TẠP A-HÀM QUYỂN 44
Tôi nghe như vầy:
Một thời Đức Phật ở trong vườn Am-la, tại nước
Di-hy-la[2].
Khi ấy, có thiếu phụ Bà-la-môn tên là Bà-tứ-tra[3],
có sáu người con qua đời liên tiếp. Vì nhớ con nên phát cuồng, trần
truồng, xõa tóc, cứ theo đường mà chạy[4],
đến trong vườn Am-la, Di-hy-la. Bấy giờ, Thế Tôn đang thuyết pháp
cho vô lượng đại chúng đang vây quanh. Từ xa, thiếu phụ Bà-la-môn
Bà-tứ-tra trông thấy Thế Tôn. Vừa thấy, bỗng tỉnh tâm lại, thẹn thùng xấu
hổ nép mình ngồi xổm xuống.
Bấy giờ, Thế Tôn bảo Tôn giả A-nan: “Lấy
Uất-đa-la-tăng của ông đem cho thiếu phụ Bà-la-môn Bà-tứ-tra và bảo khoác
vào để nghe pháp.” Tôn giả A-nan vâng lời Phật dạy, lấy y đưa cho bà khoác
vào. Sau khi bà được y, mặc xong, đến trước Phật cúi đầu lễ Phật, ngồi lui
qua một bên. Bấy giờ, Thế Tôn vì bà thuyết pháp, khai thị, chỉ giáo, soi
sáng, làm cho hoan hỷ. Như thường lệ, Đức Phật thuyết pháp theo thứ lớp
cho đến khi tín tâm thanh tịnh, thọ tam tự quy.
Sau khi nghe Phật thuyết pháp, bà hoan hỷ, tùy hỷ,
làm lễ ra về.
Sau đó người con thứ bảy của Ưu-bà-di Bà-tứ-tra này
đột nhiên lại qua đời. Nhưng bà Ưu-bà-di này không còn ưu bi, khổ, não,
khóc lóc nữa. Lúc này, chồng của bà Ưu-bà-di Bà-tứ-tra làm kệ nói với bà
rằng:
Những đứa
con trước chết,
Nhớ thương
sanh ưu khổ;
Ngày đêm không
ăn uống,
Cho đến phát
cuồng điên.
Nay chôn đứa
thứ bảy,
Sao không
sanh ưu khổ?
Ưu-bà-di Bà-tứ-tra liền nói kệ đáp
lại cho chồng rằng:
Con cháu có
cả ngàn,
Nhân duyên hòa
hợp sanh;
Đã lâu thành
quá khứ;
Tôi và ông
cũng vậy.
Con cháu và dòng họ,
Số này không hạn lượng,
Sanh nơi này, nơi kia;
Tàn sát, ăn thịt nhau.
Nếu biết cuộc sống ác[5],
Sanh ưu khổ làm gì.
Tôi đã biết xuất ly,
Sự sống chết, còn mất.
Không còn sanh ưu khổ,
Do nhập
Chánh pháp Phật.
Lúc ấy, người chồng của Ưu-bà-di
Bà-tứ-tra làm kệ khen rằng:
Pháp chưa
từng được nghe,
Mà nay nghe bà nói.
Nghe nói pháp ở đâu,
Không ưu
khổ nhớ con?
Ưu-bà-di Bà-tứ-tra làm kệ đáp:
Nay Đấng
Đẳng Chánh Giác,
Tại nước
Câu-hy-la;
Trong vườn cây
Am-la,
Lìa hẳn tất cả
khổ.
Diễn nói tất
cả khổ,
Khổ tập, Khổ
tịch diệt.
Bát chánh đạo
Hiền thánh,
An ổn hướng
Niệt-bàn.
Đó là Thầy của
tôi,
Hâm mộ Chánh
giáo Ngài.
Tôi đã biết
Chánh pháp,
Hay trừ
khổ nhớ con.
Người chồng là Bà-la-môn nói kệ
đáp:
Nay tôi cũng
sẽ đến,
Vườn Am-la,
Di-hy;
Đức Thế Tôn
cũng sẽ,
Dạy bỏ khổ
nhớ con.
Ưu-bà-di lại nói kệ đáp:
Nên quán
Đẳng Chánh Giác,
Mềm mại thân
sắc vàng;
Điều phục
người khó điều,
Đưa khắp
người qua bể.
Bấy giờ, Bà-la-môn liền sửa soạn xe
cộ; rồi lên xe ngựa đến vườn Am-la, Di-hy. Từ xa trông thấy Thế Tôn, lòng
tin vui tăng lên, đến trước Đại Sư. Khi ấy Đại Sư vì ông mà nói kệ, khai
mở pháp nhãn cho ông, thấy khổ, tập, diệt, đạo, thẳng đến Niết-bàn. Ông
liền thấy pháp, thành tựu hiện quán. Sau khi biết pháp rồi, xin được phép
xuất gia. Ngay lúc đó Bà-la-môn liền được xuất gia và một mình ở chỗ yên
tĩnh, tư duy… cho đến đắc A-la-hán.
Thế Tôn đã ký thuyết là chờ vào đêm
thứ ba, ông sẽ đắc tam minh. Sau khi đắc tam minh rồi, Đức Thế Tôn bảo
ông, sai người đánh xe hãy đem xe về nhà, cho Ưu-bà-di Bà-tứ-tra biết,
khởi phát lời tùy hỷ chúc mừng rằng:
“Bà-la-môn đã đến gặp Thế Tôn; đã
có được tín tâm thanh tịnh và kính thờ làm Thầy. Đại Sư liền vì ông thuyết
pháp, vì ông mà khai mở pháp nhãn, ông đã thấy Khổ Thánh đế, Khổ tập, Khổ
diệt và tám đường Hiền thánh an ổn thẳng đến Niết-bàn, thành tựu hiện
quán. Sau khi biết pháp rồi, liền xin xuất gia và Thế Tôn đã ký thuyết là
vào đêm thứ ba ông đắc tam minh đầy đủ.”
Khi đó người đánh xe vâng lời liền
quay về nhà, từ xa Ưu-bà-di Bà-tứ-tra trông thấy người đánh xe đánh xe
không trở về, liền hỏi:
“Bà-la-môn có gặp được Phật không?
Phật có vì ông thuyết pháp, khai thị pháp nhãn cho ông thấy Thánh đế
không?”
Người đánh xe thưa:
“Bà-la-môn đã đến gặp Thế Tôn; đã
có được tín tâm thanh tịnh và kính thờ làm Thầy. Đại Sư liền vì ông thuyết
pháp, vì ông mà khai mở pháp nhãn, ông đã thấy Khổ Thánh đế, Khổ tập, Khổ
diệt và tám đường Hiền thánh an ổn thẳng đến Niết-bàn, thành tựu hiện
quán. Sau khi biết pháp rồi, liền xin xuất gia và Thế Tôn đã ký thuyết là
vào đêm thứ ba ông đắc tam minh đầy đủ.” Lúc ấy, Ưu-bà-di trong lòng liền
vui vẻ, nói với người đánh xe:
“Cho ông chiếc xe ngựa này cộng
thêm một trăm ngàn tiền vàng, vì ông đã truyền tin, nói là Bà-la-môn
Tú-xà-đế[6]
đã chứng tam minh, khiến lòng tôi vui vẻ.”
Người đánh xe đáp:
“Bây giờ con đâu cần xe ngựa và
vàng bạc làm gì? Xe ngựa vàng bạc, xin trả lại cho bà Ưu-bà-di, nay con sẽ
trở lại chỗ Bà-la-môn, theo ông xuất gia.”
Ưu-bà-di nói:
“Ý ông như vậy, thì hãy mau mau trở
lại để theo ông chủ xuất gia, không bao lâu cũng sẽ được tam minh đầy đủ
như ông chủ.”
Người đánh xe nói:
“Đúng vậy, thưa bà Ưu-bà-di, như
ông chủ xuất gia, con cũng sẽ như vậy.”
Bà Ưu-bà-di nói:
“Cha của ngươi đã xuất gia, ngươi
cũng xuất gia theo. Ta nay không bao lâu cũng sẽ đi theo. Giống như con
rồng lớn trong đồng trống lướt qua hư không mà du hành. Những con rồng
khác, rồng con trai, rồng con gái, thảy đều bay theo. Ta cũng như vậy, sẽ
mang bát, đắp y, sống đời dễ thỏa mãn.”
Người đánh xe thưa:
“Thưa bà Ưu-bà-di, nếu như vậy, sở
nguyện của bà ắt sẽ thành tựu. Không bao lâu sẽ thấy bà Ưu-bà-di ít muốn,
biết đủ, đắp y, mang bát, xin nhận những gì người ta bỏ đi mà ăn, cạo tóc
mặc áo nhuộm. Đối với ấm, giới, nhập, đoạn trừ ái dục, xa lìa sự trói buộc
của tham và dứt hết các hữu lậu.”
Ông Bà-la-môn, người đánh xe, bà
Ưu-bà-di Bà-tứ-tra và cô con gái là Tôn-đà-bàn-lê[7]
đều xuất gia, cứu cánh thoát khổ.
*
Tôi nghe như vầy:
Một thời Đức Phật ở trong tinh xá
Đại lâm[9],
nước Tỳ-xá-ly. Bấy giờ, có Bà-la-môn Tỳ-lê-da
Bà-la-đậu-bà-giá[10],
sáng sớm đi mua bò, chưa kịp trả giá, ngay hôm đó
mất bò. Sáu ngày không tìm thấy. Nhân tìm bò, Bà-la-môn đến tinh xá Đại
lâm.
Từ xa trông thấy Thế Tôn đang ngồi
dưới bóng cây, dung nghi đĩnh đặc, các căn thanh tịnh, tâm Ngài vắng lặng,
thành tựu chỉ quán. Thân Ngài sắc vàng chiếu sáng chói. Thấy vậy, liền đến
trước Ngài nói kệ:
Vì sao không
sở cầu,
Trống vắng ở
nơi này,
Một mình nơi
rừng vắng,
Mà tâm
được an lạc?
Bấy giờ, Thế Tôn nói kệ đáp:
Hoặc mất,
hoặc được lại,
Đối tâm Ta
không loạn;
Bà-la-môn nên
biết,
Chớ nói kia
như Ta.
Tâm chấp việc
được mất,
Tâm ấy
không tự tại.
Lúc ấy Bà-la-môn lại nói kệ:
Chỗ Phạm chí
hơn hết,
Như Tỳ-kheo đã
nói;
Nay tôi sẽ tự
nói,
Lắng nghe lời
chân thật.
Sa-môn định
chẳng phải
Người mất bò
buổi sáng,
Sáu ngày tìm
không được,
Cho nên sống an lạc.
Sa-môn định chẳng phải
Người gieo trồng ruộng
mè
Lo cỏ hoang phủ mất;
Cho nên sống an lạc.
Sa-môn định chẳng phải
Người trồng lúa thiếu
nước,
Sợ hoang khô mà chết;
Cho nên sống an lạc.
Sa-môn định chẳng phải
Quả phụ có bảy người,
Đều nuôi con mồ côi;
Cho nên sống an lạc.
Sa-môn định chẳng phải
Bảy con không được yêu,
Phóng túng nhiều nợ nần;
Cho nên sống an lạc.
Sa-môn định chẳng phải
Chủ nợ giữ cửa mình,
Tìm đòi tiền lãi nhiều;
Cho nên sống an lạc.
Sa-môn định chẳng phải
Đồ nằm sâu bảy lớp
Lo lắng nhặt côn trùng;
Cho nên sống an lạc.
Sa-môn định chẳng phải
Vợ tóc vàng, mắt đỏ,
Ngày đêm nghe tiếng ác;
Cho nên sống an lạc.
Sa-môn định chẳng phải
Bồ không, đàn chuột giỡn
Thường lo lắng thiếu
gầy;
Cho nên
sống an lạc.
Bấy giờ, Thế Tôn nói kệ đáp lại:
Nay Ta quyết
không phải
Kẻ mất bò buổi
sáng,
Sáu ngày tìm không ra,
Cho nên sống an lạc.
Nay Ta quyết không phải
Người gieo trồng ruộng
mè,
Lo cỏ hoang phủ mất,
Cho nên sống an lạc.
Nay Ta quyết không phải
Người trồng lúa thiếu
nước,
Sợ hoang khô mà chết,
Cho nên sống an lạc.
Nay Ta quyết không phải
Quả phụ có bảy người,
Đều nuôi con mồ côi,
Cho nên sống an lạc.
Nay Ta quyết không phải
Bảy con không được yêu,
Phóng túng nhiều nợ nần,
Cho nên sống an lạc.
Nay Ta quyết không phải
Chủ nợ giữ cửa mình,
Tìm đòi tiền lãi nhiều,
Cho nên sống an lạc.
Nay Ta quyết không phải
Đồ nằm sâu bảy lớp,
Lo lắng nhặt côn trùng,
Cho nên sống an lạc.
Nay Ta quyết không phải
Vợ tóc vàng, mắt đỏ,
Ngày đêm nghe tiếng ác,
Cho nên sống an lạc.
Nay Ta quyết không phải
Bồ không, đàn chuột
giỡn,
Thường lo lắng thiếu
gầy,
Cho nên sống an lạc.
Không buông niệm, không
niệm.
Chúng sanh sống an lạc;
Đoạn dục, lìa ân ái,
Mà được
sống an lạc.
Bấy giờ, Thế Tôn vì tinh tấn
Ba-la-môn Bà-la-đậu-bà-giá mà thuyết pháp khai thị, dạy dỗ, soi sáng, làm
cho vui mừng. Như thường lệ Phật theo thứ tự thuyết pháp về bố thí, trì
giới… cho đến ở trong Chánh pháp tâm không còn sợ hãi, rồi liền từ chỗ
đứng dậy chắp tay bạch Phật:
“Con nay có được xuất gia học đạo
thành Tỳ-kheo, tu phạm hạnh ở trong Chánh pháp luật không?”
Phật bảo Bà-la-môn:
“Nay ông có thể được xuất gia, thọ
cụ túc giới, tu các phạm hạnh ở trong Chánh pháp luật …”. Chi tiết, cho
đến đắc A-la-hán, tâm khéo giải thoát.
Bấy giờ tinh tấn Bà-la-môn
Bà-la-đậu-bà-giá đắc A-la-hán, duyên tự tâm mà giác tri, được an lạc giải
thoát, bèn nói kệ:
Nay ta thật
vui sướng,
Ở trong pháp Đại tiên;
Được vui lìa tham dục,
Không phí
công thấy Phật.
*
Tôi nghe như vầy:
Một thời Đức Phật ở trong rừng cây
Sa-la, tại tụ lạc Bà-la-môn[12].
Bấy giờ sáng sớm Thế Tôn đắp y, mang bát vào tụ lạc
Bà-la-môn khất thực, bất chợt mây phi thời nổi lên. Bấy giờ, Thế Tôn tự
nghĩ: ‘Nay, Ta nên đến trong nhà hội lớn gia chủ Bà-la, tại tụ lạc
Bà-la-môn[13].’
Nghĩ vậy rồi, Ngài liền đến chỗ nhà hội lớn kia.
Khi ấy các gia chủ Bà-la-môn đang hội họp trong nhà đó. Từ xa trông thấy
Thế Tôn, họ cùng bảo với nhau: “Sa-môn cạo đầu kia cuối cùng biết pháp gì[14]?”
Bấy giờ, Thế Tôn bảo gia chủ
Bà-la-môn tụ lạc Bà-la kia rằng:
“Trong dòng Bà-la-môn có người biết
pháp, có người không biết pháp; dòng Sát-đế-lợi hay gia chủ, cũng có người
biết pháp, có người không biết pháp.”
Bấy giờ, Thế Tôn liền nói kệ:
Chẳng bạn
muốn hơn bạn,
Vua không phục
khó phục;
Vợ không cầu
hơn chồng,
Con nào không
kính cha?
Không người
trí: không hội.
Không trí:
không lời pháp;
Tham, sân, si
đoạn tận,
Thì đó
là người trí.
Khi ấy gia chủ Bà-la-môn kia bạch
Phật:
“Thiện sĩ Cù-đàm! Thiện sĩ phu! Mời
Ngài có thể vào nhà này mà ngồi.”
Sau khi Thế Tôn ngồi rồi, liền bạch
rằng:
“Xin Cù-đàm thuyết pháp. Chúng tôi
muốn nghe.”
Bấy giờ, Thế Tôn vì gia chủ
Bà-la-môn nơi đại hội này bằng mọi cách thuyết pháp khai thị, dạy dỗ, soi
sáng và làm cho vui mừng rồi, lại nói kệ:
Ngu cùng trí
tụ hội,
Không nói,
biết ai sáng?
Hay nói đạo
tịch tĩnh,
Nghe nói, biết
kẻ trí.
Người nói, nêu
Chánh pháp,
Kiến lập cờ
Đại tiên;
Khéo nói là cờ
Tiên,
Pháp là cờ
La-hán.
Bấy giờ, Thế Tôn vì các gia chủ
Bà-la-môn nơi tụ lạc Bà-la kiến lập chánh pháp, khai thị, dạy dỗ, soi
sáng, làm cho vui vẻ xong, từ chỗ ngồi đứng dậy ra về.
*
Tôi nghe như vầy:
Một thời Đức Phật ở Câu-tát-la[16],
du hành trong nhân gian. Rồi đến tụ lạc Phù-lê[17],
trú trong vườn Am-la của Bà-la-môn Thiên Tác[18].
Khi ấy Tôn giả Ưu-ba-ma[19]
làm thị giả. Bấy giờ Thế Tôn đang đau lưng[20],
bảo Tôn giả Ưu-ba-ma:
“Thầy cất y bát xong, đến nhà Bà-la-môn Thiên Tác.”
Lúc đó Bà-la-môn Thiên Tác đang ở trong nhà, sai
người chải đầu và cạo râu, sửa tóc cho ông, thấy Tôn giả Ưu-ba-ma đang
đứng ngoài cửa. Thấy rồi ông nói kệ:
Vì sao cạo
râu tóc,
Mình khoác
Tăng-già-lê[21];
Đang đứng
ngoài cửa đó,
Muốn cầu
xin thứ gì?
Tôn giả Ưu-ba-ma nói kệ đáp:
Đấng Thiện
Thệ La-hán,
Bị bệnh phong đau lưng;
Có thứ nước an lạc[22],
Trị bệnh
Mâu-ni chăng?
Lúc ấy, Bà-la-môn Thiên Tác lấy ra
một bát đầy tô, một bình dầu, một bình đường phèn, rồi sai người bưng đi,
cùng bình nước nóng, theo Tôn giả Ưu-ba-ma đến chỗ Thế Tôn. Lấy dầu xoa
lên thân, dùng nước nóng rửa đi, xong đem tô và đường phèn làm nước uống.
Sau đó, bệnh đau lưng Thế Tôn liền được an ổn. Sáng sớm hôm sau Thiên Tác
dậy thật sớm, đi đến chỗ Phật, cúi đầu lễ dưới chân, ngồi lui qua một bên,
nói kệ:
Sao gọi
Bà-la-môn,
Thí gì được
quả lớn?
Thế nào là thời thí[23],
Sao gọi
ruộng phước tịnh?
Bấy giờ, Thế Tôn nói kệ đáp:
Nếu được trí
túc mạng,
Thấy trời,
định hướng sanh[24];
Được hết các
hữu lậu,
Mâu-ni khởi
tam minh.
Khéo biết tâm
giải thoát,
Giải thoát tất
cả tham;
Mới gọi
Bà-la-môn.
Thí kia được
quả lớn.
Thí kia là
thời thí,
Ruộng
phước theo ý muốn.
Sau khi Bà-la-môn Thiên Tác nghe
những gì Phật dạy, hoan hỷ, tùy hỷ làm lễ ra về.
*
Tôi nghe như vầy:
Một thời Đức Phật ở tại Câu-tát-la
du hành trong nhân gian; một đêm nọ dừng chân lại trong rừng Sa-la.
Bấy giờ, cách rừng Sa-la không xa
có một Bà-la-môn làm nghề nông[26].
Sáng sớm thức dậy vào trong rừng Sa-la, từ xa nhìn
thấy Thế Tôn đang ngồi dưới một bóng cây, tướng mạo oai nghi đoan chánh,
các căn thanh tịnh, tâm người tịch định, thành tựu đầy đủ chỉ quán đệ
nhất. Thân Ngài sắc vàng ánh sáng chiếu suốt. Thấy vậy, đến chỗ Ngài, bạch
rằng:
“Bạch Cù-đàm, tôi làm nghề nông ở
gần đây, nên thích rừng này. Bạch Cù-đàm, có nghề nghiệp gì ở đây không,
mà thích ở trong rừng này? Rồi nói kệ:
Tỳ-kheo ở rừng này,
Vì có nghề
nghiệp gì,
Nên một mình
chỗ vắng,
Thích ở
trong rừng này?
Bấy giờ, Thế Tôn nói kệ đáp lại:
Vô sự ở rừng
này,
Rễ rừng chặt
từ lâu;
Nơi rừng, lìa
thoát rừng,
Thiền tư,
trừ bất lạc.
Sau khi Bà-la-môn nghe những gì
Phật nói, hoan hỷ tùy hỷ, làm lễ ra về.
*
Tôi nghe như vầy:
Một thời Đức Phật ở tại Câu-tát-la du hành trong
nhân gian; một đêm nọ dừng chân lại trong rừng Sa-la.
Bấy giờ, có một Bà-la-môn ở bên cạnh rừng, cùng năm
trăm thiếu niên Bà-la-môn ở chung[28].
Bà-la-môn kia thường tán thán, mong mỏi và muốn gặp Thế Tôn, “Khi nào Ngài
du hành đến rừng này, nhân đó ta đến gặp để hỏi về những chỗ còn nghi.
Ngài có rảnh vì ta mà ký thuyết không?”
Khi ấy người đệ tử thiếu niên của Bà-la-môn kia
nhân kiếm củi, nên vào trong rừng. Từ xa nhìn thấy Thế Tôn ngồi dưới bóng
cây, dung nghi đoan chánh, các căn vắng lặng, tâm ngài định tĩnh, thân như
núi vàng ánh sáng chiếu suốt, thấy rồi tự nghĩ: ‘Thầy mình thường tán
thán, kính ngưỡng và mong được gặp Ngài Cù-đàm để hỏi những điều nghi ngờ.
Nay Sa-môn Cù-đàm này đến trong rừng này, ta phải nhanh chóng về báo cho
thầy ta biết.’ Tức thì ôm bó củi nhanh chóng trở về nhà học, bỏ bó củi
xuống, rồi đến chỗ thầy thưa rằng:
“Thầy nên biết! Lâu nay thầy thường tán thán, kính
ngưỡng muốn gặp Sa-môn Cù-đàm đến rừng này để hỏi những điều nghi, nay
Sa-môn Cù-đàm đã đến rừng này, xin thầy biết thời.”
Khi ấy Bà-la-môn liền đến chỗ Thế Tôn, sau khi thăm
hỏi, ủy lạo xong, ngồi lui qua một bên nói kệ:
Một mình vào
nơi sợ,
Trong rừng rậm thâm sâu;
Đứng vững không dao
động,
Khéo tu pháp chánh cần.
Không ca múa âm nhạc,
Ở chỗ vắng tĩnh lặng;
Tôi chưa từng thấy ai,
Một mình thích rừng sâu.
Muốn tìm nơi thế gian,
Vị Chúa tể tự tại;
Là trời Tam thập tam,
Cõi trời vui tự tại.
Cớ sao vào rừng sâu,
Khổ hạnh tự khô héo?
Bấy giờ, Thế Tôn nói kệ đáp:
Mong cầu nhiều là khổ,
Đắm mê vào các cõi;
Tất cả chúng đều là
Cội rễ của ngu si.
Những loại cầu như vậy,
Ta trừ bỏ từ lâu.
Không cầu, không lừa
dối,
Tất cả không đụng tới.
Đối tất cả các pháp,
Duy có quán thanh tịnh;
Được vô thượng Bồ-đề,
Thiền tư tu chánh lạc.
Bà-la-môn lại nói kệ:
Nay con kính lễ Ngài,
Đấng Mâu-ni tịch lặng;
Vua thiền tư vi diệu,
Đại giác, giác vô biên.
Như Lai cứu trời, người,
Vòi vọi như núi vàng;
Giải thoát khỏi rừng
rậm,
Ở rừng hẳn không đắm.
Đã nhổ gai nhọn sâu,
Lành sạch không dấu vết;
Thượng thủ hàng luận sư,
Biện luận hơn tất cả.
Sư tử hùng loài người,
Rống động khắp rừng sâu;
Hiển hiện Khổ Thánh đế,
Tập, Diệt, tám Thánh
đạo.
Diệt tận các tụ khổ,
Xuất ly, tịnh không nhơ;
Tự thoát tất cả khổ,
Cứu khổ khắp chúng sanh.
Vì an lạc chúng sanh,
Nên diễn nói Chánh pháp;
Với ân ái đã dứt,
Đối lưới dục xa lìa.
Đoạn trừ hết tất cả,
Kết buộc của hữu ái;
Như hoa sen sống nước,
Không nhiễm dính nước
bùn.
Như mặt trời giữa không,
Trong sáng không mây
che;
Hôm nay con may mắn,
Đến rừng Câu-tát-la.
Được gặp Bậc Đại Sư,
Đấng Lưỡng Túc Tôn
Thắng;
Đại tinh tấn, rừng sâu,
Rộng độ sanh bậc nhất.
Hàng đầu, Điều Ngự Sư,
Kính lễ Đấng Vô Úy.
Sau
khi Bà-la-môn nói đầy
đủ kệ
khen ngợi Phật
xong, nghe những gì Phật
dạy, hoan
hỷ,
tùy hỷ, đảnh
lễ ra về.
*
Tôi nghe như vầy:
Một thời Đức Phật tại Câu-tát-la du hành trong nhân
gian, nghỉ đêm bên bờ sông Tôn-đà-lợi[30].
Bấy giờ, Thế Tôn cạo tóc chưa lâu, vào cuối đêm, lấy y phủ lên đầu,
ngồi kiết già, chánh thân tư duy, cột niệm ở trước.
Bấy giờ, bên sông Tôn-đà-lợi có Bà-la-môn[31]
đang ở, cuối đêm thức dậy, đem những thức ăn cúng còn dư chưa hết,
đem đến bờ sông, muốn tìm Bà-la-môn có đức lớn để cúng dường.
Khi ấy Thế Tôn nghe tiếng Bà-la-môn bên bờ sông;
nghe rồi bèn đằng hắng lên tiếng và lấy y ra để bày đầu. Lúc ấy, Bà-la-môn
bên sông Tôn-đa-lợi thấy Phật rồi, tự nghĩ: “Đây là Sa-môn cạo đầu, chẳng
phải Bà-la-môn.” Định đem thức ăn trở về, nhưng Bà-la-môn này lại nghĩ:
“Đâu phải chỉ có Sa-môn đầu cạo tóc. Trong hàng Bà-la-môn cũng có người
đầu cạo tóc. Nên đến đó, hỏi chỗ sanh của ông ta.” Lúc này, Bà-la-môn bên
sông Tôn-đà-lợi đến chỗ Thế Tôn hỏi rằng:
“Ngài sanh thuộc dòng họ nào?”
Bấy giờ, Thế Tôn liền nói kệ:
Ông chớ hỏi
chỗ sanh,
Mà nên hỏi chỗ
hành.
Khắc cây dùi
lấy lửa,
Cũng có thể
sanh lửa.
Trong dòng họ hạ tiện,
Sanh Mâu-ni vững chắc;
Trí tuệ, có tàm quý,
Tinh tấn, khéo chế ngự.
Rốt ráo sáng tỏ khắp,
Tu phạm hạnh thanh tịnh;
Mà nay đã đúng thời,
Nên cúng
thức ăn dư.
Bà-la-môn bên sông Tôn-đà-lợi lại
nói kệ:
Nay ngày tốt
của con,
Muốn cúng
dường cầu phước;
May gặp được Đại sĩ,
Tôn quý nhất ba thời.
Nếu không gặp được Phật,
Thời đã
cúng người khác.
Bấy giờ, Bà-la-môn bên sông Tôn-đà-lợi càng tăng
thêm lòng tin, liền đem thức ăn dư ấy phụng cúng Thế Tôn. Thế Tôn không
nhận, vì đã nhờ nói bài kệ mà được.
(Chi tiết như đã nói, vì nhờ
thuyết pháp mà được đồ ăn).
Bà-la-môn bên sông Tôn-đà-lợi bạch
Phật:
“Bạch Thế Tôn, bây giờ thức ăn cúng
này nên để chỗ nào?”
Phật bảo Bà-la-môn:
“Ta không thấy chư Thiên, Ma, Phạm,
Sa-môn, Bà-la-môn, Thiên thần hay người đời nào có thể ăn thức ăn này mà
khiến thân thể an ổn. Ông hãy đem thức ăn này bỏ vào trong nước không có
trùng và chỗ đất ít cỏ mọc.”
Lúc này, Bà-la-môn này liền đem
thức ăn này bỏ vào trong nước không có trùng. Nước liền bốc khói sủi bọt
sôi lên thành tiếng xèo xèo. Ví như nung hòn sắt, đem bỏ vào trong nước
lạnh, bốc khói sủi bọt sôi lên phát ra tiếng xèo xèo. Thức ăn này cũng
vậy. Bỏ vào nước không có trùng, bốc khói sủi bọt, sôi lên thành tiếng xèo
xèo. Bà-la-môn bên sông Tôn-đà-lợi lòng kinh hãi, thân lông dựng lên hết,
cho là tai biến, vội chạy lên bờ gom củi khô lại cúng dường đền thờ lửa để
dứt sự tai quái. Thế Tôn thấy ông gom củi khô cúng dường đền thờ lửa để
mong dứt sự tai quái. Thấy vậy, liền nói kệ:
Bà-la-môn
thờ lửa,
Thiêu đốt cây
cỏ khô,
Chớ cho là
tịnh đạo,
Có thể dứt tai
hoạn.
Đó là ác cúng
dường,
Mà bảo là trí
tuệ.
Tạo nhân duyên
như vậy,
Ngoại đạo thủ
tu tịnh.
Nay ông bỏ lửa
củi,
Thổi bùng lửa bên trong;
Thường tu không phóng
dật,
Lúc nào cũng cúng dường.
Tin tịnh khắp mọi nơi,
Rộng bày đại hội thí.
Tâm ý là bó củi,
Sân nhuế bốc khói đen.
Vọng ngữ là vị đời,
Miệng lưỡi là thìa gỗ;
Ngực giữ nơi lửa đốt,
Lửa dục thường cháy
mạnh.
Phải khéo tự điều phục,
Người tiêu diệt ngọn
lửa.
Chánh tín là sông lớn,
Tịnh giới là vượt sang.
Lắng trong sạch dòng
nước,
Được người trí khen
ngợi;
Sạch trong người: đức
trời,
Nên tắm rửa trong đó.
Lội nước không dính
mình,
An ổn qua bờ kia.
Chánh pháp là vực sâu,
Phước đức là xuống đò.
Nước lắng trong tràn
đầy,
Được người trí khen ngợi
Sạch trong người: đức
trời,
Nên tắm rửa trong đó.
Lội nước không dính
mình,
An ổn qua bờ kia;
Chân đế khéo điều ngự,
Nhiếp hộ tu phạm hạnh.
Từ bi là khổ hạnh,
Tâm chân thật thanh
tịnh;
Dùng Chánh pháp tắm rửa,
Được người
trí xưng tán.
Sau khi Bà-la-môn bên sông
Tôn-đà-lợi nghe những gì Phật dạy, hoan hỷ, tùy hỷ, trở lại đường cũ mà
đi.
*
Tôi nghe như vầy:
Một thời Đức Phật tại Câu-tát-la du hành trong nhân
gian, ở trong rừng rậm bên sông Tôn-đà-lợi. Lúc ấy, có Bà-la-môn đang ở
bên sông Tôn-đà-lợi, đến chỗ Phật, thăm hỏi, ủy lạo xong, ngồi lui qua một
bên, hỏi Phật:
“Bạch Cù-đàm, Ngài có đến sông Tôn-đà-lợi tắm rửa
không?”
Phật bảo Bà-la-môn:
“Đến sông Tôn-đà-lợi để tắm rửa để làm gì?”
Bà-la-môn bạch:
“Bạch Cù-đàm, sông Tôn-đà-lợi là cứu độ, là an
lành, là thanh tịnh. Nếu ai tắm rửa ở đó, có thể trừ hết mọi điều ác.”
Bấy giờ, Thế Tôn liền nói kệ:
Chẳng sông
Tôn-đà-lợi,
Cũng chẳng
Bà-hưu-đa;
Chẳng Già-da,
Tát-la.
Những con sông như vậy;
Không khiến người tạo ác
Có thể thành thanh tịnh.
Nhưng sông Tôn-đà-lợi,
Hằng hà, Bà-hưu-đa;
Người ngu thường ở đó,
Không thể trừ hết ác.
Những người thanh tịnh
kia,
Cần tắm rửa làm gì?
Những người thanh tịnh
kia,
Cần bố-tát làm gì?
Nghiệp tịnh do mình
tịnh,
Đời này nên gìn giữ;
Không sát sanh, trộm
cướp,
Không dâm, không nói
dối;
Bố thí trừ keo bẩn,
Ở đó mà tắm rửa.
Đối tất cả chúng sanh,
Thường khởi lòng từ bi;
Dùng nước giếng tắm rửa,
Già-da để làm
gì?
Trong tâm tự thanh tịnh,
Không đợi tắm bên ngoài;
Kẻ nghèo cùng hạ tiện,
Thân thể nhiều nhơ bẩn.
Dùng nước rửa bụi ngoài,
Không thể
sạch ở trong.
Sau khi Bà-la-môn bên sông
Tôn-đà-lợi nghe những gì Phật dạy, hoan hỷ, tùy hỷ, từ chỗ ngồi đứng dậy
ra về.
*
Tôi nghe như vầy:
Một thời Đức Phật ở trong vườn Ni-câu-luật, tại
nước Ca-tỳ-la-vệ. Bấy giờ, có Bà-la-môn búi tóc La-đậu-bà-giá[34],
vốn là người quen biết của Phật lúc còn là người thế tục, đến chỗ
Phật, thăm hỏi, uý lạo xong, ngồi lui qua một bên, nói kệ:
Người búi
tóc ngoài thân,
Đó chỉ gọi búi
tóc;
Người búi tóc bên trong,
Là chúng sanh trói buộc.
Nay xin hỏi Cù-đàm,
Làm sao gỡ
búi tóc?
Bấy giờ, Thế Tôn nói kệ đáp:
Nên thọ trì
tịnh giới,
Trong tâm tu Chánh giác;
Chuyên tinh cần phương
tiện,
Thì gỡ
được búi tóc.
Sau khi Bà-la-môn búi tóc nghe
những gì Phật dạy, hoan hỷ, tùy hỷ, từ chỗ ngồi đứng dậy ra về.
*
Tôi nghe như vầy:
Một thời Đức Phật ở trong vườn Ni-câu-luật, tại
nước Ca-tỳ-la-vệ. Bấy giờ, có Bà-la-môn búi tóc Bà-la-đậu-bà-giá, đến chỗ
Phật, thăm hỏi úy lạo nhau xong, ngồi lui qua một bên, nói kệ:
Người búi
tóc ngoài thân,
Đó chỉ gọi búi
tóc.
Người búi tóc trong tâm,
Là chúng sanh trói buộc.
Nay tôi hỏi Cù-đàm,
Người búi tóc như vậy;
Nên dùng phương tiện gì?
Nơi nào gỡ
búi tóc?
Bấy giờ, Thế Tôn nói kệ đáp:
Mắt, tai, cùng
với mũi,
Lưỡi, thân, ý
nhập xứ;
Đối với danh
sắc kia,
Diệt hết khiến
không còn.
Các thức đã
diệt hẳn,
Nơi đó dứt búi tóc.
Phật nói kinh này xong, Bà-la-môn
búi tóc Bà-la-đậu-bà-giá nghe những gì Phật dạy, hoan hỷ, tùy hỷ, từ chỗ
ngồi đứng dậy ra về.
*
Tôi nghe như vầy:
Một thời Đức Phật ở dưới gốc cây bồ-đề[37],
bên sông Ni-liên-thiền, tại tụ lạc Uất-bề-la, thành đạo chưa bao
lâu. Bấy giờ, Thế Tôn một mình yên tĩnh tư duy tự nghĩ rằng:
“Thật là khổ thay, không có cung kính, không có thứ
lớp, không có bậc tự tại nào khác để nễ sợ[38].
Như vậy sẽ bị thoái giảm đối với đại nghĩa. Có chỗ để cung kính, có
thứ tự, có bậc tự tại nào khác, sẽ sống được an lạc. Có cung kính, có thứ
tự, có bậc tự tại khác, đại nghĩa được đầy đủ. Có ai trong chư Thiên, Ma,
Phạm, Sa-môn, Bà-la-môn, Trời, Thần, Người mà có thể thành tựu hơn Ta về
giới, tam-muội, trí tuệ, giải thoát và giải thoát tri, Ta sẽ cung kính tôn
trọng, phụng sự cúng dường, nương vào người đó mà sống.”
Ngài lại nghĩ:
“Nhưng không có ai trong chư Thiên, Ma, Phạm,
Sa-môn, Bà-la-môn, Trời, Thần và Người mà có thể có đầy đủ giới, tam-muội,
trí tuệ, giải thoát và giải thoát tri kiến hơn Ta, để khiến Ta cung kính
tôn trọng, phụng sự cúng dường, nương vào người đó mà sống. Duy chỉ có
Chánh pháp khiến Ta tự giác, thành tựu Bồ-đề. Ta hãy cung kính tôn trọng,
phụng sự, cúng dường pháp ấy, nương vào đó mà sống. Vì sao? Chư Như Lai,
Ứng Cúng, Đẳng Chánh Giác quá khứ cũng cung kính, tôn trọng, phụng sự,
cúng dường Chánh pháp, nương vào đó mà sống. Chư Như Lai, Ứng Cúng, Đẳng
Chánh Giác vị lai cũng sẽ cung kính, tôn trọng, phụng sự, cúng dường Chánh
pháp, nương vào đó mà sống.”
Bấy giờ, Phạm Thiên vương, chúa của thế giới Ta-bà,
biết tâm niệm Thế Tôn rồi, nhanh như lực sĩ co duỗi cánh tay biến mất khỏi
Phạm thiên, đứng trước Phật, tán thán rằng:
“Lành thay, bạch Thế Tôn! Đúng vậy, bạch Thiện Thệ!
Đúng vậy! Những người giải đãi không cung kính thì rất khổ… (nói chi
tiết như trên, cho đến) nghĩa lớn đầy đủ. Kỳ thực không có chư Thiên,
Ma, Phạm, Sa-môn, Bà-la-môn, Trời, Thần, Người mà có thể có đầy đủ giới,
tam-muội, trí tuệ, giải thoát và giải thoát tri kiến hơn Thế Tôn, để khiến
Thế Tôn cung kính tôn trọng, phụng sự cúng dường, nương vào đó mà sống.
Chỉ có Chánh pháp, mà Như Lai tự ngộ thành Chánh đẳng Chánh giác, là chỗ
mà Như Lai phải cung kính tôn trọng, phụng sự, cúng dường Chánh pháp,
nương vào đó mà sống. Vì sao? Chư Như Lai, Ứng Cúng, Đẳng Chánh Giác quá
khứ cũng đã cung kính, tôn trọng, phụng sự, cúng dường Chánh pháp, nương
vào đó mà sống. Chư Như Lai, Ứng Cúng, Đẳng Chánh Giác vị lai cũng cung
kính, tôn trọng, phụng sự, cúng dường Chánh pháp, nương vào đó mà sống.
Thế Tôn cũng cung kính, tôn trọng, phụng sự, cúng dường Chánh pháp, nương
vào đó mà sống.”
Bấy giờ Phạm thiên vương lại nói kệ:
Chư Phật
thời quá khứ,
Và chư Phật vị
lai;
Phật, Thế Tôn
hiện tại,
Hay trừ chúng sanh ưu;
Hết thảy cung kính pháp,
Nương Chánh pháp mà
sống.
Sự cung kính như vậy
Đó là pháp chư Phật.
Sau khi Phạm thiên vương nghe những gì Phật nói,
hoan hỷ, tùy hỷ, cúi đầu lễ dưới chân Phật rồi biến mất.
*
Tôi nghe như vầy:
Một thời Đức Phật ở dưới gốc cây bồ-đề, bên sông
Ni-liên-thiền, tại tụ lạc Uất-bề-la, thành đạo chưa bao lâu.
Bấy giờ, Thế Tôn, một mình yên tĩnh tư duy như vầy:
“Có nhất thừa đạo[40]
có thể làm cho chúng sanh thanh tịnh, thoát mọi ưu bi, diệt trừ khổ
não và được pháp chân như[41].
Đó là bốn Niệm xứ. Những gì là bốn?
“Đó là niệm xứ quán thân trên thân, niệm xứ quán
thọ, tâm, pháp trên pháp. Nếu có người nào không thích bốn Niệm xứ thì sẽ
không thích Thánh pháp như[42].
Không thích Thánh pháp như thì sẽ không thích Thánh đạo như[43].
Không thích Thánh đạo như thì sẽ không thích pháp cam lộ. Không thích pháp
cam lộ thì sẽ không giải thoát khỏi sanh, già, bệnh, chết, ưu, bi, khổ,
não.
“Nếu người nào thích tu bốn Niệm xứ thì sẽ thích tu
Thánh pháp như. Thích tu Thánh pháp như thì sẽ thích Thánh đạo như. Thích
Thánh đạo như thì sẽ thích pháp cam lộ. Thích pháp cam lộ thì được giải
thoát khỏi sanh, già, bệnh, chết, ưu, bi, khổ, não.”
Bấy giờ, Phạm thiên vương, chúa của thế giới Ta-bà,
biết được tâm niệm của Phật rồi, nhanh như lực sĩ co duỗi cánh tay biến
mất khỏi cõi trời và hiện đứng trước Phật, tán thán rằng:
“Đúng vậy, bạch Thế Tôn! Đúng vậy, bạch Thiện Thệ!
Có nhất thừa đạo có thể làm cho chúng sanh thanh tịnh. Đó là bốn Niệm xứ,…
cho đến giải thoát khỏi sanh, già, bệnh, chết, ưu, bi, khổ, não.”
Lúc ấy, Phạm thiên vương lại nói kệ:
Rằng có nhất
thừa đạo,
Thấy đoạn tận
hữu biên[44];
Diễn nói về
Chánh pháp,
An ủi chúng
sanh khổ.
Chư Thế Tôn
quá khứ,
Nương đạo này
vượt qua;
Chư Thế Tôn vị
lai,
Cũng nương đạo
này qua.
Đấng Chánh
Giác hiện tại,
Nương đây qua
biển cả,
Rốt ráo mé
sanh tử,
Điều phục tâm
thanh tịnh.
Đối sanh tử
lưu chuyển,
Đều đã dứt hết
hẳn.
Biết tất cả
cảnh giới,
Tuệ nhãn tỏ
Chánh đạo.
Thí như nước
sông Hằng,
Đều chảy về
biển lớn;
Dòng nước siết
trôi xa,
Chánh đạo cũng
như vậy.
Trí rộng khéo
hiển bày,
Mau được pháp
cam lộ;
Xe Chánh pháp
thù thắng,
Vốn chưa từng
được nghe.
Vì thương xót
chúng sanh,
Nên chuyển vì chúng
sanh;
Che chở chúng trời,
người,
Khiến đưa qua bờ kia.
Cho nên các chúng sanh,
Đều cúi đầu đảnh lễ.
Sau khi Phạm thiên vương nghe những gì Phật dạy,
hoan hỷ, tùy hỷ cúi đầu lễ dưới chân Phật rồi biến mất.
*
Tôi nghe như vầy:
Một thời Đức Phật ở dưới gốc cây bồ-đề, bên sông
Ni-liên-thiền, tại tụ lạc Uất-bề-la[46],
thành đạo chưa bao lâu.
Bấy giờ, có Phạm thiên vương, chúa của thế giới
Ta-bà[47],
với sắc thân tuyệt diệu, vào lúc cuối đêm, đến chỗ Phật, cúi đầu lễ
dưới chân Phật, ngồi lui qua một bên, nói kệ:
Ở trong các
chủng tánh,
Lưỡng túc tôn
Sát-lợi[48];
Bậc Minh Hạnh
đầy đủ,
Tối thắng
trong loài người.
Phật đáp:
“Đúng vậy, Phạm thiên! Đúng vậy,
Phạm thiên!
Ở trong các
chủng tánh,
Lưỡng túc tôn
Sát-lợi;
Bậc Minh Hạnh
đầy đủ,
Tối thắng
trong loài người.
Phật nói kinh này xong, Phạm thiên
vương chủ thế giới Ta-bà nghe những gì Phật nói, hoan hỷ, tùy hỷ cúi đầu
lễ dưới chân Phật rồi biến mất.
*
Tôi nghe như vầy:
Một thời Đức Phật ở tại Câu-tát-la, du hành trong
nhân gian, dừng nghỉ nơi thanh vắng không có tụ lạc[50],
cùng với các Tỳ-kheo nghỉ đêm tại đó. Bấy giờ, Thế Tôn vì các
Tỳ-kheo nói pháp tùy thuận A-lan-nhã.
Khi ấy Phạm thiên vương, chủ thế giới Ta-bà tự nghĩ
rằng: “Hôm nay Thế Tôn đang ở tại Câu-tát-la, du hành trong nhân gian và
dừng nghỉ nơi thanh vắng không có tụ lạc, cùng với các Tỳ-kheo nghỉ đêm
tại nơi hoang vắng đó. Bấy giờ, Thế Tôn đã vì đại chúng nói pháp tùy thuận
không[51].
Bây giờ, ta nên đến tùy thuận mà tán thán.” Nghĩ vậy xong, nhanh như lực
sĩ co duỗi cánh tay, biến mất khỏi cõi trời và hiện đứng trước Phật, cúi
đầu lễ dưới chân Phật, rồi ngồi lui qua một bên, mà nói kệ:
Quen chỗ
ngồi biên địa[52],
Đoạn trừ các
phiền não;
Nếu không
thích rừng vắng,
Nhập chúng,
hãy phòng hộ.
Tự điều phục
tâm mình,
Đi xin ăn từng
nhà;
Nên giữ gìn
các căn,
Chuyên tinh
nhiếp tâm niệm.
Sau tập quen
rừng vắng,
Ngồi nơi a-luyện-nhã;
Xa lìa các sợ hãi,
Trụ an ổn
không sợ.
Nếu có các
hung hiểm,
Rắn dữ, mọi
độc hại;
Mây đen, lắm
tối tăm,
Sấm sét lóe
sáng ngời;
Thì nhờ lìa
phiền não,
Nên ngày đêm
an ổn.
Như pháp con
đã nghe,
Cho đến không
cứu cánh.
Một mình, tu
phạm hạnh,
Không sợ ngàn
ma chết.
Nếu tu hành
giác đạo,
Cả vạn chẳng
sợ chi.
Tất cả
Tu-đà-hoàn,
Hoặc đắc
Tư-đà-hàm;
Cùng với A-na-hàm,
Số này cũng vô lượng.
Không thể tính số được,
Sợ người
bảo: nói dối.
Sau khi Phạm thiên vương, chủ thế
giới Ta-bà nghe những gì Phật nói, hoan hỷ, tùy hỷ, làm lễ Phật rồi biến
mất.
*
Tôi nghe như vầy:
Một thời Đức Phật ở tại rừng Ca-tỳ-la-vệ, ở
Ca-tỳ-la-vệ[54],
cùng với năm trăm Tỳ-kheo, đều là những bậc A-la-hán, sạch hết
phiền não, việc làm đã xong, lìa các gánh nặng, đã được lợi mình, hết mọi
hữu kết, chánh trí, tâm khéo giải thoát.
Bấy giờ, Thế Tôn vì đại chúng nói pháp tương ưng
Niết-bàn. Khi ấy có đại chúng chư Thiên oai lực từ mười phương thế giới,
đều đến câu hội, cúng dường Thế Tôn và các Tỳ-kheo Tăng. Lại có các Phạm
thiên vương ở tại Phạm thế tự nghĩ rằng: “Hôm nay Phật đang trú tại
Ca-tỳ-la-vệ, … nói đầy đủ như trên, cho đến cúng dường Thế Tôn và đại
chúng. Bấy giờ, chúng ta nên đến đó tán thán.” Nghĩ vậy rồi, nhanh như lực
sĩ co duỗi cánh tay, biến mất khỏi cõi trời và hiện đứng trước Phật.
Phạm thiên thứ nhất nói kệ:
Ở trong rừng
lớn này,
Đại chúng đều
vân tập;
Chúng chư
Thiên mười phương,
Tất cả đến
cung kính.
Từ xa con đến lễ,
Tăng nan
phục, tối thắng[55].
Phạm thiên thứ hai lại nói kệ:
Chư Tỳ-kheo
Tăng này,
Tinh tấn, tâm
chân thật;
Ở trong rừng lớn này,
Cầu độ,
nhiếp các căn.
Phạm thiên thứ ba nói kệ tiếp:
Khéo phương
tiện tiêu dung
Ân ái sâu, gai
nhọn;
Kiên cố không
dao động,
Như phướn
Nhân-đà-la[56].
Vượt dòng nước
hào sâu,
Thanh tịnh
không cầu dục;
Đấng Đại Sư
khéo độ
Các Rồng
chúa đã thuần.
Phạm thiên thứ tư nói kệ tiếp:
Ai quy y nơi
Phật,
Quyết không
đọa đường ác;
Đã dứt thân
làm người,
Được thân
trời thọ lạc.
Mỗi vị nói kệ xong, bốn Phạm thiên
liền biến mất.
*
Tôi nghe như vầy:
Một thời Đức Phật ở trong vườn Trúc, khu Ca-lan-đà,
thành Vương xá. Bấy giờ, có Phạm thiên vương, chủ thế giới Ta-bà, hằng
ngày tinh cần đến chỗ Phật tôn kính cúng dường. Bấy giờ chủ thế giới Ta-bà
nghĩ: “Sáng nay đến gặp Thế Tôn quá sớm. Chắc Thế Tôn còn đang nhập đại
định. Ta hãy đến phòng Tỳ-kheo Cù-ca-lê[58],
bạn đảng của Đề-bà-đạt-đa.” Nghĩ rồi, liền đến trước phòng Cù-ca-lê
gõ cửa và nói rằng:
“Cù-ca-lê, nên khởi lòng tin thanh tịnh nơi Tôn giả
Xá-lợi-phất và Mục-kiền-liên. Người chớ để chịu khổ lâu dài, không lợi
ích.”
Cù-ca-lê nói:
“Ông là ai?”
Phạm thiên đáp:
“Phạm thiên vương, chủ thế giới
Ta-bà.”
Cù-lê-ca nói:
“Thế Tôn không thọ ký cho ông đắc
A-na-hàm phải không?”
Phạm thiên vương nói:
“Đúng vậy, Tỳ-kheo!”
Cù-lê-ca nói:
“Cớ gì ông đến đây?”
Phạm thiên vương, chủ thế giới
Ta-bà nghĩ: “Người này, không thể trị”, liền nói kệ:
Ở nơi bậc Vô
lượng,
Sanh lòng muốn
ước lượng:
Có người trí
tuệ nào,
Lại sanh giác
tưởng này?
Muốn lường bậc
khôn lường:
Phàm phu
bị che tối.[59]
Bấy giờ, Phạm thiên vương, chủ thế
giới Ta-bà đến chỗ Phật, cúi đầu lễ dưới chân, ngồi lui qua một bên, bạch
Phật:
“Bạch Thế Tôn, hằng ngày con thường
siêng đến chỗ Phật gần gũi cúng dường. Con nghĩ rằng sáng nay đến gặp Thế
Tôn còn quá sớm, chắc Thế Tôn còn đang nhập đại định, con bèn đến phòng
Tỳ-kheo Cù-ca-lê bạn đảng của Đề-bà-đạt-đa, liến đứng trước phòng từ từ gõ
cửa và nói rằng:
“Cù-ca-lê! Cù-ca-lê! Nên khởi lòng
tin thanh tịnh nơi Tôn giả Xá-lợi-phất và Mục-kiền-liên là người trí tuệ,
hiền thiện. Người chớ chịu khổ lâu dài, không lợi ích. Cù-ca-lê nói: ‘Ông
là ai?’ Con liền đáp: ‘Phạm thiên vương, chủ thế giới Ta-bà.’ Cù-lê-ca
nói: ‘Thế Tôn không thọ ký cho ông đắc A-na-hàm phải không?’ Con liền đáp:
‘Đúng vậy! Cù-ca-lê.’ Lại nói: ‘Cớ gì ông đến đây?’ Con tự nghĩ: ‘Người
này, không thể trị’, liền nói kệ:
Ở nơi không thể lường,
Muốn sanh lòng
tính toán;
Đem vô lượng,
muốn lường,
Là che lấp
phàm phu.
Phật bảo Phạm thiên:
“Đúng vậy! Đúng vậy! Phạm thiên.”
Ở chỗ không thể lường,
Muốn khởi tâm
suy lường;
Có người trí
tuệ nào,
Mà sanh vọng
tưởng này.
Không thể
lường, muốn lường,
Là che lấp
phàm phu.”
Phật nói kinh này xong, Phạm thiên
vương, chủ thế giới Ta-bà nghe những gì Phật dạy, hoan hỷ, tùy hỷ, từ chỗ
ngồi đứng dậy lễ Phật, rồi biến mất.
*
Tôi nghe như vầy:
Một thời Đức Phật ở trong vườn Trúc, khu Ca-lan-đà,
thành Vương xá. Bấy giờ, Đại Phạm thiên vương và các Biệt Phạm thiên[61]
khác cùng với Thiện Tí biệt Phạm thiên[62],
hằng ngày dùng phương tiện đến gặp và cúng dường Thế Tôn. Khi ấy có
Bà-cú Phạm thiên[63]
thấy Biệt Phạm thiên và Thiện Tí Phạm thiên tinh cần phương tiện
như vậy bèn hỏi:
“Các ông muốn gì?”
Họ liền đáp:
“Muốn gặp Thế Tôn cung kính cúng dường.”
Lúc ấy, Phạm thiên Bà-cú liền nói kệ:
Kia bốn loại
ngỗng trời
[64],
Ba cung điện
sắc vàng
[65];
Năm trăm bảy
mươi hai,
Người tu hành
thiền tư.
Thân sắc vàng
rực rỡ
[66],
Chiếu khắp cung Phạm
thiên;
Ông hãy nhìn thân ta,
Cần đến đó
làm gì?
Khi ấy, Thiên Phạm vương, Biệt Phạm
vương và Thiện Tí biệt Phạm vương lại nói kệ:
Tuy có thân sắc vàng,
Chiếu khắp cung Phạm
thiên;
Vị có trí tuệ này,
Biết sắc có phiền não.
Người trí không đắm sắc,
Nên tâm
được giải thoát.
Bấy giờ, Thiện Phạm thiên[67],
Biệt Phạm thiên, Thiện Tí biệt Phạm thiên đến chỗ
Phật, cúi đầu lễ dưới chân Phật, ngồi lui qua một bên, bạch Phật:
“Bạch Thế Tôn, chúng con phương
tiện muốn đến gặp Thế Tôn, cung kính cúng dường, có Bà-cú Phạm thiên thấy
chúng con phương tiện như vậy nên đến hỏi chúng con rằng: ‘Hôm nay quý vị
muốn phương tiện đi đâu?’ Chúng con liền đáp, ‘Muốn đến gặp Thế Tôn, lễ
bái cúng dường.’ Bà-cú Phạm thiên liền nói kệ:
Kia bốn loại
ngỗng trời
[68]
Ba cung điện
sắc vàng;
Năm trăm, bảy
mươi hai
[69],
Người tu hành
thiền tư.
Thân sắc vàng
rực rỡ,
Chiếu khắp cung Phạm
thiên;
Ông hãy nhìn thân ta,
Cần đến đó
làm gì?
Chúng con nói kệ đáp lại:
Tuy có thân
sắc vàng,
Chiếu khắp cung Phạm
thiên;
Vị có trí tuệ này,
Biết sắc có phiền não.
Người trí không đắm sắc,
Nên tâm
được giải thoát.
Phật bảo Phạm thiên:
“Đúng vậy, Phạm thiên! Đúng vậy,
Phạm thiên!
Tuy có thân
sắc vàng,
Chiếu khắp cung Phạm
thiên;
Nên biết sắc vàng ròng,
Đó là tướng phiền não.
Người trí giải thoát
sắc,
Đối sắc không còn ưa.
Khi ấy những vị Phạm thiên kia vì Tỳ-kheo
Ca-tra-vụ-đà-đê-sa[70]
mà nói kệ:
Người sanh ở thế gian,
Búa bén ở trong miệng;
Trở lại chặt thân mình,
Do những ác ngôn này:
Điều đáng chê lại khen,
Điều đáng khen lại chê;
Ác khẩu tăng thêm lỗi,
Đời sống không
an vui.
Cờ bạc, rượu
tán tài,
Lỗi này còn
quá nhẹ;
Ác tâm đối
Thiện Thệ,
Đó là tội rất
nặng.
Có trăm ngàn
địa ngục,
Tên
Ni-la-phù-đà[71];
Ba ngàn sáu
trăm ngục,
Và năm A-phù-đà[72].
Chúng là ngục báng Phật,
Do ác
nguyện miệng, ý.
Phật nói kinh này xong, các Phạm
thiên kia nghe những gì Phật dạy, hoan hỷ, tùy hỷ cúi đầu lễ dưới chân
Phật, rồi biến mất.
*
Tôi nghe như vầy:
Một thời Đức Phật ở trong vườn Trúc, khu Ca-lan-đà,
thành Vương xá.
Bấy giờ, có Bà-cú Phạm thiên[74]
ở trên cõi Phạm thiên khởi ác tà kiến, nói rằng:
“Chỗ này thường hằng, không phải là pháp biến dịch,
là nơi thuần nhất, là chỗ xuất ly.”
Bấy giờ, Thế Tôn biết tâm niệm của Bà-cú Phạm thiên
rồi, nhập tam-muội, với chánh thọ như vậy, biến mất khỏi thành Vương xá và
hiện ra nơi cõi Phạm thiên. Bà-cú Phạm thiên xa thấy Thế Tôn, liền nói kệ:
Phạm thiên,
bảy mươi hai:
Tạo tác các
phước nghiệp[75];
Tự tại mà
thường trụ,
Đã khỏi sanh,
già, chết.
Tôi đối các
Minh luận[76],
Đã tu tập rốt
ráo.
Trong hàng chư Thiên
kia,
Chỉ có tôi
trường tồn.
Bấy giờ, Phật nói kệ đáp:
Đời sống này
rất ngắn,
Không phải là
trường tồn;
Mà Bà-cú Phạn
thiên,
Tự bảo là sống
lâu.
Ngục Ni-la-phù-đa,
Tuổi thọ trăm ngàn năm;
Ta đều nhớ biết cả,
Ông tự bảo
trường tồn.
Bà-cú Phạm thiên lại nói kệ:
Chỗ thấy
Phật, Thế Tôn,
Số kiếp không
bến bờ.
Sanh, già,
chết, ưu, bi,
Tất cả là quá
khứ.
Xin nói cho tôi biết,
Quá khứ đã từng qua:
Thọ trì giới nghiệp gì,
Mà được
sanh ở đây?
Bấy giờ, Thế Tôn nói kệ đáp:
Kiếp quá khứ
lâu xa,
Giữa vùng đại
hoang mạc,
Có các chúng
tu hành,
Nhiều phạm
hạnh Hiền thánh.
Đói thiếu,
không đủ ăn,
Ông đến cứu
giúp họ.
Tâm từ giúp
liên tục,
Trải nhiều
kiếp không mất.
Đó là quá khứ
ông,
Công đức được
thọ trì.
Ta đều nhớ
biết cả,
Xa, gần, như
ngủ thức.
Quá khứ có
thôn ấp,
Bị bọn giặc
cướp bóc;
Khi ấy ông đến
cứu,
Khiến họ được
cứu thoát.
Đó là thời quá
khứ,
Phước nghiệp
được thọ trì.
Ta nhớ nhân
duyên này,
Xa, gần, như
ngủ thức.
Quá khứ có
nhiều người,
Đi thuyền trên
sông Hằng;
Ác long giữ thuyền kia,
Muốn hại hết mạng người.
Thời ông dùng thần lực,
Cứu họ được giải thoát.
Đó là quá khứ ông,
Phước nghiệp được thọ
trì.
Ta nhớ nhân duyên này,
Xa, gần,
như ngủ thức.
Bà-cú Phạm thiên lại nói kệ:
Quyết định
đã biết tôi,
Việc thọ mạng
xưa nay;
Cũng biết hết
tất cả,
Đây là Đấng
Chánh Giác.
Cho nên được
thọ thân,
Ánh vàng chiếu rực khắp;
Thân Ngài đứng ở đây,
Sáng khắp
cả thế gian.
Bấy giờ, Thế Tôn vì Bà-cú Phạm
thiên khai thị, chỉ giáo, soi sáng, là cho vui mừng xong. Ngài nhập chánh
thọ như vậy biến khỏi cõi Phạm thiên và trở về thành Vương xá.
*
Tôi nghe như vầy:
Một thời Đức Phật ở trong vườn Cấp cô độc, rừng cây
Kỳ-đà, tại nước Xá-vệ. Bấy giờ, có vị Phạm thiên ở trên cõi Phạm thiên
khởi tà kiến nói như vầy:
“Cõi này thường hằng không biến dịch, thuần nhất,
xuất ly. Chưa từng thấy có ai đến cõi này, huống là có người vượt lên trên
cõi này.”
Bấy giờ, Thế Tôn biết được những sở niệm trong tâm
của Phạm thiên này, liền nhập tam-muội, với chánh thọ như vậy, biến mất
khỏi nước Xá-vệ và hiện nơi cung Phạm thiên. Ngài ngồi kiết già, chánh
thân buộc niệm ở giữa hư không, ngay trên đỉnh Phạm thiên kia.
Bấy giờ, Tôn giả A-nhã Câu-lân nghĩ thầm: “Hôm nay
Thế Tôn đang ở chỗ nào?” Bèn dùng thiên nhãn thanh tịnh hơn mắt người,
nhìn thấy Thế Tôn đang ở trên cõi Phạm thiên. Thấy rồi, liền nhập
tam-muội, với chánh thọ như vậy, biến mất khỏi nước Xá-vệ và hiện ra ở cõi
Phạm thiên; ngồi kiết già ngay thẳng, buộc niệm ngay dưới tòa Phật và trên
tòa Phạm thiên, quay mặt về hướng Tây, hướng đến Phật.
Khi ấy, Tôn giả Đại Ca-diếp cũng nghĩ: “Hôm nay Thế
Tôn đang ở chỗ nào?” Bèn dùng thiên nhãn thanh tịnh hơn mắt người, nhìn
thấy Thế Tôn đang ở trên cõi Phạm thiên. Thấy rồi, liền nhập tam-muội,
chánh thọ như vậy, biến mất khỏi nước Xá-vệ và hiện ra ở cõi Phạm thiên,
ngồi kiết già ngay thẳng, nhất tâm nhiếp niệm ngay dưới tòa Phật và trên
tòa Phạm thiên, quay mặt về hướng Bắc, hướng đến Phật.
Khi ấy, Tôn giả Đại Mục-kiền-liên cũng nghĩ: “Hôm
nay Thế Tôn đang ở chỗ nào?” Bèn dùng thiên nhãn thanh tịnh hơn mắt người,
nhìn thấy Thế Tôn đang ở trên cõi Phạm thiên. Thấy rồi, liền nhập
tam-muội, chánh thọ như vậy, biến mất khỏi nước Xá-vệ và hiện ra ở cõi
Phạm thiên, ngồi kiết già ngay thẳng, nhất tâm nhiếp niệm ngay dưới tòa
Phật và trên tòa Phạm thiên, quay mặt về hướng Nam, hướng đến Phật.
Bấy giờ, Thế Tôn nói với Phạm thiên:
“Nay ông lại khởi kiến giải rằng: ‘Từ xưa đến nay
chưa từng thấy có người nào vượt qua khỏi Ta’ phải không?”
Phạm thiên bạch Phật:
“Hôm nay con không còn dám nói rằng: ‘Ta chưa từng
thấy có người nào vượt qua khỏi ta.’ Mà chỉ thấy ánh sáng Phạm thiên bị
ngăn che.”
Bấy giờ, Thế Tôn vì Phạm thiên kia thuyết pháp,
khai thị, chỉ giáo, soi sáng và làm cho vui vẻ rồi, liền nhập tam-muội,
với chánh thọ như vậy, biến mất khỏi cõi Phạm thiên, trở về nước Xá-vệ.
Các Tôn giả A-nhã Câu-lân, Ma-ha Ca-diếp, Xá-lợi-phất cũng vì Phạm thiên
kia thuyết pháp, khai thị, chỉ giáo, soi sáng và làm cho vui mừng xong,
liền nhập tam-muội, với chánh thọ như vậy, biến mất khỏi cõi Phạm thiên,
trở về nước Xá-vệ. Chỉ có Tôn giả Mục-kiền-liên vẫn còn ở lại đó. Lúc này,
Phạm thiên kia hỏi Tôn giả Đại Mục-kiền-liên:
“Các vị đệ tử khác của Thế Tôn đều có đại đức đại
lực như vậy không?”
Bấy giờ, Tôn giả Đại Mục-kiền-liên liền nói kệ:
Đại đức đủ
ba minh,
Thông đạt biết
tâm người;
Các La-hán lậu
tận,
Số ấy
không thể lường.
Lúc ấy, Tôn giả Đại Mục-kiền-liên
vì Phạm thiên kia thuyết pháp, khai thị, chỉ giáo, soi sáng và làm cho vui
mừng xong, liền nhập tam-muội, với chánh thọ như vậy, biến khỏi cõi Phạm
thiên và trở về nước Xá-vệ.
*
Tôi nghe như vầy:
Một thời Đức Phật ở trong rừng Song thọ kiên cố[79],
sanh địa của lực sĩ, tại nước Câu-thi-na-kiệt. Bấy giờ, Thế Tôn sắp
nhập Bát-niết-bàn, bảo Tôn giả A-nan rằng:
“Ông hãy trải giường dây xoay đầu hướng Bắc giữa
Song thọ kiên cố. Nửa đêm hôm nay Như Lai sẽ vào Vô dư Niết-bàn mà
Bát-niết-bàn.”
Lúc này, Tôn giả A-nan vâng lời Thế Tôn dạy, ở giữa
Song thọ kiên cố vì Thế Tôn mà trải giường dây, xoay đầu về hướng Bắc rồi,
trở lại chỗ Thế Tôn, cúi đầu lễ dưới chân, bạch rằng:
“Bạch Thế Tôn, con đã vì Như Lai, trải giường dây ở
giữa Song thọ kiên cố xoay đầu về hướng Bắc.”
Bấy giờ, Thế Tôn đến giường dây, hông phải nghiêng
xuống đất, đầu xoay về hướng Bắc, hai chân xếp lên nhau, buộc niệm vào
tướng ánh sáng. Bấy giờ là giữa đêm, Thế Tôn ở Vô dư Niết-bàn mà
Bát-niết-bàn. Sau khi Phật Bát-niết-bàn rồi, rừng cây Song thọ liền trổ
hoa, rơi xuống chung quanh cúng dường Thế Tôn. Khi ấy có Tỳ-kheo nói kệ:
Đẹp thay,
cây Kiên cố,
Rũ cành nhánh
lễ Phật;
Cúng dường hoa vi diệu,
Đại Sư
Bát-niết-bàn.
Lúc ấy, Thích Đề-hoàn Nhân bỗng nói
kệ:
Tất cả hành
vô thường,
Chúng là pháp
sanh diệt;
Tuy sanh liền đến diệt,
Tịch diệt
này an lạc.
Lúc ấy, Phạm thiên vương, chủ thế
giới Ta-bà, lại nói kệ:
Mọi sanh vật
ở đời,
Đã lập đều
phải bỏ.
Thánh Đại Sư
như vậy,
Thế gian không ai bằng.
Được thần lực Như Lai,
Làm mắt cho thế gian;
Cuối cùng cũng hoại
diệt,
Nhập Vô dư
Niết-bàn.
Tôn giả A-na-luật-đà lại nói kệ
tiếp:
Thở ra, vào:
đình trú,
Lập tâm khéo
nhiếp hộ;
Từ sở y mà
đến,
Thế gian Bát-niết-bàn.
Sanh tướng sợ hãi lớn,
Khiến lông thân người
dựng;
Đủ tất cả hành lực,
Đại Sư Bát-niết-bàn.
Tâm kia không giải đãi,
Cũng không vướng các ái;
Tâm pháp dần giải thoát,
Như củi
hết, lửa tắt.
Sau khi Như Lai Bát-niết-bàn bảy
ngày, Tôn giả A-nan đến chỗ Chi-đề[80]
nói kệ:
Thân báu
này, Đại Sư,
Lên đến cõi
Phạm thiên;
Thần lực lớn
như vậy,
Nội hỏa lại
đốt thân.
Năm trăm lụa
quấn thân,
Đốt cháy tiêu
rụi hết.
Một ngàn tấm y
mịn,
Y quấn thân
Như Lai.
Chỉ hai tấm
không cháy,
Tối thượng
và sấn thân[81].
Khi Tôn giả A-nan nói kệ này rồi,
thì các Tỳ-kheo im lặng thương nhớ.
*
[1].
Đại Chánh quyển 44. Ấn Thuận, “21. Tương
ưng Bà-la-môn (phần sau)”; tiếp theo Đại Chánh kinh số 102 (quyển 4).
Quốc Dịch, quyển 38. -Pāli, Cf. Theri. 133.
Vāsiṭṭhī.
Biệt dịch, №100(92).
[2].
Di-hy-la
彌絺羅.
Pāli: Mithilā.
[3].
Bà-tứ-tra
婆四吒.
Pāli: Vāseṭṭhī.
[4].
Bà chạy từ
Vesalī đến
Mithilā.
[5].
Ác
惡
; Ấn Thuận, Phật Quang đọc là
yếu
要
. Các bản Tống-Nguyên-Minh đọc là ác
惡.
[6].
Tú-xà-đế
宿闍諦.
Pāli: Sujāta.
[7].
Tôn-đà-bàn-lê
孫陀槃梨.
Pāli: Sundarī.
[8].
Pāli, S. 7. 1. 10.
Bahudhīti.
Biệt dịch, №100(93).
[9].
Bản Pāli:
Kosalesu viharati aññatarasmiṃ
vanande, trong một khu rừng nọ ở
Kosala.
[10].
Tỳ-lê-da Bà-la-đậu-bà-giá
毘梨耶婆羅豆婆遮.
Pāli: aññatarassa
bhāradvājagotassa brāhmaṇassa, có một
người Bà-la-môn nọ thuộc dòng họ
Bhāradvāja.
[11].
Pāli, S.7.22.
Khomadussa. Biệt dịch,
№100(94).
[12].
Pāli:
Sakkesu viharati Khomadussaṃ nàmaư Sakyānaṃ
nigamo. Sống giữa những người họ Thích,
tại tụ lạc Khomadussa
của họ Thích.
[13].
Bà-la-môn tụ lạc Bà-la trưởng giả
婆羅門聚落婆羅長者.
Pāli: Khomadussakā
brāhmaṇagahapatikā sabhāyaṃ, trong nhà
hội của những gia chủ Bà-la-môn thuộc tụ lạc
Khomadussa.
[14].
Pāli:
: ke ca muṇḍakā samaṇakā, ke ca
sabhādhammaṃ jānanti? “Những Sa-môn trọc
đầu kia là ai? Sao họ không biết phép hội họp?”
[15].
Pāli, S. 7. 2. 3.
Devahita.
Biệt dịch, №100(95).
[16].
Bản Pāli:
Sāvatthinidānaṃ,
nhân duyên ở Xá-vệ.
[17].
Phù-lê tụ lạc
浮梨聚落.
[18].
Thiên Tác Bà-la-môn
天作婆羅門.
Pāli:
Devahito brāhmaṇo.
[19].
Ưu-ba-ma
優波摩.
Pāli: Upavāṇa.
[20].
Pāli:
vātehābādhiko, phong
bệnh; được giải thích (Tha.ii.57), do sự dao động của gió nội thân.
Không phải gió cảm mạo từ ngoài.
[21].
Pāli:
muṇḍo saṅghātipāruto,
trọc đầu, khoác Tăng-già-lê.
[22].
An lạc thủy
安樂水.
Pāli: uṇhodakaṃ,
nước nóng. Bản Hán đọc là sukhodakaṃ?
[23].
Thời thí
時施;
chỉ trong lúc đang bố thí (hiểu theo phân từ hiện tại). Pāli:
kathañhi yajamānassa,
như thế nào, trong lúc hiến tế?
[24].
Các bản đều đọc là định thú sanh
定趣生.
Nên đọc là ác thú sinh,
gần với bản Pāli. Pāli: saggāpāyañca
passati, thấy sanh thiên, hay đọa lạc.
[25].
Pāli, S.7.17.
Navakammika. Biệt dịch,
№100(96).
[26].
Hán: doanh tác điền nghiệp
營作田業.Bản
Pāli: navakammika,
thợ cất nhà (hoặc thợ mộc).
[27].
Pāli, 7.18.
Kaṭṭhahāra. Biệt dịch,
№100(97).
[28].
Cọng (túc)
共
. Hán dịch sát nghĩa đen.
Pāli: antevāsika:
đệ tử (= người sống chung).
[29].
Pāli, S.7.9.
Sundarika. Biệt dịch,
№100(99).
[30].
Tôn-đà-lợi hà
孫陀利河.
Pāli: Sundarikā-nadī.
[31].
Pāli:
Sundarikabhāradvāja brāhmaṇa,
Bà-la-môn Snudarika
dòng họ Bhāradvāja.
[32].
Pāli, M. 7.
Vatthūpama-sutta.
Biệt dịch, №100 (98); №125(13.5).
[33].
Pāli, S.7.6.
Jaṭā. Biệt dịch,
№100(100).
[34].
Oanh kế La-đậu-bà-giá Bà-la-môn
[11]縈髻[12]羅豆婆遮婆羅門.
Trên chữ la
羅
có thể sót chữ bà
婆.
Pāli;
Jaṭabhāradvāja-brāhmaṇa, Bà-la-môn bện
tóc dòng họ Bhāravāja.
[35].
Tham chiếu kinh 1187 trên.
[36].
Quốc Dịch, quyển 38, phần cuối, “Tụng
vii. Kệ. 6.Tương ưng Phạm thiên” 1 phẩm, 10 kinh. Ấn Thuận, “Tụng
viii. 22. Tương ưng Phạm thiên” mười kinh: 1288-1287 (Đại Chánh, kinh
1188-1197). Pāli, S.6.2. Gārava;
cf. A. 4. 21. Uruvelā.
Biệt dịch, №100(101).
[37].
Pāli:
ajapālanỉgodhamūle, dưới
gốc cây Ajapāla-nỉgodha..
[38].
Pāli:
dukkhaṃ kho agāravo viharati appatisso,
“Khổ thay, sống mà không có sự kính trọng, không có sự thuận tùng”.
[39].
Pāli, S. 47. 18.
Brahmā.
Biệt dịch, №100 (102);
№101(4).
[40].
Nhất thừa đạo
一乘道.
Pāli: ekāyano maggo,
con đường có một lối đi duy nhất, khác với
ekayāna, nhất thừa, chỉ
một cỗ xe duy nhất.
[41].
Đắc chân như pháp
得真如法.
Pāli: ñāyassa adhigamāya,
nibbānassa sacchikiriyāya, để đạt đến
Chánh lý, chứng ngộ Niết-bàn.
[42].
Như Thánh pháp
如聖法
. Pāli:
ñāya
(dhamma)?
Xem thêm cht. dưới.
[43].
Như Thánh đạo
如聖道
. Pāli: ñāyāya
maggam,
con đường dẫn đến chánh lý(?)
[44].
Hán: kiến sanh chư hữu biên
見生諸有邊.
Chư, nên đọc là tận.
Pāli: jātikhayantadassī,
thấy sự sanh được đoạn tận.
[45].
Pāli, S.6.11.
Sanaṃkumāra. Biệt dịch,
№100 (103).
[46].
Bản Pāli:
Rājagahe viharati Sappinītīre,
trú tại Vương xá, bên bờ sông
Sappinī.
[47].
Pāli:
Brahmā sanaṃkumāro, vị
Phạm thiên thường xuyên dưới dạng hài đồng, thường đồng hình Phạm
thiên.
[48].
Pāli:
khattiyo seṭṭho janetasmiṃ, ye gottapaṭisārino,
những ai tin vào chủng tộc, thì Sát-lợi là tối tôn.
[49].
Pāli, S.6.13.
Andhakavinda. Biệt dịch,
№100(104).
[50].
Bản Pāli:
Māgadhesu viharati Andhakaviđa,
sống giữa những người Ma-kiệt-đà, trong làng
Andhakavinda.
[51].
Tùy thuận không
隨
順
空
. Trên kia, Hán dịch là “tùy thuận a-luyện-nhã
隨順阿楝若”.
[52].
Pāli:
sevetha pantāni senāsanāni,
các ông hãy sống nơi biên địa.
[53].
Pāli, S.1.37.
Samaya. Biệt dịch,
№100(105).
[54].
Ca-tỳ-la-vệ Ca-tỳ-la-vệ lâm
迦毘羅衛迦毘羅衛林.
Pāli: Kipilavatthusmiṃ Mahāvane,
trong rừng Đại lâm, ở
Kaplilavatthu.
[55].
Pāli:
aparājitasaṅgham,
Tăng-già không thể bị đánh bại.
[56].
Nhân-đà-la tràng
因陀羅幢.
Cây phướn của Đế Thích.
[57].
Pāli, S.6. 7-9.
Kokālika.
Biệt dịch, №100(106); №101(5).
[58].
Cù-ca-lê
瞿迦梨.
Pāli:
Kokālika.
[60].
Pāli, S. 6.6.
Pamāda.
Biệt dịch, №100(107).
[61].
Biệt Phạm thiên
別梵天.
Pāli: Pacceka-Brahmā.
Không thấy các tài liệu giải thích. Có thể chỉ những Phạm thiên độc
lập, không có Thiên chúng.
[62].
Thiện Tí biệt Phạm thiên
善臂別梵天.
Pāli, đề ccạp hai vị:
Subrahmā va Suddhavāsa.
[63].
Bà-cú Phạm thiên
婆句梵天.
Pāli:
Bako Brahmā
[64].
Hán: hộc điểu
鵠
鳥
. Pāli:
haṃsa, thiên nga.
[65].
Bản Pāli:
tayo
supaṇṇā,
ba trăm chim cánh vàng (Kim xí điểu).
[66].
Pāli:
vyagghīnisā pañcasatā ca jhāyino,
sáng rực với 500 hổ cái? Bản Hán hiểu
jhāyino:
các hành giả Thiên, thay vì là (các cung điện) sáng rực.
[67].
Thiện Phạm thiên
善梵天.
Pāli: Subrāhmā,
một trong hai vị
Pacceka-Brahmā mà bản Hán trên kia không
nhắc.
[68].
Xem cht.64, kinh 1194.
[69].
Về “bảy mươi hai”, xem cht.75 kinh 1195.
[70].
Ca-tra-vụ-đà-đê-sa
迦吒務陀低沙.
[71].
Ni-la-phù-đà
尼羅浮多.
Pāli: Nirabbuda.
[72].
A-phù-đà
阿浮陀.
Pāli: abbuda.
[73].
Pāli, S. 6.4.
Bako-Brahmā.
Biệt dịch, 100 (108).
[74].
Xem cht.63, kinh 1194.
[75].
Hán:
Phạm thiên thất thập nhị , tạo tác chư phước nghiêp
梵天七十二造作諸福業;
văn cú đảo. Nên hiểu: “Các Phạm thiên đã tạo ra bảy mươi hai loại
phước nghiệp”. Tham chiếu Pāli:
dvāsattati Gotma puññakammā, vasavattino jātijaraṃ
atītā, “bằng bảy mươi hai phước nghiệp,
chúng tôi có quyền uy siêu việt già và chết”.
[76].
Minh luận
明論.
Pāli: Vedagū, người
thông thạo các Veda.
[77].
Pāli, S. 6.5.
Aparā diṭṭhi. Biệt dịch,
№100(109).
[78].
Pāli, S. 6.15.
Parinibbāna. Biệt dịch,
№100(110).
[79].
Song thọ kiên cố lâm
堅固雙樹林.
Pāli: Yamaka-sāla,
cụm cây sāla
mọc đôi. Bản Hán đọc là
sara (kiên cố).
[80].
Chi-đề
枝提.
Pāli: cetiya,
tháp miếu.
[81].
Chỉ y Uất-đa-la-tăng và áo lót.