Đời sống
Giảng Giải 38 Pháp Hạnh Phúc
Pháp sư Maha Thongkham (Bình Anson hiệu đính, 2006)
22/08/2554 23:20 (GMT+7)
Kích cỡ chữ:  Giảm Tăng


KỆ NGÔN II

 

HẠNH PHÚC IV

Paṭirūpadesavāso ca
Ở trong xứ nên ở

 

 

Đức Phật dạy 38 pháp Hạnh phúc chia ra từng giai đoạn, rải rác trong nhiều câu kệ, và trong mỗi câu kệ có 3 hay 4 pháp hạnh phúc. Nếu chúng ta chỉ xem qua vội vàng, không quan tâm đến dụng ý của Đức Phật, thì ta không thấy được cái thâm thúy trong sự sắp đặt từng giai đoạn, từng câu kệ. Đó không phải là sự ngẫu nhiên mà là sự dụng tâm cấu tạo trong phương pháp giảng huấn căn cứ vào kinh nghiệm của Ngài về tâm lý của chúng sanh. Cho nên, khi hành theo 38 pháp Hạnh phúc, ta phải đi theo đúng theo từng giai đoạn, như câu kệ ngôn I dạy:

- Xa kẻ ác.

- Thân cận với bậc trí thức.

- Cúng dường đến các bậc đáng cúng dường.

Ta phải hành theo tuần điều tuần tự như thế mới hoàn toàn đem sự an vui đến cho ta.

Câu kệ ngôn II cũng có 3 điều hạnh phúc. Có điều ta cần chú ý là nội dung kệ ngôn I và nội dung kệ ngôn II nhằm hai đối tượng khác nhau. Câu kệ ngôn I dạy tổng quát về phần vật chất, hay bên ngoài, còn câu kệ ngôn II dạy về phần tâm, hay ở bên trong. Câu kệ ngôn thứ nhất ví như người nông phu biết quan sát, xem đất này có thuận tiện không, có nước không, mùa này phải trồng thứ giống nào, v.v..., rồi mới gieo trồng. Chúng ta có thể đem sánh ba điều hạnh phúc trong câu kệ ngôn thứ I với ba điều của nhà nông nhận định về sự gieo trồng đó.

Trong kệ ngôn II, Phật dạy thêm 3 pháp Hạnh phúc số IV, V, VI. Chúng ta cũng phải tuần tự thực hành ba pháp này không thể bỏ một pháp nào. Ba pháp Hạnh phúc ấy là:

- Ở trong xứ nên ở.

- Người đã làm những việc lành để dành trong khi trước.

- Giữ mình theo lẽ chánh.

Theo Chú giải của kinh 38 Pháp Hạnh phúc thì "ở trong xứ nên ở" là ở trong xứ nào có đủ ba điều kiện:

- Có các hàng trí thức là Tỳ khưu, Tỳ khưu ni, thiện nam và tín nữ.

- Có Puṇnakirīyavatthu, nghĩa là có nơi thuận tiện cho mình làm được 10 điều phước thiện như bố thí, trì giới v.v...

- Có lời giảng giải của chư Phật, nghĩa là có Pháp bảo. Nếu trong thời kỳ không có Phật pháp, thì ít ra cũng phải có lời giảng giải của các bậc trí thức.

Suy nghĩ rộng, thì câu hạnh phúc này có ý dạy rằng: Xứ nào mà có bậc trí thức dạy chúng ta tìm được hạnh phúc trong kiếp này và vị lai, hoặc giả khi ta ở xứ ấy, ta có thể gặp được sáu điều cao thượng sau đây:

1. Dassanānuttariya: Thấy cao thượng. thấy đây không phải ý thấy những vật lạ như Bạch Tượng, hay hột xoàn to của quý hiện nay... Thấy cao thượng đây chính là thấy rõ pháp vô thường, khổ não, vô ngã, rồi gắng lo tu hành để mau giải thoát.

Đến đây tôi xin nhắc lại một tích khi Đức Phật còn tại thế để suy ngẫm về sự thấy cao thượng và sự hành Chánh pháp.

Trong kinh Pháp Cú, khi Đức Phật có tại thế có một thầy Bà la môn tên Vakali, thấy Đức Thế Tôn có thân hình rất đẹp, thầy cứ theo bên Đức Phật để ngắm xem cho thỏa lòng ưa thích, nhưng thầy cũng không được thỏa mãn được, vì vậy nên thầy lại xin xuất gia để có nhiều thì giờ ở gần bên Phật. Khi xuất gia xong, thầy không hành đạo chi hết, mà cứ theo bên Ngài để ngắm sắc đẹp của ngài. Đến một ngày nọ, Đức Thế Tôn biết duyên lành của thầy Tỳ khưu Vakali đã đến, nên Đức Thế Tôn mới dạy rằng: "Này Vakali, ngươi xuất gia để giải thoát, chứ không phải để theo ngắm thân của Như Lai. Người gần Như Lai để đặng nhìn thân này không phải là cao quý đâu. Phải hành theo pháp mà Như Lai đã dạy bảo mới cao quý".

Mặc dù Đức Thế Tôn dạy thế, thầy không lấy đó sửa mình, song lại buồn giận Phật. Thầy đi lên đỉnh núi để tự tử vì thầy nghĩ rằng: "Mình bỏ cả gia đình để xuất gia, để chiêm ngưỡng kim thân của Ngài, mà Ngài còn rầy la mình". Khi thầy vừa gieo mình rớt xuống thì Đức Thế Tôn hiện ra, dùng thần thông làm cho thầy không bị rơi xuống và bảo rằng: "Như Lai nói vậy mà thầy giận Như Lai chăng?" Thầy Vakali nghe Đức Phật dạy thế và trong lòng hỷ lạc phát sanh. Đức Phật dạy thầy về hành pháp minh sát tuệ, và thầy được đắc đạo quả.

Đức Thế Tôn dạy rằng: "Người mà nắm lấy chéo y của Như Lai nhưng không hành theo Chánh pháp, cũng như ở xa Như Lai muôn dặm. Người mà ở xa Như Lai nhưng hành theo Chánh pháp là người ở sát bên Như Lai".

Tích này cho thấy rõ ràng dù người ở gần Phật cả đời, mà không hành đạo, cũng vô ích. Cần nhất phải hành theo Chánh pháp, mới gọi là thấy cao thượng.

2. Savananuttariya: Nghe cao thượng. Đây không phải là nghe ca hát đàn kèn, vì sự nghe ấy không đưa ta đến nơi giải thoát mà trái lại càng làm cho ta chìm đắm trong biển luân hồi vì ta mê theo tiếng du dương ấy. Nghe cao thượng là nghe Pháp bảo, là tiếng đưa người thoát khỏi luân hồi, ít nhất cũng làm cho ta kinh sợ tội lỗi nhất thời không dám phạm đến.

Tôi xin nhắc sơ lược chuyện của cha con ông tiều phu đang đốn củi, nghe câu hát của cô bé hái hoa sen mà tỉnh ngộ đắc quả Phật Độc Giác:

Một ngày nọ, hai cha con ông tiều phu gặp một cô gái hái hoa sen, và nghe cô ấy hát rằng: "Hoa sen tuy đẹp nhưng sớm nở chiều tàn. Kiếp người nào khác như kiếp sen".

Hai cha con liền lấy câu ấy suy nghĩ, thấy thân mình không bền vững, sanh rồi diệt, diệt rồi sanh, luân hồi mãi mãi trong cõi đời đầy đau khổ này. Vì suy nghĩ được vậy nên đoạn tuyệt phiền não, đắc được quả Phật Độc Giác.

Tích này cho ta thấy rõ người nghe được chân lý và quán xét bằng trí tuệ nên mới giải thoát được.

Nghe như hai cha con vị tiều phu ấy mới được gọi là cao thượng. Ta ở xứ nào nghe được những lời lành, lời làm cho tâm ta kinh sợ tội lỗi, nơi ấy là xứ nên ở.

3. Lābhānuttariya: Được cao thượng. Được tiền của châu ngọc, người đời cho là quý báu, nhưng đối với Phật giáo thì đó không phải là cao thượng, vì những vật ấy sẽ đem lại sự cực lòng, phải lo chăm sóc hay cất giữ, hoặc lo sợ mất, hoặc sợ bị cướp bóc v.v... Nếu ta không lo sợ những điều ấy, ta vẫn còn một điều lo sợ nhất, là ta mến tiếc nó, khiến cho tâm ta không bao giờ giải thoát được. Vì vậy, được tiền của châu ngọc không phải là được an lành hạnh phúc. An lành hạnh phúc là tâm không lo sợ, uất ức, buồn rầu v.v...

Được cao thượng là có được đức tin. Người đời ít ai có được đức tin chân chánh (tin tội phước nhân quả) nên không biết làm việc thiện, như bố thí giúp đỡ kẻ nghèo, mà trái lai muốn thâu thêm cho nhiều; nhưng đáng thương cho những người ấy khi chết, không đem theo cho mình được gì. Những người ấy không bao giờ đắc được quả đạo, nên vẫn bị luân hồi mãi. Nên người có được đức tin, mới gọi là được cao thượng. Đức Phật gọi là Saddhārahana, đức tin là chiếc thuyền đưa một người từ bờ mê đến bờ giác, đức tin là căn bản của người tu, nhờ có đức tin con người mới hành đạo được.

Vì vậy Đức Phật dạy chúng ta trú xứ nên ở là xứ nào có thể làm cho ta được có đức tin.

4. Sikkhānuttariya: Học cao thượng. Tức là học các pháp hành, như học cách thức trì giới, tham thiền minh sát hay chỉ quán. Nói tóm lại, học những phương pháp để đánh đuổi phiền não ra khỏi tâm.

5. Paricariyanuttariya: Sự hầu hạ cao thượng. Nên đến gần Tam Bảo để nghe các ngài chỉ dạy đường giải thoát.

6. Anusatānuttariya: Nhớ cao thượng. Nhớ điều gì làm cho ta tâm xả bỏ phiền não, vì tâm còn phiền não ấy làm cho ta ham mê tranh đua với tội lỗi, như phạm vào ngũ giới thập ác. Đức Phật có dạy sáu điều nhớ cao thượng:

- Buddhānusati: Nhớ ân đức Phật

- Dhammānusati: Nhớ ân đức Pháp

- Sanghānusati: Nhớ ân đức Tăng.

- Sīlānusati: Nhớ đến giới luật của mình thọ trì xem đó có trong sạch, hay không và nếu không trong sạch, cố làm cho trong sạch; nếu đã trong sạch, càng làm cho trong sạch thêm lên, không để tâm sao lãng.

- Cāgānusati: Nhớ đến sự bố thí, nghĩa là luôn luôn quan sát xem trong ngày chúng ta có làm được sự lành nào chưa, nhất là bố thí, vì bố thí là hạnh dễ làm nhất của người tại gia cư sĩ. Nhờ sự lành như vậy, mãi mãi là nguyên nhân làm cho tâm ta càng trong sạch.

- Devatānusati: Nhớ đến ân đức của chư thiên, vì chư thiên có bốn thiện pháp, mà chúng ta nên hành theo: Saddhā (đức tin), Sīla (giới đức), Cāga (bố thí), Pañña (trí tuệ). Đó là các pháp làm cho các ngài được sanh làm chư thiên. Khi ta hành động theo các ngài thì ta được sanh về cõi trời; nếu ta hằng cao thượng hơn bốn pháp ấy, sẽ là nguyên nhân đưa chúng ta giải thoát.

Tóm lại, xứ nên ở là xứ có Phật pháp, hay nếu không có Phật pháp, ít nhất cũng có bậc trí thức dạy con đường lành cho người, có điều kiện thuận tiện cho ta thực hành được sáu điều hạnh phúc căn bản:

1. Có dịp để mình làm việc lành.

2. Được học ba pháp (pháp học, pháp hành, pháp thành).

3. Được sáu điều cao thượng.

4. Được trở nên người không dễ duôi.

5. Được sự nương nhờ cao quý cho bản thân mình.

6. Được hưởng thất bảo của nhà Phật.

 

 

HẠNH PHÚC V

Pubbe ca katapuññatā
Tánh cách người có việc lành để dành trong kiếp trước

 

Câu này dạy rằng người đã làm phước trong kiếp trước, ngày hôm nay được thọ hưởng phước ấy.

Khi được lợi lộc hay thoát khỏi một tai nạn, người ta cho rằng đó là sự tình cờ, hay là sự may mắn. Thật ra, đó là quả báo của việc lành mà người ấy đã làm trong nhiều kiếp trước. Người có ít nhiều tâm đạo cho rằng đó là phước.

Phước là gì? Phước là những lạc thú ở đời, như giàu sang quyền tước, danh vọng v.v... Theo quan niệm thông thường, nếu đem phước ra phân tách thì thấy có ba nhân tố:

1. Nhân của phước: là điều mà mình đã làm với tâm trong sạch, mà sau khi làm xong, không hề ăn năn hối tiếc, trái lại thấy trong lòng hân hoan, vui vẻ, thỏa thích.

2. Quả của phước: là sự an vui mà mình đang hưởng như giàu sang, quyền chức v.v...

3. Lý của phước: là sự may mắn đến cho ta, và khiến ta tránh khỏi được sự tai nạn. Cái lý ấy người không tu Phật gọi là tình cờ, thí dụ như mình muốn đi chuyến xe sáng, nhưng khi ra xe thì xe đã chạy, mình phải chờ đến chuyến xe sau. Chuyến xe sáng ấy lại bị tai nạn giữa đường. Đó là tình cờ mà mình tránh được tai nạn mà đó cũng là phước báu của mình để dành từ khi trước. Đây là lý của phước.

Có ba nguyên nhân sanh phước:

- Tâm trong sạch.

- Ba cửa (thân, khẩu, ý) thanh tịnh.

- Tâm không rung động, nghĩa là kinh sợ tội lỗi.

1. Tâm trong sạch: là tâm không lẫn lộn với tội ác như tham lam, sân hận, si mê, và tâm bằng nhớ đến ân đức Tam Bảo.

Trong kinh Pháp Cú có chuyện ông Mattha-kundali là con của một ông trưởng giả có tiếng là keo kiệt nhất trong xứ. Khi ông Matthakundali bệnh, ông trưởng giả không rước thầy xem bệnh cho thuốc, mà ông đi hỏi bệnh thế này uống thuốc gì? Các thầy biết ông ta bỏn xẻn, keo kiệt nên ghét, chỉ thuốc căn không đúng căn bệnh, làm cho con ông càng ngày càng đau nặng. Ông trưởng giả thấy con bệnh nặng, sợ để trong nhà quyến thuộc đến thăm tốn kém này nọ, nên ông đem con ông nằm ngoài hiên.

Vì ông Matthakundali là người tạo nhiều duyên lành để dành từ kiếp trước, nên đêm ấy Đức Thế Tôn dùng tuệ xem ai có duyên để Ngài độ. Đức Thế Tôn thấy ông Matthakundali có duyên, nên sáng ngày, Đức Phật ngự đến ngay trước nhà của ông trưởng giả để độ con ông. Nhưng ông Mattha-kundali lại nằm quay mặt vào vách nên không thể thấy Phật được. Đức Phật lại hiện hình trên vách, ông Matthakundali trông thấy Đức Thế Tôn tướng hào quang minh, ông lấy làm trong sạch và nghĩ rằng: "Ta vô phước sanh làm con của người keo kiệt không được làm việc lành. Hôm nay không thể đưa tay lên được làm sao làm lễ Phật. Thôi chỉ có lấy lòng kính Phật, xin làm lễ Đức Chí Tôn".

Khi ông nghĩ xong thì tắt hơi, được sanh về cõi trời nhờ tâm ông trong sạch.

2. Ba cửa thanh tịnh: là thân, khẩu, ý thanh tịnh. Thân thanh tịnh là không sát sanh, không trộm cướp, và không tà dâm. Khẩu thanh tịnh là không nói dối, không nói đâm thọc, không chửi rủa mắng nhiếc và không nói lời vô ích. Ý thanh tịnh là không oán thù, không tham lam, không tà kiến.

3. Tâm rung động: là tâm kinh sợ tội lỗi. Vì chúng sanh còn say mê theo tài sắc, lợi danh, tâm ác của họ không bao giờ biết rung động (sợ) trước tội lỗi mà chính mình đã làm, trong lúc họ say mê theo sắc, lợi, danh; thậm chí cha, mẹ, anh em thân bằng quyến thuộc bỏ họ ra đi về cảnh giới khác họ chẳng hề nao núng và chẳng thể nghĩ rằng: ngày nào đây họ cũng sẽ bỏ những gì mà họ đã có ra đi với hai tay không, cùng một khối tội lỗi nặng nề đè trên tâm hồn họ. Người không biết kinh sợ thì không hề biết lo tu hành, vì vậy, nên không bao giờ được một phút thoải mái, một phút an lành. Vậy, ta nên để tâm rung động ghê sợ trước những biến cố đau khổ để gắng lo tu hành, để được hạnh phúc trong kiếp này và giải thoát trong ngày vị lai.

Theo đây tôi xin nhắc tích của Đại đức Yassa, người đã biết ghê sợ trước những xác thân mỹ miều.

Sau khi chuyển Pháp Luân tại vườn Lộc Giả Bārānasī, Đức Thế Tôn tạm ở với năm anh em Kiều Trần Như. Lúc ấy tại thành Bārānasī có người tên Yassa, con của một vị trưởng giả cưng như viên ngọc quý, cất trong ba tòa lầu để trong ba mùa, ngày đêm yến tiệc linh đình, tiếng ca hát không bao giờ dứt. Đêm nọ, Yassa đang xem mỹ nhân múa hát, ông phát chán rồi bỏ đi ngủ. Khuya lại ông tỉnh giấc, thấy những mỹ nhân đang ngủ, mồ hôi xông ra mùi khó thở, có cô nước miếng chảy ra, có cô ngáy om sòm, ông cảm thấy đó là những tử thi và ông tưởng đang đứng giữa bãi tha ma. Ông lấy làm kinh sợ và thốt rằng: "Thế gian này bẩn thỉu quá!", ý ông muốn nói thế gian này toàn là những vật nhơ nhớp, người bị nhốt trong vòng tỏa của sự đau khổ, không biết nương tựa vào đâu được.

Rồi ông bỏ lầu ra đi về hướng vườn Lộc Giả. Đức Thế Tôn biết duyên lành của ông đã đến, nên ngồi chờ ông tại một nơi. Nơi đó ông vừa đi vừa lập lại câu: "Thế gian này bẩn thỉu quá!" Đức Thế Tôn gọi Yassa và nói rằng: "Đây không bẩn thỉu, không bực bội, ngươi hãy đến đây." Ông Yassa mới đến gần và đảnh lễ Đức Thế Tôn. Đức Thế Tôn mới thuyết về Anpubbikathā cho ông nghe. Sau khi nghe xong thời pháp, ông đắc quả Tu Đà Hườn, đến sáng ngày ông đắc quả A La Hán. Sau 5 thầy Kiều Trần Như, ông là vị A La Hán thứ sáu trong Phật Giáo.

Nhân đó, Đức Phật dạy cho đệ tử nghe rằng: Kiếp trước, ông Yassa là người làm nghề thiêu tử thi. Có ngày nọ ông thiêu tử thi của một người đàn bà có thai. Khi đốt tử thi cháy, ông thấy đứa trẻ lòi ra trông rất ghê tởm. Ông phát tâm chán sợ ve sự nhơ nhớp của xác thân. Đó là cái nhân, đến kiếp này ông thấy mỹ nữ là những tử thi.

Đây tôi xin nói tóm về pháp Anpubbikathā của Đức Phật đã thuyết cho Đại đức Yassa là pháp hành theo tuần tự 5 điều:

- Dāna: Dạy về bố thí.

- Sīla: Dạy về trì giới.

- Sagga: Dạy về an vui trong cõi trời.

- Kāmādinava: Dạy về tội của ngũ trần.

- Nekkhammanisansa: Dạy về cái quả của sự xuất gia.

Sỡ dĩ pháp đó gọi là pháp đi theo tuần tự là vì trước hết Đức Phật dạy về bố thí, rồi bậc thứ nhì là trì giới, sau Ngài mới theo về sự an lạc cõi trời, tiếp theo là nói đến cái hại của sự ngũ trần là nhân làm cho người đi theo từng bậc thấp đến cao mà không hay.

Nếu ta hành được pháp tuần tự đó thì tạo được nhân sanh phước và ta tạo được phước lành để dành trong kiếp trước, thì chắc chắn chúng ta sẽ được hưởng phước trong ngày vị lai.

Có người hỏi: Có ai cướp được hạnh phước báu của ta chăng?

Đức Thế Tôn dạy: Phước ấy theo ta như bóng với hình, không ai có thể trộm cướp hay cưỡng bách hoặc làm mưu kế gì để giựt phước ấy được, chẳng khác gì hạt ngọc Siri trong sự tích sau đây:

Khi Đức Thế Tôn còn tại thế, ông trưởng giả Cấp Cô Độc làm phước bố thí cho đến khi nghèo. Ông làm chùa Kỳ Viên, mua vườn xoài nhà vua bằng cách trải vàng đầy mặt đất. Vì vậy chùa Kỳ Viên cũng có tên là Bố Kim Tự. Ngoài ra ngài còn làm phước bố thí nhiều không kể hết. Ông làm phước đến đói nghèo. Nhưng về sau ông giàu trở lại.

Có thầy Bà la môn tìm hiểu xem tại sao ông giàu, rồi làm nghèo, trở lại giàu, thầy Bà la môn thấy trên đầu một con gà trống ở nhà ông trưởng giả có viên ngọc Siri. Thầy liền đến xin con gà ấy và thầy tin chắc rằng ông trưởng giả ấy sẽ cho vì thầy viện lẽ rằng, nhà thầy có gà, nhưng toàn là gà gáy sai canh, cần một con gà gáy đúng canh để học trò dậy học bài. Ông trưởng giả vốn là người giàu lòng bố thí thì con gà đối với ông không có nghĩa lý gì, nên ông cho liền. Khi ông trưởng giả bằng lòng cho con gà thì ngọc Siri lại bay qua đậu trên cây gậy của ông trưởng giả: thầy Bà la môn xin luôn cây gậy, ông cũng cho, thì Siri bay lên đậu trên đầu của bà trưởng giả.

Chừng ấy thầy Bà la môn mới thú nhận: "Tôi xin trả lại con gà trống trắng và cây gậy lại cho ông. Thật ra tôi thấy ngọc Siri của gia đình ông ở trên đầu con gà, nên tôi mới xin nó, không dè ngọc Siri lại bay đậu trên cây gậy của ông, rồi tôi xin cây gậy thì ngọc Siri ấy lại bay đậu trên đầu bà. Ngọc Siri thật là quí mà không ai lấy được".

Vậy khi có phước thì không ai làm thế nào cướp lấy được phước của ta. Muốn ta tạo ra phước có ba cách phải hành:

- Bố thí để trừ tham lam.

- Từ bi để diệt lòng sân hận.

- Tham thiền theo hai pháp: Chỉ quán và Minh sát, để trừ si mê và tà kiến.

Nhưng phải hành ba pháp đó bằng tâm trong sạch, sốt sắng, quyết định, thì quả phước đó đến cho ta mau lẹ. Trái lại, nếu ta làm chần chừ dãi đãi, dụ dự thì quả lành cũng đến chậm chạp. Lẽ cố nhiên, mỗi khi ta muốn làm một việc gì quấy, thì cả trăm tâm ác xô đẩy xúi giục ta mau mau thi hành việc quấy ấy, có khi ta muốn làm lành như bố thí, thì hằng ngày cái tâm ác kéo lại không cho ta thực hành.

Phước đem lại cho ta rất nhiều lợi ích và an lành cho ta như là:

1. Ajeyya: không ai dành lấy được.

2. Anugaminī: theo dính bên mình ta.

3. Etam adaya gacchati: khi người bỏ xác thân này không đem theo gì được, chỉ có đem được phước theo mà thôi.

4. Asadharana: phước không phải là của chung, nghĩa là của ai tạo thì nấy hưởng, chớ không phải của người này tạo mà người kia hưởng được, mặc dù là quyến thuộc.

5. Acoro: kẻ trộm không thể lấy được.

6. Sabbakamadda: phước ấy trả quả cho người tạo được an vui và đắc kỳ sở nguyện.

7. Yam yam devabhipatthanti: nguyện vọng gì đều được kết quả như ý.

8. Suvannata: có làn da đẹp.

9. Susara: có tiếng hay (trông nghe rất hay).

10. Susanthana: có tướng tốt.

11. Surupata: có thân hình đẹp.

12. Adhipaccam: được chức phận lớn.

13. Parivaro: có được nhiều người tâm phúc.

14. Padesarajjam: được làm vua trong một xứ

15. Issariyam: được độc lập, nghĩa là không dưới quyền ai.

16. Cakkavatti: được làm vua Chuyển luân vương.

17. Devarajjampi: được làm thiên vương.

18. Manussika: được sanh làm người giàu sang.

19. Devaloka: được sanh vào cõi trời.

20. Nibbanasampati: đắc được quả vô thượng là Niết Bàn.

21. Mittasampadamagamma: được có nhiều bạn lành.

22. Vijjavimutti: đắc được ba minh.

23. Patisambhida: đắc được ngũ thông.

24. Vimokkha: được giải thoát.

25. Savakaparamī: đắc được Ba la mật của bậc đệ tử Phật.

26. Pacekabodhi: đắc được quả Độc Giác Phật.

27. Buddhabhūmī: đắc quả Chánh đẳng Chánh giác.

28. Sukkhanam nidanam: phước là nhân của tất cả các sự hạnh phúc.

29. Sampattīnam mūlam: phước là nguồn gốc đưa lại của cải.

30. Bhoganam patothita: phước là nguồn gốc sanh ra tài sản.

31. Visamagatassatnam: phước là vật vô giá cho người còn đang luân hồi.

32. Dānasadiso avassayo: không có gì nương nhờ chắc chắn bằng phước.

33. Sihanadisam: phước ví như hang sư tử, nghĩa là nơi mà các con thú khác không dám léo đến, người có phước không bao giờ gặp tai nạn của kẻ ác gây nên.

34. Papahapathavi sadisam: phước ví như quả địa cầu chở người có phước.

35. Rajjudisam: phước ví như sợi dây cột tâm lại, không cho đi lầm đường.

36. Navasadisam: phước ví như thuyền chở người qua bể khổ.

37. Sagamasuro: phước ví như vị tướng tài can đảm đánh tan quân thù nơi trận địa.

38. Susankhatanagaram: phước ví như kinh thánh mà người ta trang điểm huy hoàng.

39. Padumasadisam: phước ví như hoa sen không hôi tanh mùi bùn, nghĩa là không hề đưa người đi vào đường tội lỗi.

40. Aggisadisam: phước ví như lửa đốt cháy phiền não trong tâm.

41. Asīvissadisam: phước ví như rắn độc vì nó cắn chết tội.

42. Sihasadisam: phước ví như sư tử, vì sư tử rất can đảm khi đứng trước kẻ thù là tội lỗi.

43. Setavabhasadisam: phước ví như bò Usabha, vì bò này quý nhất thế gian.

44. Hatthisadisam: phước ví như bạch tượng, là thú quý nhất.

45. Vahassaraja Sadisam: phước ví như thiên lý mã chở người bay qua bể khổ luân hồi.

46. Gatamaggam: phước là con đường đi của các bậc thánh nhân.

47. Buddhavansam: phước là dòng của Phật, nghĩa là muốn đắc quả Phật thì phải tạo nhiều phước.

Phước còn đem lại cho ta nhiều hạnh phúc như là vật thực trong đời vị lai của người chưa đi đến Niết Bàn.

Phước là nguyên nhân cho người được ba điều an lạc là Nhân, Thiên, và Niết Bàn.

 

 

HẠNH PHÚC VI

Attasammāpaṇidhi ca
Giữ mình theo lẽ chánh

 

Tiếng Atta nghĩa là mình, là ta, và ngụ ý sâu rộng hơn là chữ tâm. Vậy câu này nghĩa sâu là để tâm mình theo lẽ chánh.

Câu này dạy giữ mình theo lẽ chánh, vì ngụ ý có tà, mà tà là ác, mà ác là phiền não, mà phiền não thì đưa ta vào vòng luân hồi mãi mãi. Vì vậy nên Đức Phật dạy: "Người nên để (giữ) mình theo lẽ chánh, đem tâm mình ra khỏi các pháp phiền não, là tham lam, sân hận và si mê, để ra khỏi vòng luân hồi".

Từ vô số kiếp đến giờ phút này, tâm ta không ở trong thiện pháp, nghĩa là không ở trong lẽ chánh, dù có chăng cũng là thoáng qua. Trong một phần rất lớn của những ngày luân hồi của chúng ta, tâm ta thường mãi miết trong ác pháp, làm những điều tội lỗi xấu xa, vì vậy hôm nay chúng ta vẫn còn luân hồi trong vòng thống khổ ưu não. Cho nên Đức Phật dạy hãy đưa ta, hay tâm ta thoát kỏi vòng trầm luân, nghĩa là cho tâm ta giải thoát khỏi tam độc (tham, sân, si), đưa tâm vào pháp bố thí, trì giới, tham thiền.

Ý câu này Đức Phật dạy ta phải uốn nắn dạy tâm, hay chùi rửa sửa trị tâm theo Chánh Đạo.

Theo bộ Chú giải giảng về điều Hạnh phúc thứ VI này, thì mình phải để tâm mình vào những pháp là đức tin, trì giới, nghe pháp, bố thí, trí tuệ. Năm pháp này gọi là Saradhamma nghĩa là pháp có lõi, ngụ ý nói pháp này cứng rắn như lõi cây đối với phiền não, giúp cho người thọ trì, hành theo năm pháp ấy là người đang tạo cho mình một thành trì kiên cố chống kẻ địch, là phiền não, không có phiền não xâm nhập vào mình được. Ý nói người đã ở một nơi rất kiên cố, tránh khỏi kẻ thù phiền não.

Giữ mình (hay để mình) theo lẽ chánh còn là để tâm theo quan sát minh sát tuệ. Khi người nào thường suy nghĩ minh sát, thì chắc chắn tâm người ấy cứng rắn, không bị xao động vì phiền não, và đó là một pháp đưa người khỏi luân hồi, chống đối với phiền não khi chưa hoàn toàn giải thoát. Vì xưa nay tâm ta thường cột oan trái oán thù, làm hại kẻ khác. Khi ta đã hiểu đạo, nhận thấy đó là những điều ác, là nguyên nhân đưa vào đường sanh tử luân hồi, thì ta phải cố gắng đưa tâm ta ra khỏi những điều tội lỗi ấy và để tâm ta vào nơi trong sạch, tức là giữ mình theo lẽ chánh. Người nào vì không để tâm theo lẽ chánh, nên hằng bị luân hồi. Trái lại, để mình theo lẽ chánh, thì người ấy được những quả báo sau đây:

1. Là nhân đưa sự an lành đến.

2. Là người không dễ duôi.

3. Là người thực hành theo lẽ chánh pháp.

4. Là người không có lỗi, nghĩa là người không bị chi phối vì hoàn cảnh bên ngoài.

5. Là người có tam học trong tâm (tam học là Giới-Định-Tuệ).

6. Là người đã chuẩn bị mọi việc trước khi chết, ý nói là người đã chuẩn bị sẵn những phương tiện để đi đến nơi an lạc.

7. Là người hộ trì Pháp bảo.

8. Là người đi đến đâu cũng đến được sự an lành.

9. Là người có đầy hy vọng đắc được cõi trời, người và Niết Bàn.

10. Đáng gọi là người cúng dường cao quý Tam Bảo.

11. Là lương dân của quốc gia.

12. Là người đáng làm khuôn mẫu cho người đời noi theo.

13. Là người đóng cửa ác đạo.

Sự tích sau đây cho thấy rằng người biết hướng tâm theo lẽ chánh thì được an lành và đắc đạo quả:

Khi Đức Thế Tôn ngự tại Xá Vệ, có thầy Bà la môn tên Bharadvājagotra là người tà kiến, khi nào ông ta nghe tới tiếng Phật pháp, thì ông ta bịt tai lại lập tức. Tuy nhiên, vợ ông ta là vị Tu Đà Hườn, đệ tử Phật. Lúc nào bà cũng chuyên tâm niệm Phật.

Ngày kia ông chồng muốn làm lễ cúng dường 500 vị Bà la môn, ông yêu cầu bà đừng niệm Phật trong khi cúng dường cho các thầy Ba La Môn, vì bọn Bà la môn không ưa nghe tiếng niệm Phật, và không bao giờ chịu thọ thực tại nhà của Phật tử.

Bà vợ nói: "Ông muốn cúng dường ai cũng được, tôi vui lòng làm cho, nhưng tôi không thể không niệm Phật được".

Ông ấy nói: "Nếu bà mà không nghe tôi, thì tôi sẽ chặt cổ bà bằng cây dao này".

Lẽ cố nhiên bậc thánh nhân như bà, thì chuyện hăm dọa ấy không có hiệu nghiệm. Bà liền đáp: "Nếu ông có bằm nhỏ tôi ra, thì tôi cũng chẳng sợ. Thật ra, tôi không thể quên hay xa Tam Bảo được".

Sáng ngày, các thầy Bà la môn đến thọ thực nơi nhà ông ta. Bà vợ vẫn vâng lời chồng đi dâng cúng chư vị Bà la môn, chẳng may bị vấp té, bà liền niệm Phật. Bọn Bà la môn nghe được, lấy làm tức giận, liền bỏ ra về, sau khi mắng chửi thí chủ.

Thầy Bà la môn tà kiến ấy lấy làm tức giận, muốn giết vợ nhưng không giết được, nên thầy vào chùa gây sự với Đức Phật. Khi gặp Đức Phật, thầy hỏi: "Người diệt được gì mới ngủ yên giấc? Người diệt được gì mới không sầu? Thầy Cồ Đàm thích diệt pháp gì?"

Đức Phật đáp: "Người diệt được lòng sân hận mới không sầu khổ. Này thầy Bà la môn, các bậc thánh nhân thường diệt lòng sân hận, vì lòng sân hận có chất rất độc (là sự khổ), ngọn nó có vị ngọt (ý nói khi làm hại kẻ thù được thì lòng rất vui vẻ thỏa mãn). Khi người diệt được lòng sân hận xong thì không bị sầu khổ nữa".

Khi nghe xong câu kệ, thầy Bà la môn liền phát sanh tâm trong sạch có đức tin, xin xuất gia theo Phật và gắng lo hành đạo, về sau đắc quả Thánh.

Tích này chỉ cho quí vị thấy con người sầu khổ cũng vì lòng sân hận. Khi đã dứt được lòng sân hận thì được an lạc, gọi là người được nhiều sự an lành, cũng nhờ để tâm theo lẽ chánh hay là giữ mình theo lẽ chánh.

Xin nhắc lại một lần nữa rằng: Chúng ta là Phật tử, tức là người mong được giải thoát. Hãy quan sát tâm, xem tâm ta ở trong chánh pháp hay tà pháp, và nên đem tâm mình ra khỏi tà pháp để vào chánh pháp.