TẠP A-HÀM QUYỂN 11
Tôi nghe như vầy:
Một thời, Phật ở tại vườn Cấp cô
độc, rừng cây Kỳ-đà, nước Xá-vệ. Bấy giờ, có Tỳ-kheo một mình lặng lẽ tư
duy: “Thế nào là ngã? Ngã làm gì? Cái gì là ngã? Ngã trụ ở đâu?” Sau khi
từ thiền tịnh tỉnh giác, Tỳ-kheo này đến chỗ Đức Phật, đảnh lễ dưới chân
Phật, rồi ngồi lui qua một bên, bạch Phật:
“Bạch Thế Tôn, con một mình ở chỗ
vắng tư duy: ‘Thế nào là ngã? Ngã làm gì? Cái gì là ngã? Ngã trụ ở đâu?’”
Phật bảo Tỳ-kheo:
“Nay Ta sẽ vì ngươi mà nói hai pháp[2].
Ngươi hãy lắng nghe và suy nghĩ kỹ. Thế nào là hai? Mắt và sắc là hai. Tai
và tiếng, mũi và mùi, lưỡi và vị, thân và xúc, ý và pháp. Đó gọi là hai
pháp.
“Này Tỳ-kheo, nếu có người bảo
rằng: ‘Sa-môn Cù-đàm nói hai pháp, nhưng đó chẳng phải là hai. Nay tôi sẽ
bỏ cái này để lập hai pháp khác.’ Người kia chỉ nói suông[3],
nhưng nếu gạn hỏi thì không biết và càng tăng thêm nghi hoặc, vì chẳng
phải là cảnh giới của họ. Vì sao? Vì duyên mắt và sắc nên sanh ra nhãn
thức.
“Này Tỳ-kheo, mắt này là hình thịt[4],
là bên trong, là nhân duyên, là cứng[5],
là thọ[6].
Đó gọi là nội địa giới, hình thịt của mắt. Này Tỳ-kheo, nếu hình thịt của
mắt, hoặc bên trong, hoặc nhân duyên, chất dịch từ mắt tiết ra, là thọ. Đó
gọi là nội thủy giới hình thịt của mắt. Này Tỳ-kheo, nếu hình thịt của mắt
này, hoặc bên trong, hoặc nhân duyên, phát ra ánh sáng ấm nóng, là thọ. Đó
gọi là nội hỏa giới hình thịt của mắt. Này Tỳ-kheo, nếu hình thịt của mắt
này, hoặc ở trong, hoặc nhân duyên, dao động nhẹ nhàng, là thọ. Đó là nội
phong giới hình thịt của mắt. Này Tỳ-kheo, thí như hai tay chập lại tạo
thành âm thanh, cũng vậy duyên mắt và sắc sanh ra nhãn thức. Ba sự này hòa
hợp sanh ra xúc, xúc sanh ra thọ, tưởng, tư. Các pháp này chẳng phải ngã,
chẳng phải thường, mà đó là cái ngã vô thường; chẳng phải lâu bền, chẳng
phải an ổn, đó là cái ngã biến dịch. Vì sao? Này Tỳ-kheo, vì nó là pháp
thọ sanh có sanh, già, chết, tiêu mất.
“Này Tỳ-kheo, các hành như huyễn,
như sóng nắng, trong khoảnh sát na, tàn lụi, không thật đến không thật đi.
Cho nên Tỳ-kheo, đối với các hành vốn không, nên biết, nên hoan hỷ, nên
suy niệm rằng, trống không là các hành thường tồn, vĩnh hằng, ổn trụ, pháp
không biến dịch; trống không không có ngã, không có ngã sở.
“Ví như người mắt sáng tay cầm đèn
sáng vào trong nhà trống, xem xét cái nhà trống ấy. Cũng vậy, Tỳ-kheo, đối
với tất cả hành trống không, tâm quán sát, hoan hỷ, rằng trống không là
các hành. Trống không, không ngã và ngã sở, là các pháp (được coi là)
thường tồn, vĩnh hằng, ổn trụ, pháp không biến dịch. Cũng vậy, mắt, tai,
mũi, lưỡi, thân, ý và pháp làm nhân duyên sanh ra ý thức, ba sự hòa hợp
thành xúc, xúc sanh ra thọ, tưởng, tư. Các pháp này vô ngã, vô thường, chi
tiết cho đến không, vô ngã và ngã sở. Tỳ-kheo, ý ngươi thế nào? Mắt là
thường hay là vô thường?”
“Bạch Thế Tôn, vô thường.”
Phật lại hỏi:
“Nếu vô thường là khổ chăng?”
“Bạch Thế Tôn, là khổ.”
Phật lại hỏi:
“Nếu vô thường là khổ, là pháp biến
dịch, vậy đa văn Thánh đệ tử có nên ở trong ấy thấy là ngã, khác ngã, hay
ở trong nhau không?”
“Bạch Thế Tôn, không.”
“Tai, mũi, lưỡi, thân, ý lại cũng
như vậy. Như vậy đa văn Thánh đệ tử đối với mắt sanh nhàm tởm; nhàm tởm
nên không ưa thích, không ưa thích nên giải thoát, giải thoát tri kiến:
‘Ta, sự sanh đã dứt, phạm hạnh đã lập, những gì cần làm đã làm xong, tự
biết không còn tái sanh đời sau nữa.’ Tai, mũi, lưỡi, thân, ý lại cũng như
vậy.”
Tỳ-kheo ấy nghe Phật thuyết về kinh
thí dụ hai tay hợp lại phát tiếng, một mình đi đến chỗ vắng, tinh cần tư
duy, sống không buông lung, … tự biết không còn thọ thân sau, thành
A-la-hán.
*
Tôi nghe như vầy:
Một thời, Phật ở tại vườn Cấp cô độc, rừng cây
Kỳ-đà, nước Xá-vệ. Bấy giờ, Thế Tôn nói với các Tỳ-kheo:
- Những gì không phải là của các ông có, cần phải
xả bỏ hết; khi đã xả bỏ hết pháp đó rồi, thì được an vui lâu dài. Này các
Tỳ-kheo, ý các ông thế nào? Ở trong rừng Kỳ-hoàn này, các thứ cỏ cây, cành
lá, nếu có người mang đi, thì các ông có nghĩ rằng: ‘Những vật này là tôi,
là của tôi, người kia sao lại đem đi?’”
Các Tỳ-kheo đáp:
“Bạch Thế Tôn, không. Vì sao? Vì những vật này
chẳng phải ta, chẳng phải của ta.”
“Tỳ-kheo, các ông cũng lại như vậy, đối với vật
không phải của mình, phải xả bỏ hết; khi đã xả bỏ những pháp này rồi, thì
được an vui lâu dài. Những gì không phải sở hữu của các ông? Mắt, không
phải của các ông, nên xả bỏ; khi đã xả bỏ rồi, thì được an vui lâu dài.
Đối với tai, mũi, lưỡi, thân, ý lại cũng như vậy.
“Thế nào, Tỳ-kheo, mắt là thường hay là vô thường?”
Tỳ-kheo đáp:
“Bạch Thế Tôn, là vô thường.”
Phật lại hỏi:
“Nếu là vô thường thì khổ phải không?”
“Bạch Thế Tôn, là khổ.”
Phật lại hỏi:
“Nếu vô thường là khổ, là pháp biến dịch, vậy đa
văn Thánh đệ tử đối với sáu nhập xứ này, nên quán sát chẳng phải ta, chẳng
phải của ta. Khi quán sát rồi, đối với các pháp thế gian không chấp thủ.
Vì không chấp thủ nên không đắm trước, do không đắm trước nên tự mình giác
ngộ Niết-bàn: ‘Ta, sự sanh đã dứt, phạm hạnh đã lập, những gì cần làm đã
làm xong, tự biết không còn tái sanh đời sau nữa.’”
Phật nói kinh này xong, các Tỳ-kheo nghe những gì
Đức Phật dạy, hoan hỷ phụng hành.
*
Tôi nghe như vầy:
Một thời, Đức Phật ở tại vườn Cấp
cô độc, rừng cây Kỳ-đà thuộc nước Xá-vệ, thì bấy giờ Đức Thế Tôn bảo các
Tỳ-kheo:
“Có người nói: ‘Người có sức mạnh
nhất chỉ có Nan-đà.’ Đây là lời nói chính xác. Có người nói: ‘Người đẹp
trai nhất cũng chỉ có Nan-đà.’ Đây là lời nói đúng. Có người lại nói:
‘Người ái dục nặng cũng chỉ có Nan-đà.’ Đây là lời nói đúng. Này các
Tỳ-kheo, nhưng hiện tại Nan-đà đã đóng cửa các căn, ăn uống điều độ, đầu
đêm, cuối đêm tinh tấn siêng năng tu tập, thành tựu chánh trí, có thể suốt
đời Phạm hạnh thanh bạch, thuần nhất viên mãn.
“Tỳ-kheo Nan-đà này đã đóng cửa các
căn. Nếu mắt thấy sắc, thì không còn chấp giữ tướng dạng của sắc, không
chấp giữ vẻ đẹp riêng[9].
Nếu những gì khiến nhãn căn không được phòng hộ[10],
bị ngăn che bởi vô minh, tham ái thế gian; Tỳ-kheo khởi tâm phòng hộ[11],
không để các pháp ác bất thiện ấy tiết lậu vào tâm. Tỳ-kheo sanh các luật
nghi để phòng hộ các căn mắt, tai, mũi, lưỡi, thân, ý[12].
Đó gọi là Tỳ-kheo Nan-đà đóng cửa các căn[13].
“Thế nào là ăn uống có điều độ?
Tỳ-kheo Nan-đà đối với sự ăn có hệ số[14],
không vì tự cao, không vì buông lung, không vì sắc đẹp, không vì trang
nghiêm, vừa đủ nuôi thân mà thôi, không kể ngon dở, cốt trừ đói khát để tu
phạm hạnh; vì để đối với những cảm giác khổ đã khởi lên trước đây, liền
làm cho dập tắt, những cảm giác khổ chưa khởi khiến cho không khởi; vì để
thành tựu được ý chí hướng thượng[15];
vì để khí lực an lạc, sống một mình không cần ai biết đến[16].
Như người đi xe phải bôi dầu, không vì tự cao, (chi tiết như trên, cho
đến) không vì trang điểm, mà vì để vận tải. Cũng giống như xức
ghẻ, không vì tham vị thuốc mà vì muốn hết đau. Cũng vậy, thiện gia nam tử
Nan-đà biết ăn uống có điều độ,… cho đến, sống một mình không cần ai biết
đến. Đó gọi là Nan-đà biết ăn uống có điều độ.
“Thiện nam tử Nan-đà đầu đêm, cuối
đêm, tinh tấn siêng năng tu tập. Nan-đà ban ngày kinh hành, tọa thiền, trừ
bỏ ấm chướng để cho thân thanh tịnh; đầu đêm kinh hành, tọa thiền, trừ bỏ
ấm chướng để cho thân thanh tịnh[17];
nửa đêm ra ngoài phòng rửa chân, rồi vào trong phòng nằm nghiêng bên phải,
hai chân chồng lên nhau, buộc niệm vào tướng ánh sáng, nghĩ tưởng đến sự
tỉnh dậy; cuối đêm từ từ tỉnh dậy, kinh hành, tọa thiền. Đó gọi là thiện
nam tử Nan-đà, đầu đêm, cuối đêm, tinh tấn siêng năng tu tập.
“Thiện gia nam tử Nan-đà kia có
thắng niệm, chánh tri[18].
Thiện nam tử Nan-đà quán sát phương Đông, nhất tâm chánh niệm, an trú quán
sát. Quán sát phương Nam, phương Tây, phương Bắc lại cũng như vậy. Nhất
tâm chánh niệm, an trú quán sát; người nào quán sát như vậy, thì các pháp
bất thiện, tham ưu ở thế gian không lọt vào tâm được.
“Thiện nam tử Nan-đà kia tỉnh giác
khi các thọ sanh khởi, tỉnh giác khi các thọ đình trú, tỉnh giác khi các
thọ diệt; luôn trú trong chánh niệm, không cho tán loạn; tỉnh giác khi các
tưởng sanh khởi, tỉnh giác khi các tưởng đình trú, tỉnh giác khi các tưởng
diệt; tỉnh giác khi các giác[19]
sanh khởi, tỉnh giác khi các giác trú, tỉnh giác khi các
giác diệt; luôn trú trong chánh niệm, không cho tán loạn. Đó gọi là thiện
nam tử Nan-đà thành tựu chánh niệm, chánh trí.
“Cho nên, các Tỳ-kheo nên học như
vầy: ‘Đóng kín cửa các căn như thiện nam tử Nan-đà; ăn uống có điều độ như
thiện nam tử Nan-đà; đầu đêm, cuối đêm tinh tấn siêng năng tu tập như
thiện nam tử Nan-đà; thành tựu chánh niệm, chánh trí như thiện nam tử
Nan-đà.’ Như pháp truyền dạy cho Nan-đà cũng nên được đem dạy cho người
khác.”
Khi ấy có Tỳ-kheo nọ nói kệ:
Khéo đóng cửa các căn,
Nhiếp tâm, trú chánh niệm,
Ăn uống biết điều độ,
Giác biết các tướng tâm,
Thiện nam tử Nan-đà,
Được Thế Tôn khen ngợi.
Phật nói kinh này xong, các Tỳ-kheo
nghe những gì Đức Phật dạy, hoan hỷ phụng hành.
*
Tôi nghe như vầy:
Một thời, Phật ở tại vườn Cấp cô
độc, rừng cây Kỳ-đà, nước Xá-vệ. Bấy giờ, có chúng Đại Thanh văn ni ở
trong vườn vua nước Xá-vệ. Tên các Tỳ-kheo-ni này là Thuần-đà Tỳ-kheo-ni,
Dân-đà Tỳ-kheo-ni, Ma-la-bà Tỳ-kheo-ni, Ba-la-giá-la Tỳ-kheo-ni,
Đà-la-tỳ-ca Tỳ-kheo-ni, Sai-ma Tỳ-kheo-ni, Nan-ma Tỳ-kheo-ni, Cáo-nan-xá
Cù-đàm-di Tỳ-kheo-ni, Ưu-bát-la-sắc Tỳ-kheo-ni, Ma-ha Ba-xà-ba-đề
Tỳ-kheo-ni. Những vị này cùng một số Tỳ-kheo-ni khác đều ở trong vườn vua.
Bấy giờ, Tỳ-kheo-ni Ma-ha
Ba-xà-ba-đề[21]
cùng với năm trăm Tỳ-kheo-ni lần lượt trước sau đi đến chỗ
Phật, cúi đầu đảnh lễ dưới chân Phật, rồi ngồi lui qua một bên. Lúc ấy,
Thế Tôn vì Tỳ-kheo-ni Ma-ha Ba-xà-ba-đề mà thuyết pháp, khai mở, chỉ dạy,
soi sáng, làm cho hoan hỷ
[22].
Sau khi bằng nhiều cách thuyết pháp, khai mở, chỉ dạy, soi sáng, làm cho
hoan hỷ, Ngài khiến họ lui về, bảo rằng:
“Tỳ-kheo-ni, thời gian thích hợp,
nên đi!”
Tỳ-kheo-ni Ma-ha Ba-xà-ba-đề nghe
những điều Phật dạy, vui vẻ làm lễ mà lui.
Bấy giờ, Đức Thế Tôn biết
Tỳ-kheo-ni Ma-ha Ba-xà-ba-đề đã về rồi, mới bảo các Tỳ-kheo:
“Ta nay tuổi đã già yếu, không còn
có thể vì các Tỳ-kheo-ni thuyết pháp được. Tỳ-kheo Tăng các người, từ nay
các Thượng tọa tôn đức giáo thọ các Tỳ-kheo-ni.”
Các Tỳ-kheo vâng lời Đức Thế Tôn,
tuần tự theo thứ lớp giáo thọ các Tỳ-kheo-ni. Theo thứ tự, đến phiên
Nan-đà.
Bấy giờ, theo thứ tự, Nan-đà nên đi
nhưng không muốn đi giáo thọ.
Bấy giờ, Tỳ-kheo-ni Ma-ha
Ba-xà-ba-đề cùng năm trăm Tỳ-kheo-ni trước sau lần lượt đến chỗ Đức Thế
Tôn, cúi đầu đảnh lễ dưới chân Phật, cho đến… xin được nghe pháp. Nghe
xong họ vui vẻ, đảnh lễ rồi ra về.
Bấy giờ, Đức Thế Tôn biết
Tỳ-kheo-ni Ma-ha Ba-xà-ba-đề đã về rồi, liền hỏi Tôn giả A-nan:
“Hôm nay đến phiên ai giáo thọ các
Tỳ-kheo-ni?”
Tôn giả A-nan bạch Phật:
“Bạch Thế Tôn, các Thượng tọa đã lần lượt giáo thọ
Tỳ-kheo-ni rồi, nay tới phiên Nan-đà, nhưng Nan-đà không muốn giáo thọ.”
Bấy giờ, Thế Tôn bảo Nan-đà:
“Ngươi hãy giáo thọ các Tỳ-kheo-ni, vì các
Tỳ-kheo-ni mà nói pháp. Vì sao? Vì Ta đã đích thân dạy dỗ các Tỳ-kheo-ni,
nên ngươi cũng phải như vậy. Ta đã vì các Tỳ-kheo-ni mà nói pháp, thì
ngươi cũng nên như vậy.”
Bấy giờ, Nan-đà im lặng vâng lời.
Sáng sớm hôm sau, Nan-đà đắp y mang bát vào thành
Xá-vệ khất thực. Ăn xong, trở về tinh xá, thu cất y bát, rửa chân xong vào
thất tọa thiền. Rồi tỉnh giác thiền tịnh, Nan-đà đắp y Tăng-già-lê và dẫn
theo một Tỳ-kheo đi đến vườn vua. Các Tỳ-kheo-ni từ xa trông thấy Tôn giả
Nan-đà đến, vội vàng trải chỗ ngồi và mời ngồi. Tôn giả Nan-đà an tọa
xong, các Tỳ-kheo-ni cúi đầu đảnh lễ, rồi ngồi lui qua một bên. Tôn giả
Nan-đà nói với các Tỳ-kheo-ni:
“Này các cô! Các cô có điều gì xin hỏi tôi, tôi sẽ
vì các cô mà nói pháp. Các cô nếu hiểu rồi, thì nói là đã hiểu; nếu chưa
hiểu thì nên nói là chưa hiểu. Đối với những nghĩa lý mà tôi đã nói ra,
nếu đã hiểu thì hãy khéo thực hành, nếu không hiểu thì phải hỏi lại, tôi
sẽ sẵn sàng nói lại.”
Các Tỳ-kheo-ni bạch Tôn giả Nan-đà:
“Ngày nay chúng con nghe Tôn giả dạy, cho phép
chúng con hỏi, bảo chúng con rằng: ‘Các cô nếu hiểu rồi, thì nói là đã
hiểu; nếu chưa hiểu, thì nên nói là chưa hiểu. Đối với những nghĩa lý mà
tôi đã nói ra, nếu đã hiểu thì hãy khéo thực hành, nếu không hiểu thì phải
hỏi lại.’ Chúng con nghe được điều này, lòng rất vui mừng. Bây giờ, chúng
con xin hỏi về những nghĩa lý chưa được hiểu.”
Lúc đó Tôn giả Nan-đà bảo các Tỳ-kheo-ni:
“Thế nào các cô, khi quán sát về nội nhập xứ của
mắt có thấy là ngã, khác ngã, hay ở trong nhau không?”
Các Tỳ-kheo-ni đáp:
“Bạch Tôn giả Nan-đà, không.”
Hỏi tiếp:
“Khi quán sát về nội nhập xứ của tai mũi, lưỡi,
thân, ý có phải là ngã, khác ngã, hay ở trong nhau không?”
Các Tỳ-kheo-ni đáp:
“Bạch Tôn giả Nan-đà, không. Vì sao? Bạch Tôn giả
Nan-đà, vì đối với pháp này chúng con đã từng thấy biết như thật. Đối với
sáu nội nhập xứ quán sát là vô ngã, chúng con từng hiểu ý như vầy: sáu nội
nhập xứ là vô ngã.”
Tôn giả Nan-đà bảo các Tỳ-kheo-ni:
“Lành thay! Lành thay! Các cô nên hiểu như vậy. Sáu
nội nhập xứ nên quán sát là vô ngã.
“Này các Tỳ-kheo-ni, ngoại nhập xứ của sắc có phải
là ngã, khác ngã, hay ở trong nhau không?”
Các Tỳ-kheo-ni đáp:
“Bạch Tôn giả Nan-đà, không.”
Hỏi tiếp:
“Ngoại nhập xứ của thanh, hương, vị, xúc, pháp, có
phải là ngã, khác ngã, hay ở trong nhau chăng?”
Các Tỳ-kheo-ni đáp:
“Bạch Tôn giả Nan-đà, không. Vì sao? Vì đối với sáu
ngoại nhập xứ này, chúng con đã từng quán sát như thật là vô ngã. Chúng
con thường hiểu ý này: Sáu ngoại nhập xứ như thật là vô ngã.”
Tôn giả Nan-đà khen ngợi các Tỳ-kheo-ni:
“Tốt lắm! Các cô đối với nghĩa này nên quán sát như
vầy: ‘Sáu ngoại nhập xứ là vô ngã. Nếu duyên mắt và sắc sanh ra nhãn thức,
vậy thì nhãn thức này có phải là ngã, khác ngã, hay ở trong nhau không?’”
Các Tỳ-kheo-ni đáp:
“Bạch Tôn giả Nan-đà, không.”
Hỏi tiếp:
“Đối với tai, mũi, lưỡi, thân, ý,… pháp làm duyên
sanh ra ý thức, vậy thì ý thức này có phải là ngã, là khác ngã, hay ở
trong nhau không?”
Các Tỳ-kheo-ni đáp:
“Bạch Tôn giả Nan-đà, không. Vì sao? Vì đối với sáu
thức thân này chúng con đã từng quán sát như thật là vô ngã. Chúng con
cũng thường hiểu ý này: Sáu thức thân như thật là vô ngã.”
Tôn giả Nan-đà bảo các Tỳ-kheo-ni:
“Lành thay! Lành thay! Đối với nghĩa này các cô nên
quán sát như vầy: ‘Sáu thức thân như thật là vô ngã; duyên mắt và sắc sanh
nhãn thức, ba sự hòa hợp sanh ra xúc, vậy thì xúc này có phải là ngã, khác
ngã, hay ở trong nhau không?’”
Các Tỳ-kheo-ni đáp:
“Bạch Tôn giả Nan-đà, không.”
Hỏi tiếp:
“Tai, mũi, lưỡi, thân, ý,… pháp làm duyên sanh ý
thức, ba sự hòa hợp sanh ra xúc, vậy thì xúc này có phải là ngã, khác ngã,
hay ở trong nhau không?”
Các Tỳ-kheo-ni đáp:
“Bạch Tôn giả Nan-đà, không. Vì sao? Vì đối với sáu
xúc này chúng con đã từng quán sát như thật là vô ngã. Chúng con cũng
thường hiểu ý như vầy: Sáu xúc như thật là vô ngã.”
Tôn giả Nan-đà bảo các Tỳ-kheo-ni:
“Lành thay! Đối với nghĩa này, các cô nên quán sát
như vầy: ‘Sáu xúc thân như thật là vô ngã. Duyên mắt và sắc sanh nhãn
thức, ba sự hòa hợp sanh ra xúc, xúc duyên thọ, vậy thì thọ này có phải là
ngã, khác ngã, hay ở trong nhau không?’”
Các Tỳ-kheo-ni đáp:
“Bạch Tôn giả Nan-đà, không.”
Hỏi tiếp:
“Tai, mũi, lưỡi, thân, ý,… pháp làm duyên sanh ra ý
thức, ba sự hòa hợp sanh ra xúc, xúc duyên thọ, vậy thì thọ này có phải là
ngã, khác ngã, hay ở trong nhau không?”
Các Tỳ-kheo-ni đáp:
“Bạch Tôn giả Nan-đà, không. Vì sao? Vì đối với sáu
thọ thân này chúng con đã từng quán sát như thật là vô ngã. Chúng con cũng
thường hiểu ý này: Sáu thọ thân như thật là vô ngã.”
Tôn giả Nan-đà lại bảo các Tỳ-kheo-ni:
“Lành thay! Đối với nghĩa này, các cô nên quán sát
như vầy: ‘Sáu thọ thân này như thật là vô ngã. Duyên mắt và sắc sanh ra
nhãn thức, ba sự hòa hợp sanh ra xúc, xúc duyên tưởng, vậy thì tưởng này
có phải là ngã, khác ngã, hay ở trong nhau không?’”
Các Tỳ-kheo-ni đáp:
“Bạch Tôn giả Nan-đà, không.”
Hỏi tiếp:
“Tai, mũi, lưỡi, thân, ý,... pháp làm duyên sanh ra
ý thức, ba sự hòa hợp sanh ra xúc, xúc duyên tưởng, vậy thì tưởng này có
phải là ngã, khác ngã, hay ở trong nhau không?”
Các Tỳ-kheo-ni đáp:
“Bạch Tôn giả Nan-đà, không. Vì sao? Vì đối với sáu
tưởng thân này, chúng con đã từng quán sát như thật là vô ngã. Chúng con
cũng thường hiểu ý này: Sáu tưởng thân như thật là vô ngã.”
Tôn giả Nan-đà bảo các Tỳ-kheo-ni:
“Lành thay! Tỳ-kheo-ni, đối với nghĩa này, các cô
nên quán sát như vầy: ‘Sáu tưởng thân này như thật là vô ngã. Duyên mắt và
sắc sanh ra nhãn thức, ba sự hòa hợp sanh ra xúc, xúc duyên tư, vậy thì tư
này có phải là ngã, khác ngã, hay ở trong nhau không?’”
Các Tỳ-kheo-ni đáp:
“Bạch Tôn giả Nan-đà, không.”
Hỏi tiếp:
“Tai, mũi, lưỡi, thân, ý,… pháp làm duyên sanh ra ý
thức, ba sự hòa hợp sanh ra xúc, xúc duyên tư, vậy thì tư này có phải là
ngã, khác ngã, hay ở trong nhau không?”
Các Tỳ-kheo-ni đáp:
“Bạch Tôn giả Nan-đà, không. Vì sao? Vì đối với sáu
tư thân này, chúng con đã từng quán sát như thật là vô ngã. Chúng con
thường hiểu ý này: Sáu tư thân này như thật là vô ngã.”
Tôn giả Nan-đà bảo các Tỳ-kheo-ni:
“Lành thay! Tỳ-kheo-ni, đối với nghĩa này, các cô
nên quán sát như vầy: ‘Sáu tư thân này như thật là vô ngã. Duyên mắt và
sắc sanh ra nhãn thức, ba sự hòa hợp sanh ra xúc, xúc duyên ái, vậy thì ái
này có phải là ngã, khác ngã, hay ở trong nhau không?’”
Các Tỳ-kheo-ni đáp:
“Bạch Tôn giả Nan-đà, không.”
Hỏi tiếp:
“Tai, mũi, lưỡi, thân, ý,… pháp làm duyên sanh ra ý
thức, ba sự hòa hợp sanh ra xúc, xúc duyên ái, vậy thì ái này có phải là
ngã, khác ngã, hay ở trong nhau không?”
Các Tỳ-kheo-ni đáp:
“Bạch Tôn giả Nan-đà, không. Vì sao? Vì đối với sáu
ái thân này, chúng con đã từng quán sát như thật là vô ngã. Chúng con
thường hiểu ý này: Sáu ái thân này như thật là vô ngã.”
Tôn giả Nan-đà bảo các Tỳ-kheo-ni:
“Đối với nghĩa này các cô nên quán sát như vầy:
‘Sáu ái thân này như thật là vô ngã.’
“Này các Tỳ-kheo-ni, ví như nhờ vào có dầu và nhờ
vào tim đèn nên đèn được cháy sáng. Dầu này là vô thường, tim đèn là vô
thường, lửa là vô thường, cây đèn cũng là vô thường. Nếu có người bảo rằng
không dầu, không tim, không lửa, không đèn mà có ánh sáng thường trụ mãi
mãi, không biến đổi, thì lời nói này có đúng không?”
Các Tỳ-kheo-ni đáp:
“Bạch Tôn giả Nan-đà, không.”
Tôn giả Nan-đà nói:
“Vì sao? Vì nhờ vào có dầu, tim, cây đèn, nên đèn
cháy sáng. Dầu, tim và cây đèn này đều là vô thường. Nếu không dầu, không
tim, không đèn thì ánh sáng của cây đèn cũng theo đó mà diệt mất, tịch
tĩnh, thanh lương, chân thật. Như vậy, này các cô, sáu nội nhập xứ này là
vô thường. Nếu có người bảo rằng ‘Hỷ lạc do nhân duyên sáu nội nhập xứ này
mà sanh; nó thường hằng, thường trụ, không biến đổi, an ổn’, thì lời nói
này có đúng không?”
Các Tỳ-kheo-ni đáp:
“Bạch Tôn giả Nan-đà, không. Vì sao? Vì chúng con
đã từng quán sát như thật rằng vì những pháp kia làm duyên sanh ra những
pháp này; nếu những pháp làm duyên kia diệt, thì các pháp được sanh ra này
cũng tùy theo đó mà diệt mất, tịch tĩnh, thanh lương, chân thật.”
Tôn giả Nan-đà bảo các Tỳ-kheo-ni:
“Lành thay! Đối với nghĩa này, các cô nên quán sát
như vầy: Do những pháp kia làm duyên sanh ra những pháp này; những pháp
làm duyên kia nếu diệt đi, thì các pháp được sanh ra này cũng tùy theo đó
mà diệt mất, tịch tĩnh, thanh lương, chân thật.”
“Này các Tỳ-kheo-ni, thí như cây đại thọ có gốc,
cành, nhánh, lá. Gốc chúng cũng là vô thường, nên cành, nhánh, lá cũng đều
là vô thường. Nếu có người bảo rằng không có cành, nhánh, lá của cây này,
mà chỉ có cái bóng của nó là thường trụ mãi mãi, không biến đổi, thì lời
nói này có đúng không?”
Các Tỳ-kheo-ni đáp:
“Bạch Tôn giả Nan-đà, không. Vì sao? Vì như gốc,
cành, nhánh, lá cây lớn này; gốc chúng cũng là vô thường, nên cành, nhánh,
lá cũng là vô thường. Không gốc, không cành, không nhánh, không lá, thì
cái bóng nương vào nơi cây đó, tất cả cũng đều không.”
Hỏi tiếp:
“Này các cô, duyên vào ngoại lục nhập xứ vô thường.
Nếu bảo rằng ‘hỷ lạc do nhân duyên sáu ngoại nhập xứ mà sanh là thường trụ
mãi mãi, không biến đổi và an ổn,’ thì lời nói này có đúng không?”
Các Tỳ-kheo-ni đáp:
“Bạch Tôn giả, không. Vì sao? Vì đối với nghĩa này
chúng con đã quán sát như thật, là do những pháp kia làm duyên sanh ra
những pháp này; nếu những pháp làm duyên kia diệt, thì các pháp được sanh
ra này cũng tùy theo đó mà diệt mất, vắng lặng, mát mẻ, chân thật.”
Tôn giả Nan-đà bảo các Tỳ-kheo-ni:
“Lành thay! Các Tỳ-kheo-ni, đối với nghĩa này nên
quán sát như thật, là do những pháp kia làm duyên sanh ra những pháp này;
nếu những pháp làm duyên kia diệt, thì các pháp được sanh ra này cũng tùy
theo đó mà diệt mất, vắng lặng, mát mẻ, chân thật.
“Các cô hãy nghe tôi nói thí dụ, người trí nhờ thí
dụ này mà hiểu rõ. Như người đồ tể mổ trâu một cách thiện nghệ, hay người
học trò của ông ta, tay cầm dao bén để lột da con trâu, bằng cách lòn lách
vào giữa da và thịt mà không phạm vào phần thịt bên trong, cũng không rách
phần da ở bên ngoài, kể cả viêïc mổ lột chân cẳng gân cốt con trâu, sau đó
dùng tấm da ấy phủ lên nó trở lại. Nếu có người bảo rằng: ‘Da thịt của con
trâu này hoàn toàn không bị cắt rời.’ Vậy, lời nói này có đúng không?”
Các Tỳ-kheo-ni đáp:
“Bạch Tôn giả Nan-đà, không. Vì sao? Vì người đồ tể
thiện nghệ này và học trò của ông ta tay cầm dao bén, lòn lách vào giữa da
và thịt, để lột da mà không chạm đến da thịt của nó, kể cả chân cẳng gân
xương, tất cả đều đứt hết, sau đó trùm lại con trâu ấy. Nhưng da thịt đã
bị cắt rời, không phải là không bị cắt rời.”
“Này các cô, tôi sẽ giải thích về ý nghĩa của thí
dụ này: Con trâu dụ cho sắc thô của thân người, như được nói chi tiết
trong kinh Giỏ rắn độc. Thịt là chỉ cho nội lục nhập xứ. Da ngoài chỉ cho
ngoại lục nhập xứ. Người đồ tể chỉ cho bậc hữu học thấy dấu[23].
Gân xương ở khoảng giữa da thịt chỉ cho sự câu hữu của hai món tham-hỷ.
Dao bén chỉ cho trí tuệ sắc bén. Đa văn Thánh đệ tử dùng dao bén trí tuệ
chặt đứt tất cả những kết sử, triền phược, tùy miên, phiền não, tùy phiền
não. Cho nên, các cô nên học như vậy. Đối với những pháp đáng yêu thích,
tâm không nên đắm trước, vì đểø đoạn trừ tham vậy. Đối với những pháp đáng
sân hận, cũng không nên sanh tâm sân hận, vì để đoạn trừ sân vậy. Đối với
những pháp đáng si, không nên sanh tâm si, vì để đoạn trừ si vậy. Đối với
năm thọ ấm phải quán sát sanh diệt. Đối với sáu xúc nhập xứ phải quán sát
về sự tập khởi và sự diệt tận. Đối với bốn Niệm xứ nên khéo buộc tâm. An
trú nơi bảy giác phần; khi tu bảy giác phần rồi, thì đối với dục lậu kia
tâm không duyên đắm, tâm giải thoát. Đối với hữu lậu, tâm không duyên đắm,
tâm giải thoát. Đối với vô minh lậu, tâm không duyên đắm, tâm được giải
thoát. Các cô nên học như vậy.”
Bấy giờ, Tôn giả Nan-đà, vì các Tỳ-kheo-ni thuyết
pháp làm cho hoan hỷ. Sau khi bằng nhiều cách thuyết pháp, khai mở, chỉ
dạy, soi sáng, làm cho hoan hỷ, từ chỗ ngồi đứng dậy ra về. Lúc ấy,
Tỳ-kheo-ni Ma-ha Ba-xà-ba-đề cùng đi với năm trăm Tỳ-kheo-ni quyến thuộc
lần lượt đến chỗ Phật, cúi đầu đảnh lễ Phật, lui đứng qua một bên, … cho
đến đảnh lễ Phật rồi trở về.
Bấy giờ Thế Tôn biết Tỳ-kheo-ni Ma-ha Ba-xà-ba-đề
đã ra về, Ngài mới bảo các Tỳ-kheo:
“Thí như trăng sáng đêm mười bốn, có nhiều người
ngắm trăng; trăng đã tròn hay chưa tròn? Nên biết vầng trăng ấy chưa tròn
lắm. Cũng vậy, thiện nam tử Nan-đà vì năm trăm Tỳ-kheo-ni chân chánh giáo
thọ, chân chánh thuyết, đối với sự giải thoát của họ, vẫn chưa phải là rốt
ráo. Nhưng những Tỳ-kheo-ni này khi mạng chung không một kết sử nào là
không đoạn, để có thể khiến cho họ sanh trở lại đời này.”
Bấy giờ, Đức Thế Tôn lại bảo Nan-đà:
“Hãy vì các Tỳ-kheo-ni mà nói pháp.”
Lúc ấy, Tôn giả Nan-đà im lặng vâng lời. Sáng hôm
sau, Tôn giả mang bát vào thành khất thực. Thọ trai xong, Tôn giả đi tới
vườn vua, rồi ngồi xuống chỗ ngồi vì các Tỳ-kheo-ni nói pháp, làm cho hoan
hỷ. Sau khi bằng nhiều cách thuyết pháp, khai mở, chỉ dạy, soi sáng, làm
cho hoan hỷ, rời khỏi chỗ ngồi, đứng dậy ra về.
Một hôm, Tỳ-kheo-ni Ma-ha Ba-xà-ba-đề, cùng năm
trăm Tỳ-kheo-ni trước sau lần lượt đến chỗ Phật, cúi đầu lễ dưới chân
Phật,… cho đến đảnh lễ ra về.
Bấy giờ, Đức Thế Tôn biết Tỳ-kheo-ni Ma-ha
Ba-xà-ba-đề đã đi rồi, bảo các Tỳ-kheo:
“Thí như trăng sáng đêm rằm, không còn ai nghi ngờ
về vầng trăng tròn hay không tròn, nhưng vầng trăng kia hoàn toàn tròn
đầy. Cũng vậy, thiện gia nam tử Nan-đà, đã vì các Tỳ-kheo-ni chân chánh
giáo thọ như vậy, cứu cánh giải thoát. Nếu lúc mạng chung, dù không có
người nào nói họ sẽ đi về đâu, nhưng họ cũng có thể tự biết đây là biên tế
của khổ.”
Bấy giờ, Thế Tôn thọ ký cho năm trăm Tỳ-kheo-ni
chứng quả thứ nhất[24].
Phật nói kinh này xong, các Tỳ-kheo nghe những gì
Đức Phật dạy, hoan hỷ phụng hành.
*
Tôi nghe như vầy:
Một thời, Phật ở tại vườn Cấp cô độc, rừng cây
Kỳ-đà, nước Xá-vệ. Bấy giờ, Thế Tôn nói với các Tỳ-kheo:
“Có bất luật nghi và luật nghi[26],
các Tỳ-kheo hãy lắng nghe và suy nghĩ kỹ, Ta sẽ vì các ông mà nói. Thế nào
là bất luật nghi? Nếu nhãn căn không được luật nghi thâu giữ[27],
thì nhãn thức bị đắm sắc. Vì bị đắm sắc nên sanh ra khổ thọ. Vì khổ thọ
nên không được nhất tâm[28].
Vì không nhất tâm nên không thấy biết như thật. Vì không thấy biết như
thật nên không lìa nghi hoặc. Vì không lìa nghi hoặc nên bị chúng làm mê
lầm chịu khổ mãi mãi. Tai, mũi, lưỡi, thân, ý lại cũng như vậy. Đó gọi là
bất luật nghi.
“Thế nào là luật nghi? Nếu nhãn căn được luật nghi
thâu giữ; khi nhãn thức nhận thức sắc, tâm không nhiễm trước[29].
Khi tâm đã không nhiễm trước thì thường trụ an vui. Vì tâm đã trụ trong an
vui nên thường được nhất tâm. Vì đã nhất tâm nên thấy biết như thật. Vì đã
thấy biết như thật nên lìa nghi hoặc. Vì đã lìa nghi hoặc nên không bị
chúng làm mê lầm và thường trụ trong an vui. Tai, mũi, lưỡi, thân, ý lại
cũng như vậy. Đó gọi là luật nghi.”
Phật nói kinh này xong, các Tỳ-kheo nghe những gì
Đức Phật dạy, hoan hỷ phụng hành.
Tôi nghe như vầy:
Một thời, Phật ở tại vườn Cấp cô độc, rừng cây
Kỳ-đà, nước Xá-vệ. Bấy giờ, Thế Tôn nói với các Tỳ-kheo:
“Có pháp thoái chuyển, không thoái chuyển và sáu
xúc nhập xứ.[31]
Các Tỳ-kheo hãy lắng nghe và suy nghĩ kỹ, Ta sẽ vì các ông mà nói.
“Thế nào là pháp thoái chuyển? Khi mắt biết sắc,
tri giác dục vọng phát sanh[32],
Tỳ-kheo đó vui mừng, khen ngợi, chấp lấy, dính mắc, thuận theo sự xoay
chuyển của pháp này, nên biết Tỳ-kheo này đã thoái chuyển các pháp lành[33].
Thế Tôn nói đó là pháp thoái chuyển. Đối với tai, mũi, lưỡi, thân, ý lại
cũng như vậy.
“Thế nào là pháp không thoái chuyển? Khi mắt biết
sắc mà kết buộc của tri giác dục vọng không sanh, Tỳ-kheo đó không vui
mừng, không khen ngợi, không chấp lấy, không dính mắc và đối với pháp này
không thuận theo sự xoay chuyển, nên biết Tỳ-kheo này không thoái chuyển
các pháp lành. Thế Tôn nói đó là pháp không thoái chuyển. Đối với tai,
mũi, lưỡi, thân, ý lại cũng như vậy.
“Thế nào là sáu thắng nhập xứ[34]?
Khi nhãn thức duyên sắc, mà không sanh tri giác dục vọng dẫn đến kết buộc
ô nhiễm, thì nên biết Tỳ-kheo này đã thắng được nhập xứ kia[35].
Thế Tôn nói đó là thắng được nhập xứ kia. Đối với tai, mũi, lưỡi, thân, ý
lại cũng như vậy.
“Nếu Tỳ-kheo nào, đối với sáu thắng nhập xứ đã
thắng được rồi, thì sẽ đoạn trừ được kết sử tham dục và sẽ đoạn trừ được
kết sử ngu si, sân hận. Giống như ông vua đánh thắng oán địch và được tôn
là ‘Ông vua chiến thắng’, người đã đoạn trừ các kết sử rồi được gọi là
‘Bà-la-môn chiến thắng.’”
Phật nói kinh này xong, các Tỳ-kheo nghe những gì
Đức Phật dạy, hoan hỷ phụng hành.
Tôi nghe như vầy:
Một thời, Phật ở tại vườn Cấp cô độc, rừng cây
Kỳ-đà, nước Xá-vệ. Bấy giờ, Thế Tôn nói với các Tỳ-kheo:
“Đối với sáu căn này[37]
mà không điều phục, không đóng kín, không thủ hộ, không chấp trì, không tu
tập, thì đời vị lai sẽ chịu quả báo khổ.
“Sáu căn là những gì? Nhãn căn không điều phục,
không đóng kín, không thủ hộ, không chấp trì, không tu tập, thì ở đời vị
lai sẽ chịu báo khổ. Đối với tai, mũi, lưỡi, thân, ý lại cũng như vậy.
“Phàm phu ngu si không học, khi mắt thấy sắc, chấp
thủ tướng chung, chấp thủ tướng riêng; bất kể nhãn căn hướng đến nơi nào,
đều an trụ với bất luật nghi được chấp thọ[38];
các ác pháp bất thiện tham ái của thế gian lọt vào tâm, những điều như thế
đều do không thể chấp trì luật nghi, phòng hộ nhãn. Đối với tai, mũi,
lưỡi, thân, ý lại cũng như vậy. Như thế đối với sáu căn, không điều phục,
không đóng kín, không giữ gìn, không chấp trì, không tu tập thì ở đời vị
lai sẽ chịu quả báo khổ.
“Thế nào là sáu căn khéo điều phục, khéo đóng kín,
khéo giữ gìn, khéo chấp trì, khéo tu tập thì ở đời vị lai sẽ được an vui?
Đa văn Thánh đệ tử khi mắt thấy sắc không chấp thủ tướng chung, không chấp
thủ tướng riêng; bất kể nhãn căn hướng đến nơi nào, vẫn thường an trú với
luật nghi. Những pháp ác, bất thiện tham ái ở thế gian không lọt vào tâm,
có thể sanh ra các luật nghi, khéo thủ hộ nhãn căn[39].
Đối với tai, mũi, lưỡi, thân, ý lại cũng như vậy. Đó gọi là sáu căn khéo
điều phục, khéo đóng kín, khéo giữ gìn, khéo chấp trì, khéo tu tập, thì ở
đời vị lai sẽ được an vui.
Đức Phật liền nói bài kệ:
Nơi sáu xúc nhập xứ,
Trú vào không luật nghi;
Những Tỳ-kheo như vậy,
Mãi mãi chịu khổ lớn.
Đối với các luật nghi,
Luôn tinh cần tu tập,
Chánh tín, tâm không hai,
Các lậu chẳng vào tâm.
Mắt thấy những sắc kia,
Vừa ý không vừa ý;
Vừa ý, không sanh muốn,
Không vừa ý, chẳng ghét.
Tai nghe những âm thanh,
Có niệm và không niệm;
Đối niệm, không ưa đắm,
Không niệm, không khởi ác.
Mũi ngửi đến các mùi,
Hoặc thơm, hoặc là hôi;
Đối thơm, hôi, bình đẳng,
Không muốn, cũng không trái.
Đối các vị để ăn,
Chúng cũng có ngon, dở;
Vị ngon không khởi tham,
Vị dở không kén chọn.
Thân xúc tạo vui sướng,
mà chẳng sanh buông lung;
Xúc chạm bị khổ đau,
Không sanh tưởng oán ghét.
Khổ vui đều buông hết,
Chưa diệt khiến cho diệt.
Phải quán sát tâm ý,
Các tướng, các tướng kia,
Giả dối mà phân biệt,
Dục tham càng rộng lớn.
Giác ngộ các ác kia,
An trú tâm lìa dục.
Khéo nhiếp sáu căn này,
Sáu cảnh xúc không động,
Dẹp sạch các ma oán,
Vượt qua bờ sống chết.
Phật nói kinh này xong, các Tỳ-kheo
nghe những gì Đức Phật dạy, hoan hỷ phụng hành.
Tôi nghe như vầy:
Một thời, Phật ở tại nước
Câu-tát-la du hành trong nhân gian đến ở trong rừng Thân-thứ[41],
phía bắc thành Tần-đầu[42].
Bấy giờ các Bà-la-môn, trưởng giả
trong thành Tần-đầu đều nghe Thế Tôn đang ở nước Câu-tát-la, du hành trong
nhân gian, đến ở trong rừng Thân-thứ, phía bắc thành Tần-đầu. Họ nghe vậy
rồi, tất cả đều ra khỏi thành, đến rừng Thân-thứ, chỗ Thế Tôn, cúi đầu
đảnh lễ dưới chân Phật, rồi ngồi lui qua một bên. Bấy giờ, Đức Phật nói
với các Bà-la-môn, trưởng giả thành Tần-đầu:
“Nếu có người hỏi các ông: ‘Những
hạng Sa-môn, Bà-la-môn nào không đáng cung kính, lễ bái, thừa sự, cúng
dường?’ thì các ông nên đáp là: ‘Nếu có Sa-môn, Bà-la-môn nào, mắt thấy
sắc mà chưa lìa được tham, chưa lìa được dục, chưa lìa ái, chưa lìa khao
khát, chưa lìa niệm, nội tâm không tịch tịnh, việc làm phi pháp, hành vi
thô tháo. Đối với tai, mũi, lưỡi, thân, ý, pháp lại cũng như vậy, thì
những hạng Tỳ-kheo như vậy không đáng cung kính, tôn trọng, lễ bái, thừa
sự, cúng dường.’ Nói như vậy xong, lại có người khác hỏi: ‘Vì sao những
Sa-môn này không đáng cung kính, tôn trọng, lễ bái, phụng sự, cúng dường?’
Các ông nên trả lời: ‘Chúng tôi mắt thấy sắc mà không lìa dục, không lìa
ái, không lìa khao khát, không lìa niệm, trong tâm không tịch tịnh và đối
với tai, mũi, lưỡi, thân, ý, pháp lại cũng như vậy. Những Sa-môn,
Bà-la-môn kia, khi mắt thấy sắc cũng không lìa tham, không lìa dục, không
lìa ái, không lìa khao khát, không lìa niệm, trong tâm họ không tịch tịnh,
hành động phi pháp, hành vi thô tháo và đối với tai, mũi, lưỡi, thân, ý,
pháp lại cũng như vậy. Chúng tôi tìm sự sai biệt ở đây, nhưng không thấy
họ khác biệt chúng tôi chỗ nào. Vì vậy, chúng tôi không cung kính, tôn
trọng, lễ bái, phụng sự cúng dường các hạng Sa-môm, Bà-la-môn như vậy.’
“Nếu có người hỏi: ‘Những Sa-môn,
Bà-la-môn nào đáng cung kính, tôn trọng, lễ bái, phụng sự, cúng dường?’
Các ông nên trả lời: ‘Nếu những vị ấy mắt thấy sắc mà lìa dục, lìa tham,
lìa ái, lìa khao khát, lìa niệm, trong tâm tịch tịnh, không hành động phi
pháp, làm những hạnh bình đẳng, việc làm không lôi thôi và đối với tai,
mũi, lưỡi, thân, ý, pháp lại cũng như vậy, thì những hạng Sa-môn,
Bà-la-môn như vậy đáng được cung kính, tôn trọng, lễ bái, phụng sự, cúng
dường.’
“Nếu lại hỏi: ‘Vì sao những Sa-môn,
Bà-la-môn này được cung kính, tôn trọng, lễ bái, phụng sự, cúng dường?’
Các ông nên trả lời: ‘Chúng tôi mắt thấy sắc mà không lìa tham, không lìa
dục, không lìa ái, không lìa khao khát, không lìa niệm, trong tâm không
tịch tịnh, hành động phi pháp, hành vi thô tháo và đối với tai, mũi, lưỡi,
thân, ý, pháp lại cũng như vậy. Những vị Sa-môn, Bà-la-môn này lìa tham,
lìa dục, lìa ái, lìa khao khát, lìa niệm, nội tâm tịch tịnh, hành động
đúng pháp, hành động không thô tháo; và đối với tai, mũi, lưỡi, thân, ý,
pháp lại cũng như vậy. Ở đây, chúng tôi tìm sự khác biệt và thấy và những
vị ấy có chỗ khác chúng tôi. Vì thấy có sự sai biệt, nên chúng tôi cung
kính, tôn trọng, lễ bái, phụng sự cúng dường các Sa-môn, Bà-la-môn ấy.’
“Đã trả lời như vậy, nếu có người
lại hỏi: ‘Những Sa-môn, Bà-la-môn này có hành vi gì, có hình mạo thế nào
và có dấu hiệu nào để khiến cho các ông biết những Sa-môn, Bà-la-môn này
lìa tham, hướng đến điều phục tham; lìa sân, hướng đến điều phục lìa sân;
lìa si, hướng đến điều phục lìa si?’ Các ông nên trả lời rằng: ‘Chúng tôi
thấy Sa-môn, Bà-la-môn này có những biểu hiện như thế này: Ở trong rừng
vắng, dưới bóng cây, giường thấp, hoặc nơi nệm cỏ, tu hạnh viễn ly, xa lìa
người nữ, ưa gần người độc cư để cùng thiền định tư duy; nếu ở những chỗ
đó mà không có sắc được thấy bởi mắt có thể sanh tâm tham đắm; và không có
tiếng được nghe bởi tai có thể sanh tâm tham đắm; mũi ngửi mùi, lưỡi nếm
vị, thân xúc chạm, có thể sanh tâm tham đắm. Những Sa-môn, Bà-la-môn này
có hành vi như vậy, có hình mạo như vậy và có dấu hiệu như vậy để khiến
cho các chúng tôi biết những Sa-môn, Bà-la-môn này lìa tham, hướng đến
điều phục tham; lìa sân, hướng đến điều phục lìa sân; lìa si, hướng đến
điều phục lìa si.”
Khi ấy, các Sa-môn và gia chủ
Bà-la-môn, bạch Phật:
“Kỳ diệu thay, Thế Tôn! Không tự
khen mình, không chê người, mà chỉ nói ý nghĩa. Mỗi người nơi các nhập xứ
tự mình phân biệt nhiễm ô hay thanh tịnh, nói rộng duyên khởi đúng lời nói
của Như Lai, Ứng Cúng, Chánh Đẳng Chánh Giác. Giống như người cứu được kẻ
chết chìm, như mở chỗ bít kín, như chỉ lối cho kẻ lầm đường, như thắp đèn
nơi tối. Cũng vậy, Thế Tôn không khen mình, chê người, mà chỉ nói ý nghĩa…
cho đến, như lời Như Lai nói.”
Các gia chủ Bà-la-môn ở thành
Tần-đầu, sau khi nghe những gì Đức Phật đã nói, vui vẻ, làm lễ ra về.
Tôi nghe như vầy:
Một thời, Phật ở tại vườn Trúc, khu
Ca-lan-đà nơi thành Vương xá.
Bấy giờ có Mục-kiền-liên búi tóc[44]
xuất gia, đi đến chỗ Phật, cùng nhau hỏi thăm xong, ngồi qua một bên. Bấy
giờ, Đức Thế Tôn nói với Mục-kiền-liên búi tóc:
“Ông từ đâu đến?”
Mục-liên liền bạch Phật:
“Tôi theo chúng ngoại đạo, Sa-môn,
Bà-la-môn Giá-la-ca[45]
xuất gia, vừa hội họp ở giảng đường Vị tằng[46]
để nghe pháp và từ rừng đó đến đây.”
Phật bảo Mục-kiền-liên tóc búi:
“Ông vì những phước lực[47]
gì mà nghe thuyết pháp từ các chúng Sa-môn, Bà-la-môn
ngoại đạo Giá-la-ca xuất gia kia?”
Mục-kiền-liên tóc búi bạch:
“Tôi thử nghe phước lợi mà họ luận
nghị tranh hơn nhau, nghe phước lợi mà họ phản bác luận nghị nhau.”
Phật bảo Mục-kiền-liên:
“Từ xưa tới nay, các Sa-môn,
Bà-la-môn ngoại đạo Giá-la-ca xuất gia, luận nghị tranh hơn nhau, phản bác
luận nghị nhau về phước lợi, phá hoại lẫn nhau.”
Mục-kiền-liên tóc búi bạch Phật:
“Cù-đàm vì phước lợi mà nói những
pháp gì cho các đệ tử, để cho các đệ tử nói lại cho người khác nghe mà
không phỉ báng Như Lai, không thêm, không bớt; nói chân thật, nói đúng
pháp, nói đúng theo thuận thứ của pháp, để không một người nào có thể đến
so sánh, nạn vấn, chỉ trích?”
Phật bảo Mục-kiền-liên:
“Vì phước lợi quả báo của minh,
giải thoát, mà nói lại cho người nghe, thì không phỉ báng Như Lai, không
trái đạo lý, nói đúng pháp, đúng thuận thứ của pháp, không ai có thể đến
so sánh, nạn vấn, chỉ trích.”
Mục-kiền-liên tóc búi bạch Phật:
“Bạch Cù-đàm, có pháp nào mà các đệ
tử tu tập, thường xuyên tu tập, thì sẽ khiến thành tựu viên mãn phước lợi,
minh[48],
giải thoát chăng?”
Phật bảo Mục-kiền-liên tóc búi:
“Có bảy giác phần, tu tập và thường
xuyên tu tập, thì sẽ khiến thành tựu viên mãn phước lợi, minh, giải
thoát.”
Mục-kiền-liên tóc búi bạch Phật:
“Có pháp nào mà tu tập, tu tập
nhiều, thì sẽ khiến cho bảy giác phần đầy đủ chăng?”
Phật bảo:
“Có bốn Niệm xứ, tu tập, tu tập
nhiều, sẽ khiến bảy giác phần được đầy đủ.”
Mục-kiền-liên tóc búi lại bạch
Phật:
“Lại có pháp nào mà tu tập, tu tập
nhiều, thì sẽ khiến cho bốn Niệm xứ đầy đủ chăng?”
Phật bảo Mục-kiền-liên tóc búi:
“Có ba diệu hành, tu tập, tu tập
nhiều, thì sẽ khiến cho bốn Niệm xứ đầy đủ.”
Mục-kiền-liên bạch Phật:
“Lại có pháp nào mà tu tập, tu tập,
thì sẽ khiến cho ba diệu hạnh đầy đủ chăng?”
Phật bảo Mục-kiền-liên:
“Có luật nghi của sáu xúc nhập xứ[49],
tu tập, tu tập nhiều, thì sẽ khiến ba diệu hạnh đầy đủ.”
Mục-kiền-liên tóc búi bạch Phật:
“Thế nào là luật nghi của sáu xúc
nhập xứ mà tu tập, tu tập nhiều, thì sẽ khiến cho ba diệu hạnh đầy đủ?”
Phật bảo Mục-kiền-liên tóc búi:
“Nếu sắc được nhận thức bởi mắt,
vừa ý, đáng ưa, đáng nhớ, có khả năng nuôi lớn dục lạc, khiến cho người hệ
lụy; Tỳ-kheo kia, khi thấy sắc này, không hoan hỷ, không tán thán, không
duyên theo, không đắm trước, không trụ vào. Hoặc sắc được nhận thức bởi
mắt, không vừa ý, không đáng ưa, không đáng nhớ, đưa đến cảm giác khổ; các
Tỳ-kheo này khi thấy, không sợ, không ghét, không hiềm, không tức tối. Đối
với sắc đẹp kia, khi mắt đã thấy, hoàn toàn không duyên đắm. Đối với sắc
không đẹp, khi mắt đã thấy, hoàn toàn không duyên đắm, nội tâm an trụ bất
động, khéo tu giải thoát, tâm không lười mỏi. Đối với tai, mũi, lưỡi,
thân, ý, thức pháp lại cũng như vậy. Như vậy, đối với sáu xúc nhập mà tu
tập, tu tập nhiều, thì đầy đủ ba diệu hành.
“Thế nào là tu ba diệu hành khiến
đầy đủ bốn Niệm xứ? Đa văn Thánh đệ tử ở chỗ vắng vẻ trong rừng, dưới bóng
cây, tu học như vầy, tư duy như vầy: ‘Ác hành của thân này, đời này và đời
sau phải chịu báo ác. Nếu ta hành động với ác hành của thân, chắc phải tự
sanh chán nản, hối hận, bị người khác chê trách, Đại Sư cũng chê trách,
những người phạm hạnh[50]
cũng đúng pháp mà chê trách ta; tiếng ác đồn khắp mọi nơi,
thân hoại mạng chung thì sẽ rơi vào địa ngục.’ Đối với ác hành của thân,
thấy quả báo đời này, đời sau như vậy, cho nên phải dứt trừ ác hành của
thân, phải tu thân diệu hành. Đối với ác hành của miệng, ý lại cũng như
vậy. Đó gọi là đã tu tập ba diệu hành. Được bốn Niệm xứ thanh tịnh đầy đủ.
“Thế nào là tu tập bốn Niệm xứ để
được bảy giác phần đầy đủ? Này Mục-kiền-liên, như vậy, an trụ với quán
thân trên toàn thân. Khi an trụ với quán thân trên toàn thân, nhiếp niệm
an trú không xao lãng; bấy giờ, phương tiện[51]
tu tập niệm giác phần. Khi đã phương tiện tu tập niệm giác
phần rồi, được niệm giác phần đầy đủ, ở nơi tâm niệm kia mà chọn lựa pháp,
rồi suy tầm, suy tưởng, tư lường; bấy giờ, phương tiện tu tập trạch pháp
giác phần. Khi phương tiện tu tập trạch pháp giác phần rồi, được trạch
pháp giác phần đầy đủ, chọn lựa pháp này, suy tầm, suy tưởng, tư lường,
phương tiện tu tập tinh tấn giác phần. Khi đã phương tiện tu tập tinh tấn
giác phần rồi, được tinh tấn giác phần đầy đủ, nhờ siêng năng tinh tấn nên
sanh tâm hoan hỷ; bây giờ, phương tiện tu tập hoan hỷ giác phần. Khi
phương tiện tu tập hoan hỷ giác phần rồi, được hoan hỷ giác phần đầy đủ;
do tâm hoan hỷ, thân tâm tịch tĩnh; bây giờ, tu tập ỷ tức[52]
giác phần. Khi đã tu tập ỷ tức giác phần rồi, được ỷ giác
phần đầy đủ, thân tâm tịch tĩnh, được tam-ma-đề[53];
bây giờ, tu tập định giác phần. Khi đã tu tập định giác phần rồi, được
định giác phần đầy đủ. Tức là tâm chuyên nhất, tham ưu đình chỉ, nội tâm
hành xả[54];
phương tiện tu tập xả giác phần. Khi đã phương tiện tu tập xả giác phần,
được xả giác phần thanh tịnh đầy đủ. Đối với thọ, tâm, pháp niệm xứ cũng
nói như vậy. Tu tập bốn Niệm xứ như vậy, bảy giác phần được đầy đủ.
“Thế nào là tu tập bảy giác phần để
đầy đủ minh, giải thoát? Này Mục-kiền-liên, nếu Tỳ-kheo tu tập niệm giác
phần, y viễn ly[55],
y ly dục, y diệt tận, hướng đến xả[56],
tiến đến tu niệm giác phần, chứng đắc minh, giải thoát, thanh tịnh viên
mãn. (Chi tiết, cho đến) tu tập xả giác phần cũng nói như vậy. Đó
gọi là tu tập bảy giác phần, chứng đắc minh, giải thoát, thanh tịnh viên
mãn. Như vậy, Mục-kiền-liên, pháp pháp nương nhau từ bờ này mà đến bờ
kia.”
Sau khi nghe Phật thuyết pháp xong,
Mục-kiền-liên tóc búi xa lìa trần cấu, được mắt pháp thanh tịnh.
Lúc này, Mục-kiền-liên thấy pháp,
đắc pháp, biết pháp, nhập pháp, hết những nghi ngờ mê hoặc, không do ai
khác mang đến. Ở trong Chánh pháp luật, tâm đạt được sự không sợ hãi, từ
chỗ ngồi đứng dậy, sửa lại y phục, đảnh lễ Phật, chắp tay bạch rằng:
“Nay con có được xuất gia, thọ cụ
túc ở trong Chánh pháp luật không?”
Phật bảo Mục-kiền-liên:
“Nay ông đã được[57]
xuất gia, được thọ Cụ túc giới trong Chánh pháp luật.”
Sau khi được xuất gia rồi,
Mục-kiền-liên chuyên cần tư duy, không buông lung, cho đến thành A-la-hán.
Tôi nghe như vầy:
Một thời, Phật ở tại Ca-vi-già-la
Mâu-chân-lân-đà[59].
Bấy giờ có một niên thiếu tên là
Uất-đa-la[60],
là đệ tử của Ba-la-xa-na[61],
đi đến chỗ Phật, cung kính hỏi thăm, rồi lui ngồi một bên.
Bấy giờ, Đức Thế Tôn hỏi Uất-đa-la:
“Thầy con là Ba-la-xà-na có dạy cho
các con tu tập các căn không?”
Uất-đa-la trả lời:
“Bạch Cù-đàm, đã có dạy.”
Đức Phật bảo Uất-đa-la:
“Thầy con dạy tu về các căn như thế nào?”
Uất-đa-la bạch Phật:
“Thầy con nói, mắt không nhìn thấy sắc, tai không
nghe tiếng[62];
đó là tu về căn.
Phật bảo Uất-đa-la:
“Nếu như lời thầy con nói thì những người mù tu căn
chăng? Vì sao? Vì chỉ có người mù mới không thấy sắc bằng mắt.”
Bấy giờ, Tôn giả A-nan đang đứng phía sau cầm quạt
hầu Phật. Tôn giả nói với Uất-đa-la:
“Như lời của Ba-la-xà-na nói, thì người điếc tu căn
chăng? Vì sao? Vì chỉ có người điếc tai mới không nghe tiếng.”
Bấy giờ, Đức Thế Tôn nói với Tôn giả A-nan:
“Khác sự tu căn vô thượng[63]
trong pháp luật của Hiền thánh.”
Tôn giả A-nan bạch Phật:
“Xin Đức Thế Tôn vì các Tỳ-kheo nói về sự tu căn vô
thượng trong pháp luật của Hiền thánh, để cho các Tỳ-kheo nghe xong sẽ
vâng lời thực hành theo.”
Phật bảo A-nan:
“Hãy lắng nghe và suy nghĩ kỹ, Ta sẽ vì các ông mà
nói.
“Duyên mắt và sắc, nhãn thức sanh, thấy sắc vừa ý,
muốn tu sự nhàm tởm của Như Lai với chánh niệm chánh trí. Do duyên mắt và
sắc, nhãn thức sanh, không vừa ý, muốn tu sự không nhàm tởm của Như Lai
với chánh niệm chánh trí. Do duyên mắt và sắc, nhãn thức sanh, vừa ý không
vừa ý, muốn tu sự nhàm tởm không nhàm tởm của Như Lai với chánh niệm chánh
trí. Do duyên mắt và sắc, nhãn thức sanh, không vừa ý vừa ý, muốn tu sự
không nhàm tởm của Như Lai với chánh niệm chánh trí. Do duyên mắt và sắc,
nhãn thức sanh, vừa ý không vừa ý, vừa không vừa ý, muốn tu lìa bỏ cả hai,
sự nhàm tởm và không nhàm tởm của Như Lai, an trụ xả tâm, với chánh niệm
chánh trí.[64]
“Như vậy, A-nan, nếu có người nào đối với năm
trường hợp[65]
này, tâm khéo điều phục, khéo đóng kín, khéo thủ hộ, khéo nhiếp trì, khéo
tu tập, thì đó là ở nơi mắt và sắc mà tu tập căn vô thượng. Đối với tai,
mũi, lưỡi, thân, ý… pháp cũng lại như vậy.
“Này A-nan, đó gọi là tu căn vô thượng trong pháp
luật của Hiền thánh.”
Tôn giả A-nan bạch Phật:
“Bạch Thế Tôn, thế nào là sự tu căn của Hiền thánh
trong pháp luật của Hiền thánh?”
Phật bảo A-nan:
“Duyên và sắc, nhãn thức sanh; cái đã sanh vừa ý,
cái đã sanh không vừa ý, cái đã sanh vừa ý không vừa ý. Thánh đệ tử kia
cũng phải biết như thật như vầy: ‘Ta, duyên mắt và sắc, nhãn thức sanh;
cái đã sanh vừa ý, cái đã sanh không vừa ý, cái đã sanh vừa ý không vừa ý.
Đây là tịch diệt, đấy là thắng diệu, tức là xả. Khi đã xả, lìa bỏ cả nhàm
tởm và không nhàm tởm[66].
Giống như người lực sĩ trong khoảnh khắc khảy móng tay; cũng vậy, duyên
mắt và sắc, nhãn thức sanh; sanh vừa ý, sanh không vừa ý, sanh vừa ý không
vừa ý, trong chốc lát như vậy đều diệt hết, đạt đến chỗ lìa bỏ nhàm tởm và
không nhàm tởm, an trụ xả.’
“Cũng vậy duyên tai và tiếng, sanh nhĩ thức; cái đã
sanh vừa ý, cái đã sanh không vừa ý, cái đã sanh vừa ý không vừa ý. Thánh
đệ tử biết như thật như vầy: ‘Ta, nhĩ thức nghe tiếng, cái đã sanh vừa ý,
cái đã sanh không vừa ý, cái đã sanh vừa ý không vừa ý. Đấy là tịch diệt,
đây là thắng diệu, tức là xả. Khi đã xả, lìa bỏ cả nhàm tởm và không nhàm
tởm. Giống như người lực sĩ trong khoảnh khắc khảy móng tay ra tiếng liền
mất; cũng vậy, duyên tai và tiếng, sanh nhĩ thức, sanh vừa ý, sanh không
vừa ý, sanh vừa ý không vừa ý; sanh rồi đều diệt tận, đó là xả. Đạt được
xả rồi, lìa nhàm tởm, không nhàm tởm.’
“Duyên mũi và mùi, sanh tỷ thức, cái đã sanh vừa ý,
cái đã sanh không vừa ý, cái đã sanh vừa ý không vừa ý. Thánh đệ tử biết
như thật như vầy: ‘Ta, duyên mũi và mùi, sanh tỷ thức, cái đã sanh vừa ý,
cái đã sanh không vừa ý, cái đã sanh vừa ý không vừa ý. Đây là tịch diệt,
đây là thắng diệu, tức là xả. Khi đã xả, lìa bỏ cả nhàm tởm và không nhàm
tởm. Thí như hoa sen ở dưới nước không nhiễm bùn; cũng vậy, duyên mũi và
mùi, sanh tỷ thức, sanh vừa ý, sanh không vừa ý, sanh vừa ý không vừa ý;
sanh rồi đều diệt hết. Có nghĩa là xả. Khi xả rồi, lìa nhàm tởm, không
nhàm tởm.’
“Duyên lưỡi và vị, sanh thiệt thức, cái đã sanh vừa
ý, cái đã sanh không vừa ý, cái đã sanh vừa ý không vừa ý. Thánh đệ tử kia
biết như thật như vầy: ‘Ta, duyên lưỡi và vị, sanh thiệt thức, sanh vừa ý,
sanh không vừa ý, sanh vừa ý không vừa ý, sanh rồi đều diệt tận, tịch
diệt, thắng diệu. Có nghĩa là xả. Khi xả rồi, lìa nhàm tởm, không nhàm
tởm. Như người lực sĩ nhổ hết vị ra không còn gì nữa; cũng vậy, duyên lưỡi
và vị, sanh thiệt thức, sanh vừa ý, sanh không vừa ý, sanh vừa ý không vừa
ý; sanh rồi đều diệt tận. Nghĩa là xả. Khi xả rồi, xa lìa nhàm tởm, không
nhàm tởm.’
“Duyên thân và thức, sanh thân thức, sanh vừa ý,
sanh không vừa ý, sanh vừa ý không vừa ý, sanh rồi đều diệt tận. Đa văn
Thánh đệ tử biết như thật như vầy: ‘Ta, duyên thân và xúc sanh thân thức,
sanh vừa ý, sanh không vừa ý, sanh vừa ý không vừa ý, sanh rồi đều diệt
tận, tịch diệt, thắng diệu. Nghĩa là xả. Khi xả rồi, lìa nhàm tởm, không
nhàm tởm. Thí như viên sắt đốt thật nóng, rưới vào một giọt nước, giọt
nước liền tiêu mất; cũng vậy, duyên thân và xúc sanh thân thức, sanh vừa
ý, sanh không vừa ý, sanh vừa ý không vừa ý, sanh rồi đều diệt tận. Nghĩa
là xả. Khi xả rồi, lìa nhàm tởm, không nhàm tởm.’
“Duyên ý và pháp sanh ý thức, sanh vừa ý, sanh
không vừa ý, sanh vừa ý không vừa ý; sanh rồi đều diệt tận. Đa văn Thánh
đệ tử biết như thật như vầy: ‘Ta, duyên ý và pháp sanh ý thức, sanh vừa ý,
sanh không vừa ý, sanh vừa ý không vừa ý, sanh rồi đều diệt tận, đó là
tịch diệt, thắng diệu. Nghĩa là xả. Khi xả rồi, lìa nhàm tởm, không nhàm
tởm. Thí như người lực sĩ chặt ngọn cây ta-la, cũng vậy, duyên ý và pháp
sanh ý thức, sanh vừa ý, sanh không vừa ý, sanh vừa ý không vừa ý, sanh
rồi đều diệt tận. Nghĩa là xả. Khi xả rồi, lìa nhàm tởm, không nhàm tởm.’
“Này A-nan, đó là sự tu căn của Hiền thánh trong
pháp luật của Hiền thánh.
“Thế nào là vị hữu học thấy đạo[67]
trong pháp luật Hiền thánh?”
Phật bảo A-nan:
“Duyên mắt và sắc sanh nhãn thức, sanh vừa ý, sanh
không vừa ý, sanh vừa ý không vừa ý, đa văn Thánh đệ tử kia hổ thẹn, ghét
tởm. Đối với tai, mũi, lưỡi, thân, ý và pháp làm duyên nhau sanh ra ý
thức, sanh vừa ý, sanh không vừa ý, sanh vừa ý không vừa ý, đa văn Thánh
đệ tử kia hổ thẹn, ghét tởm. Này A-nan, đó gọi là hữu học thấy đạo trong
pháp luật Hiền thánh.
“Này A-nan, đó gọi là sự tu căn của Hiền thánh
trong pháp luật của Hiền thánh.
“Ta đã nói về sự tu căn của Hiền thánh trong pháp
luật của Hiền thánh; đã nói hữu học thấy đạo trong pháp luật Hiền thánh.
“Này A-nan, Ta vì các Thanh văn đã làm việc cần
làm. Các ông cũng hãy làm những việc cần làm. Nói chi tiết như kinh Giỏ
rắn độc.
Phật nói kinh này xong, các Tỳ-kheo nghe những gì
Đức Phật đã dạy, hoan hỷ phụng hành.
*
[1].
Ví dụ về tiếng và bàn tay. Đại Chánh
quyển 11, kinh 273. Pāli, S. 35. 92-93. Dvayaṃ.
[3].
Hán: ngữ số
語數,
Pāli:
vācāvatthuka.
[4].
Hán: Nhục hình
肉形,
chỉ khối thịt.
[5].
Chỉ thuộc địa đại, thể rắn.
[6].
Thọ
受,
tức chấp thọ đại chủng, chỉ loại vật chất hữu cơ. Xem Câu-xá 1 (Đại
29, 2c13).
[7].
Pāli, S. 22. 33. Natumhākaṃ; 35. 101-102.
Natumhākaṃ; 35. 137-138. Palāsinā.
[8].
Pāli, A. 8. 9. Nanda; 9. 4. Nandaka.
[9].
Hán: Tùy hình hảo
隨形好.
Pāli:
anuvyañjana,
dấu hiệu riêng biệt hay đặc biệt.
[10].
Nguyên Hán: Tăng bất luật nghi
增不律儀,
Xem kinh 277. Pāli:
asaṃvuttaṃ
(asaṃvara).
[11].
Nguyên Hán: Sanh chư luật nghi
生諸律儀.
Pāli:
tassa saṃvarāya
paṭipajjati.
[12].
Hán: Phòng hộ ư nhãn... căn, sanh chư
luật nghi
防護於眼耳鼻舌身意根生諸律儀.
Pāli: rakkhati
cakkhundriyaṃ, cakkhundriye saṃvara āpajjati:
Thủ hộ nhãn căn, vị ấy thực hành sự phòng hộ nơi nhãn căn.
[13].
Đoạn này nói về sự phòng hộ căn môn hay
căn luật nghi của Tỳ-kheo (indriya-saưvara),
nhưng bản Hán rất tối khó dịch sát được.
[14].
Hán: Ư thực hệ số
於食繫數,
ý nói, biết ước lượng việc ăn. Pāli:
pṭisaṅkhā yoniso āhāraṃ
āhārati,
(Nan-đà) ăn thức ăn với sự tư duy (ước lượng) chính xác. Pāli:
paṭisaṅkhā:
tư trạch hay tư khảo, bản Hán hiểu là con số (do
saṅkhā:
con số).
[15].
Hán: Thành kỳ sùng thượng cố,
成其崇向故.
Có lẽ Pāli: yātrā
ca me bhavissati anavajjatā
và ở đây ta sẽ không có lỗi lầm (sẽ không trở thành hèn kém).
[16].
Hán: Vô văn độc trú
無聞獨住.
Bản Cao-ly chép vô văn, Tống-Nguyên-Minh chép
vô vấn
無問.
[17].
Pāli:
āvaraṇīyehi dhammehi cittaṃ parisodheti,
tẩy sạch tâm khỏi những pháp che lấp.
[18].
Thắng niệm chánh tri
勝念正知.
Pāli:
satisampajañña,
chánh niệm tỉnh giác.
[19].
Giác
覺.
Pāli:
vitakka,
tầm, suy tầm.
[20].
Pāli, M.146. Nandakovāda-sutta.
[21].
Ma-ha Ba-xà-ba-đề
摩訶波闍波提. Pāli:
Mahā-pajapatī.
[22].
Thị, giáo, chiếu, hỷ,
示教照喜.
Xem cht.33 kinh 107.
[23].
Hán: học kiến tích,
學見跡.
Xem cht. 38, kinh 109.
[25].
Pāli, S. 35. 97. Pamādavihārī.
[26].
Luật nghi, bất luật nghi
律儀,
不律儀.
Pāli:
saṃvara, asaṃvara,
phòng hộ và không phòng hộ.
[27].
Pāli:
cakkhundriyaṃ
asaṃvuttaṃ, nhãn
căn không được nhiếp hộ (phòng hộ).
[28].
Pāli:
dukkhino cittaṃ na
samādhiyati, vì
khổ nên tâm không được tập trung (không thể nhập định).
[29].
Pāli:
cakkhundriyaṃ
saṃvuttassa, bhikkhave, viharato cittaṃ na vyāsiñcati cakkhuviññeyyesu
rūpesu, an trú với
sự nhiếp hộ nhãn căn, tâm không bị đọa lạc (mhiễm ô) trong các sắc
được nhận thức bởi mắt.
[30].
Pāli, S. 35. 96. Parihānaṃ.
[31].
Thoái, bất thoái, lục xúc nhập xứ
退,不退法,六觸入處.
Đoạn dưới, nói là thắng nhập xứ. Pāli:
parihānadhammañca
vo, bhikkhave, dessāmi aparihānadhammañca cha ca abhibhāyatanāni,
Ta sẽ nói pháp thoái chuyển, pháp không thoái chuyển và sáu thắng xứ.
[32].
Dục giác
欲覺.
Pāli:
cakkhunā rūpaṃ disvā uppajjanti pāpakā akusalā
sarasaṅkappā saṃyojaniyā,
khi nhận thức sắc bởi mắt, các hoài niệm và ước vọng bất thiện, dẫn
đến hệ lụy sanh khởi.
[33].
Pāli:
parihayāmi kusalehi
dhammehi, ta đã
thụt lùi khỏi các pháp lành.
[35].
Thắng bỉ nhập xứ
勝彼入處 môi trường (xứ)
này đã bị chiến thắng (chinh phục).
[36].
Pāli, S. 35. 94. Saṅgayha.
[37].
Pāli:
chayime bhikkhave phassāyatanā adantā aguttā arakkhitā
asaṃvuttā, sáu xúc
xứ này không được chế ngự, không được canh gác, không được phòng vệ,
không được nhiếp hộ.
[38].
Bất luật nghi chấp thọ trú
不律儀執受住.
Quốc Dịch đưa từ trú xuống câu dưới. Đây theo văn Pāli đưa lên
câu trên. Pāli:
cakkhundriyaṃ asaṃvuttaṃ viharantaṃ,
sống với nhãn căn không được phòng hộ (bất luật nghi).
[39].
Đoạn văn Hán này có nhiều chỗ tối nghĩa,
cần tham chiếu thêm Pāli
(D. ii. Sāmaññaphala-sutta):
yatvādhikaraṇanaṃ eṇaṃ cakkhundriyaṃ asaṃvuttaṃ
viharantaṃ abhijjhā-domanassā pāpakā akusalā dhammā anvāssaveyyuṃ,
tassa saṃvarāya paṭipajjati,
do nguyên nhân nào mà nhân căn không được an trụ phòng ngự (Hán:
bất luật nghi) để cho tham và ưu, các pháp ác bất thiện tuôn chảy
vào, vị ấy tu tập để phòng ngự nguyên nhân ấy.
[40].
Pāli, M. 150. Nagaravindeyya-sutta.
[41].
Thân-thứ lâm
申恕林;
rừng cây siṃsapa. Bản Pāli:
nagaravindaṃ nāma kosalānaṃ
brāmhmaṇānaṃ gāmo tad avasi,
tạm trú tại một làng Nagaravinda, một ngôi làng Bà-la-môn của người
Kosala.
[42].
Tần-đầu thành
頻頭城.
Pāli:
Nagaravinda.
[43].
Đạo sĩ búi tóc. Pāli:
Sikha-Moggallāna.
[44].
Hán: Oanh phát Mục-kiền-liên
縈髪目犍蓮.
Pāli:
Sikha-Moggallāna.
[45].
Giá-la-ca
遮羅迦.
Pāli:
caraka,
chỉ du sĩ lang thang.
[46].
Vị tằng giảng đường,
未曾講堂. Xem kinh 975 ở
sau.
[47].
Tức hỏi “Vì mục đích gì”.
[48].
Minh
明,
chỉ ba minh. Giải thoát
解
脫
, chỉ tâm giải thoát và tuệ giải thoát.
[49].
Tức phòng hộ sáu căn môn.
[50].
Chỉ đồng phạm hạnh, tức bạn đồng tu.
[51].
Phương tiện, ở đây hiểu là tinh cần nỗ
lực.
[52].
Ỷ tức giác phần
猗息覺分
, cũng nói là khinh an giác chi.
[53].
Tức được định tĩnh.
[54].
Hành xả
行捨
, tức xả đối với các hành; chỉ trạng thái quân bình (xả) đối với mọi
hiện tượng sanh diệt của các hành.
[55].
Sống xa lánh, ẩn mình nơi thanh vắng.
[56].
Nỗ lực xả bỏ trạng thái thấp để đạt trang
thái cao hơn. Hán: y diệt xả
依滅捨,
xem kinh 741: y diệt hướng xả
依滅向捨
[57].
Nguyên Hán: dĩ đắc
已得.
[58].
Tu tập các căn. Pāli, M. 152.
Indriyabhāvanā-sutta.
[59].
Ca-vi-già-la Mâu-chân-lân-đà
迦微伽羅牟真鄰陀.
Pāli: Kajaṅgala
Mukkheluvana.
[60].
Niên thiếu Uất-đa-la
年少名鬱多羅.
Pāli
Uttara māṇva.
[61].
Ba-la-xa-na
波羅奢那.
Pāli: Pārāsariya.
[62].
Pāli:
cakkhunā rūpaṃ na
passati; sotena saddaṃ na suṇāti,
không thấy sắc bằng mắt, không nghe tiếng bằng tai.
[63].
Vô thượng tu căn
無上修根. Pāli:
ariyassa vinaye anuttarā indriyabhāvanā.
[64].
Đoạn kinh này, chi tiết có khác với bản
Pāli. Xem thêm cht. dưới.
[65].
Ngũ cú
五句,
Ấn Thuận Hội Biên, dẫn Du-già Sư Địa Luận, gọi đây là
ngũ chuyển vô thượng tu căn, theo đó là năm phẩm bậc tu căn của đệ tử
mà Như Lai vừa ý hoặc không vừa ý.
[66].
Pāli:
taṃ uppannam manāpaṃ uppannaṃ amanāpam uppanaṃ
manāpāmanāpam nirujjhati, upekkhā saṇṭhāti,
cái đã khởi lên ấy khả ý, không khả ý, hay vừa khả ý vừa không khả ý,
thảy đều diệt, xả tồn tại.
[67].
Trong bản: giác kiến tích
覺見跡.
Sửa lại là học kiến tích
學見
跡
, chỉ vị hữu học bắt đầu thấy Thánh đế.