Người đồ tể giết heo
Cun-đa (Cunda) sinh sống bằng nghề mổ lợn trong suốt 55 năm và được mệnh danh là tay đồ tể dạn dày kinh nghiệm. Thoáng nhìn qua con heo là ông biết ngay nó khoảng bao nhiêu ký, mắc bệnh hay khỏe mạnh, thịt nạc nhiều hay thịt mỡ nhiều v.v… Ông dành một khoảng đất trống khá rộng phía sau nhà, rào chắn cẩn thận, thả heo vào đó và nuôi chúng bằng đủ loại thức ăn, kể cả chất thải của con người.
Khi nào muốn giết lợn, ông buộc chặt con heo vào một cột trụ, dùng một khúc cây quất nó cho da thịt phồng lên và mềm ra. Sau đó ông banh miệng heo, nhét vào đó một cái nêm và đổ nước sôi vào. Nước sôi sẽ vào bụng heo, ngấm vào ruột non, ruột già, làm lỏng phân và tống các chất cặn bã theo đường hậu môn ra ngoài. Bao lâu nước thải còn đục là ông còn tiếp tục đổ nước sôi vào miệng heo. Làm như vậy cho đến khi nào nước trong bụng heo thải ra trong sạch mới thôi.
Phần nước sôi còn lại ông đem đổ trên lưng heo cho bong hết lớp da đen đúa, rồi dùng một bó đuốc thui cháy hết lông, cắt đầu, lấy máu trét khắp thân heo, sau đó quay nó trên lửa cho thật chín rồi cùng vợ con ngồi lại bên nhau đánh chén. Nếu thịt còn thừa thì ông đem ra chợ bán. Ông sinh sống như vậy trong suốt 55 năm mà không hề thân thiện hay quà cáp cho ai chút gì, ngay cả đức Phật ở tại một Tịnh xá gần làng mà ông cũng không bao giờ lui tới hay cúng dường Ngài một vốc gạo, một cành hoa! Ông sống keo kiệt, lầm lủi, chỉ biết đến vợ con và gia đình mình.
Rồi một hôm, ông bị căn bệnh hiểm nghèo ập đến, dày vò hành hạ ông cả ngày lẫn đêm. Ông chỉ cầu mong sao cho sớm trút hơi thở cuối cùng, nhưng không được. Ông đau đớn quằn quại và lửa dữ cứ phừng phừng, hừng hực trước mắt ông. Ông cảm thấy đầu óc bị quay cuồng bởi những tiếng kêu la thất thanh eng éc, tay chân tê buốt như bị trói chặt, ruột gan nóng rát như bị thiêu đốt và đứt ra từng đoạn. Ông lăn lộn, vật vã, tru tréo; rồi bỗng dưng ông chồm dậy, trợn mắt, nhe răng, gầm gừ, chắp nuốt như heo và bò đi lổm ngổm, xiêu vẹo khắp sàn nhà. Chốc chốc, ông lại húc đầu vào tường và kêu lên the thé như tiếng heo sắp tắt thở. Người nhà cố giữ ông lại. Kẻ thì bịt miệng, người thì cột tay chân và bấy giờ, trông ông giống như một con heo bị trói nằm trên sàn.
Vừa thương, vừa sợ, vừa cảm thấy tội nghiệp cho cha, ông của mình, con cháu trong nhà luân phiên túc trực, đóng cửa cài then, canh phòng nghiêm mật, để cho ông được tự do bò tới bò lui trong nhà và mặc sức gầm gừ tru tréo. Đến ngày thứ bảy, ông lăn đùng ra chết và bị đọa vào địa ngục A-tỳ.
Một số Sa-môn, trên đường khất thựïc, ngày ngày đi ngang qua nhà Cun-đa, thấy cửa ngõ kín mít nhưng trong nhà thì ồn ào với tiếng heo kêu eng éc, bèn đến gặp đức Thế Tôn và thưa rằng:
- Bạch Thế Tôn, trong bảy ngày qua, cửa ngõ căn nhà của đồ tể Cun-đa đóng kín mít nhưng trong nhà họ vẫn tiếp tục mổ heo, chắc ông ta sắp mở tiệc lớn. Bạch Thế Tôn, biết bao nhiêu heo đã bị giết chết! Rõ ràng là ông ta không có một chút thiện tâm, nhân ái gì cả! Chưa thấy ai dã man tàn ác như ông ấy!
Này các thầy Tỳ kheo! – Đức Thế tôn nói – Nhân nào thì quả nấy. Sự trừng phạt nào cũng phù hợp với hành động quá khứ của mỗi người. Ngay khi còn sống, Cun-đa cũng đã bị thiêu đốt bởi ngọn lửa hung tàn của nghiệp lực. Do vậy mà ông phải bò tới bò lui, xiêu xiêu vẹo vẹo, té lên té xuống và gầm gừ rên rỉ giống như heo trong bảy ngày liền. Hôm nay, ông ấy giã từ dương thế thì lại bị đọa vào địa ngục A-tỳ.
- Bạch Thế Tôn – các Sa–môn nói – “Cun-đa đã bị đau khổ ở đời này, khi tái sinh ở nơi khác cũng bị đau khổ nữa sao?”.
- Đúng vậy! Này các thầy Tỳ kheo, những ai buông lung phóng dật, keo kiệt, ác tâm, tu sĩ hay cư sĩ cũng bị điêu linh khốn khổ ở hai nơi như nhau.
Ngài đọc kệ:
Nay buồn, đời sau buồn,
Làm ác hai đời buồn,
Hắn u buồn, tàn tạ,
Thấy ác nghiệp mình luôn.