KỆ NGÔN VII
HẠNH PHÚC XXII
Gāravo
Sự tôn kính các bậc đáng tôn kính
Tôi xin
chia Hạnh phúc này ra làm ba phần để cho quí vị dễ nhận định;
- Tôn kính là gì?
- Thế nào gọi là tỏ vẻ tôn kính?
- Có nhiều lý lẽ khác nhau.
Sự tôn kính là sự hành động của
người tôn kính. Xin đừng tưởng rằng lạy lục, chào hỏi, gọi là tôn kính. Lạy lục
chào hỏi chẳng qua chỉ là hành động bên ngoài. Người không có sự tôn kính trong
thân tâm, họ cũng vẫn hành được, vì đó là sự giả vờ bên ngoài.
Sự thật của sự tôn kính ta không
thể trông thấy bằng mắt được. Phạn ngữ gọi là Gārava (tôn kính). Chữ Gārava
biến thể từ chữ Gāru, nghĩa là nặng, ý nói rằng: ta thành thật tôn kính
với tất cả tâm kính thành đối với các bậc như cha mẹ thầy tổ v.v... Tôn kính là
tôn thờ và kính trọng.
Khi ta đến một nơi nào gặp một
nhân vật trọng yếu, hay là đển chỗ phụng thờ tôn nghiêm, ta thấy lòng ta phát
sanh ra sự tôn kính ở bên ngoài.
Phật giáo cho sự chào hỏi rất lễ
phép bên ngoài cũng chưa phải hoàn toàn là tôn kính, mà chú trọng đến là sự tôn
kính ở trong tâm.
Chú giải có dạy rằng: người biết
tôn thờ, kính trọng các đấng có đặc ân cao cả như chư Phật, chư thánh nhân, chư
Tăng, bậc có giới đức, và cha mẹ, thầy tổ và những bậc trưởng thượng.
Trong bài kinh Culakammavibhanga
sutta ở Catutthavagga, Đức Thế Tôn có dạy người thanh niên tên Subha
rằng: "Này Subha, người nữ hoặc người nam trong đời này là người
cương ngạnh, ngã mạn, không chịu lễ bái các bậc đáng lễ bái, không chịu đứng
dậy tiếp rước, không chịu nhường chỗ ngồi cho bậc đáng nhường, không tiếp đãi
bậc đáng tiếp đãi, không kính trọng các bậc đáng kính trọng, không thân mến với
các bậc đáng thân mến, không cúng dường đến các bậc đáng cúng dường".
"Người ấy sau khi chết sẽ
bị sanh vào ác đạo, vì nghiệp mà tự mình đã làm ấy. Nếu người ấy không sanh vào
bốn đường ác đạo, khi được sanh làm người thì bị sanh vào gia đình thấp hèn.
Này thanh niên Subha, người có tánh cương ngạnh, ngã mạn ... không cúng
dường đến các bậc đáng cúng dường; chính người ấy tự tạo ra con đường đi đến
nơi gia đình dòng họ đê hèn".
"Này thanh niên Subha,
trái lại, người nam hay nữ ở trong đời này không cương ngạnh, không ngã mạn,
... cúng dường đến các bậc đáng cúng dường, người ấy sau khi thoát sanh, sẽ
được sanh về cõi thiên đàng vì người ấy tạo ra thiện nghiệp.
"Nếu người ấy không sanh cề
cõi trời, sanh lại làm người, thì sẽ được sanh vào gia đình cao thượng, gia
đình quí phái. Này thanh niên Subha, người không cương ngạnh, ngã mạn, ... cúng
dường đến các bậc đáng cúng dường, đó là hành vi của người đi đến cõi an
vui."
Theo Phật ngôn này thì ta thấy
rằng sự tôn kính này không tùy thuộc giai cấp xã hội, chỉ dành cho người có
tuổi tác, đức hạnh mà thôi.
Trong Túc sanh truyện, có một sự
tích dạy về sự tôn kính:
Có lúc nọ, chư Tăng hội lại rất
đông để hầu Phật. Nhiều thầy Tỳ khưu choán chỗ ở rộng lớn, có vị một mình chiếm
hai chỗ hoặc ba chỗ. Đại đức Xá Lợi Phất đến sau, không có chỗ ở, đành phải ra
ngoài trời, khuya lại đi kinh hành gặp Đức Thế Tôn. Đức Thế Tôn biết chuyện ấy
từ trước, nhưng để đến khi gặp Đức Xá Lợi Phất, Ngài mới hỏi lại sao lại ở
ngoài trời. Đức Xá Lợi Phất: "Vì tới trễ không có chỗ nghỉ".
Nhân chuyện ấy, sáng ngày Đức
Thế Tôn mới cho họp chư vị Tỳ khưu lại và nhắc tích rằng: Lúc quá khứ tại rừng
Tuyết Lãnh có một cây vừng to, nơi ấy là nơi cư ngụ của ba con thú. Ba con thú
ấy là chim đa đa, khỉ và tượng (voi), chơi với nhau rất thân, nhưng không biết
ai lớn nhỏ. Ba con thú ấy mới bàn với nhau rằng: "Chúng ta chơi với nhau
chưa đủ, vì chúng ta thiếu phép cung kính nhau, vì không biết kẻ nào lớn nhỏ để
chỉ dạy nhau".
Rồi chúng mới hỏi nhau rằng:
"Vậy chúng ta ai biết cây vừng này từ bao giờ?"
Tượng đáp: "Này các bạn,
trong khi còn là tượng con, mẹ tôi dẫn tôi đi ăn qua đây, thì cây vừng này còn
ở dưới bụng tôi. Tôi biết cây vừng ngay khi ấy."
Khỉ đáp: "Này các bạn, khi
tôi còn bú, tôi ngồi trên đất không cần phải ngước đầu lên, cũng có thể dùng
miệng cắn ngọn cây vừng này được. Vậy tôi biết cây vừng từ khi ấy".
Chim đa đa nói: "Này các
bạn, khi trước, bên kia có cây vừng to tôi ăn trái cây vừng ấy, về đại tiện nơi
đây, nên mới có cây vừng này được. Vậy tôi biết cây vừng từ khi ấy."
Từ lúc ấy trở về sau, khỉ và
tượng tôn kính chim đa đa lên làm anh cả; cả hai kính trọng vâng lời chỉ bảo.
Chim đa đa dạy khỉ và tượng phải giữ ngũ giới. Sau khi chết, cả ba đều sanh về
cõi trời.
Sau khi nhắc tích này xong. Ngài
dạy rằng: "Này các thầy Tỳ khưu, loài thú mà còn biết tôn trọng nhau,
phương chi các thầy, xuất gia theo giáo pháp của Như Lai, lại không biết tôn
trọng lẫn nhau."
Sau khi thuyết tích này xong,
Ngài dạy: "Kẻ nào thông hiểu pháp, biết kính trọng bậc cao thượng hơn
mình, kẻ ấy trong đời này đáng là người được ngợi khen, về đời sau được sanh về
cõi trời."
Chú giải có gom ý câu kệ như
vầy: "Này các thầy Tỳ khưu, chúng sanh bất luận hạng nào, vua chúa, bà la
môn, nông gia, người xuất gia, chẳng hạn, là người thông hiểu về sự biết tôn
kính các bậc đáng tôn kính, vì lớn tuổi hơn hay là có đức hạnh cao hơn, chúng
sanh ấy trong đời này được sự ca tụng ngợi khen, về vị lai được sanh về cõi
trời.’
Sự tích khỉ, tượng trên đây có
ngụ ý dạy ta nên kính trọng bậc niên cao kỷ trường, người có đức hạnh, dù người
ấy thuộc hạng người nào trong xã hội. Sự tôn kính ấy còn có tác dụng là diệt
lòng ngã mạn của ta.
Hơn nữa, sự tôn kính còn gọi là
Hạnh phúc, vì sự tôn kính có thể đưa người khỏi tai nạn, được những đặc ân, và
đắc được chỉ quán hay minh sát. Vì vậy, có một vị chư thiên vào hầu Phật và
bạch hỏi Đức Thế Tôn rằng:
- Bảy pháp làm cho các thầy Tỳ
khưu tránh khỏi tai nạn là pháp gì?
Ngài đáp:
- Bảy pháp ấy là:
1. Buddhagāravatā: tư
cách người biết tôn kính Phật.
2. Dhammagāravatā: tư
cách người biết tôn kính Pháp.
3. Samghagāravatā: tư
cách người biết tôn kính Tăng.
4. Sikkhāgāravatā: tư
cách người biết tôn kính điều học.
5. Samādhigāravatā: tư
cách người biết tôn kính thiền định.
6. Appamādagāravatā: tư
cách người biết tôn kính sự không dễ duôi.
7. Patisanthāgāravatā: tư
cách người biết tôn kính sự tiếp đãi.
- Bạch Đức Thế Tôn, bảy pháp này
làm cho chư vị Tỳ khưu tránh khỏi tai nạn.
Đến sáng ngày, Đức Thế Tôn thuật
câu chuyện ấy cho chư vị Tỳ khưu bằng câu kệ rằng:
Satthagaru dhamagaru
Sanghe ca tippagāravo
Abhabbo parihānnaya
Nibbānasseva santipe.
Nghĩa là: Thầy Tỳ khưu có sự
kính trọng Phật, Pháp, Tăng ... là người không bị tai nạn lìa xa đạo quả, và
thầy Tỳ khưu ấy đã ở gần Niết Bàn.
Đây xin giải bảy điều tôn kính
ấy.
Sự tôn kính là một pháp rất cần
cho đời và đạo. Người biết tôn kính bậc trưởng thượng thì người ấy làm gì cũng
được dễ dàng, vì có người giúp đỡ.
1. Tôn kính Phật: Ta tôn kính
Phật vì hai lẽ:
a) Dù khi Ngài còn tại gia, Ngài
là một vị Đế Vương, giòng cao quý.
b) Khi ngài xuất gia tầm đạo, Ngài
đắc quả Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác, là đấng cứu thế độ đời, dùng đuốc tuệ
phá tan bầu trời mờ tối, là vô minh làm cho chúng sanh không thấy đường. Tất cả
như chư thiên, Phạm thiên đều hoan hô ca tụng Ngài có được mười hồng danh, từ
Ưng Cúng đến Thế Tôn.
Trong Chú giải viết rằng: Khi
Đức Thế Tôn còn tại thế, các bậc Tỳ khưu biết kính Phật, mỗi ngày đều vào hầu
Phật để cung kính kim ngôn của Ngài giáo huấn. Khi Đức Thế Tôn đi kinh hành,
các thầy không dám đi nơi cao hơn. Khi vào hầu Phật, các Thầy không dám bận y
trùm, phải chừa vai trái ra. Các thầy không dám mang giày trong chỗ mà tầm mắt
Đức Thế Tôn có thể trông thấy, không dám đi lại tiểu tiện chỗ mà Đức Thế Tôn có
thể thấy. Đệ tử chánh thức của Phật là ngài Xá Lợi Phất được Đức Phật khen ngợi
là người rất kính trọng Phật, là người hằng đêm khi đi ngủ biết Đức Phật ngủ
hướng nào để nằm dây đầu về hướng ấy. Có nhiều vị Phàm Tăng hỏi ngài: "Tại
sao lại chọn hướng dây đầu?", ngài đáp: "Vì tôi kính trọng Phật nên
dây đầu về hướng Phật ngự."
Riêng chúng ta là người rất xa
Phật thì phải kính trọng Phật bằng cách nào? Chúng ta phải năng lễ Phật, tụng
kinh và khi vào chùa, lên chánh điện, phải tỏ ra trang nghiêm và hết lòng tôn
kính trước kim thân Ngài, như Ngài còn ở hiện tiền.
2. Tôn kính Pháp: Pháp gọi là Dhamma,
Tàu âm là Đạt ma, Đàm ma, Đàm. Ở trước đã có giải sơ lược về tiếng Pháp, bây
giờ xin giải thêm, Dhamma nghĩa là phàm vật vì có bản tính là tính chất
của nó, không cho hư hại hay tiêu diệt.
Tôi xin ví dụ cho dễ hiểu: Như
miếng vải trắng, nó giữ được màu trắng, khiến cho ai trông thấy cũng nhận biết
miếng vải màu trắng, chớ không ai nói là miếng vải đen.
Nói cho dễ hiểu thêm, thì vật gì
cũng có hai trạng thái là giữ chắc cái tính chất của nó, và phô bày kiểu, cảnh,
màu sắc do người nhận định phân biệt được. Như vậy gọi là Pháp. Tôn kính Pháp
là ta hết lòng thực hành theo lời giáo huấn của Phật.
Pháp có ba chi khác nhau là:
a) Pháp học: ý nói là tám mươi
bốn ngàn pháp môn; phải gắng học, không dễ duôi.
b) Pháp hành: là Giới-Định-Tuệ;
là pháp mà hành giả vâng hành theo đúng để được giải thoát.
c) Pháp thành: chỉ các bậc thánh
nhân đã đắc từ sơ quả Tu Đà Hườn.
Ba pháp trên có quả báu khác
nhau. Pháp học là người thông minh hiểu rõ chân lý dễ hành đúng theo chánh đạo.
Pháp hành này làm cho con người thấy rõ các pháp là vô thường, khỗ não, vô ngã,
trí tuệ phát sanh, diệt tận phiền não đắc được đạo quả Niết Bàn.
Người đã đắc đạo quả Niết Bàn
giải thoát khỏi vòng sanh từ luân hồi,cũng do nơi tôn kính pháp. Trong trường
hợp này, nghĩa là tôn kính là thực hành theo pháp.
Riêng nơi đây, tôi muốn giải
thêm cho chư thiện tín thấy rằng những người biết kính trọng pháp khi nghe lời
giảng giải của các bậc trí thức mà có chuyện gì xảy ra, cũng không màng những
người ấy được hạnh phúc, như ông trưởng giả trong tích sau đây:
Có một trưởng giả có đức tin vào
chùa nghe thuyết pháp, trong khi ông trong sạch nghe pháp, thì ở
nhà có bọn cướp đến vây nhà ông và tính cướp hết của ông.
Khi ấy có một người trong gia
đình ông trốn thoát, chạy đến chỗ ông nghe pháp bảo ông rằng: "Bọn cướp
đến vây nhà mình rồi xin hãy về xem." Ông nói: "Nếu quả thật của ấy
là của bọn cướp, thì cứ mang đi, còn như không phải thì chúng nó không thể đem
đi được." Rồi ông lại chăm chỉ nghe pháp như không có gì hết.
Người kia về nhà rồi trở lại bảo
ông rằng: "Bây giờ chúng nó đã phá cửa vào nhà rồi, chỉ còn mang đồ đi
thôi". Ông bình tỉnh nói: "Cửa của ta thì ở lại với ta, còn cửa của
bọn cướp thì chúng tha hồ mang đi." Rồi ông lại chăm chú nghe pháp nữa.
Người ấy về đến nhà thì thấy bọn cướp đang khuân vác đồ ra. Người ấy trở lại
lần thứ ba và nói với ông trưởng giả: "Bọn cướp mang đồ ra khỏi nhà
rồi." Ông vẫn bình tỉnh đáp rằng: "Của nào của chúng thì chúng mang
đi tự ý. Của nào của chúng ta sẽ ở với chúng ta." Người ấy lập tức về thì thấy
bọn cướp đã dọn nhà ra sân rồi, y nói với bọn cướp rằng: "Chủ nhân nhà này
không màng đến của cải, vậy các ngươi cứ lấy tự do. Tôi đã bảo ông ta hai ba
lần, nhưng ông ta không cần, Vậy các ông tùy tiện." Những người ấy nghe
vậy, phát sanh lòng kinh sợ và nghỉ rằng những của này, chủ nhân đã không màng
rồi, vậy chúng ta lấy của này để làm gì. Bọn cướp mới họp nhau bàn tán, đồng ý
đem của trả lại chỗ cũ, rồi cùng nhau vào chùa nghe pháp. Những người ấy phát
sanh tâm chán nản về tội lỗi, nên xin xuất gia, và đạt được đạo quả Tỳ khưu tùy
theo duyên lành của mỗi người.
Theo tích này, ta thấy rằng sự
tôn kính pháp không làm mất trật tự hay hết lòng nghe pháp như ông trưởng giả
này có sự hạnh phúc như thế. Đây mới sơ qua của sự tôn kính pháp mà thôi.
Người hết lòng nghe pháp, hết lòng
thực hành theo pháp thì được sự hạnh phúc như ta thấy trên. Đức Thế Tôn có dạy
rằng: Dhammo rarukatappo, người kính trọng pháp nên thực hành theo pháp.
Người thực hành đúng theo pháp mới gọi là người kính trọng pháp thật sự.
3. Tôn kính Tăng: Tăng có hai
hạng là Phàm Tăng và Thánh Tăng. Tăng là các bậc ly gia cắt ái, thân xa mùi tục
tạm theo đạo mầu, là bậc thừa hành theo chánh pháp, là ngọn cờ của Phật giáo,
là hướng đạo của tín đồ. Nếu không còn Tăng thì Phật giáo cũng không còn.
4. Tôn kính điều học: đây nghĩa
là hết lòng hành theo giới hạnh của mình đã thọ trì, rồi không cho phạm vào,
nghĩa là luôn luôn xem giới hạnh của mình, cũng như là người đã bị mù mất một
mắt rồi, cố giữ con mắt còn lại không cho đau. Đại ý nói rằng rất cố gắng bài
trừ những phiền não còn trong lòng, không dám dễ duôi.
5. Kính trọng thiền định: tức là
cố hành thiền định, không hề dám xao lãng. Thiền định là pháp dạy tâm, kềm chế
tâm không để cho tâm xao lãng phóng túng, bắt buộc tâm phải yên tru. Nhất là
các bậc xuất gia, thiền định đối với quí ngài không khác nào cá với nước, ý tôi
muốn nói không thể xa nhau được, vì người tu sống chết gì cũng phải biết giữ
lấy tâm mình thôi, nhờ có thiền định là nấc thang đi đến Niết Bàn.
Trong bộ Chú giải Visuddhimagga
có dạy rằng trần cảnh ví như một thứ nhựa rất dẻo rất dính, mùa nắng nhựa ấy
chảy ra dưới gốc cây, trông thấy như một miếng nhung trải rất đẹp. Có một con
khỉ đến gần, thấy nhựa tưởng tấm nhung liền ngồi lên, thì lại bị dính cứng vào
nhựa, khỉ cố hết sức để chống hai tay đứng lên, hai tay bị dính luôn, nó liền
dùng hai chân chỏi dậy, nhưng rồi lại càng bị dính vào. Sau rồi chỉ còn có cái
miệng cố cắn để gỡ thì cả cái miệng cũng bị dính vào nhựa ấy.
Con người cũng dính mắc vào một
thứ nhựa, mà một thứ nhựa còn dẻo hơn nhựa kia, không biết bao nhiêu lần mà kể,
đó là nhựa trần tục. Khi còn ở trong gia đình thư thả, khi có vợ là dính vào
cái đít như con khỉ mới bị dính vào lần thứ nhất, sau lại có con cũng như khỉ
bị dính hai tay. Khi có của tiền lại càng bị dính nhiều hơn như khỉ bị dính
thêm hai chân. Người có quyền chức càng dính không thể nào cựa quậy được, cũng
như khi mắc luôn cái miệng, chỉ có đợi chết thôi. Thật ra tâm con người bị mắc
vào vòng tài, tình, danh, lợi, khó mà gỡ cho được, chỉ còn do nhờ thiền định là
phương pháp chữa trị bị phiền não ngự trị. Nhờ có thiền định nên không cho tâm
say mê trong trần cảnh.
Thưở xưa, ở xứ Ấn Độ, trước khi
làm lễ hỏa táng, người dùng chỉ buộc hai tay chân và cổ người chết. Người ta
chỉ theo phong tục ấy mà thực hành, kỳ thật không biết ý nghĩa ra sao.
Có người đến hỏi vị Đại đức tên
là Kāla. Ngài mới dạy rằng: "Của cải là cái vòng cột cổ, vợ là cái
vòng buộc chân, con là cái vòng buộc tay. Vì lòng thương con nên không thể tu
hành được, chỉ biết lo kinh doanh hầu để sự nghiệp lại cho con, mà chính mình
quên già và chết. Cũng vì yêu vợ, gắng lo bôn ba để tìm chút danh vọng để vợ
được hãnh diện với đời, không nhớ rằng những tội lỗi mà mình đã làm không ai
chịu thế cho được. Cũng vì thương yêu vợ con nên có chân mà cũng không thể dùng
chân ấy chạy khỏi vòng luân hồi, trái lại đi sâu vào luân hồi. Cũng vì thương
vợ con và của cải, nên tay bị buộc, không thể lấy của mình đã có đem ra cho ai
cả, mặc dù người ấy là quyến thuộc, nên cũng ví như dây buộc tay."
Tục lệ này dạy con người gián
tiếp rằng con người đến chết vẫn còn phải bị cột chặt vào ba mối là vợ, của,
con. Thật ra thì tâm con người bao giờ cũng vẫn luyến tiếc ba mối đó nên không
giải thoát được.
Đức Phật dạy ta tôn kính thiền
định nghĩa là phải cố vâng giữ hành theo, không cho gián đoạn được. Như tôi đã
nói, thiền định là nấc thang thứ nhì (sau giới) để đi đến nơi giải thoát, vậy
người biết mình còn trầm luân trong biển khổ, nên cố gắng tham thiền. Đành rằng
ta không thể giải thoát trong kiếp này, nhưng đó là duyên lành để trợ lực cho
ta ngày vị lai, vì hiện giờ ta đã mài giũa mòn đi hết một ít phiền não.
Giàu sang, quyền chức trên đời
không thể đem hạnh phúc lại cho ta. Tiện đây tôi xin nhắc sơ lược sự tích của
Đại đức Anurudha để quí vị trông thấy gương lành của ngài.
Đức Anurudha là dòng Thích Ca.
Ngài là người được kế vị ngai vàng của đức vua Tịnh Phạn. Sau lại, ngài xuất
gia và ngài thường ngồi dưới cội cây nơi thanh vắng.
Khi ngài ở nơi ấy, ngài thường
nói rằng: "Hạnh phúc thay, hạnh phúc thay!" Các vị Tỳ khưu nghe vậy
mới bạch với Đức Thế Tôn rằng ngài Đại đức Anurudha muốn khoe mình là bậc cao
nhân.
Đức Thế Tôn cho gọi ngài đến và
hỏi có phải vậy không. Ngài đáp có.
Đức Thế Tôn hỏi: "Vì sao
ngươi lại nói câu ấy?"
- Bạch Đức Thế Tôn, khi đệ tử
còn trị vì, có thành trì kiên cố, có ngự lâm quân canh tuần cẩn mật, nhưng đệ
tử vẫn còn e dè lo sợ có kẻ thích khách. Ngoài ra còn sợ quân xâm lăng của các
cường quốc. Ngày nay, đệ tử xuất gia, bỏ ngai vàng, ở nơi rừng sâu, hang thẳm,
cội cây vắng vẻ, đệ tử vẫn thấy lòng mình tự toại, an vui hạnh phúc, không sợ
ai cướp của giựt đồ, vì đệ tử không thấy quả của sự không có của cải như vậy,
nên đệ tử hằng nói: "Hạnh phúc thay!"
Sự tích này cho ta thấy rằng của
cải, quyền chức không đem lại cho ta sự an vui thật sự mà thường tạo ra lo âu
kinh sợ. An vui hạnh phúc thật sự là không có gì cả. Vì người không có gì không
lo sợ mất gì.
6. Tôn kính sự không dễ duôi: ý
nói không phung phí thì giờ quí báu của mình mà làm những điều vô ich.
Sự không dễ duôi ấy có hai phần:
không dễ duôi bậc thấp và không dễ duôi bậc cao.
Sự không dễ duôi bậc thấp có 3
trường hợp:
- Không dễ duôi cho sự diệt trừ
tội lỗi và làm nên các việc thiện.
- Không dễ duôi mà diệt trừ tội
lỗi do khẩu nghiệp là có nói việc lành.
- Không dễ duôi trong sự suy
nghỉ ác, nghĩa là không dám suy nghĩ ác.
Về việc không dễ duôi bậc cao
cũng có ba trường hợp:
- Không dễ duôi sự quan sát gìn
giữ tâm, không cho tâm tham mến theo trần dục, trong khi có cơ hội gần trần
dục.
- Không dễ duôi để tâm si mê,
giải phóng, phóng túng.
- Không dễ duôi để tâm sân hận,
trong khi gặp phải trường hợp sân hận.
Người biết tôn trọng những điều
kể trên gọi là những người biết tôn trọng những người không dễ duôi.
7. Tôn trọng sự tiếp đãi: sự
tiếp đãi này là thuộc về phép xã giao lịch ở đời. Pháp này chia ra làm hai
phần:
a) Tiếp đãi bằng tiền tài, nghĩa
là khi có khách đến ta tiếp bằng những bữa cơm nước, chuyện trò thân mật vui
vẻ, không tỏ vẻ bực mình.
b) Tiếp đãi bằng pháp, nghĩa là
trong trường hợp thuận tiện cho ta, ta có thể khuyên người bỏ dữ về lành, hoặc
dạy bảo quyến thuộc. Sự tiếp đãi này được lợi là ta được sự thương mến của mọi
người, có nhiều bạn lành, sau khi chết được sanh vào cõi trời, kiếp vị lai có
nhiều quyến thuộc và khi đi lầm đường có các bậc trí thức nhắc nhở.
Tôn kính các bậc đáng tôn kính
sẽ được hạnh phúc là:
1. Đại phước cho mình.
2. Giữ được lễ độ và văn hóa của
một dân tộc.
3. Là người trí thức, là người
có giới đức, là người hành theo thiện pháp.
4. Có thể làm gương mẫu trong
tôn giáo và người trong xã hội.
5. Là nguyên nhân làm cho nhiều
người thương mến.
6. Là nguyên nhân sinh ra lòng
từ i đối với mọi người.
7. Là người có nhiều trí nhớ.
8. Là người không có sự hối hận
trong tâm.
9. Là người đã chuẩn bị vật thực
về ngày vị lai.
10. Là nguyên nhân sanh ra sự an
vui.
11. Là người biết ngăn ngừa không
bị việc ác xâm chiếm vào lòng và không sanh vào ác đạo.
12. Là người thỏa thích trong sự
an lạc.
13. Là người chắc chắn sẽ sanh
vào cõi trời.
14. Là nhân khiến cho được sanh
vào gia đình quý phái.
15. Là người hành theo
Giới-Định-Tuệ.
16. Là người không làm mất minh
sát tuệ và đạo quả.
HẠNH PHÚC XXIII
Nivāto
Nết hạnh khiêm nhượng
Phạn ngữ Nivāto có nghĩa
là không có gió, hay có thể nói là êm tiếng, nhưng ta giải nghĩa là khiêm
nhượng. Hạnh phúc XXII dạy tôn kính, còn Hạnh phúc XXIII này dạy khiêm nhượng.
Tôn kính và khiêm nhượng khác
nhau như thế nào? Phần đông người ta nghĩ rằng hai pháp này giống nhau, nưng
chúng khác nhau như thế này:
- Tôn kính là vì mình nhận thấy
nhân vật nào đó có đặc ân cao quý.
- Khiêm nhượng là tự mình làm
cho tâm mình có lễ phép với mọi người. Người khiêm nhượng là người hằng suy
nghĩ thấy cái hại của sự chấp "ta" của ngã ái.
Đây là trạng thái của người có
nết hạnh khiêm nhượng:
1. Nīcamantā: có tâm lễ
phép.
2. Nihatamāno: không ngã
mạn.
3. Nihatadato: dứt bỏ ba
điều cứng rắn, nghĩ rằng ta là cao thượng, là quý phái, là hạng giàu sang.
4. Bādapundaha colakasadiso:
ví như miếng vải lau chân. Ý nói miếng vải lau chân là vật không có giá trị gì
hết, ta đây giống như miếng vải lau chân ấy vậy. Giá trị và danh vọng chỉ miếng
mồi cẩu ma vương giữ ta mê theo, đặng mau đi tới nơi tai hại. Khi người nghĩ
thế thì có thể diệt được lòng tư ái.
5. Dichinnavisānusaphāsamo:
ví như bò gẫy sừng. Khi bò bị gẫy sừng không khi nào dám gây hấn với bò khác,
người suy nghĩ mình không có gì chống đối với mọi người, mặc dù có, nên không
thích chống đối. Nhờ vậy mà lòng ngã ái diệt dần, thành ra người có khiêm
nhượng.
6. Uddhathadāsasatpāsam:
ví như loài rắn độc bị nhổ răng. Ý nói người ta sợ rắn, mà sợ rắn có nộc độc,
khi rắn không có răng thì có ai sợ. Ta nghĩ rằng mình là người không có gì hết,
vì lòng ta lại không chấp ta, đó là nhân đi tới khiêm nhượng.
7. Sanho: nhã nhặn.
8. Sakino: không tỏ vẻ
cương ngạnh.
9. Samodano: vui vẻ.
10. Munuko: mềm mại.
11. Sukhasanphāso: nói
lời dịu ngọt, đem đến cho ta ba điều lợi ích:
- Đưa sự vui vẻ cho người nghe
và người nói.
- Không có tội lỗi.
- Làm cho tai mình êm ái vì lời
nói tao nhã.
Người hành theo pháp khiêm
nhượng có được hạnh phúc như:
1. Làm cho người đoàn kết.
2. Làm cho người được an vui.
3. Đi chung hay ở với hạng người
nào cũng được, vì người có tánh khiêm nhượng ai ai cũng mến và kính yêu.
4. Người khiêm nhượng đi tới đâu
cũng có người tôn trọng và yêu mến.
5. Ai ai cũng thích giao tiếp
với người khiêm nhượng.
6. Người khiêm nhượng là người
có nhiều bạn lành.
7. Người khiêm nhượng là người
có nơi nương nhờ chắc chắn trong kiếp này và kiếp sau.
8. Để được sanh về cõi trời và
Niết Bàn.
9. Là người không dễ duôi.
10. Là người đi theo Bát Chánh
Đạo.
11. Là người trong khuôn khổ
Giới-Định-Tuệ.
12. Là người làm cho mình trở
nên cao quí và quan trọng hơn tất cả mọi người trong mọi trường hợp.
HẠNH PHÚC XXIV
Santuṭṭhī
Tri túc vui thích trong của cải đã có
Tri túc nghĩa là tư cách biết và
lấy làm đủ (hay lấy làm thỏa mãn). Phạn ngữ Santuṭṭhī trước khi chưa
biến thể thì nó là Samtusa, Sam có nghĩa là ta, Tusa có nghĩa là
vừa lòng, thỏa mãn, lấy làm đủ, Santuṭṭhī có nghĩa là tri túc nhưng giải
rõ hơn, là vui thích trong của mình đã có.
Tri túc còn có nghĩa là không
tham lam, có những trạng thái sau đây:
1. Alaggabhavakkhano: có
trạng thái không dính trong pháp; nghĩa là không say mê trong cảnh trần.
2. Apariggaharaso: có
trạng thái chắc chắn trong các biện pháp, là phận sự.
3. Anallīnabhāvapaccupatthāno:
có trạng thái không thỏa thích trong sự trụy lạc theo trần cảnh, là quả.
4. Yonisomanasikārapadatthāno:
có suy nghĩ rất chu đáo bằng trí tuệ, để pháp sanh sự không tham làm nền tảng.
Muốn hiểu rõ về tri túc thì ta
nên biết qua trạng thái của tri túc. Tri túc có 3 trạng thái nữa:
- Sekena Santoso: thỏa
thích trong của mà mình đã có.
- Santenasantoso: thỏa
thích trong của mà mình đã được.
- Samena Santoso: thỏa
thích vừa phải.
1. Thỏa thích trong của mà mình
đã có: ý nói của nào của mình đã có thì mình thỏa thích, không mong của người
khác, nên gọi là tri túc.
Có lần tôi (tác giả) đã bị một
người chất vấn rằng: "Người chỉ biết ưa thích trong của mà mình đã có, thì
người ấy không bao giờ tiến hóa được. Nếu người trong xã hội này đều tri túc
như vậy hết thì làm sao xã hội này tiến hóa được? Tại sao Đức Phật lạy dạy điều
trái ngược với xã hội vậy?"
Tôi đáp: "Câu hỏi của ông
tôi không phản đối. Nhưng xin ông cho tôi biết ý kiến của ông về hai hạng người
sau đây, rồi tôi sẽ xin giải cho ông rõ:
Hạng
A:
Thương ta.
Thương cha mẹ.
Yêu vợ con.
Yêu Tổ quốc.
Yêu nghề.
|
Hạng B:
Không thương ta.
Không thương cha mẹ.
Không yêu vợ con.
Không yêu Tổ quốc.
Không yêu nghề.
|
Hai hạng người này ông chỉ cho
tôi biết hạng người nào ông cho là tốt và hạng nào là xấu."
Ông ấy nói: "Tất nhiên hạng
A tốt rồi."
Tôi nói: "Thế là ông gián
tiếp nhìn nhận tri túc và ông hành theo hạnh tri túc vậy. Chắc ông làm cho xã
hội không tiến hóa rồi? Ông cho những người hạng A là tốt, nghĩa là ông thỏa
thích trong của đã có, ông tri túc."
Ông ấy hỏi: "Nếu mình có
của mà mình không thích có được không? Và khi mình dự tính sửa đổi vậy có phạm
tri túc không?"
Tôi đáp: "Sự không thỏa
thích và sửa đổi vốn tùy trường hợp và vật sử dụng, nên sửa đổi hay không cũng
tùy trường hợp. Như ta có vợ, người vợ ấy rất tốt, nhưng ta lại thích một bà
khác, ta chán bà nhà, muốn đổi lấy bà khác, ta không đổi được. Còn như ta có
bệnh ghẻ ngứa, ta không thể để tri túc bệnh ghẻ ngứa ấy mà không chữa cho
mạnh."
2. Thỏa thích trong của mình
được: Thỏa thích trong của mình được nghĩa là thỏa thích phần của mình được vừa
với sức mình, chẳng hạn như mình làm việc với chính phủ hay tư nhân thì mình
được với số lương tương đối với khả năng của mình, mình không mong và không đòi
hơn số ấy. Đành rằng ai ai cũng muốn được nhiều, nhưng trước hết phải xét lại
tài ba và sản lượng của mình trước đã. Con người vì thiếu tri túc nên lòng tham
nhân cơ hội phát sanh, khiến người làm tội lỗi như trộm cướp v.v... Tri túc là
tấm vách thành ngăn lòng tham lam. Khi ta được của gì của chính tay ta làm ra,
dù nhiều hay ít, ta cũng thỏa mãn của ấy, không nghĩ đến của bất chánh, ngoài
ra của ấy. Ví như người đi bắt cá, thỏa thích với con cá có được trong tay, tuy
biết rằng cá đó còn nhỏ hơn nhiều con cá lớn khác ở sông sâu.
Người biết như vậy gọi là người
có tri túc. Người đời bị khổ vì muốn và được. Khi hai cái muốn và được không về
với ta là ta khổ. Khi sự muốn trong lòng gia tăng, mà cái được lại không có,
thì lòng người thật là nóng nảy khó chịu, làm những điều tội lỗi, không còn
phân biệt phải trái.
3. Thỏa thích vừa phải: Đây là
sự tri túc cao nhất. Trong trường hợp thứ nhì trên đây thỏa thích trong của
mình được, là phương pháp kềm hảm tâm mình không cho thỏa thích những gì mong
muốn, mặc dù của kẻ khác có đẹp tốt hơn của mình thật. Còn trường hợp thứ 3
này, thỏa thích vừa phải là thỏa thích của mình đã được đó là của mình, mình
thỏa thích của ấy không bồn chồn thấy người được của tốt đẹp hơn của mình.
Có người hỏi: Vậy sự thỏa thích
trong của vừa phải ấy lấy gì làm tiêu chuẩn, cho biết đâu là vừa phải, đâu là
không? Người đời phần đông tùy theo sở thích của mình làm tiêu chuẩn. Nhưng
theo Phật dạy thì lấy ba điều sau đây làm tiêu chuẩn.
- Yathālābha: vừa với địa
vị.
- Yathābala: vừa với khả
năng.
- Yathāsārupa: vừa với
chức phận của mình.
1. Vừa với địa vị: ý nói ta là
người xuất gia hay là người cư sĩ; nếu ta là người xuất gia thì nên biết mình
là người khác hơn người thế tục, biết rằng ta là người mới xuất gia hay là vị
đại đức cao hạ; còn nếu là cư sĩ thì nên biết địa vị của mình trong xã hội.
Người thiếu tri túc về địa vị xã
hội, thì thường hay lâm vào cảnh:
- Tự cao, tự đại, làm cho người
không ưa.
- Khổ tâm vì muốn được của
nhiều, vì tưởng rằng ta đây phải của từng ấy mà lại được ít hơn.
2. Vừa với khả năng: mỗi người
đều có khả năng làm việc khác nhau. Vì vậy sự sản xuất tùy theo khả năng của
người, thì cố nhiên lợi tức nhiều hay ít tùy theo khả năng của người. Vì vậy ta
phải biết khả năng của mình. Khi ta biết khả năng của ta, thì sẽ không khổ vì
muốn được cao quá với khả năng của mình.
3. Vừa với chức phận: Chú giải
có dạy rằng người làm việc tùy theo chức phận của mình mà được lương bổng, đừng
vội tham nhiều, vì thấy người có quyền hơn mình được hưởng lương bổng hậu hơn.
Giải về tri túc đến đây cũng là
vừa cho quí vị hiểu rõ. Nhưng tôi muốn tóm tri túc lại có ba điều là:
- Thỏa thích với của mình.
- Thỏa thích của mình đã có.
- Thỏa thích với của thích đáng
mà mình được thọ hưởng.
Xét về mặt đời và đạo, thì tri
túc phân làm hai hạng: Tri túc của người xuất gia, và tri túc của người tại
gia.
Tri túc của người xuất gia là
tri túc tứ vật dụng trong y phục, trong vật thực, trong chỗ ở và trong thức
uống. Thầy Tỳ khưu có tri túc trong y phục, không ham muốn những hàng vải đẹp,
luôn luôn chỉ có tam y. Có vị tri túc thọ hạnh đầu đà không nhận y của thí chủ,
mà chỉ lượm lấy vải dơ của người, không dùng nữa để về làm y, như sự tích của
một vị Đại đức sau đây;
Có vị Tỳ khưu vào thành lễ tháp.
Ngài có ý muốn được y. Sáng ngày, ngài đi khất thực với một vị Đại đức. Ngài
nghĩ rằng chắc mình sẽ được y trong thành. Khi ngài suy nghĩ như thế, thì trí
tuệ lại sanh và tự bảo rằng: "Các bậc xuất gia chân chính không vọng móng
xấu xa như thế. Người vọng móng như thế không xứng đáng là Phật tử". Ngài
liền trở về thành khất thực.
Trong đêm đó, có một người vì
đau bụng đi sông không kịp, nên đi sông trong chăn đoàn. Người ấy đem liệng tấm
chăn ấy ở đống rác, ngài thấy trong đống rác có tấm vải bọc phân ruồi lằng bu
đầy. Ngài liền ngồi xuống chắp tay xá làm lễ rất là tôn kính. Có một vị Đại đức
cũng đi khất thực chng, mới hỏi ngài rằng: "Tại sao ngài làm lễ đống rác
này?
Ngài đáp: "Tôi nào làm lễ
đống rác, mà tôi làm lễ Đức Chí Tôn là đấng Từ phụ của chúng ta, Ngài là đấng
vứt bỏ ngai vàng của báu, đi lượm lấy vải bọc tử thi của một cô đầy tớ bỏ trong
rừng làm y phục, ngài làm một việc mà khó có ai làm được". Khi đang nói,
lòng ngài rất trong sạch với ân đức Phật, ngài dùng trí tuệ quán sát (minh sát
tuệ) nên đắc quả A La Hán.
Tóm lại, các bậc xuất gia nên
biết tri túc trong tứ vật dụng của mình.
Còn người tại gia thì điều quan
trọng nhất là nên tri túc trong việc vợ chồng, bằng không sẽ bị tai hại như
trong sự tích sau đây:
Thái tử xứ Barānasī dẫn vợ vào
rừng Tuyết Lãnh chơi. Khi ấy thái tử trông thấy Kinnārī là một giống nữa người
nữa chim, thật đẹp. Thái tử cảm cái sắc đẹp ấy nên bỏ vợ mà đi theo Kinnārī. Bà
vợ là bà Asitābhu thấy chồng bội bạc như thế bà chán nản tình đời, nên xin vào
tham thiền với một vị đạo sĩ, bà đắc được tứ thiền.
Thái tử theo nàng Kinnārī đi sâu
vào rừng, khi không còn lối đi được nữa, nàng lại bay bỏ đi. Ông ta không biết
làm sao về với vợ mình đã bỏ.
Khi bà vợ trông thấy thái tử vừa
về đến, bà liền bay lên không bỏ đi mất luôn. Thái tử lấy làm buồn khổ vì mất
cả vợ mà không được người đẹp. Ông mới nói lời oán trách mình rằng.
Atriccham atilobhena
Atilobhamadena ca
Evam hāyati attham
Āahamva astitabhuyā
Nghĩa là: Người không tri túc,
là người tham lam quá ước vọng không bờ bến, thì bị mất lợi lộc cũng như tôi;
tôi bị mất vợ là Asitābhu cũng vì sự tham lam quá mức và cũng vì sự say đắm vô
độ, không biết vừa, không biết đủ.
Khi ấy có một vị thọ thần thấy
vậy mới nói rằng: "Người không tri túc, tham lam quá mức hằng bị mất lợi
ích của mình, cũng như thái tử ham mê nàng Kinnārī mà bị mất nàng Asitābhu.
Người vì sự tham lam nên mất lợi".
Đây cũng là một bài học rất quý
cho quí vị tại gia cư sĩ không biết tri túc trong ngũ trần. Sự không biết tri
túc như thái tử nói trên, nếu không làm mất vợ thì cũng làm cho gia đình mất sự
an vui, nếu không muốn nói là không còn tìm đâu ra sự an vui nữa. Những phẩm
hạnh của mình đều từ đó mà mất, vợ trước kia kính nể mình, bây giờ không còn
kính nể nữa. Đó chỉ nói sơ thôi mong rằng quý vị thấy cái hại hơn đây nhiều.
Người có hạnh tri túc hằng được
hạnh phúc là:
1. Là đại phước.
2. Dứt bỏ được lo lắng bận rộn.
3. Xa lẫn tội ác.
4. Làm cho lòng mình được thơ
thới.
5. Xa lần điều xấu xa đến gần sự
tốt đẹp.
6. Tự mình tạo cho mình trở nên
người có đức hạnh tốt.
7. Tự mình đi ra lần khỏi khổ.
8. Hằng được an vui.
9. Luôn tự thức tỉnh lấy mình.
10. Không phạm vào điều ác.
11. Không sống chung với ác
pháp.
12. Đang đi theo trên đường chân
chánh.
13. Đang ở trong sự tiến hóa.
14. Người thích sự chân thật.
15. Người có sức mạnh về vật
chất lẫn tinh thần.
16. Người hành đúng theo luân lý
lễ giáo.
17. Đè nén được phiền não.
18. Tạo ra nhân lành.
19. Gọi là người hộ trì Phật
pháp.
HẠNH PHÚC XXV
Kataññūtā
Nết hạnh biết ơn người
Phạn ngữ Kataññū có hai
nghĩa:
1. Pubbakārī: nghĩa là
biết ơn người khác đã giúp mình. Ý nói ai đã giúp gì cho ta, dù nhiều hay ít,
cũng không bao giờ dám quên, cứ hằng ngày niệm tưởng công ơn người đã giúp đở.
2. Kataññū: nghĩa là
người làm việc lành để dành việc lành ấy sẽ giúp ta. Ý nói phước có đặc ân là
giúp đở chúng sanh khỏi nạn tai và đưa chúng sanh đi đến nơi an lạc là thiên
đàng hay Niết Bàn, tùy theo sự hành động của người tạo.
Đức Phật có dạy trong thế gian
này có hai người khó tìm nhất:
- Pubbakāri: người thi ân
mà không cần báo. Đó là Đức Phật, cha mẹ, thầy tổ.
- Kataññū: người biết ơn
và cố tìm phương cách để trả ơn. Người hạng này chỉ có trong hành Phật tử, con
và đệ tử nhưng rất hiếm.
Tại sao Đức Phật dạy hai hạng
này khó hiếm?
Vì con người phiền não dẫy đầy
trong tâm, nên khi làm ơn được việc nào; trong thân tâm còn muốn người thọ ơn
phải biết ơn, nếu không trả ơn ít nhất cũng phải nhắc nhở và ca tụng, ít người
giúp đở kẻ khác bằng tấm lòng từ ái mà không nghĩ gì tới sự nhớ ơn hay đền ơn
của kẻ đã thọ lãnh sự giúp đở của mình.
Người làm ơn như thế rất nhiều
nhưng người làm ơn vì lòng từ ái thì thật rất là ít. Những người biết ơn cũng
ít hơn. Người được sự giúp đở bất cứ bằng tấm lòng vị tha hay trục lợi, cũng
chẳng nên quên ơn người, mà nên luôn luôn ghi lấy ơn ấy vào thân tâm để tìm
phương thế trả lại.
Đức Phật dạy: Người không biết
ơn ấy, ta có cho họ quyền chức, sang giàu hay cứu sanh mạng họ, họ cũng không
bao giờ nhớ ơn ta.
Đức Phật còn dạy: Người mà không
biết ơn, chúng ta có cho họ một khối vàng to bằng quả địa cầu, xong họ cũng
không hề biết ơn ta.
Sự tích sau đây cho thấy trò đời
làm ơn trả oán.
Khi xưa Đức Bồ tát sanh làm
tượng chúa ở trong rừng Tuyết Lãnh. Ngày nọ có một người thợ săn đi lạc. Tượng
Bồ tát trông thấy người ấy lấy làm thương hại, mới để người thợ săn ấy trên
lưng đưa ra tới ven rừng. Khi ngồi trên lưng Đức Bồ tát, anh thợ săn để ý tới
từng khóm cây đường nhỏ, vì anh định bụng rằng thế nào anh cũng trở lại đây để
lấy cặp ngà của tượng chúa, cặp ngà ấy rất đẹp và có chiếu hào quang ngũ sắc.
Quả nhiên không bao lâu, anh thợ
săn ấy trở lại tìm tượng Bồ tát và xin cặp ngà. Đã gọi là Bồ tát thì sự bố thí
là phạm hạnh của ngài, nên khi anh thợ săn xin, thì ngài vui lòng cho liền,
không hề mến tiếc. Tên thợ săn thấy ngà to và dày, không thể lấy liền được, nên
y chỉ cưa lấy một đoạn. Tên thợ săn trở lại lần thứ nhì và lần thứ ba nữa lần
này ngà còn cụt, nên y phải đẻo tới trong chơ răng để lấy ngà, sau khi khoét
chân răng lấy được đoạn ngà chót, tên thợ săn rất lấy làm vui thích, mang về.
Tượng Bồ tát thì quằn quại trên vũng máu, nhưng vẫn không buồn than hay phiền
hà gì hết, trái lại rất vui lòng, vì đã làm được việc lành, gọi là bố thí đến
bờ cao thượng.
Quả địa cầu to lớn và dày có thể
chở nổi núi non vạn vật, nhưng chở không nỗi tội lỗi của con người ác ôn như
thế, nên đất nứt ra và anh ta bị đất rút chết, sau khi anh ta vừa đi khuất tầm
mắt của tượng Bồ tát, và bị sanh vào A tỳ địa ngục.
Tích này cho thấy rằng người
không biết ơn, dù chúng ta có thể cho họ làm Vua Chuyển luân vương cũng vẫn
không biết ơn.
Trái lại có sự tích của người
biết ơn dù cho một muỗng cơm cũng không hề quên:
Ngày kia Đại đức Xá Lợi Phất vào
thành khuất thực nhưng không được một hột cơm nào. Ngài trở về lại gặp một thầy
Bà la môn tên Rādha dâng cho ngài một muỗng cơm. Về sau ông Rādha già và rất
nghèo, lại muốn xuất gia, không có Đại đức nào nhận cho ông xuất gia.
Đức Thế Tôn mới phán hỏi rằng:
"Có vị Tỳ khưu nào nhớ ơn vị thầy Bà la môn này không?"
Đức Xá Lợi Phất bạch rằng:
"Bạch Đức Thế Tôn, đệ tử biết và nhớ ơn thầy Bà la môn này, ông có bố thí
cho đệ tử một muỗng cơm".
Đức Thế Tôn mới khen Đức Xá Lợi
Phất là người biết ơn, mặc dù một muỗng cơm. Đức Xá Lợi Phất xin làm thầy tế độ
cho ông Rādha. Đức Thế Tôn còn dạy người trí thức, khi đục mát dưới cội cây
xong, lúc họ ra đi cũng không nỡ bức một lá cây, mặc dù cây là loài vô tri vô
giác. Vì các ngài nghĩ đến ơn của bóng cây.
Đây cũng là chuyện của Đức Xá
Lợi Phất:
Khi ngài còn tại gia và đang đi
tầm đạo giải thoát, ngài gặp Đức Assaji đang đi khất thực trong thành Vương Xá.
Đức Xá Lợi Phất trông thấy Đại đức Assaji lục căn thu thúc, dáng người thong
dong tự tại, thật là người đã thoát ly trần tục, ngài phát tâm trong sạch và
thành kính, muốn đến gần hỏi đạo, nhưng vì lòng kính nể không dám kinh động,
nên cứ theo sau Đại đức. Khi đến nơi vắng vẻ, Đại đức Assaji sửa soạn thọ thực,
ngài liền lo múc nước, trải chỗ ngồi, dâng vật thực, và hầu bên hầu Đại đức.
Đợi sau khi thọ thực xong mới hỏi: "Bạch ngài, ngài là bậc có lục căn thu thúc,
tinh thần thoát tục, ngài xuất gia theo giáo pháp ấy với ai?"
Đại đức Assaji đáp: "Này
thầy, Ngài đại Sa môn dòng Thích Ca là tôn sư bần đạo, bần đạo xuất gia với
Ngài, và hành theo giáo pháp của Ngài."
Đức Xá Lợi Phất hỏi: "Đức
Tôn Sư của ngài dạy ngài những pháp gì:"
Đại đức Assaji nghĩ: "Các
người ngoại đạo thường hay chỉ trích và phản đối Phật giáo, vậy ta nên thuyết
pháp mầu nhiệm cho ông ta." Rồi ngài mới nói rằng: "Này thầy, bần đạo
mới xuất gia theo giáo pháp cao thượng của đức Toàn giác, nên không thể thuyết
pháp của ngài cho thầy hiểu được."
Ngài Xá Lợi Phất mới nói:
"Bạch ngài Sa môn, tôi tên là Upatisa (tên khi chưa xuất gia) Xin ngài từ
bi thuyết pháp dù nhiều hay ít tùy theo ngài đã thông hiểu. Tôi sẽ hiểu theo
lời ngài dạy bằng trí của tôi".
Đại đức Assaji mới thuyết câu
kệ:
Ye dhammāhetupadhavā
Tesanca yo nirodho ca
Tesam hetum tathāto
Evam vādīmahāsamano
Nghĩa là: Các pháp nào sanh lên
cũng do nơi nguyên nhân, khi nguyên nhân ấy bị dụi tắt, thì các pháp ấy đều bị
tiêu diệt.
Thật ra, với câu kệ rất vần ấy,
Đại đức dạy pháp Tứ Diệu Đế. Đức Xá Lợi Phất đắc quả Tu đà Hườn khi vừa nghe
xong câu thứ nhì.
Sau lại Đại đức Xá Lợi Phất xuất
gia với Đức Thế Tôn và đắc quả A La Hán, và ngài là đệ tử tay mặt của Đức Thế
Tôn. Không bao giờ ngài quên vị thầy chỉ câu kệ đầu tiên cho ngài. Hằng ngày,
nếu ngài biết Đại đức Assaji ở hướng nào, ngài day mặt qua hướng ấy làm lễ tỏ
lòng kính trọng.
Các Thầy Tỳ khưu thấy vậy mới
vào hỏi Đức Thế Tôn và nói rằng: "Đức Xá Lợi Phất hằng ngày lễ bái hướng
này hướng nọ như kẻ ngoại đạo".
Đức Phật đã hiểu rõ vì sao,
nhưng Ngài vẫn hỏi lại Đại đức Xá Lợi Phất. Đại đức đáp rằng ngài hằng lễ bái
như thế và ngài biết rằng Đại đức Assaji ở về hướng ấy.
Đức Thế Tôn khen ngài Xá Lợi
Phất là kẻ biết ơn người.
Tôi viết đoạn này thấy rất khó
giải, vì trong bộ Chú giải của Hạnh phúc XI dạy nết hạnh phụng sự mẹ cha, và
Hạnh phúc thứ XIII dạy cúng dường đến bậc đáng cúng dường. Cả hai hạnh phúc này
thuộc về biết ơn người. Rồi tại sao Hạnh phúc XXV lại dạy nết hạnh biết ơn
người? Tôi cố tìm hiểu, mới thấy câu Phạn ngữ dạy Katannutāya
sappurisabnūmiyam thatvā, nghĩa là nết hạnh biết ơn người là người ở trong
thành phần của bậc trí thức.
Vậy thì sự biết ơn người trong
Hạnh phúc XXV này, thuộc về sự biết ơn cao thượng hơn những pháp trước, nghĩa
là sự biết ơn hạng trí thức. Nhưng tại sao lại còn có sự biết ơn của hạng trí
thức?
Sự biết ơn của người thường là
khi nào ta thọ ơn từ người nào thì ta chỉ nghĩ cách trả ơn cho người ấy. Các
bậc trí thức lại khác hơn ta, là mặc dù không trực tiếp được người làm ơn giúp
đỡ cho gì, nhưng khi thấy người kia làm ơn hay giúp đỡ kẻ khác bằng cách nào,
khi có thể giúp được, mà không bao giờ trục lợi, thì các bậc trí thức cũng cảm
phục lòng tốt ấy và vẫn biết ơn người ấy; đồng thời cũng nghĩ đến sự đền đáp
công ơn, nếu có dịp có thể giúp được, vì các bậc trí thức nghĩ cũng như đã thọ
ơn của người ấy. Đây là sự biết ơn rất cao thượng, mà ít có ai nghĩ và hành
động vậy. Nên Hạnh phúc XXV dạy biết ơn là như thế.
Sự biết ơn người có hạnh phúc
là:
1. Là bậc trí thức
2. Ai ai cụng ca tụng công đức.
3. Là nguyên nhân làm cho người
đắc được pháp cao thượng đạo quả và Niết Bàn.
4. Là nguồn của phước.
5. Là người không dễ duôi.
6. Là người có pháp cao quí
trong tâm.
7. Là người làm lợi ích cho đời
mình.
8. Là người hộ trì Phật pháp.
9. Là người đi theo con đường
của bậc trí thức.
10. Là người có nhiều bạn lành.
11. Là người có đặc ân cao
thượng trong đời.
HẠNH PHÚC XXVI
Kālena dhammassavanaṃ
Nết hạnh tùy thời nghe pháp
Xét lời dạy của Đức Thế Tôn,
chúng ta thấy Ngài rất quan tâm đến tín đồ, nên Ngài dạy: "Tùy thời nghe
pháp", vì hể người còn được nghe pháp, thì còn có người hành theo thiện
pháp và Phật pháp trường tồn. Đức Thế Tôn dạy những ngày hội lại để nghe pháp
là mồng Tám, Rằm, Hai mươi ba và Ba mươi. Nếu tháng thiếu, là ngày 29.
Thời giờ nhất định của sự nghe
pháp có hai phần:
1. Buddhapaññatti: là lời
truyền răn của Đức Phật, ấy là Luật. Trong những ngày kể trên, chư Tăng hội lại
để nghe Luật.
2. Buddhovāda: lời giáo
huấn của Đức Phật. Đây là sự nghe pháp không nhất định ngày, nghĩa là khi nào
có dịp làm phước ở nơi nào thí chủ cầu xin Đức Phật bố thí pháp cho. Không có
Đức Phật thì yêu cầu chư Đại đức thuyết pháp. Trong trường hợp này, nguyên nhân
nghe pháp là vì tâm thí chủ bị phiền não nhiều nhưng muốn tìm phương pháp chữa
trị, nên thỉnh Đức Phật thuyết pháp; hay sau này, khi Đức Phật đã nhập diệt,
thỉnh chư thánh Tăng hay phàm Tăng thuyết pháp.
Trong Tạng Kinh, Đức Thế Tôn dạy
thời giờ đem sự hạnh phúc cho chúng sanh có 4 điều:
- Tùy thời nghe pháp.
- Tùy thời vấn đạo
- Tùy thời thuyết pháp.
- Tùy thời hành minh sát tuệ.
Sự nghe thuyết pháp có ba hạnh
khác nhau:
1. Nghe thuyết pháp để lấy
phước: Hạng người này nghe nói đi thuyết pháp có phước lớn, họ liền đi theo để
nghe, khi nghe chỉ là nghe thôi, chớ không thấu hiểu giáo lý. Hoặc họ là người
đang say rượu, phát sanh tâm trong sạch đi vào nghe pháp, khi nghe không hiểu
gì hết. Tuy vậy không phải là vô ích, vẫn được phước như thường, chỉ có điều là
không được trí tuệ nghĩa là không hiểu ý nghĩa của pháp để hành theo thôi.
Sau đây là sự tích về hạnh nghe
pháp:
Trong thời kỳ Đức Phật
Kakusandha có một con gà mái ở gần nơi cư ngụ của chư Tăng. Thường ngày gà được
nghe tiếng đọc và học kinh của chư Tăng, lấy làm vui tai thích nghe. Sau lại,
gà bị chủ giết để ăn thịt. Nhờ quả báo của sự nghe kinh ấy nên gà được sanh làm
công chúa tên Uppharī, bà trong sạch xuất gia theo ngoại đạo.
Ngày nọ bà đi cầu trông thấy dòi
lúc nhúc và dành ăn phân trong cầu, bà lấy làm chán nản và bà thấy đoàn dòi ấy
ví như chúng sanh dành nhau miếng mồi danh lợi, mà những miếng mồi ây là đồ rất
bẩn thỉu, là vật rất mỏng manh, mà các bậc thánh nhân hằng chê và bỏ không khi
nào ngó đến. Bà giữ được đề mục ấy cho đến chết và được sanh vào cõi Phạm
thiên.
Từ cõi Phạm thiên bà sanh làm
con của một người trưởng giả, hết kiếp con của trưởng giả lại sanh làm heo ở
thành Xá Vệ. Khi trông thấy Đức Thế Tôn, heo phát tâm trong sạch, nhờ quả ấy
nên sanh lại làm con gái ở xứ Suvannaphuma. Rồi kiếp chót bà được sanh làm nàng
Sumanā ở xứ Anuruddhapūrī.
Kể từ kiếp gà đến kiếp ấy là hai
mươi mốt kiếp. Khi ấy có vị Đại đức tên Mahātula ở chùa Koti trên núi, thấy cô
Sumanā, ngài mới nói các vị Tỳ khưu rằng: "Các thầy hãy xem kìa, con heo
ấy đã sanh lại rồi, và lại được làm vợ của một vị đại thần." Nhờ sự nhắc nhở
ấy, bà nhớ lại tiền kiếp, nên bà xin chồng cho phép xuất gia. Sau khi xuất gia
xong bà cố hết sức hành minh sát tuệ nên đắc quả Tu Đà Hườn, sau đắc A La Hán.
Theo tích này sự nghe pháp đem
hạnh phúc cao thượng đến cho ta, mặc dù nghe, nhưng không thấu triệt Pháp bảo,
cũng có quả báo rất là cao thượng, mà cũng là duyên lành để ta đắc được đạo quả
sau này.
2. Nghe theo pháp để tìm hiểu lý
lẽ của pháp: Ý nói người nghe pháp để hết tâm trí vào sự nghe, tâm không vọng
để hầu đạt thông lý lẽ cao sâu mầu nhiệm của pháp. Người ấy sẽ đạt được nhiều
lợi ích như sự tích của thầy Tỳ khưu trẻ tuổi sau đây:
Có một thầy Tỳ khưu nghe tin
rằng một vị Đại đức thuyết về một sự tích trong Túc sanh truyện Vesantara.
Trong tích ấy có cả một ngàn câu kệ. Từ chùa thầy Tỳ khưu đi tới nơi thuyết
pháp xa một do tuần (16 kilômét), nhưng ông cũng gắng đi đến nghe thuyết pháp.
Vì sự cố gắng đi hàng mười sáu cây số ngàn, nên mệt mõi, ông không thể thuộc
hết ngàn câu kệ, chỉ thuộc đoạn đầu và đoạn sau, ông rất tiếc nên khóc. Có một
ông thiện nam thấy ông khóc, bèn hỏi biết tự sự. Ông thiện nam ấy mới vào hầu
vị Đại đức và bạch với vị Đại đức ấy về việc thầy Tỳ khưu trẻ tuổi. Vị Đại đức
bảo: "Thôi đợi sáng ngày mai ta sẽ thuyết lại."
Sáng ngày Đại đức thuyết lại
pháp ấy, vị Tỳ khưu trẻ tuổi được nghe và thông hiểu được lý của pháp, ông dùng
minh sát tuệ quan sát vô thường, khổ não, vô ngã, và đắc quả Tu Đà Hườn.
Trong tích này ta thấy rằng nghe
pháp, mà hiểu được lý của pháp mới là nhân đem lại hạnh phúc cao thượng đến ta.
3. Nghe pháp để hành theo: Ý nói
người nghe pháp nhớ những pháp ấy rồi hành theo pháp. Người ấy sẽ được an vui
trong kiếp này và vị lai.
Đức Thế Tôn có dạy rằng:
"Này các thầy Tỳ khưu, vì kinh sợ luân hồi, khổ, nên khi các bậc Thinh văn
nghe pháp, làm cho pháp thấm nhuần vào xương tủy tâm tư, cố gom tâm lại để nghe
pháp. Khi ấy năm pháp trở ngại (Nivarana) của các vị ấy không có và thấy
Bồ đề Phật pháp sanh đầy đủ. Đó là quả của sự nghe pháp."
Sự nghe pháp có 4 điều lợi:
- Atthikatva: khi
nghe pháp,cố không cho tâm phóng túng, cố thuộc pháp ấy vào tâm.
- Manasikāra: dùng
trí tuệ quan sát pháp đã nghe.
- Sabbacetasāmanāharitva: thu thúc
tâm lại, không để tâm phóng túng, để tâm vào pháp đang nghe, làm cho tâm định.
- Ohitasota: để tâm nghe
thật sự.
Quả báo của sự nghe pháp là:
- Asutam: nghe được những
điều chưa từng nghe.
- Sutam Pariyodapeti: làm
cho tâm càng nhớ và hiểu thêm pháp của mình đã nghe rồi.
- Kankhamvihanati: diệt
bỏ được những sự nghi ngờ.
- Ditham Ujunkaroyi: làm
cho trở nên người có chánh kiến.
- Cittamassa Pasidati:
nghe pháp làm cho tâm được trong sạch.
Sự nghe pháp đem lại hạnh phúc
là:
1. Là đại phước.
2. Được nghe pháp mà chưa từng
nghe.
3. Hiểu được pháp đã nghe rồi.
4. Diệt được sự nghi ngờ.
5. Trở thành có chánh kiến.
6. Tâm trong sạch.
7. Diệt được ba điều nghĩ xấu xa
là: suy nghĩ trong trần dục, suy nghĩ làm hại người, suy nghĩ cột oan trái.
8. Trở nên người trí thức.
9. Là nhân duyên lành về ngày vị
lai.
10. Là nhân diệt phiền não.
11. Là nhân làm cho ta mau đắc
đạo quả.
12. Là nhân làm cho ta đắc được
37 phần Bồ đề.
13. Làm cho trí tuệ và trí nhớ
tăng trưởng.
14. Giữ được phẩm hạnh của bậc
trí thức.
15. Làm cho thân tâm được an vui
thơ thới.
16. Làm cho giải thoát khỏi luân
hồi.