Lòng lành đổi tướng thay tên
Người thọ âm dương của trời đất và khí huyết của cha mẹ mà sinh ra, từ bậc vua quan cho đến bậc dân giả, cũng đều như nhau cả.
Nhưng trong đó, máy tạo hóa có phân biệt khác nhau là cái tướng; bởi vậy nên người tuy đông mà không ai giống ai hết.
Tướng ấy thể hiện người: sang, hèn, giàu, khó, yểu, thọ, ngay, gian v.v… hễ hình hài mang lốt tướng nào, thì vận sự thành theo bậc ấy, không khi nào sai.
Hồi đời vua Vĩnh Lạc, nhà Minh bên Tàu, có một người tên là Trịnh Hưng Nhi, côi cút một mình, không cha mẹ bà con chi hết.
Chàng bèn đến dinh quan Bộ Lang là họ Vương, xin ở hầu sai khiến. Được nửa năm, ông thấy chàng mới 17 tuổi mà thật thà, siêng năng và cung kính, nên đem lòng thương, không cho làm việc nặng, để ở trên nhà khách lau dọn bàn ghế và sai khiến trong khi có khách, hoặc trà nước hoặc cơm rượu mà thôi.
Ngày kia, phu nhân bệnh nặng, thuốc thang đã nhiều mà không thấy công hiệu. Trong khi quan Bộ Lang lo buồn, thình lình có khách là ông Viên Thượng Bửu đến thăm.
Nguyên ông này tên là Trung Triệt, làm chức Thượng Bửu Tư Thừa, là con của ông Viên Liễu Trang. Cha con tướng thuậït như thần, tại xứ Kinh Kì ai cũng kính phục.
Khi chủ, khách ngồi yên, ông Thượng Bửu ngó quan Bộ Lang và nói rằng: “Ngài sao mà khí trệ, chắc là bửu quyến có bệnh không yên; nhưng cái tướng này không phải ở trong sinh ra, thật ở ngoài mà đến, hoặc có chỗ tránh được cũng chưa biết chừng!”.
Quan Bộ Lang vẫn biết ông Thượng Bửu thần tướng, nay xem tướng mình lại đoán trúng việc nữa, nên ông muốn hỏi cho cặn kẽ, nhưng chưa kịp hỏi, kế Trịnh Hưng Nhi bưng khay trà lên mời hai ông uống, rồi trở xuống nhà sau.
Ông Thượng Bửu thấy Trịnh Hưng Nhi, bèn nói nhỏ với quan Bộ Lang rằng: “Trò nhỏ pha trà đó là người chi trong nhà?”.
- Nó là đứa ở của tôi, Ngài hỏi có việc gì không?
- Quý quyến của Ngài hay sinh bệnh là bởi tại trò đó có cái tướng phòng chủ; nếu nó ở lâu với Ngài thì sợ trong nhà phải hao người. Vậy Ngài cũng liệu mà cho nó ra khỏi nhà, thì tự nhiên bình an!
- Hèn chi, từ khi nó đến ở với tôi tới nay ước chừng được năm sáu tháng, trong nhà tôi đau ốm luôn luôn, không ngày nào toàn mạnh; nhưng nó tánh nết dễõ thương, tôi đâu nỡ đuổi đi!
Khi ông Thượng Bửu ra về, quan Bộ Lang đem lời ý thuật lại, phu nhân nghe liền bảøo ông mau cho nó đi.
Ông sợ trái ý vợ mà thêm bệnh, bất đắc dĩ ông phải kêu Hưng Nhi vào cho mười quan tiền, rồi bảo đi nơi khác ở.
Hưng Nhi khóc lóc thưa rằng: “Con không có khi nào trái ý chủ mà nỡ nào lại đuổi con?”.
Ông Bộ Lang bèn đem việc ông Thượng Bửu xem tướng mà thuật lại, chàng biết thần tướng đã nói như vậy, không thể nào ở được, liền lạy ông bà rồi ra đi.
Quả nhiên, khi chàng ra khỏi nhà, phu nhân bắt đầu mạnh dần, rồi từ ấy về sau, trong gia đình yên ổn.
Những người trong nhà của quan Bộ Lang thấy ông Thượng Bửu nói tướng của Hưng Nhi như vậy thì đều giụm năm giụm bảy, luận nọ bàn kia, một truyền mười, mười truyền trăm, trăm truyền ngàn làm cho cả kinh thành, ai cũng hay biết việc ấy cả.
Chàng Hưng Nhi ra ngoài đường, lững thững không biết đi đâu. Trời vừa tối, chàng vào trong am Quan Âm, nằm trước mái hiên, lăn qua trở lại, ngủ không được.
Chàng bèn than thở rằng: “Người ta có cha mẹ bà con, lại giàu sang tướng tốt; còn mình đã tứ cố vô thân, lại có cái tướng hại chủ. Nay không tội mà bị đuổi, thì ai còn chịu làm chủ mình nữa; chi bằng chết cho mát thân còn hơn”.
Chàng suy đi nghĩ lại như vậy rồi mệt sức ngủ quên, bỗng thấy một người, tay cầm nhành lá, ở trong am bước ra, đứng ngay trên đầu chàng.
Chàng bèn lật đật ngồi dậy, thì bà ấy
lấy nhành lá chỉ ngay nơi mặt chàng mà nói rằng: “Con chớ nên tự tử, vì con tuy có tướng xấu mà lòng con tốt, cũng có ngày con được nên thân!”.
Bà ấy nói mấy lời như trên đó, liền bước vào trong am, kế Hưng Nhi giựt mình thức dậy, mới biết là điềm chiêm bao.
Sáng ngày, chàng nhớ điềm mộng ấy, không dám tính tới việc chết nữa, cố lo tìm đến các dinh quan hoặc các nhà giàu sang mà xin ở hầu hạ.
Nhưng đáng thương thay, ai nấy nghe đến tên Hưng Nhi cũng đều làm ngơ, không chịu cho chàng ở. Chàng đi tối ngày cũng về am Quan Âm mà ngủ trọn nửa tháng trường như vậy.
Lúc ấy, mười quan tiền của quan Bộ Lang cho, chàng đã tiêu xài hết rồi, nên chàng bối rối trong lòng, biết tính làm sao để sống cho qua ngày tháng.
Một đêm nọ, chàng nằm thao thức, nghĩ rằng: “Nửa tháng nay mình đi đến Chân Thành và chẳng có một người dung nạp; vậy mai đây mình phải ra khỏi Chân Thành mà tìm kiếm, họa may có gặp mối chăng!”
Sáng ngày chàng thức dậy, vừa ra khỏi cửa thành, thì lại muốn đi đại tiện; chàng liếc xem bốn phía, thấy nơi bờ thành có hai dãy nhà cầu, dãy bên tả thì đàn ông tới lui không dứt; còn dãy bên hữu thì đàn bà cũng ra vào liên tiếp.
Chàng nhắm dãy bên tả đi vào, lựa một căn trống bước tới, liền ngồi đại tiện. Khi đứng dậy, ngó lên nóc nhà cầu, thấy một gói bằng vải đen móc tòn ten.
Chàng lấy làm lạ, liền với tay móc gói xuống, biết nặng nhưng chưa biết vật chi ở trong, bèn đem ra chỗ vắng mở lớp vải ở ngoài, thấy có ba trăm lượng bạc gói trong ba mươi gói bằng giấy xanh.
Khi mới thấy bạc ấy, chàng mừng rỡ mà nghĩ rằng: “Hay cho ta! Bữa nay hết tiền, may lại được bạc nhiều như thế, còn lo chi là nghèo và sợ chi là bị đuổi!”.
Chàng lại nghĩ rằng: “Của này chắc là kẻ đi đại tiện bỏ quên. Như người khách thương giàu có mà bỏ quên gói bạc này, dù có mất đi nữa, thì họ còn bạc khác, ta có lấy luôn cũng không hại chi; nhưng người thiếu hụt phải đi vay mượn hoặc bán đất vườn, để lo việc công danh hay làm việc cực khổ, mà ta lấy đi thì hại cho gia đình và tánh mạng của họ lắm. Huống chi trời cho ta mạng cùng cực, làm đầy tớ cũng còn chưa yên, lại có phước đức đâu mà hưởng của sẵn này? Chỉ có đem trả cho người là phải; đã chẳng hổ với lương tâm, lại khỏi hại đến công việc của người, mà cũng không trái ý trời nữa”.
Chàng Hưng Nhi nghĩ như vậy, liền xách gói bạc đến gần nhà cầu, lựa khi người ta không thấy, bèn moi đất vùi lấp gói bạc xuống, rồi ngồi gần một bên, chăm ngó vào nhà cầu mãi, coi có ai đến kiếm hay không.
Chàng ngồi một chập lâu, bèn thấy một người đàn ông hớt hải chạy đến, vào căn cầu này qua căn cầu khác, luôn hết cả dãy cầu bên tả, rồi ra đứng ngoài, tay thì bứt tóc trên đầu, miệng thì nói rằng: “Thế này thì tôi phải chết, còn sống mà làm chi”.
Hưng Nhi thấy người ấy hớt hải và nghe mấy lời than thở như thế, thì biết chắc là người đi kiếm gói bạc. Chàng liềân lên tiếng kêu rằng:
- Ơ, anh kia! Có việc chi cần kíp, lại đây nói cho tôi biết, họa may tôi có thể giúp đỡ được gì không?
Người ấy nghe kêu liền chạy lại nói rằng: “Em ơi! Thời vận của tôi thật xui, nguyên chủ tôi giao bạc cho tôi đem đến kinh mà lo sự thăng quan; đêm qua ngụ tại tiệm cơm gần cửa thành này, vì phòng ngủ không có được chắc chắn, nên tôi thức cả đêm, sáng ra tôi đến nhà cầu này, lại móc gói bạc nơi cái đinh lớn, rồi khi đi tôi bỏ quên tại đó. Bây giờ, tôi biết lấy chi mà lo, và khi về, biết nói lời chi cho khỏi tội, nên tôi muốn liều mình tự tử cho rồi.”
Hưng Nhi hỏi rằng: “Chủ của anh làm quan chi? Còn anh là người chi của chủ, họ tên là gì, xin cho tôi biết, rồi tôi sẽ giúp cho!”.
Người ấy nói: “Chủ của tôi là Trịnh Hùng, làm quan chỉ huy tại phủ Hoài An; còn tôi đây họ Trương, chủ cho làm chức Đô Quản và người ta thường kêu tôi là Trương Đô Quản. Nếu em biết ai lấy gói bạc đó, thì nói giùm cho tôi xin lại, ơn ấy tôi không dám quên”.
Hưng Nhi lại hỏi nữa rằng: “Gói bạc của anh được bao nhiêu và hình dáng cái gói ra sao? Anh nói cho tôi nghe thử!”.
Người ấy đáp rằng: “Ở ngoài gói bằng vải đen, bên trong có 300 lượng bạc gói bằng giấy xanh, mỗi gói là mười lượng”.
Hưng Nhi cười rằng: “Chính em đây lượm được gói bạc ấy, nên ngồi đợi anh mà trả lại!”.
Chàng nói vừa dứt lời, liền moi đất xách gói bạc lên đưa cho người ấy.
Đô Quản thấy gói bạc của mình thì rất mừng, bèn mở ra đếm lại, y nguyên không thiếu một lượng nào, rồi đứng dậy vòng tay thưa rằng: “Em nhỏ người mà đức lớn, tôi xin kính lại 50 lạng để đền ơn!”.
Hưng Nhi nói rằng: “Nếu muốn lấy gói bạc đó, thì em đã đem đi mất rồi, cần gì phải ngồi đây đợi anh làm chi. Xin anh chớ nên làm hư cái tâm thật của em!”.
Trương Đô Quản hỏi rằng: “Em nhà cửa ở đâu, tên họ là chi, xin cho tôi biết, phòng sau tôi tìm đến mà đáp tình?”.
- Em tên là Trịnh Hưng Nhi, 17 tuổi, mồ côi từ thuở bé, không cha mẹ, không bà con, không nhà cửa chi hết. Em đương ở đầy tớ cho quan Bộ Lang, bị thầy tướng nói em có tướng hại chủ, nên bị đuổi đi hơn nửa tháng nay không chỗ nương tựa!
Đô Quản nghe nói thì động mối thương tâm, bèn nói rằng: “Em đương cơn cùng cực mà thấy của không tham, thật là lòng dạ Thánh hiền, dẫu người xưa cũng không bì kịp. Thôi! Em không cần đi đâu làm chi, cứ theo tôi vào quán ăn uống và nghỉ ở đó với tôi, sáng ngày mai em giữ giùm hành lý, còn tôi thì vào các dinh quan mà lo công việc, đến chừng xong rồi tôi sẽ dẫn em về Hoài An, thưa cho chủ tôi biết. Vả lại, chủ tôi cũng đồng họ với em, có lẽ em sẽ được việc tốt. Nếu chủ tôi không dùng em, còn tôi đây làm chức Đô Quản, có thể nuôi em năm ba năm cũng được!”.
Hưng Nhi nghe nói rất mừng, kế hai người dắt nhau vào quán ăn uống nghỉ ngơi. Sáng ngày, Hưng Nhi ở nơi quán mà giữ hành lý, còn Đô Quản thì vào Bộ Binh lo viêïc thăng bộ cho chủ mình là Trịnh Hùng xong, rồi trở lại chỗ nghỉ mà dẫn Hưng Nhi về xứ. Khi đến Hoài An, Đô Quản để Hưng Nhi đứng ngoài cửa ngõ, còn chàng vào bẩm các việc tại kinh cho chủ hay.
Quan Chỉ huy nghe nói rất mừng, bèn thốt rằng: “Nay ta được thăng chức Du Kích Tướng Quân là cũng nhờ ngươi thông thạo mới được việc!”.
Đô Quản bẩm rằng: “Không phải nhờ tôi, thật là nhờ một vị cứu tinh! Nếu không có vị cứu tinh đó, thì chẳng những chủ đã không được quan chức mà tánh mạng của tôi cũng không còn!”.
Ông Du Kích hỏi rằng: “Vị cứu tinh nào đó?”.
Đô Quản liền kể hết việc mất bạc nhờ Hưng Nhi lượm được rồi trả lại.
Ông Du Kích nói: “Sao không mời về cho ta đền ơn?”.
Đô Quản bẩm rằng: “Tôi có dắt người ấy về nhưng còn đứng ngoài cửa ngỏ!”.
Ông Du Kích lật đật ra ngoài dắt vào nhà khách mời ngồi, nhưng Hưng Nhi không dám, cứ xin để cho chàng đứng hầu mà thôi. Sau chàng bị mời ép hai ba phen, nên phải kéo cái ghế ngồi lùi ra sau.
Ông Du Kích nhìn xem tướng mạo của Hưng Nhi, biết không phải là người hà tiện, liền nói rằng: “Ngươi họ Trịnh, còn ta đây cũng họ Trịnh, tuổi gần năm mươi mà vợ chồng không con. Ta muốn nhận ngươi làm con, phòng ngày sau nối dòng họ Trịnh, không biết ngươi có vui lòng chăng?”.
Hưng Nhi bẩm: “Phận con hèn hạ, nếu quan lớn thương con cho ở để sai khiến, thì cái ơn ấy đã lớn lắm rồi, có đâu dám mong đến sự làm con!”.
Ông Du Kích nói rằng: “Không phải như vậy đâu! Ngươi là một vị ân nhân của ta, lại là người khinh tài trọng nghĩa nữa; nếu ta lấy tiền của mà đền đáp, ngươi sẽ không chịu, còn mang ơn mà không báo thì ta là người gì?”.
Hưng Nhi nghe nói cạn lời, hết phương từ chối, liền cúi lạy ông mà kêu bằng cha.
Ông Du Kích bèn cho mời phu nhân ra cho chàng lạy mà kêu bằng mẹ, rồi đặt tên cho chàng lại là Trịnh Hưng Bang.
Từ ấy về sau, mọi người trong xứ đó đều kêu chàng là công tử cả.
Nói qua Trịnh Hưng Bang thời tốt vận đỏ, nên từ khi làm con của quan Du Kích Tướng Quân, thì chàng coi sóc các việc trong ngoài, lại biết quạt nồng ấp lạnh, sớm viếng tối hầu, phải đạo một người con hiếu.
Quan Du Kích thấy vậy, vui mừng khôn xiết, bèn đem hết 18 món võ nghệ chỉ dạy, chẳng bao lâu chàng đều tinh thông cả.
Ông lại rước thầy văn thật giỏi về dạy nữa, chàng cũng gắng chí học hành, sôi kinh nấu sử, được vài năm đã trở thành một người văn võ kiêm toàn, thiên hạ thảy đều kính phục.
Sau, nhân quan Du Kích làm chức Tiên Phong, đi đánh giặc Sào Hồ, Trịnh Hưng Bang cũng theo cha lập được nhiều công trận.
Quan nguyên soái thấy vậy đem lòng quý mến, bèn phong cho chàng làm chức Chỉ Huy, rồi đến lúc yên giặc về triều, vua Vĩnh Lạc phong quan Du Kích làm chức Điện Tiền Đại Tướng Quân và phong cho Trịnh Hưng Bang làm chức Du Kích Tướng Quân.
Từ ấy, cha con đều ở tại kinh mà cung chức.
Một ngày kia, Trịnh Hưng Bang sực nhớ lúc ở hầu hạ quan Bộ Lang, tuy chàng bị đuổi nhưng tại chủ nghe lời thầy tướng, không phải bạc tình với mình. Chàng bèn nghĩ rằng đã về ở gần nhà mà không đến thăm viếng, thì sao phải đạo làm người.
Khi chàng vừa đến dinh quan Bộ Lang, thì gia nhân chạy vào báo rằng: “Có quan Du Kích đến viếng”.
Quan Bộ Lang lật đật ra ngoài nghinh tiếp thẳng vào nhà khách rồi mời ngồi; nhưng quan Du Kích đứng vòng tay mà thưa rằng: “Ngài là chủ còn tôi là tớ thì đâu dám ngồi đồng bàn, vậy tôi xin đứng hầu mà thôi”.
Quan Bộ Lang nghe nói lạ như vậy bèn hỏi rằng: “Sao quan Du Kích lại xưng hô như thế, làm cho tôi xốn xang tấc lòng!”.
Du Kích thưa rằng: “Vậy chủ không nhớ tôi đây là Hưng Nhi hay sao?”.
Quan Bộ Lang nghe nói liền nhìn kỹ lại mới biết là người ở của mình đuổi thuở trước, chỉ khác vì mặc áo, mão mà thôi.
Thật là:
“Rỡ mình lạ vẻ cân đai,
Hãy còn hàm én mày ngài như xưa”.
Quan Bộ Lang đứng dậy nắm tay quan Du Kích mà xin lỗi rằng: “Khi đó, tôi nghe lời Viên Thượng Bửu, khiến tôi đắc tội cùng Ngài, nay đã muộn rồi, ăn năn không kịp,
vậy xin ngài dung thứ cho tôi!”.
Quan Du Kích bèn thưa rằng: “Nếu lâu nay tôi còn ở đây, thì bây giờ đâu có được phát đạt như vầy; việc ấy là nhờ lời nói của ông Thượng Bửu, nên tôi không phiền chủ chút nào, trái lại tôi còn cám ơn ông Thượng Bửu nữa!”.
Lúc ấy, vừa có gia nhân vào báo rằng có ông Thượng Bửu đến, hai người muốn thử ông, bèn nói nhỏ với nhau rồi dắt vào trong phòng.
Khi ông Thượng Bửu vào đến nhà khách, quan Bộ Lang bước ra chào hỏi mời ngồi và bảo trẻ đem trà ra thiết đãi. Kế thấy Hưng Bang mặc bộ đồ cũ của kẻ gia nhân, tay bưng khay trà bước ra pha, rồi khoanh tay đứng hầu.
Ông Thượng Bửu thấy Hưng Bang, bèn ngó xem một hồi rồi hỏi rằng: “Chú này là người chi trong nhà, xin mời ngồi đây nói chuyện, sao lại phải đứng hầu như vậy?”.
Quan Bộ Lang nói: “Ngài không nhớ Hưng Nhi ở nhà tôi thuở trước mà Ngài nói có tướng phòng chủ hay sao?”.
Ông Thượng Bửu nghe nói, sực nhớ chuyện cũ năm xưa, liền xem lại kỹ lưỡng mà đoán rằng: “Chú nầy thật quả giống Hưng Nhi năm trước, nhưng tướng xấu thuở ấy đã biến đi đâu mất rồi, nay lại hiện ra tướng quan võ, giàu sang gồm đủ. Vả lại, cái tướng ngày nay là do ân đức mà phát ra, tôi đoán chắc chú có làm một việc ân đức chi, hoặc cứu người khỏi chết, hoặc nhặt được của rồi trả lại cho người, nên mới đổi được cái tướng tốt ấy!”.
Trịnh Hưng Bang nghe nói mấy lời ấy, bèn khen rằng: “Phép xem tướng của Ngài thật là thần diệu!”.
Chàng bèn đem việc từ khi bị đuổi tới khi được bạc, rồi đến xứ Hoài An làm con của quan Chỉ Huy, từ trước đến sau thuật lại đầy đủ.
Quan Bộ Lang hỏi rằng: “Nếu vậy thì hình tướng của người ta cũng có lúc dời đổi hay sao?”,
Ông Thượng Bửu nói: “Ngài không nhớ trong sách tướng có câu rằng: hữu tâm vô tướng, tướng tự tâm sinh; hữu tướng vô tâm, tướng tùng tâm diệt đó hay sao?” (nghĩa là: lòng tốt tướng xấu, thì tướng theo lòng tốt mà hiện ra; còn tướng tốt lòng xấu, thì tướng theo lòng xấu mà tiêu mất).
Khi ấy, quan Bộ Lang liền dắt Trịnh Hưng Bang vào trong phòng, thay áo mão như cũ, rồi đồng ra uống trà nói chuyện với ông Thượng Bửu.
Sau, Trịnh Hưng Bang làm đến chức Đại Tướng Quân, có vợ sinh con đẻ cháu, nối dòng họ Trịnh làm quan võ.
Đó là tích người có lòng lành đổi tướng bần cùng thành tướng phú quý. Cái điều lành ấy là thấy của không tham, cứu người khỏi chết mà được phước báo như vậy.