bậc thông suốt lý lẽ của Phật
ngôn. Khi người có tánh tự cao, ngã ái, thì không thể biện luận Phật pháp và
không thể được an vui.
Sự biện luận Phật pháp chỉ có
năm chi là:
1. Aditthajotasākaccha: biện
luận để hiểu thêm pháp mà mình chưa thông hiểu
2. Ditthasamsandanasākaccha:
biện luận pháp để hiểu rõ thêm pháp mà mình đã hiểu rồi. Khi ấy lợi ích phát
sanh đến ta.
3. Vimatticchedanasākaccha:
biện luận pháp để giải sự nghi ngờ của mình.
4. Anumattisākaccha: biện
luận pháp hầu tìm sự thật.
5. Kathetukamyatasākaccha:
biện luận pháp bằng cách vấn đáp với bạn hay tự vấn đáp với mình.
Tóm lại, sự biện luận Phật pháp
là nhân đem lại hạnh phúc, là riêng dành cho người muốn tìm lấy con đường giải
thoát cho mình, chớ không phải tranh biện để giành sự khen lại cho mình. Nói
đến sự biện luận Phật pháp, tôi không thể quên tích Đại đức Xá Lợi Phất khi còn
là người cư sĩ.
Xá Lợi Phất và Mục Kiền Liên là
hai người bạn rất thân, hai người đều là con của trưởng giả. Ngày nọ trong
thành Vương xá có lễ, hai người rủ nhau đi xem.
Ngày ấy là duyên lành của hai
người đã đến, nên khi xem hát hai người đều có cảm tưởng rằng đời người không
khác chi anh kép hát trong một vở tuồng, khi mang râu đội mão là vua chúa, có
khi vợ chồng lại đóng làm mẹ làm cha, làm người thù nghịch, khi bỏ mão râu ra
là anh kép hát. Cuộc đời thay đổi như thế không có gì gọi là vui đẹp.
Hai ông liền đem ý kiến ấy ra
bàn với nhau, thì đồng có ý kiến là tìm đường giải thoát ra ngoài vòng giả dối
này. Vì duyên lành chưa đến nên hai ông chưa gặp Phật. Hai ông mới vào học đạo
với ông Sanjeyya. Vì nhờ thông minh, nên hai ông học trong mấy ngày thông thấu
triệt để giáo pháp của Sanjeyya. Hai ông bảo nhau rằng: "Đây không phải là
đường giải thoát, vậy chúng ta chia nhau đi tìm pháp giải thoát, nếu ai tìm
được phải cho nhau biết". Rồi chia mỗi người đi một ngã.
Trong khi ấy, Đức Thế Tôn đã
thành đạo và đã có 61 vị đại A La Hán, và Ngài cho mỗi vị đi một nơi để truyền
chánh pháp. Đại đức Assajji là một trong năm vị kiều trần như đi về thành Vương
xá, ngài ở Trúc Lâm tịnh xá. Sáng ngày, ngài đi khất thực, ông Xá Lợi Phất gặp
được ngài và nghe ngài thuyết giảng (đoạn này đã có giải ở đoạn trước).
Sau khi nghe một câu kệ, ông Xá
Lợi Phất đã đắc Tu Đà Hườn. Ông về thuật lại cho ông Mục Kiền Liên nghe, ông
Mục Kiền Liên cũng đắc Tu Đà Hườn, nên hai ông mới quyết định theo Phật giáo.
Hai ông có tâm kính thành thầy
cũ là Sanjeyya nên vào khuyên ông xuất gia theo chánh pháp. Ông Sanjeyya không
nghe theo và hỏi rằng: "Trong đời này, người thông minh nhiều hay kẻ ngu
dốt nhiều?"
- Thưa thầy, người thông minh
ít.
- Vậy hai ông đi theo thầy Cồ
Đàm đi, để người ngu dốt cho ta.
Biết rằng không thể nào khuyên
ông ta theo chánh pháp, được nên hai ông về Trúc Lâm tịnh xá xuất gia theo
Phật.
Sự tùy thời thính pháp có quả
báo cao thượng như ngài Xá Lợi Phất.
Sự biện luận Phật pháp được
những hạnh phúc:
1. Là đại phước.
2. Là người rất giỏi về sự giải
đáp sự nghi ngờ của người khác.
3. Là người có nhiều trí nhớ và
trí tuệ.
4. Được nghe và được học các
pháp mà mình chưa từng nghe.
5. Pháp mà đã học rồi nhưng chưa
hiểu làm cho ta hiểu.
6. Diệt bớt sự nghi ngờ.
7. Trở nên người chánh kiến.
8. Tâm trong sạch khi nghe pháp.
9. Là nguyên nhân cho người đắc
quả cao thượng.
10. Có thể giữ được pháp học,
pháp hành và pháp thành.
11. Có thể bố thí pháp được.
12. Làm cho Phật giáo được thịnh
hành.
13. Giữ được dòng thánh nhân (là
bậc thông Phật pháp có thể thuyết pháp cho người đắc đạo quả được).
14. Gọi là người đi theo thánh
đạo.