KỆ NGÔN IV
HẠNH PHÚC XI
Mātāpitu upaṭṭhānaṃ
Nết hạnh phụng dưỡng mẹ cha
Những lời
Phật dạy trong 38 điều Hạnh phúc phân ra từng giai đoạn. Mười pháp hạnh phúc
đầu tiên, từ một tới mười, dạy ta tự sửa chữa và lo cho bản thân mình trở nên
tốt, để mình tạo lấy một số vốn cho mình. Hạnh phúc thứ mười một trở đi, dạy ta
những pháp để tỏ nết hạnh tốt của mình ra ngoài bản thân. Những nết hạnh tốt đó
Đức Phật đã dạy trong câu kệ thứ tư như vầy:
Mātāpitu upaṭṭhānaṃ,
Puttadārassa saṅgaho,
Anākulā ca kammatā,
Etammaṅgalamuttamaṃ.
Nghĩa là nết hạnh phụng sự mẹ
cha; nết hạnh tiếp độ con, vợ; làm những điều không gây tội. Đây là ba điều
hạnh phúc cao thượng.
Ba điều trong câu kệ này dạy ta
đem an vui đến cho những người ở ngoài bản thân ta, ở chung quanh ta trước sau
có thứ tự, từ người nào gần ta hơn hết trước, rồi mới đến người ở xa ta sau. Mà
ai là người gần ta nhất? Gần ta nhất, một là mẹ, hai là cha, ba là con, bốn là
vợ.
Trong điều Hạnh phúc XI này, vô
tình hay hữu ý mà Đức Phật sắp những người thân của ta theo thứ tự: mẹ, cha,
con, vợ.
Tại sao Đức Phật lại sắp mẹ
trước cha, con trước vợ? Có phải là vì mẹ đối với con có công ơn nhiều hơn là
cha không?
Vấn đề này thường gây ra sự
tranh biện giữa các tín đồ, vì có người cho rằng mẹ có công ơn lớn hơn cha, vì
mang nặng đẻ đau và có công lo nhiều hơn cha. Hơn nữa, khi Đức Thế Tôn còn tại
thế thì là thời kỳ phụ hệ, mà Đức Thế Tôn không kể cha trước mẹ, thì đủ thấy
rằng, theo Ngài thì mẹ có nhiều công đức hơn cha, cũng vì vậy cho nên Ngài mới
thuyết pháp hằng 3 tháng và thuyết toàn là kinh có ý nghĩa cao siêu, mà ta gọi
là Tạng Luận (Vi Diệu Pháp), để độ Phật mẫu.
Có người lại bảo rằng, cha có
công đức nhiều hơn, vì nếu không có cha thì không có con và nếu chiếu theo giai
cấp mà nói thì Đức Thế Tôn biết Phụ vương bệnh nặng sắp thăng hà, Ngài ngự về
thành thuyết pháp luôn 7 ngày đêm để độ Phụ vương đắc quả A La Hán, và sau khi
ấy, chính mình Ngài tẩm liệm Phụ vương, chính mình Ngài khiêng quan tài khi đưa
ra làm lễ Trà Tỳ.
Hai lập luận trên đều có lý,
nhưng sự thật không có đoạn kinh nào Đức Thế Tôn dạy rằng một vị nào trong hai
vị đó có ơn nhiều hơn hay ít hơn, mà là bằng nhau.
Nguyên trước khi Đức Phật thuyết
pháp độ Phụ vương cũng như Phật mẫu, Ngài đều do nơi trí tuệ của Ngài đã quan
sát và hiểu rõ duyên lành của cha mẹ rồi, Ngài mới thuyết pháp hợp thời và hợp
tình hợp cảnh để cho cha mẹ, rồi nhận định pháp ấy mà đắc quả. Ngài biết rằng,
Phật mẫu phải nghe pháp ấy mới đắc quả, mà chỉ là quả Tu Đà Hườn thôi. Hơn nữa
chư thiên đến thính pháp trong lúc ấy, toàn là các bậc có căn cơ cao, phải nghe
pháp ấy mới có kết quả lần cho quý ngài, nên Đức Thế Tôn mới thuyết Tạng Luận.
Còn đối với Phụ vương, sở dĩ Đức
Phật đợi vua cha khi gần thăng hà Ngài mới thuyết một ngàn câu kệ ròng rã bảy
ngày đêm hầu độ cha đắc quả A La Hán, mà không thuyết pháp cho cha nghe trước
khi ấy, là vì Ngài vốn là bậc Điều Ngự Trượng Phu. Ngài biết duyên lành của Đức
Tịnh Phạn Vương chưa đến trước lúc lâm chung, dù có thuyết đến hàng triệu câu
kệ cũng bằng thừa, nên Ngài đợi đến khi duyên lành mùi rồi ngài mới thuyết.
Nói tóm lại thì không phải vì
pháp thuyết nhiều hay ít, quá độ được cao hay thấp, mà bảo Đức Phật đo lường
công ơn của cha mẹ. Dù độ cha hay mẹ, Ngài cũng rất hết lòng làm tròn phận sự
của con, huống chi đối với chúng sanh nào có duyên với Ngài, cũng không thối
chí ngã lòng, chẳng hạn như Ngài độ tướng cướp hung tàn nhất trong thời kỳ ấy,
tên Angulimala (Vô não), là tướng cướp đã rượt Ngài cả ba do tuần để
giết, mà Ngài vẫn cố độ cho kỳ được. Tâm của Đức Phật đối với chúng sanh rất
bình đẳng, không hề phân biệt thân, thù. Ngài chỉ do căn cơ và duyên lành của
chúng sanh mà tế độ thôi.
Đến đây, người ta có thể hỏi:
Vậy tại sao Đức Thế Tôn lại dạy phụng sự mẹ, cha? Như tôi đã nói trên kia, ta
nên đem lợi ích cho người nào gần ta hơn hết. Chắc chắn ai cũng công nhận rằng
ta là người gần mẹ nhiều hơn hết hay ngược lại, mẹ ta là người gần ta hơn ai
hết. Bảo rằng ta gần mẹ, không phải ta mặc nhiên khẳng định nhận công mẹ lớn
hơn công cha. Nhưng người gần mình nhất, là người mà mình có nhiều dịp giúp đỡ
nhất. Theo ý Đức Thế Tôn dạy, thì không phân biệt công ơn của hai vị, mà tùy
trường hợp nào có thể giúp thì giúp lập tức.
Phận sự làm con phải biết công
ơn cha mẹ và lo đền đáp, đó là con đường đi của các bậc thánh nhân, của Đức
Phật. Đức Phật có dạy rằng, sự hiếu thảo là con đường đi của các bậc Bồ tát.
Trong một kiếp nọ, Đức Phật sanh làm đạo sĩ tên Sona-pandita, Ngài có
dạy một vị vua về sự thực hành của chúng sanh, mà rất ít có chúng sanh nào thực
hành được. Ngài dạy toàn bằng kệ ngôn, câu kệ này trong bộ Túc Sanh Truyện gọi
là Sonananda, dạy rằng: "Cha, mẹ hy sinh tất cả các sự hạnh phúc
cho con. Khi bà mẹ biết rằng, trong mình thọ thai, chưa biết mặt con ra sao,
trai hay gái, nhưng lòng vẫn băn khoăn lo sợ, hằng van vái thai bào được bình
an. Như vậy cũng vẫn chưa vừa lòng, bà còn đi coi bói cho biết con trai hay con
gái, rồi xem năm tháng ngày sanh có tốt không, lại còn tìm hỏi các bậc lão
thành xem khi có thai phải kiêng cử những gì, ước mong và cầu khẩn xin cho sanh
quí tử".
Những điều làm khổ cho cha mẹ
nhất là bệnh ốm nghén. Bệnh ốm nghén là bệnh rất lạ, khiến thèm những món gì
khi chưa có thai không thèm. Tôi xin nhắc lại chuyện ốm nghén của Hoàng hậu của
đức vua Bình Sa Vương:
Khi bà có thai Thái tử A Xà Thế,
bà thèm uống máu của vua Bình Sa. Bà biết sự thèm muốn của mình xấu xa đê tiện,
nên không dám nói ra, đến nổi ốm gầy. Đức vua thấy thế phán hỏi nhiều lần bà
mới nói. Đức vua liền rút gươm đang đeo bên mình, sẻ thịt bắp tay cho ra huyết
để vợ uống. Từ đó bà hết thèm uống máu nhà vua nữa. Tin này thấu đến triều thần
các thầy Bà la môn đoán điềm biết rằng, sau này Thái tử sẽ giết vua, nên các
ông khuyên vua giết hay đem bỏ con, lúc lọt lòng. Nhưng tấm lòng cha thương con
không bờ bến, nên ngài vẫn nuôi như thường và đặt tên là Ajātasatru, nghĩa là
người có thù trước khi sanh. Sau nầy, Thái tử giết cha giam mẹ.
Nhắc tích này để quí vị thấy
lòng thương con của cha mẹ, không có một sức mạnh nào chặn đứng được. Vì vậy ta
không thể phân biệt được công ơn của cha mẹ ai hơn ai.
Chẳng những bà mẹ có công đức,
mang nặng đẻ đau mà thôi, bà lại có thêm cái biệt tài là biết cách nuôi dưỡng
con, săn sóc con còn nhỏ, khi chưa biết nói mà bà đã hiểu ý muốn của nó. Khi
nghe con khóc, lật đật bồng ẵm vào lòng ru và vỗ về chẳng luận ngày đêm, sớm
khuya, trưa tối. Nếu dỗ không nín bà cho bú, bà tìm thế dỗ cho đến con nín mới
thôi, vì vậy Đức Phật gọi mẹ là Posenti nghĩa là người phụ nữ biết vỗ về
đứa bé chưa biết gì cả, đến đổi phải vừa lòng với bà.
Trong bộ kinh Majjhimanikāya
Mulapaññā-saka, có dạy rằng: "Này các thầy Tỳ khưu, cha mẹ là đấng có
tâm rất lành đối với con, bắt đầu từ khi vừa biết thọ thai bà mẹ hết sức lo bảo
vệ thai bào, ông cha thì lo thang thuốc cả mười tháng như vậy. Các thầy Tỳ khưu
này, bà mẹ hết sức lo và cố gắng săn sóc con, không nài cực nhọc, không một
việc nhỏ nhen nào mà bà không quan tâm tới, chính bà là người san sớt máu cho
con, chẳng những lo cho con khi còn trong thai, mà mãi đến khi vừa sanh ra cho
đến lớn khôn, bà mẹ và ông cha lo cho đến khi nào hai ông bà từ bỏ cõi đời
này".
Mẹ và cha khi biết mình đã có
con, thì hai ông bà lo tiết kiệm tiền của để cho con, lắm khi vì lòng thương
con mà dám làm tội ác, để có tiền nuôi con, hoặc để dành cho con về sau. Khi
nào con đi đâu về trễ, ông bà lo sợ, nhất là cha mẹ dựa cửa ngóng trông, sợ con
gặp tai nạn.
Vì vậy Đức Phật dạy: Cha mẹ đối
với con có bốn đức, là Từ, Bi, Hỉ, Xả, lại có câu kệ ngôn dạy rằng: Ubhopi
ce te brahmāpubbadevā pubbacāryā ahuneyyati ca vuccati.
Nghĩa là đối với hai đấng đại ân
nhân ấy, Đức Phật có ban cho bốn hồng danh là: Phạm thiên, chư thiên thuở đầu,
vị tôn sư trước nhất, bậc đáng cúng dường.
Hồng danh thứ nhất, Phạm thiên, có
nghĩa là cao quí, ý nói cha mẹ nuôi dưỡng con được hoàn toàn không nài khó
nhọc, vì cha mẹ có tứ vô lượng tâm, nghĩa là tâm cao quí không lấy gì đo lường
được; bốn tâm ấy là: Từ (Mettā), Bi (Karunā), Hỉ (Muditā),
Xả (Upekkhā). Bốn tâm này giờ phút nào cũng ở trong cha mẹ và hằng ban
bố đến con, mặc dù con đã lớn khôn, đã nên quan to, giàu có, cũng như Phạm
thiên, bao giờ cũng niệm tứ vô lượng tâm không ngừng nghỉ. Vì lẽ ấy, nên Đức
Phật mới cho cha mẹ hồng danh làm Phạm thiên.
Bốn tâm vô lượng ấy phát sanh
đến cha mẹ từ bao giờ?
Tâm Từ phát sanh đến cha mẹ, kể
từ khi bà mẹ biết mình thọ thai. Ngay từ khi ấy, cha mẹ lo lắng mong thấy mặt
con, muốn biết xem con ấy là trai hay gái, đẹp hay xấu, có tật bệnh gì không.
Suy tư như thế gọi là tâm từ đã sanh.
Tâm Bi có từ khi bà mẹ vừa sanh
con ra khỏi lòng. Mặc dù trong khi ấy mẹ còn đau đớn cực nhọc, nhưng khi nghe
tiếng con khóc, mẹ lo nghĩ đến con, thương con và lo sợ cho sức khỏe của con.
Lòng thương con không biết bờ bến nào mà kể.
Tâm Hỉ có từ khi con vừa biết đi
đứng cho đến khi lập gia đình, vẫn đến khi cha mẹ chết. Cha mẹ thấy con càng an
vui, càng mừng và càng cầu nguyện cho con thêm, không bao giờ cha mẹ biết ganh
tị với con về hạnh phúc của con. Mặc dù con có nuôi cha mẹ hay không, cha mẹ
cũng không đòi hỏi và cũng không than van phiền trách.
Tâm Xả phát sanh lên, khi con
khôn lớn có gia đình, giàu hay nghèo chẳng hạn, mà không lo phụng sự hoặc giúp
đỡ cha mẹ, cha mẹ cũng không bao giờ buồn và không đòi hỏi chi ở con. Mặc dù
con có lầm lỗi phạm thượng, cha mẹ vẫn vui lòng tha thứ, không có oán như người
dưng kẻ lạ.
Theo hồng danh thứ nhì, Phật gọi
cha mẹ là chư thiên thuở đầu, bởi cha mẹ là người duy nhất cố tâm đem hạnh phúc
lại cho con, không bao giờ cố chấp lỗi lầm nào của con, không muốn con mình bị tai
nạn. Thời kỳ Đức Phật còn tại thế, người thời ấy chỉ biết tin ở một đấng siêu
việt có thể tiếp độ chúng sanh về thiên đàng, mà người thời ấy gọi là chư
thiên, vì lẽ ấy nên Đức Phật gọi cha mẹ là chư thiên của con.
Theo hồng danh thứ ba, Phật gọi
cha mẹ là vị tôn sư trước nhất, bởi cha mẹ là thầy tổ dạy con đủ mọi việc, từ
đi, ăn, ngủ đến đạo lý luân thường, trước hơn tất cả các vị tôn sư sau này.
Theo hồng danh thứ tư, Phật gọi
cha mẹ là bậc đáng thọ lãnh của cúng dường, vì chỉ có cha mẹ đáng thọ lãnh tất
cả mọi vật của con đem đến dâng cúng.
Lòng thương và lo cho con của
cha mẹ không bờ bến như thế, nên bổn phận làm con có phận sự phải phụng dưỡng
cha mẹ cho tròn chữ hiếu. Người con nào không lo tròn hiếu trước, thì người ấy
không phải là một người đáng làm bạn, mà cũng không xứng đáng làm chồng hay vợ,
mà cũng không thể làm một công dân tốt của mọi quốc gia. Con mà bất hiếu còn
thua cây gậy của cha mẹ, chẳng khác nào năm đứa con trong sự tích sau đây:
Theo Pháp Cú kinh, thuở nọ, Đức
Thế Tôn ngự tại Kỳ Viên tịnh xá của trưởng giả Cấp Cô Độc. Khi ấy có một vị Bà
la môn rất giàu, ông có năm người con trai đã lập gia đình xong.
Sau khi vợ ông đã quá vãng, ông
muốn cưới vợ bé để coi sóc gia đình, năm con dâu nghe vậy mới bàn với năm người
chồng rằng: "Nay cha đã già rồi mà còn cưới vợ nhỏ về làm gì? Để chúng tôi
thay phiên nhau chăm sóc cho cha, không hơn sao?".
Năm người con trai mới đến hầu
cha, trình bày tự sự. Ông cha bằng lòng chia của ra làm năm phần cho năm người
con, còn ông thì ở đậu với năm con, hết với đứa này đến đứa khác. Ban đầu, năm
cô con dâu còn đối với ông tử tế, sau lần lần phai lợt, sau cùng cả năm người
dâu đều bỏ ông, không lo săn sóc, trái lại còn xua đuổi ông. Ông không thể chịu
nổi cảnh hất hủi ấy, ông bỏ nhà đi xin ăn, ở theo đầu đường xó chợ thật là khổ
sở.
Ngày nọ ông gặp được một người
bạn cũ, bèn thuật hoàn cảnh của ông, và xin người bạn tìm phương cứu giúp.
Người bạn đáp: "Tôi không biết phương pháp nào giúp bạn được, vậy bạn hãy
vào chùa Kỳ Viên, để chờ đấng cứu thế là Đức Thích Ca Mâu Ni, ngài là đấng có
đủ khả năng cứu người cả vật chất và tinh thần".
Ông nghe lời vào hầu Phật và cầu
xin Phật chỉ phương pháp nào cứu khổ ông. Đức Thế Tôn dạy ông vào đêm ngày rằm
đến nghe thuyết pháp và sau thời pháp thì sẽ làm như lời Ngài sẽ bảo.
Đêm rằm có rất nhiều tín đồ đến
nghe pháp, mà trong ấy có cả năm người con trai ông và đức vua Ba Tư Nặc. Sau
khi dứt thời pháp, tín đồ đứng lên ra. Ông Bà la môn ta nói: "Xin quí vị
thiện nam tín nữ và đàn na thí chủ, hãy tạm dừng lại để cho lão bộc bạch đôi
lời. Có lẽ quí vị không quên già này, trước đây là một vị trưởng giả trong
thành này. Hôm nay, già này phải đi xin ăn. Thật ra già có con, mà con của già
không bằng cây gậy này, vì cây gậy này, già còn nhờ được để chống đi, ngừa lúc
chân run tay yếu, hoặc để đuổi chó đánh mèo, còn con của già, khi được chia của
cho, lại bỏ già đi xin ăn như thế này".
Các tín đồ có mặt nơi ấy nhất là
đức vua liền hỏi ai là con ông. Ông chỉ mặt từng người, đức vua và công chúng
rất công phẩn, muốn giết hết năm người con bất hiếu, nhưng ông xin tha tội cho.
Năm đứa con ấy mới thấy lòng xả của cha, bèn ăn năn, xin ông đem về nuôi dưỡng.
Khi ông về nhà con, mấy con dâu tỏ vẻ bất bình, nhưng năm người con trai ông
nói rằng: "Nếu các người không bằng lòng, thì cứ tự tiện ra đi, chứ chúng
tôi không đê hèn hơn cây gậy của cha chúng tôi".
Nhắc lại tích này, tôi muốn chỉ
rằng, làm con không biết phụng dưỡng cha mẹ, hay phụng dưỡng một cách miễn
cưỡng, còn thua loài ăn cỏ và điều thứ nhì tôi muốn chỉ thấy rằng: Đức Thế Tôn
chẳng những cứu người khỏi vòng luân hồi mà thôi, riêng về vật chất ngài cũng
tìm phương cứu độ.
Đức Phật dạy rằng: "Các bậc
trí thức đều được kính trọng, những người phụng dưỡng cha mẹ, và người biết
phụng dưỡng cha mẹ sẽ gặp nhiều sự an vui là do nhờ quả của sự phụng dưỡng cha
me", như sự tích Túc sanh truyện sau đây:
Khi xưa có một con kên kên rất
hiếu thảo với cha mẹ. Vì già nên không thấy đường, nên không thể đi kiếm ăn
được, hai con kên kên già chỉ nhờ con đi kiếm mồi về nuôi, và đem vải về làm tổ
cho ở. Ngày nọ, kên kên con đi kiếm mồi, rủi mắc chân vào bẩy của một anh thợ
săn. Kên kên khóc. Anh thợ săn thấy vậy mới hỏi: "Người đời thường bảo
rằng, kên kên có mắt rất tỏ, thấy rõ các tử thi ở rất xa, vậy tại sao người lại
mắc vào bẩy của ta?"
Kên kên mới nói: "Này anh
thợ săn, có hai điều mà ai ai cũng không trông thấy được: một là tai nạn và hai
là cái chết, nó đến bên ta, ta cũng không trông thấy, mặc dù ta có mắt thấy
ngàn dặm. Vì vậy tôi mới mắc bẩy của anh". Anh thợ săn nghe vậy, phát tâm
trong sạch và nghĩ rằng kên kên biết nói và có trí tuệ như vầy, chắc là kên kên
biết phụng dưỡng cha mẹ. Anh mới thả kên kên. Khi được thả, kên kên lật đật
kiếm mồi về nuôi cha mẹ. Kên kên ấy là tiền thân của Đức Thế Tôn.
Trong bài kinh Brahmasutta,
Đức Thế Tôn có dạy rằng, cha mẹ là hai đấng có công ơn vô lượng vô biên đối với
con. Nếu người con nào có hiếu thâu phục năm châu bốn biển để cho cha mẹ cai
trị, hưởng sự an lạc như thế, là cùng tột rồi, nhưng cũng chưa gọi là đáp đền
được công ơn sanh dưỡng trong muôn một. Chỉ người ấy chỉ lo phần vật chất của
cha mẹ thôi, hay có thể nói theo Phật giáo, chỉ lo cho cha mẹ kiếp hiện tại
thôi. Vả lại, vua là tột đỉnh cao sang, nhưng làm sao chạy khỏi tội lỗi. Phàm
người con có hiếu phải cố gắng làm sao cho cha mẹ biết tu hành để giải thoát,
hay làm sao cho cha mẹ có bốn pháp này trong tâm, nghĩa là thực hành bốn pháp:
1. Saddhā: đức tin, nghĩa
là tin Tam Bảo, tin nơi nghiệp.
2. Cāga: bố thí hay dứt
bỏ, tức là dứt bỏ lòng tham lam, bố thí cho người nghèo khổ (đây là nguyên nhân
đem lộ phí theo về ngày vị lai).
3. Sīla: trì giới, là giữ
cho thân, khẩu, được an tịnh, không phạm vào năm điều tội ác.
4. Pañña: trí tuệ, nghĩa
là trí tuệ để quan sát thấy thân này vô thường, khổ não và vô ngã, nghĩa là có
minh sát tuệ để quán tưởng thấy chán ngán thân này, không còn quyến luyến
thương tiếc mọi việc đời.
Nếu cha mẹ đã quá vãng thì bổn
phận làm con nên cố gắng làm mọi việc lành, rồi hồi hướng đến cha mẹ hằng ngày.
Người con nào làm được như thế mới gọi là con có hiếu và đáp đền được công ơn
sanh dưỡng trong muôn một.
Người nào có phước mới còn cha
mẹ tại tiền. Người còn có cha mẹ tại tiền trong nhà, cũng như có chư thánh nhân
trong nhà vậy. Theo Đức Thế Tôn, cha mẹ có thể sánh với chư thánh nhân, bởi vậy
cúng dường đến cha mẹ có phước vô luợng vô biên, cũng như cúng dường cho các
bậc A La Hán vậy.
Phàm người biết công ơn cha mẹ
thì phải lo cách đáp đền bằng vật chất và bằng tinh thần.
Đền đáp công ơn bằng vật chất
phải thực hành như thế này là:
1. Phải hết lòng cung kính cha
mẹ, không bao giờ dám nói một lời nào vô lễ, làm trái ý.
2. Phải lo phụng dưỡng cha mẹ,
cung cấp vật thực, thuốc uống, y phục và chỗ ở. Phải quạt nồng đắp lạnh, sớm
thăm tối viếng cha mẹ, cũng như khi ta còn nhỏ cha mẹ lo cho ta.
3. Phải lo chăm nom săn sóc cha
mẹ khi có bệnh.
4. Phải bỏ việc gia đình của
mình để làm việc cho cha mẹ trước, và không bao giờ nghĩ đến việc riêng của
mình khi chưa làm xong công việc của cha mẹ.
Đền đáp công ơn cha mẹ về tinh
thần là:
1. Gắng hết sức giữ gìn thanh
danh của gia đình, không để cho người đời khinh bỉ, hơn nữa gắng làm sao thanh
danh của gia đình càng ngày càng được người ca tụng.
2. Gắng làm cho mình ra người
đáng thọ hưởng gia tài của cha mẹ để lại.
3. Khi cha mẹ ta không có đức
tin với Tam Bảo, không thọ tam qui ngũ giới, tự mình cố gắng khuyên; nếu không
được, thì gắng nhờ các bậc trí thức giảng giải hộ mình hoặc chư Tăng hay các
bậc đại đức thuyết pháp độ cha mẹ.
4. Ít lắm ta cũng phải làm sao
thuyết phục được cha mẹ thọ tam qui ngũ giới.
5. Dẫn dắt cha mẹ vào chùa nghe
pháp, bố thí và học minh sát tuệ. Người làm tròn được những đều trên đây mới
gọi là con biết yêu thương cha mẹ và báo đền được muôn một công ơn cha mẹ.
Phần người con biết đền đáp công
ơn cha mẹ, thì được những sự hạnh phúc là:
1. Không bị mất sự lợi ích.
2. Sẽ được thoát khỏi những điều
kinh sợ.
3. Sẽ thoát khỏi được tất cả tai
nạn.
4. Sẽ được lợi lộc do các bậc
trí thức hay vua chúa ban cho.
5. Sẽ được quyền cao chức lớn do
vua phong.
6. Hằng được sự ngợi khen của
hàng đại chúng ở mọi nơi và mọi trường hợp.
7. Sẽ thoát khỏi sự ám hại của
kẻ bất lương.
8. Khi có bị tai nạn cũng có chư
thiên đến cứu.
9. Sau khi chết được sanh về cõi
trời.
10. Sẽ được sanh về cõi Niết
Bàn.
11. Đi theo con đường của chư Bồ
tát và chư thánh nhân.
HẠNH PHÚC XII
Puttasaṅgaho
Nết hạnh tiếp độ con
Phạn ngữ Putta có nhiều
nghĩa nhưng nghĩa chánh yếu là con, là người giữ gìn không để cha mẹ đọa vào ác
đạo. Ý nói làm con muốn đền công ơn cha mẹ, phải cố dìu dắt cha mẹ trở nên
người Chánh Kiến, tu hành theo hạnh bố thí, trì giới, tham thiền.
Putta còn có
nghĩa là, người làm cho dòng họ của mình được trong sạch, nghĩa là đứa con thảo
hay là con quý, là con có giới đức.
Putta còn có
nghĩa làm cho cha mẹ vui lòng, nghĩa là đứa con hiếu thảo, là con lo phụng
dưỡng cha mẹ, làm cho cha mẹ hài lòng. Putta còn có nghĩa là đứa nhỏ mà
cha mẹ hằng lo trông nom từ khi còn trong thai bào.
Trong Túc Sanh truyện kể có ba
hạng con:
- Antevāsika: đệ tử
(tinh thần).
- Dinnako: con
nuôi.
- Atrajo: con đẻ.
Theo Phật giáo, các bậc xuất gia
xem thầy tế độ là ông cha tinh thần, hết sức cung kính, và ông thầy cũng hết
lòng lo dìu dắt đệ tử đến nơi giải thoát.
Còn con nuôi con đẻ, ai cũng
hiểu rõ. Khi người có phận sự làm cha mẹ, thì con nào cũng phải nuôi dưỡng và
dạy dỗ như nhau, vì đã làm cha mẹ thì phải có Tứ vô lượng tâm như vị Phạm
thiên.
Con đẻ có ba hạng khác nhau là:
1. Abhijataputta: con cao
hơn cha mẹ. Hạng con này có nhiều duyên lành hơn cha mẹ, lớn lên làm nên danh
phận cao hơn cha mẹ, làm cho họ hàng được danh thơm tiếng tốt.
2. Anujātaputta: con bằng
cha mẹ. Hạng con này không có gì xuất sắc, chỉ tầm thường thôi, nghĩa là không
nâng dòng họ cao thêm, mà cũng không làm cho dòng họ bị mất danh giá.
3. Avajātaputta: con thấp
kém hơn cha mẹ. Hạng con này, từ khi sanh ra đến khôn lớn, chỉ biết làm hại cha
mẹ, như là xài phá của tiền, làm cho người ta khi dễ cha mẹ họ hàng. Khi đứa
con này còn sống tới bao giờ, thì vẫn làm cho cha mẹ đau khổ đến chừng ấy.
Sự nuôi dưỡng và dạy dỗ con là
phận sự thiêng liêng của cha mẹ đối với con, nhưng có được kết quả hay không là
do nơi con. Tuy nhiên, cha mẹ phải có phương pháp dạy con từ thuở còn nhỏ.
Trong Tạng Kinh, bài kinh Singālovādasutta
có dạy rằng, bổn phận làm cha mẹ đối với con có năm pháp, là:
- Pāpā nivarenti: ngăn
ngừa không cho con làm việc tội.
- Kayane sikkhapenti: dạy
con làm việc lành.
- Sippam sikkhapenti: cho
con học nghề.
- Patirupena dharena
sannosenti: dựng vợ gả chồng cho con với nơi xứng đáng thích hợp.
- Samaye dayajjaham
niyyadenti: chia gia tài cho thích hợp.
1. Ngăn ngừa không cho con làm
tội: ý nói khi cha mẹ thấy con bê tha, không lo học hành mà cứ đi theo bạn ác,
thì cha mẹ tìm phương thế nào ngăn ngừa. Nếu không thể được, thì nên đưa con đi
học một nơi nào cho xa bạn ác. Làm như vậy thật là hợp với lời Phật dạy, nhưng
lắm khi không được kết quả mà còn có hại, vì lắm trẻ em thời bây giờ, khi cha
mẹ khuyên bảo, đã không nghe mà trái lại còn cho rằng ý kiến của cha mẹ đã lỗi
thời, và không muốn cha mẹ can thiệp vào đời sống tư riêng của mình. Có lắm gia
đình thấy dạy con không được, lại thối chí bỏ mặc lấy nó, không đoái hoài tới,
bỏ đứa con ấy càng ngày càng đi xa vào tội lỗi. Tôi xin nhắc rằng, phận sự cha
mẹ là phải ngăn ngừa con khỏi sa vào đường tội lỗi và muốn được vậy, cha mẹ
phải cần xét đến ba nguyên tố:
- Sự nhận thức.
- Nhu cầu.
- Phiền não.
Cha mẹ với con ở về hai thế hệ
khác nhau, nên hai đàng khó lòng mà đồng ý với nhau về ba nguyên tố ấy. Cha mẹ
đã có nhiều kiến thức hơn con, lại còn khép mình trong phong tục tập quán, con
thì chưa có kinh nghiệm, lại bị lôi cuốn trong đời sống mới đầy cám dỗ hư hèn,
nên hai đàng nhận thức một vấn đề một khác, hai đàng có nhu cầu cũng khác nhau,
và hai đàng không phiền não giống nhau.
Thực tế vốn bi thảm như vậy.
Người con hiếu thảo phải biết nghe lời cha mẹ, vì cha mẹ sở dĩ không chìu thị
hiếu của mình là bởi mưu lợi cho mình. Cha mẹ phải nhẫn nại dạy con, đem ánh
sáng của kinh nghiệm mình soi đường cho con và đem lòng từ ái mà cảm hóa con.
Sự thật khi nào các cô, cậu có
con mới thấy được lòng của cha mẹ, chừng ấy các cô, cậu thấy hối tiếc vì không
còn có cha mẹ để phụng dưỡng hay dạy bảo mình.
2. Dạy con làm việc lành: việc
lành đây là các thiện pháp theo lời Phật dạy, là lập bố thí, trì giới, làm cho
tâm quen với việc phước thiện.
Việc lành đây có hai loại: việc
lành về mặt xã hội, như quyên tiền giúp việc phước thiện, và việc lành về tinh
thần là tu giải thoát như đã nói trên.
Ngoài ra Đức Phật dạy ta phải có
năm điều để đối với xã hội là:
- Mettā: lòng từ, nghĩa
là có tâm thương người nghèo khó hoạn nạn và cố giúp đỡ tùy theo sức mình.
- Sammājivitā: nuôi mạng
chân chánh, nghĩa là không vì quyền lợi của mình mà làm hại kẻ khác.
- Satisamvara: thu thúc
giữ tâm mình không cho sa ngã theo ngũ tuần lục dục.
- Sacca: nói lời chân
thật và luôn luôn giữ mình theo lẽ chánh, nghĩa là không dối người, dối mình.
- Appamādo: không dễ duôi
trong việc làm lành, như bố thí, trì giới, tham thiền v.v...
Lẽ cố nhiên cha mẹ có phận sự lo
cho con được an vui trong cõi này và ngày vị lai, nghĩa là dẫn dắt con tu hành
để khỏi khổ trong kiếp vị lai. Cha mẹ nào đối với con như thế mới gọi là người
biết thương con và mới gọi là làm tròn bổn phận cha mẹ, và mới gọi là người
hành đúng theo Phật dạy. Như sự tích của trưởng giả Cấp Cô Độc dạy con sau đây:
Trưởng giả Cấp Cô Độc có một
người con trai tên là Kāla. Người con này không tin Phật pháp, thiên tà kiến.
Ông tìm đủ phương thế để đưa con về chánh kiến, nhưng chưa được. Ông lấy làm lo
buồn, ngày nọ ông bảo con rằng: "Nếu con chịu thọ bát quan trai giới cùng
Đức Phật, thì cha sẽ cho con một trăm đồng vàng". Người con vâng lời đến
thọ giới cho có chừng, rồi về nhà lãnh trăm đồng vàng.
Lần khác, ông trưởng giả kêu con
lại bảo rằng: "Nếu con đến nghe Đức Phật thuyết pháp mà con nhớ được một
câu, thì cha sẽ thưởng cho con một ngàn đồng vàng".
Người con vì ham tiền, nên bằng
lòng đi nghe pháp, thầm bảo bụng rằng: "Ta cố nhớ một câu thôi, rồi ta rút
lui không khó". Khi Kāla vào giảng đường nghe thuyết pháp, cậu cố nghe để
nhớ một câu thôi, nhưng khi đứng dậy ra về lại quên đi. Đây là nơi oai lực của
Đức Thế Tôn. Cậu lấy làm tức mình nên trở lại cố chăm chú nghe, đặng nhớ một
câu thôi. Hôm ấy, Đức Thế Tôn giảng về sự chết, ngài dạy trong ba cõi không một
chúng sanh nào thoát khỏi tay tử thần. Cậu Kāla hiểu và phát tâm kinh sợ luân
hồi, diệt trừ được phiền não và đắc quả Tu Đà Hườn.
Về nhà chàng nhớ đến số tiền
thưởng của cha, lấy làm hổ thẹn, vào phòng đóng cửa lại không dám ra, sợ cha
nhắc đến số tiền thưởng.
Sáng ngày, nhân dịp Đức Thế Tôn
đến trai tăng nơi nhà, ông trưởng giả mới kêu con ra lãnh ngàn đồng vàng tiền
thưởng. Đức Thế Tôn biết Kāla đang lúng túng và rất hổ thẹn trước chư Tăng và
cha mẹ, nên Ngài dạy câu kệ rằng:
Pathabya ekarajjena
Saggassa gamamenavā
Sabbalokādhioaccena
Sotāpattiphalam varam
Nghĩa là Tu Đà Hườn là quả cao
hơn đế vị, sự an vui trong cõi trời và tất cả sự nắm chủ quyền trong vũ trụ (ý
nói làm vua Chuyển Luân Thánh Vương).
Ý câu này dạy rằng: Không thể
đem vật gì trong tam giới này lại sánh với quả Tu Đà Hườn được. Khi đã đắc Tu
Đà Hườn quả thì vàng bạc, ngọc ngà châu báu đối với Kāla không còn giá
trị gì hết.
Tích này cho ta thấy rằng, khi
cha mẹ là người chánh kiến, thì dẫn dắt con đi trên đường cao quý được. Vậy bổn
phận làm cha mẹ chẳng những lo cho được an vui trong kiếp này, mà còn phải lo
cho kiếp vị lai cho con nữa.
3. Cho con học nghề: phận sự làm
cha mẹ phải gắng cho con học được một cái nghề gì theo chánh nghiệp. Cha mẹ
không nên giao phó con cho nhà trường mà không quan tâm tới, vì có lắm cậu mang
sách ra đi nhưng kỳ thực thì không đến trường, mà cắp sách đi chơi thôi.
4. Dựng vợ gả chồng cho con:
điều này có hai ý nghĩa là cha mẹ có phận sự và cũng phải lo tròn phận sự định
đoạt gia đình của con, phải biết chọn nơi cho hợp với con mình. Chuyện vợ chồng
của con trong thời buổi này, thật là một vấn đề rất là phiền phức cho phận sự
làm cha mẹ. Vì có khi cha mẹ ưng ý chỗ này mà con không bằng lòng, lại muốn tự
ý chọn ý trung nhân cho mình. Vì vậy thật là khó giải quyết. Vấn đề này có thể
chia làm hai phần là:
- Khi cha mẹ nhúng tay vào đời
tư của con có lợi hay có hại?
- Vậy cha mẹ hay con là người có
quyền quyết định đoạt số phận của mình?
Về vấn đề thứ nhất, tôi thấy
trong kinh, Đức Phật dạy cha mẹ nên lo định đoạt cho con, phải lo và chọn cho
hợp tình cảnh, vì các con còn nhỏ chưa hiểu đời bằng cha mẹ.
Vấn đề thứ hai, nên được thỏa
thuận giữa cha mẹ và con. Phận sự làm cha mẹ là chỉ chỗ hại và chỗ lợi của cuộc
hôn nhân, để cho con suy nghĩ lấy. Phần con nên suy nghĩ cho kỹ, chẳng nên vì
lòng ham muốn nhất thời của mình mà làm cha mẹ buồn, và nhất là làm hại cho
tương lai của mình.
5. Chia gia tài cho thích hợp:
lòng thương con của cha mẹ được thể hiện rõ rệt trong giai đoạn này, và lòng
thương ấy rất cao quý, không đo lường được tấm lòng thương ấy, khi chia gia tài
cho con, lúc con tách xa cha mẹ mà tạo lập gia đình. Đó là phần gia tài vật
chất và cũng là gia tài tinh thần, vì trong gia tài đó, tích chứa biết bao mồ
hôi nước mắt, tâm tư và công đức của cha mẹ.
Trong Chú giải kinh Hạnh phúc có
dạy làm cha mẹ phải dắt dẫn con theo năm đường, là:
a) Dắt dẫn con vào chùa nghe
giáo pháp của Đức Thế Tôn, để tập cho nó tu hành khi còn trẻ.
b) Tập con biết lễ Phật, tụng
kinh.
c) Tập con làm lành, như bố thí.
d) Tập con niệm Phật, tham
thiền.
e) Có thể nên cho con xuất gia
(tùy theo sức của con, muốn xuất gia tới lúc nào có thể hành nổi).
Sự tiếp độ con có nhiều hạnh
phúc là:
1. Tạo cho con thành người lương
thiện.
2. Tạo cho con thành một công
dân tốt của quốc gia.
3. Tạo cho con thành gương mẫu
cho cháu chắt sau này.
4. Làm cho con được hưởng hạnh
phúc trong kiếp này và vị lai.
5. Làm cho con được hưởng ba
điều lợi ích.
6. Là nguyên nhân sanh hạnh phúc
cho mình con và cháu chắt sau này.
7. Là người giúp cho đời bớt một
công dân bất lương, và bớt một người làm khổ cho gia đình sau này.
8. Là người tạo cho con nên
người trí thức, người có giới đức.
9. Được chư thiên ca tụng.
HẠNH PHÚC XIII
Dārassa saṅghaho
Tiếp độ vợ
Vợ chồng là một vấn đề rất quan
trọng trong đời của con người. Người mà được vui hay khổ cũng tùy thuộc theo sự
hành động của vợ chồng. Vì vậy Đức Phật dạy tiếp độ vợ là sự hạnh phúc cao
thượng.
Tiếng Phạn Saṅghaha nghĩa
là tiếp độ, ý nói khi người đàn ông đã có vợ, thì phải giúp đỡ vợ. Theo câu này
ta thấy hình như người đàn ông bị bắt buộc phải tiếp độ vợ và như vậy thì dường
như người vợ không cần lo gì cho chồng. Sự thật người vợ vẫn có bổn phận đối
với chồng. Vợ là nội tướng, lo coi mọi công việc trong gia đình. Người chồng ví
như tay mặt, người vợ ví như tay trái. Vì tay mặt làm việc nặng nhọc có tiền
mua cà rá, nhẫn, tự mình không đeo mà cho tay trái đeo. Không khác nào người
chồng làm việc nặng nhọc có tiền đem về giao cho vợ. Bổn phận người vợ là phải
lo săn sóc của ấy, không cho hao mất, ấy là phận sự của nội tướng.
Theo Việt ngữ, thì tiếng
"chồng" và "vợ" có nghĩa là nhất định, còn tiếng Phạn ngữ
tương đương tiếng "chồng, vợ" của Việt ngữ thì có định nghĩa tùy theo
trường hợp. Phạn ngữ có hai tiếng tương đương với tiếng "chồng" của
Việt ngữ: Sāmī và Ayya. Tiếng Sāmī, hay Bắc Phạn là Svāmī,
đều có nghĩa là chủ (chồng). Tiếng Ayya cũng có nghĩa là chủ, nhưng
tiếng Sāmī hay Svāmī chỉ người chủ hiền lành, bao giờ cũng thương
yêu và hết lòng giúp đỡ người dưới, cũng như là giúp cho chính bản thân mình.
Còn tiếng Ayya chỉ người chủ tính tình không cao đẹp bằng Sāmī,
là người chủ có tính không lành hay muốn làm cho người ta sợ hay dùng quyền độc
đoán.
Phạn ngữ có nhiều tiếng tương
đương với tiếng "vợ" của Việt ngữ, mà có định nghĩa khác nhau: Dāra
và Jāya là vợ, Paricārikā nghĩa là hầu hạ dưới chân. Thường dùng
nhất là tiếng Bhāriyā (vợ), có nghĩa là người đáng nuôi, người đáng
thương hại, để dạy là người mà ai ai cũng yêu chuộng và muốn nuôi. Tiếng này
thường đi đôi với tiếng Sāmī.
Theo trong bộ kinh Anguttaranikāya
đoạn Sattanipatra, đức Phật có dạy rằng có bảy hạng vợ, tức nhiên là cũng
có bảy hạng chồng tương đối.
Bảy hạng vợ ấy là:
1. Vadhakabhāriyā: vợ như
là đao phủ thủ.
2. Corībhāriyā: vợ như kẻ
trộm.
3. Ayyabhariyā: vợ như
chủ nhân ác ôn.
4. Mātābhariyā: vợ như
mẹ.
5. Bhaginibhāriyā:vợ như
em gái.
6. Sakhibhāriyā: vợ như
bạn.
7. Dāsībhāriyā: vợ như
tôi đòi.
- Vợ như đao phủ thủ: đao phủ
thủ là người giết tội nhân. Người vợ thuộc về hạng này là người đàn bà nhiều
sân hận, mặc dù chồng có lo lắng nhường nhịn đến đâu, cũng không hề biết thương
hại chồng, làm sao miễn cho vừa lòng mình thôi. Người vợ này thường mắng nhiếc
chửi bới chồng lắm khi đánh đập chồng là khác.
Đồng thời cũng có hạng chồng như
đao phủ thủ vậy.
- Vợ như kẻ trộm: người vợ này
không trung thành với chồng, thường lo việc sang đoạt, lường gạt, cướp bóc của
chồng, đem tiền mua vui riêng, như cờ bạc chẳng hạn, theo ý thích của mình.
Đồng thời cũng có hạng chồng như kẻ cướp.
Thành thật mà nói, vợ hay chồng
đều có quyền xài của có trong gia đình, nhưng khi đem ra xài cần phải có sự
đồng thuận cả hai người. Còn khi nào một người trong hai người ấy lấy tiền xài
lo riêng mình, là có tác ý lén lấy tiền ấy đem đi mua vui riêng, là không hợp
pháp, sai với luật Phật.
Thật ra, sự trộm cắp giữa chồng
và vợ khó mà bắt cho được, nên đây là hạng trộm cắp đáng ghê sợ nhất trong gia
đình.
- Vợ như chủ nhân ác ôn: hạng vợ
này bao giờ cũng dành quyền hành và giữ tiền bạc trong gia đình. Chồng chỉ là
một hư vị thôi, như tôi tớ trong nhà. Hạng vợ này chỉ biết làm hại cho gia đình
thôi, chớ không làm gì hơn. Đồng thời cũng có ông chồng như ông chủ ác ôn vậy.
- Vợ như mẹ: không ai thương con
và lo cho con bằng mẹ. Bà mẹ đối với con có tứ vô lượng tâm, như vị Phạm thiên.
Người vợ thương chồng, lo cho chồng không nề cực nhọc tấm thân, miễn là chồng
vui là đủ rồi. Người vợ có tâm như thế gọi là người vợ thương chồng như mẹ
thương con. Thật là hiền thê nội trợ. Quả báo này thật không nhỏ. Chết rồi được
sanh vào cõi trời.
Đồng thời cũng có người chồng
thương vợ, lo cho vợ, như người cha lo cho con vậy.
Gia đình nào được cảnh này chắc
chắn gia đình ấy đầy hạnh phúc và vợ chồng không hề xa nhau vì một lẽ gì. Đây
là pháp rất cao quý, chúng ta nên hành theo.
- Vợ như em gái: hạng vợ này
kính mến chồng như anh trai, vì như người em gái thường lo cho anh thật chu
đáo. Đồng thời cũng có người chồng lo cho vợ như người anh lo cho em gái mình.
- Vợ như bạn: người vợ lo chăm
nom săn sóc chồng như người bạn lành săn sóc cho bạn mình, xem chồng như là
mình vậy. Đồng thời cũng có người chồng lo cho vợ như lo cho bản thân mình.
- Vợ như kẻ tôi đòi: người vợ
nhịn ăn mặc, hy sinh mọi điều cho chồng và lo phụng sự chồng như là người làm
công lo cho ông chủ, không bao giờ để sơ thất, mọi việc gì mà chồng đã giao
cho. Phạn ngữ dùng tiếng "tôi đòi" để chỉ hạng vợ hết lòng chăm nom
mọi việc cho nhà chồng. Ta nên hiểu đó là người quản gia trung tín nhất.
Đồng thời cũng có người chồng lo
cho vợ như người quản gia lo cho chủ vậy.
Sự thật nếu gia đình nào có được
bốn hạng vợ và bốn hạng chồng sau cùng, đã kể như trên, thì gia đình ấy được an
vui. Đức Phật thường dạy đời là khổ, người ở trong đời là người đang trầm luân
trong bể khổ. Nhưng Ngài biết chúng sanh mặc dù biết khổ nhưng không dứt bỏ
được, nên trong tám muôn bốn ngàn pháp môn của Ngài dạy, có pháp xuất thế gian
và pháp còn trong thế gian, những người hành theo pháp sau này sẽ được bớt khổ
đi một phần nào, cũng như hành theo 38 pháp Hạnh phúc của Phật dạy.
Sự yêu thương giữa nam và nữ về
tình dục thì không có gì gọi là cao quý. Vì loài thú cũng biết như ta vậy.
Nhưng người đời cao quý hơn loài vật, là vì người ta thương yêu nhau bằng một
tình thương trong sạch, hai bên biết lo tiếp độ cho nhau trong khi hoạn nạn,
hoặc sống chết có nhau và ngoài ra còn giúp nhau đi theo đường giải thoát của
các bậc thánh nhân.
Về sự tiếp độ nhau giữa vợ
chồng, Đức Phật có dạy trong bộ Dighanikāya đoạn Pātivagga rằng
vợ chồng phải có pháp tiếp độ nhau là:
Chồng có 5 pháp đối với vợ là:
1. Thương mến nể nang và hằng
khen tặng và làm cho vợ được sự lợi ích và vừa lòng.
- Cho đồ dùng hợp thời, như cho
vàng vòng, đồ trang điểm trong ngày sinh nhật.
- Dùng lời dịu ngọt đối với vợ.
2. Không khinh khi vợ, nghĩa là
không đối với vợ như kẻ tôi đòi.
3. Không ngoại tình (không có vợ
bé).
4. Giao cho vợ chủ quyền trong
gia đình.
5. Cho đồ trang điểm.
Đối với chồng cũng phải có 5
điều là:
1. Lo thu xếp săn sóc việc trong
gia đình cho chu đáo.
2. Lo quyến thuộc giúp đỡ bên
chồng.
3. Không ngoại tình.
4. Giữ của chồng đã giao phó
cho.
5. Siêng năng làm công việc.
Những pháp trên là theo đời, còn
với lẽ đạo tùy trường hợp người chồng hay vợ phải đối xử theo ba pháp là:
1. Tiếp độ hạng thấp, là dắt dẫn
người bạn trăm năm của mình cho biết bố thí, trì giới, nghe pháp, làm lành.
2. Tiếp độ bậc trung, là dắt dẫn
tụng kinh niệm Phật, tham thiền.
3. Tiếp độ bậc cao thượng, là
dắt dẫn cho học minh sát tuệ và luôn luôn nhắc nhở sự hành đạo.
Tiếp độ vợ con được hạnh phúc
là:
1. Làm cho tình thương ấy càng
ngày càng đầm ấm bền vững.
2. Làm cho tâm đầu ý hiệp.
3. Là một điều đại thiện.
4. Là nhân làm cho tiền của dồi
dào. Chư thiên trong gia đình hộ trì và phước
đức càng ngày càng cao.
5. Được xem là người hành đúng
theo chân lý.
6. Được gọi là người không dễ
duôi
7. Làm khuôn vàng thước ngọc cho
con cháu sau này, hay là làm gương mẫu cho người bên mình.
8. Chư
thiên và Phạm thiên thường ca tụng và hộ trì cho gia đình hành theo hạnh này.
Chính Đức Đế Thích có nói câu kệ
như vầy với vị chư thiên Mātali rằng:
Ye gahatthā puññakarā sīlavanto
upāsikā. Dhammene dāram posenti te manassāñmi mātali
Nghĩa là: "Này Mātali,
người cư sĩ nào, làm phước có giới hạnh là thiện nam biết nuôi vợ đúng theo
pháp, ta xin lễ bái người ấy".
Vị chư thiên Mātali đáp
câu kệ ấy rằng: "Tâu Đức Đế Thích, ngài lễ bái kính trọng vị cư sĩ nào mà
người ta thường ca tụng thì người cư sĩ ấy cao quý trong đời. Tâu Đế Thích ngài
lễ bái kính trọng ai, tôi xin lễ bái kính trọng người ấy".
Đế Thích là vị thiên vương làm
chúa tể trong cõi trời Tứ Đại Thiên Vương và Đạo Lợi, mà ngài còn kính trọng
người hành pháp theo pháp tiếp độ vợ con, thì chư thiên làm gì không hộ trì và
kính trọng.
HẠNH PHÚC XIV
Anākulā ca kammantā
Làm xong việc của mình
Làm xong việc của mình nghĩa là
làm việc gì thì phải làm cho đến kết quả, không làm nửa chừng bỏ dở. Thí dụ ta
như người lái xe, ta nhờ chiếc xe chạy được và có địa điểm cho xe tới, thì ta
chạy đến chốn đến nơi. Chạy đến mục tiêu như vậy là ta thành công đắc quả. Ta
nên noi theo gương kiên trì của Đức Phật, ngay trong việc làm của Ngài, từ lúc
xuất gia đến khi thành đạo. Trên vũ trụ này, chỉ có một người làm việc giỏi
nhất mà lại kết quả tốt đẹp, nhất đó là Đức Phật. Đã hơn 25 thế kỷ chưa có ai
làm việc như Ngài, việc làm của Ngài thật là cao thượng, kết quả rất quý báu.
Số người vâng giữ hành theo lời chỉ bảo của Ngài nhiều không kể xiết.
Ta hãy đi ngược lại dòng thời
gian để tìm biết sự làm của Đức Phật, từ khi Ngài quyết chí xuất gia dứt lìa bỏ
ngai vàng, vợ đẹp con thơ, mà người đời ai ai cũng ham muốn. Khi xuất gia xong,
Ngài quyết chí hành khổ hạnh. Khi thấy sự hành khổ hạnh ấy không đem lại kết
quả tốt, Ngài liền bỏ và hành theo Trung đạo mới đắc quả Vô thượng Chánh đẳng
Chánh giác dưới cội bồ đề. Sau khi đắc được quả tối cao xong, rồi Ngài lại
quyết định thuyết pháp độ đời suốt 45 năm, không màng cực nhọc quyết tâm cứu độ
chúng sanh.
25 thế kỷ đối với ta thật là
lâu, nhưng việc làm của Ngài vẫn còn sáng chói, và vẫn xem như mới tinh. Việc
làm của Ngài là việc làm bất diệt, đến nay vẫn còn ảnh hưởng mãnh liệt trong
tâm của hàng Phật tử chân chánh. Việc làm của Ngài đi từng giai đoạn, từ sơ
khởi đến kết quả, không bỏ dở dang, mặc dù đã trở ngại.
Muốn làm việc cho đến nơi đến
chốn, ta nên theo lời Phật dạy mà phân biệt việc làm hai loại là: việc làm đem
sự an vui và việc làm đem tai hại.
Việc làm đem an vui đến có ba
trường hợp là:
1. Anākalam: làm cho đến
kết quả, không bỏ dở giữa chừng.
2. Dalaham: làm đầy đủ,
không thiếu sót.
3. Sucaritam: làm trong
sạch, nghĩa là việc làm không tội lỗi.
Sở dĩ người ta làm việc không
tới nơi tới chốn, là vì người ấy không bền chí, hay ngã lòng trước nghịch cảnh,
thiếu cương quyết để làm cho đến cùng.
Đây là trạng thái của người làm
việc hay bỏ dở công việc:
1. Kalatikaman: thường
làm mất thì giờ. Như chuyện lẽ ra làm xong trong một giờ, mà người ấy phải làm
tới hai ba giờ.
2. Appa atirupakarana:
việc làm việc không xứng với số tiền được, nghĩa là làm việc ít mà lương bổng
nhiều.
3. Akarana: không quan
tâm đến việc làm.
4. Sithilakarana: làm một
cách miễn cưỡng.
5. Sakaladivasabhagam
supitva: ngủ cả ngày.
6. Rattimhi te katum na
uttahati: ban đêm cũng không làm việc.
7. Niccakalam suramatto:
say rượu cả ngày.
8. Itthi adisu sondo:
chạy theo phụ nữ.
9. Alaso: lười biếng, ngủ
nướng và hay ngủ dậy trưa.
10. Leso: đổ thừa rằng lạnh
quá, nóng quá v.v...
Theo Phật dạy, người muốn làm
việc cho đến nơi đến chốn, thì phải có bốn pháp gọi là Iddhipāda, bốn
pháp như ý. Đức Thế Tôn đắc được quả vô thượng Chánh đẳng Chánh giác cũng do
nơi bốn pháp ấy.
Bốn pháp như ý là:
1. Chandiddhipda: dục như
ý (sự vui lòng thỏa thích làm).
2. Viriyiddhipda: tinh
tấn như ý (sự cương quyết làm việc).
3. Cittiddhipda: niệm như
ý (sự cố để tâm làm việc).
4. Vimamsiddhipda: tư duy
như ý (sự suy nghĩ hiểu cách làm).
Phàm người muốn làm việc gì,
trước nhất phải có chương trình, mà quan trọng nhất là trước hết phải có vốn là
tiền, riêng theo Phật dạy thì vốn ấy là tâm cương quyết, thích làm việc mà mình
định làm.
Đức Phật dạy trước nhất phải có
tâm cương quyết làm việc, vì vậy trong bốn pháp như ý, đều có nói đến tâm và
tâm là động lực chánh yếu chủ động.
- Dục như ý: theo tâm lý
thì điều gì mà tâm đã yêu hay thích, thì tâm chăm chú vào điều ấy, rồi khiến
con người cố gắng làm xong việc.
Tất cả mọi việc từ nhỏ đến lớn,
đều phải do nơi hai nguyên tắc theo trật tự sau đây:
a) Để tâm đúng vào việc làm và
yêu việc làm.
b) Bắt buộc tâm phải làm việc.
Phải có đủ hai nguyên tắc theo
trật tự này, thì chắc chắn việc làm sẽ được kết quả mỹ mãn, bằng ngược lại, thì
việc làm rất khó được kết quả, mặc dù là ít. Vì vậy Đức Phật dạy trước hết phải
có tâm thích nghề trong việc làm của mình tức là dục như ý.
- Tinh tấn như ý: (tôi xin tạm
dịch là tâm can đảm) pháp tinh tấn là pháp mà Đức Phật thuyết rất nhiều chỗ
trong các số pháp. Phật tử nghe đến tinh tấn thì hiểu rằng đó là sự siêng năng
làm việc, hay cương quyết, hoặc can đảm làm việc. Người mà có tinh tấn làm
việc, thì làm việc gì cũng kết quả mỹ mãn. Tinh tấn không có nghĩa là đem hết
sức mình mà làm việc nhất thời, mà có nghĩa là ta làm tùy theo sức ta, nhưng
không khi nào bỏ gián đoạn, không chịu thua hoàn cảnh, không chịu thua sự thất
bại. Tinh tấn có nghĩa là làm từ từ, liên tục, không gián đoạn, không miễn
cưỡng. Hơn nữa, không phải là người tinh tấn làm việc hoài không nghỉ, nhưng
nghỉ theo trường hợp, đừng để sức khỏe kém dần đi đến kiệt quệ.
- Niệm như ý: (tôi xin
dịch là chú tâm đến công việc làm) nghĩa là bao giờ tâm cũng nghĩ đến việc làm
của mình đang làm, chú ý đến việc làm. Tâm luôn luôn suy nghĩ và nghiên cứu
việc làm của mình không hề xao lãng. Người làm bất cứ công việc gì, nhưng thiếu
một pháp nào kể trên cũng không được, vì nếu thiếu là cầm chắc thất bại.
- Tư duy như ý: là dùng
trí tuệ để quan sát lại việc làm của mình. Nếu thiếu trí tuệ kiểm soát tâm thì
không khác nào xe chạy trong đêm tối mà không đèn.
Vậy chúng ta muốn làm xong công
chuyện không bị thất bại và bỏ dở thì phải có bốn pháp trên. Đó là nói về
phương diện ở đời, còn về đạo đức thì phàm người tu Phật tại gia hay bậc xuất
gia, khi làm một việc gì cũng phải có đủ bốn pháp như ý ấy, chẳng hạn như bố
thí, trì giới, hay tham thiền v.v...
Tôi xin nhắc tích của vị Tỳ khưu
học tham thiền:
Thầy là người rất tinh tấn hành
đạo có tiếng trong thời kỳ nọ. Nhưng khi thầy ngồi lại tham thiền, thì thầy ngủ
gục, không thể nào làm cho tâm được cái thấp nhất là hỷ lạc. Mỗi lần thầy buồn
ngủ, thầy lấy cỏ quấn lại một nùi đội lên đầu, rồi lội xuống trầm mình dưới
sông Gangā và tự bảo lấy mình rằng: "Ta
đã thả trôi sự buồn ngủ rồi". Vị ấy hành như thế đến mười hai năm mới đắc
quả A La Hán. Như thế ta mới thấy rõ vị Đại đức ấy ngài yêu việc làm của ngài,
ngài rất cương quyết tinh tấn làm cho xong việc, không chịu thua hoàn cảnh, và
ngài có trí tuệ quan sát biết yếu điểm của mình là hay buồn ngủ và tìm cách khử
trừ nó cho đến viên mãn.
Còn Đức Thế Tôn kiếp chót là
Thái tử Sĩ Đạt Ta, sau khi bỏ ngai vàng xuất gia sáu năm khổ hạnh chỉ còn da
bọc xương, Ngài cũng thối chí ngã lòng. Dưới cội bồ đề, Ngài phát nguyện rằng:
"Nếu ta không thành đạo, dù xương tan thịt nát ta cũng không rời khỏi nơi
này". Rồi nhờ tấm lòng yêu đạo, cương quyết, kiên nhẫn, Ngài tìm thấy con
đường giải thoát là đắc quả Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác.
Nói tóm lại khi người tại gia cư
sĩ muốn làm việc gì từ nhỏ đến lớn mà hành theo bốn pháp như ý thì ngân quỹ gia
đình được dồi dào sung túc, rồi nền kinh tế của nước nhà cũng cường thịnh, và
được bốn điều an vui:
a) An vui vì có của.
b) An vui vì phương tiện tiêu
dùng và có nhiều tiền.
c) An vui vì không bị nợ.
d) An vui vì việc làm không tội
lỗi.
Ngoài ra còn những điều lợi lộc
sau đây:
1. Người trong gia đình và quyến
thuộc cùng người trong xã hội có thể nhờ đuợc.
2. Có dự trữ được việc lành làm
vật thực về ngày vị lai
3. Là tự bảo vệ lấy mình.
4. Sẽ được sanh vào cõi trời.
5. Nếu duyên lành đầy đủ, thì có
thể đắc được đạo quả.
6. Nếu chưa đắc được đạo quả
trong kiếp này, thì việc làm ấy là duyên lành sẽ đưa người được đắc quả về vị
lai.
7. Không dễ duôi.
8. Được các bậc trí tuệ thường
ngợi khen.
9. Không xa ba điều lợi ích.
10. Được gọi là thiện nhân là vì
có sự hạnh phúc bên mình.