TẠP A-HÀM QUYỂN 48
Tôi nghe như vầy:
Một thời, Đức Phật ở trong vườn Cấp cô độc, rừng
cây Kỳ-đà, nước Xá-vệ. Bấy giờ, có một Thiên tử tướng mạo tuyệt vời, vào
lúc cuối đêm, đến chỗ Phật, đảnh lễ chân Phật, rồi ngồi lui qua một bên;
từ thân tỏa ánh sáng chiếu khắp vườn Cấp cô độc, rừng cây Kỳ-đà. Thiên tử
này bạch Phật:
“Thế Tôn, Tỳ-kheo[2],
Tỳ-kheo vượt qua dòng xiết chăng?”
“Thiên tử! Đúng vậy.”
Thiên tử lại hỏi:
“Không chỗ vin duyên, cũng không chỗ trụ, mà vượt
qua dòng xiết chăng?”
Phật bảo:
“Thiên tử! Đúng vậy.”
Thiên tử lại hỏi:
“Không chỗ vin duyên, cũng không chỗ trụ mà vượt
qua dòng xiết, ý nghĩa ấy thế nào?”
Phật bảo:
“Này Thiên tử, Ta ôm chặt như vậy, như vậy, tiến
thẳng như vậy, như vậy; không bị nước cuốn trôi. Không ôm chặt như vậy,
như vậy, không tiến thẳng như vậy, như vậy, thì bị nước cuốn trôi[3].
Thiên tử, như vậy gọi là không chỗ vin duyên, cũng không chỗ trụ mà vượt
qua dòng xiết.”
Khi ấy Thiên tử kia nói kệ:
Lâu thấy
Bà-la-môn
Đã đạt
Bát-niết-bàn;[4]
Qua rồi mọi sợ
hãi,
Vượt hẳn
ái ân đời.[5]
Thiên tử kia nghe những gì Phật
dạy, hoan hỷ, tùy hỷ đảnh lễ chân Phật, rồi biến mất.
*
Tôi nghe như vầy:
Một thời, Đức Phật ở trong vườn Cấp cô độc, rừng
cây Kỳ-đà, nước Xá-vệ. Bấy giờ, có một Thiên tử tướng mạo tuyệt vời, vào
lúc cuối đêm, đến chỗ Phật, đảnh lễ sát chân Phật, ngồi lui qua một bên;
từ thân tỏa ánh sáng chiếu khắp vườn Cấp cô độc, rừng cây Kỳ-đà. Thiên tử
kia bạch Phật:
“Này Tỳ-kheo, biết sự quyết định giải thoát, giải
thoát rộng, giải thoát cực rộng[7]
của tất cả chúng sanh bị đắm trước, bị tập khởi chăng?”
Phật bảo Thiên tử:
“Ta tất biết sự quyết định giải thoát, giải thoát
rộng, giải thoát cực rộng của tất cả chúng sanh bị đắm trước, bị tập
khởi.”
Thiên tử bạch Phật:
“Tỳ-kheo, làm thế nào để biết sự quyết định giải
thoát, giải thoát rộng, giải thoát cực rộng của tất cả chúng sanh bị đắm
trước, bị tập khởi?”
Phật bảo Thiên tử:
“Ái, hỷ diệt tận, tâm Ta giải thoát. Do tâm đã giải
thoát nên biết sự quyết định giải thoát, giải thoát rộng, giải thoát cực
rộng của tất cả chúng sanh bị đắm trước, bị tập khởi.”
Khi ấy Thiên tử kia nói kệ:
Lâu thấy
Bà-la-môn,
Đã đạt
Bát-niết-bàn;
Qua rồi mọi sợ
hãi,
Vượt hẳn
ái ân đời.
Thiên tử kia nghe những gì Phật
nói, hoan hỷ, tùy hỷ đảnh lễ sát chân Phật, liền biến mất.
*
Tôi nghe như vầy:
Một thời, Đức Phật ở trong vườn Cấp cô độc, rừng
cây Kỳ-đà, nước Xá-vệ. Bấy giờ, có một Thiên tử tướng mạo tuyệt vời, vào
lúc cuối đêm, đến chỗ Phật, đảnh lễ chân Phật, rồi ngồi lui qua một bên;
từ thân tỏa ánh sáng chiếu khắp vườn Cấp cô độc, rừng cây Kỳ-đà. Thiên tử
ấy bạch Phật:
Ai vượt các
dòng thác,
Ngày đêm siêng
tinh tấn;
Không vin cũng
không trụ,
Nhiễm gì
mà không dính?[9]
Bấy giờ, Thế Tôn nói kệ đáp:
Tất cả giới
đầy đủ,
Trí tuệ, khéo
chánh thọ;[10]
Trong tư duy, buộc niệm,
Qua nạn, vượt các dòng.
Nơi dục tưởng không ham,
Nơi sắc kết vượt qua;
Không bám cũng không
trụ,
Nơi nhiễm
cũng không dính.[11]
Khi ấy Thiên tử lại nói kệ:
Lâu thấy
Bà-la-môn
Đã đạt
Bát-niết-bàn;
Qua rồi mọi sợ
hãi,
Vượt hẳn
ái ân đời.
Sau khi Thiên tử kia nghe những gì
Phật nói, hoan hỷ, tùy hỷ đảnh lễ sát chân Phật, liền biến mất.
*
Tôi nghe như vầy:
Một thời, Đức Phật ở trong vườn Cấp cô độc, rừng
cây Kỳ-đà, nước Xá-vệ. Bấy giờ, có Câu-ca-ni là con gái của Quang minh
thiên[13],
dung sắc tuyệt vời, vào lúc cuối đêm, đi đến chỗ Phật, đảnh lễ chân Phật,
ngồi lui qua một bên, từ thân tỏa ánh sáng chiếu khắp Sơn cốc.
Lúc ấy, Thiên nữ Câu-ca-ni nói kệ:
Tâm kia
không tạo ác,
Và thân,
miệng; trong đời
Năm dục đều hư
vọng.
Chánh trí,
chánh buộc niệm.
Không tập cận
các khổ,
Cùng hòa
hợp phi nghĩa.
Phật bảo Thiên nữ:
“Đúng vậy! Đúng vậy!”
Tâm kia
không tạo ác,
Và thân,
miệng; trong đời
Năm dục đều hư
vọng.
Chánh trí,
chánh buộc niệm.
Không tập cận
các khổ,
Cùng hòa
hợp phi nghĩa.
Thiên nữ Câu-ca-ni nghe Phật nói
xong, hoan hỷ, tùy hỷ đảnh lễ sát chân Phật, liền biến mất.
Bấy giờ, Thế Tôn, khi đêm đã qua,
vào lúc sáng sớm, vào giữa Tăng, trải tọa cụ ngồi trước đại chúng, bảo các
Tỳ-kheo:
“Cuối đêm qua, có Thiên nữ
Câu-ca-ni, dung sắc tuyệt diệu đến chỗ Ta, đảnh lễ sát chân, ngồi lui qua
một bên nói kệ:
Tâm kia
không tạo ác,
Và thân,
miệng; trong đời
Năm dục đều hư
vọng.
Chánh trí,
chánh buộc niệm.
Không tập cận
các khổ,
Cùng hòa
hợp phi nghĩa.
“Ta liền đáp: ‘Đúng vậy! Đúng vậy!’
Tâm kia
không tạo ác,
Và thân,
miệng; trong đời
Năm dục đều hư
vọng.
Chánh trí,
chánh buộc niệm.
Không tập cận
các khổ,
Cùng hòa
hợp phi nghĩa.
“Khi nói những lời này, Thiên nữ
Câu-ca-ni nghe những gì Ta nói, hoan hỷ, tùy hỷ đảnh lễ sát chân Ta, liền
biến mất.”
Sau khi Phật nói kinh này xong, các
Tỳ-kheo nghe những gì Phật dạy, hoan hỷ phụng hành.
*
Tôi nghe như vầy:
Một thời, Đức Phật ở tinh xá Sơn cốc, thành Vương
xá. Bấy giờ, Tôn giả A-nan nói với các Tỳ-kheo:
“Nay tôi sẽ nói kinh Tứ cú pháp, hãy lắng nghe và
suy nghĩ kỹ, tôi sẽ vì các thầy mà nói. Thế nào là kinh Tứ cú pháp?”
Bấy giờ, Tôn giả A-nan liền nói kệ:
Tâm kia
không tạo ác,
Và thân,
miệng; trong đời
Năm dục đều hư
vọng.
Chánh trí,
chánh buộc niệm.
Không tập cận
các khổ,
Cùng hòa
hợp phi nghĩa.
“Này các Tỳ-kheo, đó gọi là kinh Tứ
cú pháp.”
Khi ấy, cách Tôn giả A-nan không
xa, có một Bà-la-môn đang dạy các Bà-la-môn thiếu niên đọc tụng kinh. Bấy
giờ, Bà-la-môn kia tự nghĩ: ‘Bài kệ mà Sa-môn A-nan đã nói, đối với kinh
mà ta đã nói, thì đó là phi nhân[15]
nói.’ Bà-la-môn kia liền đến chỗ Phật, sau khi chào hỏi,
ủy lạo Thế Tôn xong, ngồi lui qua một bên, bạch Phật:
“Thưa Cù-đàm, Sa-môn A-nan đã nói
kệ rằng:
Tâm kia
không tạo ác,
Và thân, miệng, trong
đời.
Năm dục đều hư
vọng.
Chánh trí,
chánh buộc niệm.
Không tập cận
các khổ,
Cùng hòa
hợp phi nghĩa.
“Những điều được nói như vậy, thật
sự đó là lời của phi nhân, không phải của người.”
Phật bảo Bà-la-môn:
“Đúng vậy! Đúng vậy! Bà-la-môn, đó
là phi nhân nói không phải người nói.
“Bấy giờ, có Thiên nữ Câu-ca-ni đến
chỗ Ta, đảnh lễ sát chân Ta, ngồi lui qua một bên, nói kệ rằng:
Tâm kia
không tạo ác,
Và thân,
miệng; trong đời
Năm dục đều hư
vọng.
Chánh trí,
chánh buộc niệm.
Không tập cận
các khổ,
Cùng hòa
hợp phi nghĩa.
“Ta liền trả lời:
“Đúng vậy! Đúng vậy! Như Thiên nữ
đã nói:
Tâm kia
không tạo ác,
Và thân,
miệng; trong đời
Năm dục đều hư
vọng.
Chánh trí,
chánh buộc niệm.
Không tập cận
các khổ,
Cùng hòa
hợp phi nghĩa.
“Cho nên Bà-la-môn, nên biết, những
điều trong bài kệ này nói là do phi nhân nói, không phải người nói.”
Phật nói kinh này xong, Bà-la-môn
kia nghe những gì Phật dạy, hoan hỷ, tùy hỷ đảnh lễ sát chân Phật, ra về.
*
Tôi
nghe như vầy:
Một
thời, Đức Phật ở tinh xá Sơn cốc, thành Vương xá. Bấy giờ, có Thiên nữ
Câu-ca-na-sa là con gái của Quang minh thiên, phát ra ánh chớp lớn sáng
rực, quy Phật, quy Pháp, quy Tỳ-kheo Tăng, đi đến chỗ Phật, cúi đầu lễ
chân Phật, rồi ngồi lui qua một bên; từ thân tỏa ra ánh sáng chiếu khắp
Sơn cốc, ở trước Phật, liền nói kệ:
Tâm kia
không tạo ác,
Và thân,
miệng; trong đời
Năm dục đều hư
vọng,
Chánh trí,
chánh buộc niệm.
Không tập cận
các khổ,
Cùng hòa
hợp phi nghĩa.
Bấy
giờ Thế Tôn bảo Thiên nữ:
“Đúng
vậy! Đúng vậy! Như những gì ngươi đã nói:
Tâm kia
không tạo ác,
Và thân,
miệng; trong đời
Năm dục đều hư
vọng,
Chánh trí,
chánh buộc niệm.
Không tập cận
các khổ,
Cùng hòa
hợp phi nghĩa.”
Bấy
giờ, Thiên nữ Câu-ca-na-sa nghe những gì Phật dạy, hoan hỷ tùy hỷ, đảnh lễ
sát chân Phật, liền biến mất.
Khi
đêm đã qua, vào lúc sáng sớm, Thế Tôn vào giữa Tăng, trải tọa cụ ngồi
trước đại chúng, bảo các Tỳ-kheo:
“Cuối
đêm qua, Thiên nữ Câu-ca-na-sa là con gái của Quang minh thiên, đến chỗ
Ta, cúi đầu đảnh lễ sát chân Ta, ngồi lui qua một bên, nói kệ:
Tâm kia
không tạo ác,
Và thân,
miệng; trong đời
Năm dục đều hư
vọng,
Chánh trí,
chánh buộc niệm.
Không tập cận
các khổ,
Cùng hòa
hợp phi nghĩa.
Lúc
ấy, Ta liền đáp:
“Đúng
vậy Thiên nữ! Đúng vậy Thiên nữ! Như những gì ngươi đã nói:
Tâm kia
không tạo ác,
Và thân,
miệng; trong đời
Năm dục đều hư
vọng,
Chánh trí,
chánh buộc niệm.
Không tập cận
các khổ,
Cùng hòa hợp
phi nghĩa.
Thiên nữ
Câu-ca-na,
Ánh chớp sáng
rực rỡ;
Kính lễ Phật,
Pháp, Tăng,
Nói kệ
nghĩa lợi ích.
Phật
nói kinh này xong, các Tỳ-kheo nghe những gì Phật dạy, hoan hỷ phụng hành.
*
Tôi nghe như vầy:
Một thời, Đức
Phật ở tinh xá Sơn cốc, tại thành Vương xá. Bấy giờ, có Câu-ca-na-sa là
con gái của Quang minh thiên[17],
phóng ra điện chớp, ánh sáng chói lọi, vào lúc cuối đêm, đến chỗ Phật, cúi
đầu lễ sát chân Phật, rồi ngồi lui qua một bên; từ thân kia tỏa ra ánh
sáng chiếu khắp Sơn cốc, ở trước Phật, liền nói kệ:
Con có thể
diễn rộng,
Chánh pháp
luật Như Lai;
Nhưng nay chỉ nói lược,
Đủ để tỏ lòng
con.
Tâm kia không
tạo ác,
Và thân,
miệng; trong đời
Năm dục đều
hư vọng,
Chánh trí,
chánh buộc niệm.
Không tập cận
các khổ,
Cùng hòa
hợp phi nghĩa.
Thế
Tôn bảo Thiên nữ:
“Đúng
vậy Thiên nữ! Đúng vậy Thiên nữ! Như lời ngươi đã nói:
Tâm kia
không tạo ác,
Và thân,
miệng; trong đời
Năm dục đều hư
vọng,
Chánh trí,
chánh buộc niệm.
Không tập cận
các khổ,
Cùng hòa
hợp phi nghĩa.
Thiên
nữ Câu-ca-na-sa nghe những gì Phật dạy, hoan hỷ, tùy hỷ, làm lễ, liền biến
mất.
Qua
sáng sớm hôm sau, bấy giờ Thế Tôn vào trước Tăng chúng, trải tọa cụ ngồi
giữa đại chúng, bảo các Tỳ-kheo:
“Cuối
đêm qua, Thiên nữ Câu-ca-na-sa lại đến chỗ Ta, cung kính làm lễ, ngồi lui
qua một bên, nói kệ:
Con có thể
diễn rộng,
Chánh pháp
luật Như Lai;
Nhưng nay chỉ nói lược,
Đủ để tỏ lòng con.
Tâm kia không tạo ác,
Và thân, miệng; trong
đời
Năm dục đều hư vọng,
Chánh trí, chánh buộc
niệm.
Không tập cận các khổ,
Cùng hòa
hợp phi nghĩa.
Lúc ấy, Ta trả lời:
“Đúng vậy Thiên nữ! Đúng vậy Thiên
nữ! Như lời ngươi đã nói:
Tâm kia
không tạo ác,
Và thân,
miệng; trong đời
Năm dục đều hư
vọng,
Chánh trí,
chánh buộc niệm.
Không tập cận
các khổ,
Cùng hòa
hợp phi nghĩa.
“Thiên nữ kia nghe những gì Ta nói,
hoan hỷ, tùy hỷ đảnh lễ sát chân Ta, liền biến mất.”
Phật nói kinh này xong, các Tỳ-kheo
nghe những gì Phật dạy, hoan hỷ phụng hành.
*
Tôi nghe như vầy:
Một thời, Đức Phật ở bên ao Di-hầu, trong giảng
đường Trùng các, nước Tỳ-xá-ly. Bấy giờ, có Thiên nữ Câu-ca-na-sa, Thiên
nữ Châu-lô-đà[19]
dung sắc tuyệt diệu, vào lúc cuối đêm, đến chỗ Phật, đảnh lễ chân Phật,
rồi ngồi lui qua một bên; từ thân tỏa ra ánh sáng chiếu khắp cạnh bờ ao
Di-hầu. Lúc này, Thiên nữ Châu-lô-đà nói kệ bạch Phật:
Đại Sư Đẳng
Chánh Giác,
Ở nước
Tỳ-xá-ly.
Câu-ca-na,
Châu-lô,
Xin cung kính
đảnh lễ.
Xưa con chưa
từng nghe,
Chánh pháp
luật Mâu-ni;
Nay đích thân
được gặp,
Hiện tiền nói
chánh pháp.
Nếu đối pháp
luật Thánh,
Ác tuệ sanh
chán ghét,
Ắt sẽ rơi
đường ác,
Chịu các khổ
lâu dài.
Nếu đối pháp
luật Thánh,
Chánh niệm đủ
luật nghi,
Người kia sanh
lên Trời,
Được an
vui lâu dài.
Thiên nữ Câu-ca-na-sa lại nói kệ:
Tâm kia
không tạo ác,
Và thân,
miệng; trong đời
Năm dục đều hư
vọng,
Chánh trí,
chánh buộc niệm.
Không tập cận
các khổ,
Cùng hòa
hợp phi nghĩa.
Thế Tôn bảo Thiên nữ:
“Đúng vậy! Đúng vậy! Như những gì
các ngươi đã nói:
Tâm kia
không tạo ác,
Và thân,
miệng; trong đời
Năm dục đều hư
vọng,
Chánh trí,
chánh buộc niệm.
Không tập cận
các khổ,
Cùng hòa
hợp phi nghĩa.
Các Thiên nữ kia nghe những gì Phật
dạy hoan hỷ, tùy hỷ, rồi biến mất.
Qua sáng sớm hôm sau, bấy giờ Thế
Tôn vào trong Tăng chúng, trải tọa cụ mà ngồi, bảo các Tỳ-kheo:
“Cuối đêm qua có hai Thiên nữ nhan
sắc tuyệt vời, đến chỗ Ta, vì Ta làm lễ, ngồi lui qua một bên, Thiên nữ
Châu-lô-đà nói kệ:
Đại Sư Đẳng
Chánh Giác,
Ở nước
Tỳ-xá-ly;
Con
Câu-ca-na-sa,
Và cùng
Châu-lô-đà;
Hai Thiên nữ chúng con,
Đảnh lễ sát chân Phật.
Xưa con chưa
từng nghe,
Chánh pháp
luật Mâu-ni;
Nay mới thấy
Chánh giác,
Diễn nói pháp
vi diệu.
Nếu đối pháp
luật Thánh,
Chán ghét trụ
ác tuệ;
Ắt rơi vào
đường ác,
Chịu khổ lớn
lâu dài.
Nếu đối pháp
luật Thánh,
Chánh niệm đủ
luật nghi;
Sanh lên Trời,
đường lành,
Được an
vui lâu dài.
Thiên nữ Câu-ca-na-sa lại nói kệ:
Tâm kia
không tạo ác,
Và thân,
miệng; trong đời
Năm dục đều hư
vọng,
Chánh trí,
chánh buộc niệm.
Không tập cận
các khổ,
Cùng hòa
hợp phi nghĩa.
Lúc ấy, Ta đáp:
“Đúng vậy! Đúng vậy! Như những gì
ngươi đã nói:
Tâm kia
không tạo ác,
Và thân,
miệng; trong đời
Năm dục đều hư
vọng,
Chánh trí,
chánh buộc niệm.
Không tập cận
các khổ,
Cùng hòa
hợp phi nghĩa.”
Phật nói kinh này xong, các Tỳ-kheo
nghe những gì Phật dạy, hoan hỷ, phụng hành.
*
Tôi nghe như vầy:
Một thời, Đức Phật ở trong vườn Cấp cô độc, rừng
cây Kỳ-đà, nước Xá-vệ. Bấy giờ, có một Thiên tử dung sắc tuyệt diệu, vào
lúc cuối đêm, đến chỗ Phật, cúi đầu lễ sát chân Phật, ngồi lui qua một
bên; từ thân tỏa ánh sáng chiếu khắp vườn Cấp cô độc, rừng cây Kỳ-đà. Lúc
đó, Thiên tử kia nói kệ:
Không xúc,
không báo xúc[21],
Có xúc, có báo
xúc.
Do vì xúc, báo xúc,
Không sân,
không rời sân.[22]
Bấy giờ, Thế Tôn nói kệ đáp:
Đừng đối
người không sân,
Chống lại bằng
sân hận.
Bậc Chánh sĩ
thanh tịnh,
Lìa các phiền
não kết,
Với họ khởi
tâm ác,
Tâm ác trở lại
mình.
Như nghịch gió tung bụi,
Bụi kia
lại dính mình.[23]
Thiên tử kia lại nói kệ:
Lâu thấy
Bà-la-môn
Đã đạt
Bát-niết-bàn;
Qua rồi mọi sợ
hãi,
Vượt hẳn
ái ân đời.
Thiên tử kia nghe những gì Phật đã
nói, hoan hỷ, tùy hỷ cúi đầu lễ sát chân Phật, liền biến mất.
*
Tôi nghe như vầy:
Một thời, Đức Phật ở trong vườn Cấp cô độc, rừng
cây Kỳ-đà, nước Xá-vệ. Bấy giờ, có một Thiên tử dung sắc tuyệt diệu, vào
lúc cuối đêm, đến chỗ Phật, đảnh lễ sát chân Phật, ngồi lui qua một bên;
từ thân tỏa ánh sáng chiếu khắp vườn Cấp cô độc, rừng cây Kỳ-đà. Lúc đó,
Thiên tử ấy nói kệ:
Việc làm
người ngu si,
Không hợp với
trí tuệ;
Việc ác do mình làm,
Là bạn ác của mình.
Tạo ra nhiều ác hành,
Cuối cùng
chịu báo khổ.
Bấy giờ Thế Tôn nói kệ đáp:
Đã tạo
nghiệp bất thiện,
Cuối cùng chịu
khổ não;
Tạo nghiệp tuy
hoan hỷ,
Thọ báo thì
kêu khóc.
Người tạo các
nghiệp thiện,
Cuối cùng
không khổ não;
Khi tạo nghiệp
hoan hỷ,
Khi thọ
báo an vui.
Khi ấy, Thiên tử kia lại nói kệ:
Lâu thấy
Bà-la-môn,
Đã đạt
Bát-niết-bàn;
Qua rồi mọi sợ
hãi,
Vượt hẳn
ái ân đời.
Thiên tử kia nghe những gì Phật đã
nói, hoan hỷ, tùy hỷ đảnh lễ sát chân Phật, liền biến mất.
*
Tôi nghe như vầy:
Một thời, Đức Phật ở trong vườn Cấp cô độc, rừng
cây Kỳ-đà, nước Xá-vệ. Bấy giờ, có một Thiên tử dung sắc tuyệt diệu, vào
lúc cuối đêm, đến chỗ Phật, đảnh lễ sát chân Phật, ngồi lui qua một bên,
từ thân tỏa ánh sáng chiếu khắp vườn Cấp cô độc, rừng cây Kỳ-đà. Lúc đó,
Thiên tử kia nói kệ:
Không thể
chỉ nói suông,
Cũng không một
mực nghe,
Mà đạt được
đạo tích,
Kiên cố thẳng
vượt qua.
Tư duy khéo
tịch diệt,
Giải thoát các ma phược.
Làm được mới đáng nói;
Không được, không nên
nói.
Người không làm mà nói,
Thì người trí biết sai.
Không làm điều nên làm;
Không làm mà nói làm,
Là đồng
với giặc quấy.
Bấy giờ Thế Tôn bảo Thiên tử:
“Nay ông có điều gì hiềm trách
chăng?”[26]
Thiên tử bạch Phật:
“Bạch Thế Tôn, con hối lỗi.
Bạch Thiện Thệ, con hối lỗi.”
Bấy giờ, Thế Tôn mỉm cười vui vẻ.
Lúc ấy, Thiên tử kia lại nói kệ:
Nay con xin
hối lỗi,
Thế Tôn không
nạp thọ;
Trong lòng ôm tâm ác,
Oán hờn mà
không bỏ.
Bấy giờ, Thế Tôn nói kệ đáp:
Chỉ nói lời
hối lỗi,
Trong tâm kia không
dừng;
Làm sao dứt được oán,
Mà gọi là
tu thiện?
Lúc ấy, Thiên tử kia lại nói kệ:
Ai không có
lỗi kia?
Người nào
không có tội?
Ai lại không
ngu si?
Ai thường
hay kiên cố?
Thiên tử kia lại nói kệ tiếp:
Lâu thấy
Bà-la-môn,
Đã đạt
Bát-niết-bàn;
Qua rồi mọi sợ
hãi,
Vượt hẳn
ái ân đời.
Thiên tử kia nghe những gì Phật đã
nói, hoan hỷ, tùy hỷ cúi đầu lễ sát chân Phật, liền biến mất.
*
Tôi nghe như vầy:
Một thời, Đức Phật ở trong vườn Trúc, khu
Ca-lan-đà, thành Vương xá. Bấy giờ, có Tỳ-kheo Cù-ca-lê[28]
là bè đảng Đề-bà-đạt-đa, đến chỗ Phật, đảnh lễ sát chân Phật, ngồi lui qua
một bên. Bấy giờ, Thế Tôn bảo Tỳ-kheo Cù-ca-lê:
“Này Cù-ca-lê, vì sao đối với phạm hạnh thanh tịnh
của Xá-lợi-phất và Mục-kiền-liên, ngươi khởi tâm không thanh tịnh, để sẽ
phải chịu khổ não lâu dài, không lợi ích.”
Tỳ-kheo Cù-ca-lê bạch Phật:
“Bạch Thế Tôn, nay con tin lời Thế
Tôn, những điều đó là đúng. Nhưng tâm Xá-lợi-phất và Mục-kiền-liên có ác
dục.”
Nói như vậy lần thứ hai, lần thứ
ba. Tỳ-kheo Cù-ca-lê thuộc bè đảng Đề-bà-đạt-đa ở chỗ Thế Tôn, trong khi
nói lại lần thứ ba, chống đối, không nhận chịu, liền từ chỗ ngồi đứng dậy
bỏ đi. Sau khi đứng dậy bỏ đi, khắp người ông nổi đầy mụt nhọt giống như
trái lật, dần dần to lên như trái đào. Khi ấy Tỳ-kheo Cù-ca-lê đau đớn
thống khổ, miệng kêu lên: ‘Nóng quá! Nóng quá!’ Máu mủ chảy ra, thân hoại
mạng chung, sanh vào địa ngục lớn Bát-đàm-ma[29].
Bấy giờ, có ba vị Thiên tử dung mạo
tuyệt vời, vào lúc cuối đêm, đến chỗ Phật, cúi đầu lễ sát chân Phật, ngồi
lui qua một bên. Lúc ấy, một Thiên tử bạch Phật:
“Tỳ-kheo Cù-ca-lê thuộc bè đảng
Đề-bà-đạt-đa nay mạng chung.”
Thiên tử thứ hai thưa:
“Chư tôn nên biết, Tỳ-kheo Cù-ca-lê
mạng chung rơi vào địa ngục.”
Thiên tử thứ ba liền nói kệ:
Con người
sanh ở đời,
Búa sanh từ trong miệng,
Trở lại chém thân mình,
Đó do lời nói ác.
Đáng chê lại khen ngợi;
Đáng khen ngợi lại chê.
Tội này sanh nơi miệng,
Chết rơi vào đường ác.
Cờ bạc mất hết của,
Phải quấy là lỗi lớn;
Hủy Phật cùng Thanh văn,
Thì đó là
tội lớn.
Ba vị Thiên tử kia nói kệ này rồi
liền biến mất. Qua sáng sớm hôm sau, bấy giờ Thế Tôn đi vào trong Tăng,
trải chỗ ngồi, ngồi trước đại chúng, bảo các Tỳ-kheo:
“Cuối đêm qua, có ba vị Thiên tử
đến chỗ Ta, đảnh lễ sát chân Ta, ngồi lui qua một bên. Thiên tử thứ nhất
thưa Ta rằng:
“Bạch Thế Tôn, Tỳ-kheo Cù-ca-lê
thuộc bè đảng Đề-bà-đạt-đa nay mạng chung.
“Thiên tử thứ hai nói với chư Thiên
khác rằng:
“Tỳ-kheo Cù-ca-lê mạng chung, rơi
vào địa ngục.”
“Thiên tử thứ ba liền nói kệ:
“Con người
sanh ở đời,
Búa sanh từ trong miệng,
Trở lại chém thân mình,
Đó do lời nói ác.
Đáng chê lại khen ngợi,
Đáng khen ngợi lại chê.
Tội này sanh nơi miệng,
Chết rơi
vào đường ác.
“Sau khi nói kệ này rồi liền biến
mất.
“Này các Tỳ-kheo, các ông có muốn
nghe kỳ hạn thọ mạng của chúng sanh sanh vào địa ngục A-phù-đà[30]
không?”
Các Tỳ-kheo bạch Phật:
“Bạch Thế Tôn, nay chính đúng lúc,
cúi xin Thế Tôn vì đại chúng nói về kỳ hạn thọ mạng của chúng sanh trong
địa ngục A-phù-đà. Các Tỳ-kheo nghe xong sẽ lãnh thọ phụng hành.”
Phật bảo Tỳ-kheo:
“Hãy lắng nghe và suy nghĩ kỹ, Ta
sẽ vì các ông mà giảng nói. Thí như tại nước Câu-tát-la bốn thăng là một
a-la, bốn a-la là một độc-lung-na, mười sáu độc-lung-na là một xà-ma-na,
mười sáu xà-ma-na là một ma-ni, hai mươi ma-ni là một khư-lê[31],
hai mươi khư-lê là một kho hạt cải đầy trong đó[32].
Giả sử, nếu có người, cứ một trăm năm lấy một hạt cải, như vậy cho đến khi
hết sạch kho hạt cải đầy kia, thọ mạng của chúng sanh trong địa ngục
A-phù-đà vẫn chưa hết. Thọ mạng của chúng sanh trong hai mươi địa ngục
A-phù-đà như vậy bằng một thọ mạng của chúng sanh trong địa ngục
Ni-la-phù-đà[33].
Thọ mạng của chúng sanh trong hai mươi địa ngục Ni-la-phù-đà bằng thọ mạng
của chúng sanh trong địa ngục A-tra-tra[34].
Thọ mạng của chúng sanh trong hai mươi địa ngục A-tra-tra bằng thọ mạng
của chúng sanh trong một địa ngục A-ba-ba[35].
Thọ mạng của chúng sanh trong hai mươi địa ngục A-ba-ba bằng thọ mạng của
chúng sanh trong một địa ngục A-hưu-hưu[36].
Thọ mạng của chúng sanh trong hai mươi địa ngục A-hưu-hưu bằng thọ mạng
của chúng sanh trong một địa ngục Ưu-bát-la[37].
Thọ mạng của chúng sanh trong hai mươi địa ngục Ưu-bát-la bằng thọ mạng
của chúng sanh trong một địa ngục Bát-đàm-ma. Thọ mạng của chúng sanh
trong hai mươi địa ngục Bát-đàm-ma bằng thọ mạng của chúng sang trong một
địa ngục Ma-ha Bát-đàm-ma.
“Này Tỳ-kheo, Tỳ-kheo Cù-ca-lê mạng
chung rơi vào địa ngục Ma-ha Bát-đàm-ma, vì Tỳ-kheo này đối với
Xá-lợi-phất và Mục-kiền-liên sanh ác tâm phỉ báng. Cho nên, các Tỳ-kheo,
nên học như vầy: Ở nơi chỗ tim đèn, mồi lửa đang cháy kia còn không muốn
hủy hoại, huống là hủy hoại chúng sanh có thức.”
Phật bảo các Tỳ-kheo: “Hãy học như
vậy.”
Phật nói kinh này xong, các Tỳ-kheo
nghe những gì Phật dạy, hoan hỷ phụng hành.
*
Tôi nghe như vầy:
Một thời, Đức Phật ở trong vườn Cấp cô độc, rừng
cây Kỳ-đà, nước Xá-vệ. Bấy giờ, có một Thiên tử tướng mạo tuyệt, vào lúc
cuối đêm, đến chỗ Phật, đảnh lễ sát chân Phật, ngồi lui qua một bên, từ
thân tỏa ánh sáng chiếu khắp vườn Cấp cô độc, rừng cây Kỳ-đà. Thiên tử kia
nói kệ hỏi Phật:
Thoái lạc,
bị đánh bại
Làm sao mà
biết được?
Cúi xin Thế
Tôn nói,
Cửa bại
vong thế nào?
Bấy giờ, Thế Tôn nói kệ đáp:
Chỗ thắng dễ
biết được,
Chỗ bại biết
cũng dễ;
Pháp lạc chỗ
thắng xứ,
Hủy pháp là
bại vong.
Ưa thích tri
thức ác,
Không ưa tri thức thiện;
Sanh oán kết bạn lành,
Đó gọi cửa bại vong.
Ưa thích người bất
thiện,
Người thiện lại ganh
ghét;
Muốn ác, không muốn
thiện,
Đó gọi cửa bại vong.
Đấu, cân, lừa dối người,
Đó gọi cửa bại vong.
Đam mê rượu, cờ bạc,
Chơi bời mê nữ sắc;
Tiêu tan hết của cải,
Đó gọi cửa bại vong.
Người nữ không tự giữ,
Bỏ chồng theo người
khác;
Người nam tính phóng
đảng,
Bỏ vợ theo ngoại sắc.
Những gia đình như vậy,
Đều đọa cửa bại vong.
Vợ già lấy chồng trẻ,
Tâm thường hay ghen
ghét;
Ghen ghét nằm không yên,
Đó gọi cửa bại vong.
Chồng già lấy vợ trẻ,
Đoạ bại vong cũng vậy.
Thường thích mê ngủ
nghỉ,
Bạn bè cùng đi chơi.
Biếng lười, ưa sân hận,
Chúng rơi cửa bại vong.
Nhiều của kết bạn bè,
Ăn uống không điều độ;
Tiêu tan nhiều của cải,
Chúng rơi cửa bại vong.
Ít của nhiều tham dục,
Sanh vào nhà Sát-lợi;
Thường mong làm vương
giả,
Đó là cửa bại vong.
Cầu châu ngọc anh lạc,
Giày da, che
tàn lọng;
Trang sức từ keo kiệt,
Đó là cửa bại vong.
Nhận thức ăn của người,
Keo kiệt tiếc của mình;
Không đáp ơn cho người,
Đó là cửa bại vong.
Sa-môn,
Bà-la-môn,
Cung thỉnh vào
nhà mình;
Keo lẫn không
cúng kịp,
Đó là cửa bại
vong.
Sa-môn,
Bà-la-môn,
Thứ lớp đi
khất thực;
Quở trách
không muốn cho,
Đó là cửa bại
vong.
Cha mẹ nếu
tuổi già,
Không tùy thời
phụng dưỡng;
Có của mà
không nuôi,
Đó là cửa bại
vong.
Đối cha mẹ,
anh em,
Đánh đuổi và
mạ nhục;
Không tôn ti trật tự,
Đó là cửa bại vong.
Đối Phật và đệ tử,
Tại gia cùng xuất gia;
Hủy báng không cung
kính,
Đó là đọa cửa phụ.
Thật chẳng
A-la-hán,
Tự xưng
A-la-hán;
Đó là giặc thế gian,
Rơi vào cửa bại vong.
Đó, bại vong ở đời,
Ta thấy biết nên nói;
Giống như đường hiểm sợ,
Người trí
phải lánh xa.
Khi ấy Thiên tử kia lại nói kệ:
Lâu thấy
Bà-la-môn,
Mau đạt
Bát-niết-bàn;
Qua rồi mọi sợ
hãi,
Vượt hẳn
đời ái ân.
Sau khi Thiên tử kia nghe những gì
Phật nói, hoan hỷ, tùy hỷ đảnh lễ sát chân Phật, liền biến mất.
*
Tôi nghe như vầy:
Một thời, Đức Phật ở trong vườn Cấp cô độc, rừng
cây Kỳ-đà, nước Xá-vệ. Bấy giờ, có một Thiên tử tướng mạo tuyệt vời, vào
lúc cuối đêm, đến chỗ Phật, đảnh lễ sát chân Phật, ngồi lui qua một bên,
từ thân tỏa ánh sáng chiếu khắp vườn Cấp cô độc, rừng cây Kỳ-đà. Thiên tử
kia nói kệ:
Gì xuống
thấp, xuống theo,
Gì cất cao, cất theo;
Trẻ em chơi thế nào,
Như trẻ
ném đất nhau?
Bấy giờ, Thế Tôn nói kệ đáp:
Ái xuống thì
xuống theo,
Ái lên thì lên theo;
Ái đùa đối kẻ ngu,
Như trẻ
ném đất nhau.
Bấy giờ, Thiên tử kia lại nói kệ:
Lâu thấy
Bà-la-môn,
Mau đạt
Bát-niết-bàn;
Qua rồi mọi sợ
hãi,
Vượt hẳn
đời ái ân.
Thiên tử kia nghe những gì Phật
nói, hoan hỷ, tùy hỷ đảnh lễ sát chân Phật, liền biến mất.
*
Tôi nghe như vầy:
Một thời, Đức Phật ở trong vườn Cấp cô độc, rừng
cây Kỳ-đà, nước Xá-vệ. Bấy giờ, có một Thiên tử tướng mạo rất đẹp đẽ, vào
lúc cuối đêm, đến chỗ Phật, đảnh lễ sát chân Phật, ngồi lui qua một bên,
từ thân tỏa ánh sáng chiếu khắp vườn Cấp cô độc, rừng cây Kỳ-đà. Thiên tử
kia nói kệ:
Quyết định
để ngăn chặn,
Ý vọng tưởng
mà đến;
Nếu người ngăn
tất cả,
Thì nó
không bức bách.[41]
Bấy giờ, Thế Tôn nói kệ đáp:
Quyết định
để ngăn chặn,
Ý vọng tưởng
mà đến;
Chẳng cần ngăn
tất cả,
Chỉ ngăn
nghiệp ác kia.[42]
Khi ngăn ác
kia rồi,
Không để
nó bức bách.
Bấy giờ, Thiên tử kia lại nói kệ:
Lâu thấy
Bà-la-môn,
Mau đạ
Bát-niết-bàn;
Qua rồi mọi sợ
hãi,
Vượt hẳn
đời ái ân.
Thiên tử kia nghe những gì Phật
nói, hoan hỷ, tùy hỷ đảnh lễ sát chân Phật, liền biến mất.
*
Tôi nghe như vầy:
Một thời, Đức Phật ở trong vườn Cấp cô độc, rừng
cây Kỳ-đà, nước Xá-vệ. Bấy giờ, có một Thiên tử tướng mạo tuyệt vời, vào
lúc cuối đêm, đến chỗ Phật, đảnh lễ sát chân Phật, ngồi lui qua một bên,
từ thân tỏa ánh sáng chiếu khắp vườn Cấp cô độc, rừng cây Kỳ-đà. Thiên tử
kia nói kệ hỏi Phật:
Làm sao được
nổi danh?
Làm sao được
của nhiều?
Làm sao đức lan rộng?
Làm sao
được bạn lành?
Bấy giờ, Thế Tôn nói kệ đáp:
Trì giới
được nổi danh,
Bố thí được
của nhiều;
Đức chân thật lan khắp,
Ân huệ
được bạn lành.
Bấy giờ, Thiên tử kia lại nói kệ:
Lâu thấy
Bà-la-môn,
Mau đạt
Bát-niết-bàn;
Qua rồi mọi sợ
hãi,
Vượt hẳn
đời ái ân.
Thiên tử kia nghe những gì Phật
nói, hoan hỷ, tùy hỷ đảnh lễ sát chân Phật, liền biến mất.
*
Tôi nghe như vầy:
Một thời, Đức Phật ở trong vườn Cấp cô độc, rừng
cây Kỳ-đà, nước Xá-vệ. Bấy giờ, có một Thiên tử tướng mạo tuyệt vời, vào
lúc cuối đêm, đến chỗ Phật, đảnh lễ sát chân Phật, ngồi lui qua một bên,
từ thân tỏa ánh sáng chiếu khắp vườn Cấp cô độc, rừng cây Kỳ-đà. Thiên tử
kia nói kệ hòi Phật:
Người tạo tác thế nào,
Trí tuệ để cầu tài;
Cùng nhiếp thọ tài sản,
Hoặc hơn, hoặc lại kém?
Bấy giờ, Thế Tôn nói kệ đáp:
Mới học nghề
nghiệp khéo,
Tìm cách gom
tài vật;
Được tài vật
kia rồi,
Phải nên phân
làm bốn.
Một phần tự
nuôi thân,
Hai phần cho doanh
nghiệp;
Phần còn lại để dành,
Nghĩ đến người thiếu
thốn.
Người kinh doanh sự
nghiệp,
Làm ruộng hay buôn bán;
Chăn trâu, dê phồn
thịnh;
Nhà cửa dùng cầu lợi,
Tạo phòng ốc giường nằm;
Sáu thứ đồ nuôi sống,
Phương tiện tạo mọi thứ;
An lạc sống suốt đời.
Khéo tu nghiệp
như vậy,
Trí tuệ dùng
cầu tài;
Của báu theo
đó sanh,
Như các dòng
về biển.
Tài sản nhiều
như vậy,
Như ong gom vị ngọt;
Ngày đêm của tăng dần,
Như kiến dồn đống mồi.
Không giao của người
già,
Không gởi người bên
cạnh;
Không tin người gian
xảo,
Cùng những người keo
lẫn.
Gần gũi người thành
công,
Xa lìa người thất bại;
Người thường thành công
việc,
Giống như lửa cháy bùng.
Người quý trọng bạn
lành,
Thân mật theo người tốt;
Đồng cảm như anh em,
Khéo đùm bọc lẫn nhau.
Ở trong vòng quyến
thuộc,
Biểu hiện như trâu chúa;
Tùy chỗ cần mọi người,
Phân của cho ăn uống;
Khi tuổi hết mạng chung,
Sanh về
trời hưởng lạc.
Lúc ấy, Thiên tử kia lại nói kệ:
Lâu thấy
Bà-la-môn,
Mau đạt
Bát-niết-bàn;
Qua rồi mọi sợ
hãi,
Vượt hẳn
đời ái ân.
Thiên tử kia nghe Phật nói xong,
hoan hỷ, tùy hỷ cúi đầu lễ sát chân Phật, rồi biến mất.
*
Tôi nghe như vầy:
Một thời, Đức Phật ở trong vườn Cấp cô độc, rừng
cây Kỳ-đà, nước Xá-vệ. Bấy giờ, Thế Tôn bảo các Tỳ-kheo:
“Thời quá khứ ở Câu-tát-la có một người đánh đàn
tên là Thô Ngưu, du hành trong nhân gian tại nước Câu-tát-la, dừng nghỉ ở
chỗ vắng. Bấy giờ, có sáu Thiên nữ từ cung trời rộng lớn, đến chỗ người
đánh đàn Thô Ngưu nước Câu-tát-la, nói với người đánh đàn Thô Ngưu rằng:
‘Thưa Cậu, Cậu hãy vì chúng tôi đánh đàn, chúng tôi sẽ ca múa theo.’”
Người đánh đàn Thô Ngưu nói:
“Được vậy, các chị em! Tôi sẽ vì các chị em mà đánh
đàn. Nhưng các chị em hãy nói với tôi, các chị là ai, ở đâu đến đây?”
Thiên nữ nói:
“Cậu cứ khảy đàn đi, chúng tôi sẽ ca múa, ở trong
những lời ca tụng, sẽ tự nói lên nhân duyên ở đâu đến đây.”
Người đánh đàn Thô Ngưu kia liền khảy đàn, còn sáu
Thiên nữ kia liền ca múa theo.
Thiên nữ thứ nhất nói kệ ca rằng:
Nếu người
nam, người nữ,
Bố thí y thắng
diệu;
Vì nhân duyên
thí y,
Chỗ sanh được
thù thắng.
Vật yêu thích
đem cho,
Theo ý muốn sanh Thiên;
Thấy tôi ở cung điện,
Nương hư không đi dạo.
Thân trời như khối vàng,
Hơn trong trăm Thiên nữ;
Xem xét phước đức này,
Thứ nhất
trong hồi hướng.
Thiên nữ thứ hai lại nói kệ:
Nếu người
nam, người nữ,
Bố thí hương
thắng diệu;
Vật yêu mến
vừa ý,
Theo ý muốn sanh Thiên.
Thấy tôi ở cung điện,
Nương hư không đi dạo;
Thân trời như khối vàng,
Hơn trong trăm Thiên nữ.
Xem xét phước đức này,
Thứ nhất
trong hồi hướng.
Thiên nữ thứ ba lại nói kệ:
Nếu người
nam, người nữ,
Đem thức ăn bố
thí;
Vật yêu mến
vừa ý,
Theo ý muốn sanh Thiên.
Thấy tôi ở cung điện,
Nương hư không đi dạo;
Thân trời như khối vàng,
Hơn trong trăm Thiên nữ.
Xem xét phước đức này,
Thứ nhất
trong hồi hướng.
Thiên nữ thứ tư lại nói kệ:
Nhớ lại
những đời trước,
Từng làm tôi
tớ người;
Không trộm, không tham
ăn,
Siêng tu, không biếng
nhác.
Vừa bụng tự điều thân,
Phần dư giúp người
nghèo;
Thấy tôi ở cung điện,
Nương hư không đi dạo.
Thân trời như khối vàng,
Hơn trong trăm Thiên nữ;
Xem xét phước đức này,
Là nhất
trong cúng dường.
Thiên nữ thứ năm lại nói kệ:
Nhớ lại
những đời trước,
Từng làm vợ
con người;
Bố mẹ chồng hung bạo,
Thường thêm lời thô
thiển.
Vẫn giữ lễ làm dâu,
Khiêm tốn và vâng thuận;
Thấy tôi ở cung điện,
Nương hư không đi dạo;
Thân trời như khối vàng,
Hơn trong trăm Thiên nữ.
Xem xét phước đức này,
Thứ nhất
trong cúng dường.
Thiên nữ thứ sáu lại nói kệ:
Xưa từng
thấy đường đi,
Tỳ-kheo,
Tỳ-kheo-ni;
Theo họ nghe chánh pháp,
Một đêm giữ trai giới.
Nay thấy ở cung điện,
Nương hư không đi dạo;
Thân trời như khối vàng,
Hơn trong trăm Thiên nữ.
Xem xét phước đức này,
Thứ nhất
trong hồi hướng.
Bấy giờ, người đánh đàn Thô Ngưu
nước Câu-tát-la nói kệ:
Nay tôi may
đến đây,
Trong rừng Câu-tát-la;
Thấy được các Thiên nữ,
Thân trời thật tuyệt
vời.
Đã thấy lại được nói,
Phải tu thêm thiện
nghiệp;
Nay duyên tu
công đức,
Cũng sẽ
sanh lên trời.
Nói những lời này xong, các Thiên
nữ liền biến mất.
Phật nói kinh này xong, các Tỳ-kheo
nghe những gì Phật dạy, hoan hỷ phụng hành.
*
Tôi nghe như vầy:
Một thời, Đức Phật ở trong vườn Cấp cô độc, rừng
cây Kỳ-đà, nước Xá-vệ. Bấy giờ, có một Thiên tử tướng mạo tuyệt vời, vào
lúc cuối đêm, đến chỗ Phật, đảnh lễ sát chân Phật, ngồi lui qua một bên;
từ thân tỏa ánh sáng chiếu khắp vườn Cấp cô độc, rừng cây Kỳ-đà. Thiên tử
kia nói kệ hỏi Phật:
Pháp gì khởi
nên diệt?
Sanh gì phải
phòng hộ?
Pháp gì phải
nên lìa?
Đẳng quán vui
được gì?
Bấy giờ, Thế Tôn nói kệ đáp:
Sân nhuế
khởi, nên diệt,
Tham sống, lo phòng hộ;
Vô minh, nên xa lìa,
Đẳng quán vui chân đế.
Dục sanh các phiền não,
Dục là gốc sanh khổ;
Người điều phục phiền
não,
Thì điều phục các khổ.
Người điều phục các khổ,
Cũng điều
phục phiền não.
Bấy giờ, Thiên tử kia lại nói kệ:
Lâu thấy
Bà-la-môn,
Mau đạt
Bát-niết-bàn;
Qua rồi mọi sợ
hãi,
Vượt hẳn
đời ái ân.
Thiên tử kia nghe những gì Phật
nói, hoan hỷ, tùy hỷ đảnh lễ sát chân Phật, liền biến mất.
*
Tôi nghe như vầy:
Một thời, Đức Phật ở trong vườn Cấp cô độc, rừng
cây Kỳ-đà, nước Xá-vệ. Bấy giờ, có một Thiên tử tướng mạo tuyệt vời, vào
lúc cuối đêm, đến chỗ Phật, đảnh lễ sát chân Phật, ngồi lui qua một bên;
từ thân tỏa ánh sáng chiếu khắp vườn Cấp cô độc, rừng cây Kỳ-đà. Thiên tử
kia nói kệ hỏi Phật:
Nếu người
hành phóng dật,
Lìa ác tuệ ngu
si,
Thiền tư không
phóng dật,
Có mau
sạch các lậu?
Bấy giờ, Thế Tôn nói kệ đáp:
Các sự việc
thế gian
Không phải đều
thuộc dục;
Tâm pháp theo giác
tưởng,
Là dục của con người.[47]
Mọi việc trong Thế gian,
Thường ở tại thế gian;[48]
Trí tuệ tu
thiền tư,
Ái dục điều
phục hẳn.
Tin tưởng là
bạn người,
Không tin, không vượt
qua;
Tin, danh xưng mình
tăng,
Mạng chung được sanh
Thiên.
Đối thân tưởng hư không,
Danh sắc không bền chắc;
Người không đắm danh
sắc,
Thì xa lìa chứa nhóm.
Quán nghĩa chân thật
này,
Như giải thoát ai mẫn;
Do vì trí tuệ này,
Đời khen ngợi cúng
dường.
Hay đoạn các tạp tưởng,
Thoát khỏi dòng sanh tử;
Vượt qua các dòng rồi,
Đó gọi là
Tỳ-kheo.
Bấy giờ, Thiên tử kia lại nói kệ:
Lâu thấy
Bà-la-môn,
Mau đạt
Bát-niết-bàn;
Qua rồi mọi sợ
hãi,
Vượt hẳn
đời ái ân.
Thiên tử kia nghe những gì Phật
nói, hoan hỷ, tùy hỷ đảnh lễ sát chân Phật, liền biến mất.
*
Tôi nghe như vầy:
Một thời, Đức Phật ở trong vườn Cấp cô độc, rừng
cây Kỳ-đà, nước Xá-vệ. Bấy giờ, có một Thiên tử tướng mạo tuyệt vời, vào
lúc cuối đêm, đến chỗ Phật, đảnh lễ sát chân Phật, ngồi lui qua một bên;
từ thân tỏa ánh sáng chiếu khắp vườn Cấp cô độc, rừng cây Kỳ-đà. Thiên tử
kia nói kệ hỏi Phật:
Cùng ở chung
người nào,
Lại cùng ai
cộng sự;
Biết pháp của
những ai,
Là thù
thắng không ác?
Bấy giờ, Thế Tôn nói kệ đáp:
Cùng dạo
chung Chánh sĩ,
Cùng Chánh sĩ
cộng sự;
Hiểu biết pháp
Chánh sĩ,
Là thù
thắng không ác.
Bấy giờ, Thiên tử kia lại nói kệ:
Lâu thấy
Bà-la-môn,
Mau đạt
Bát-niết-bàn;
Qua rồi mọi sợ
hãi,
Vượt hẳn
đời ái ân.
Thiên tử kia nghe những gì Phật
nói, hoan hỷ, tùy hỷ đảnh lễ sát chân Phật, liền biến mất.
*
Tôi nghe như vầy:
Một thời, Đức Phật ở trong vườn Cấp cô độc, rừng
cây Kỳ-đà, nước Xá-vệ. Bấy giờ, có một Thiên tử tướng mạo tuyệt vời, vào
lúc cuối đêm, đến chỗ Phật, đảnh lễ sát chân Phật, ngồi lui qua một bên;
từ thân tỏa ánh sáng chiếu khắp vườn Cấp cô độc, rừng cây Kỳ-đà. Thiên tử
kia nói kệ:
Tham lẫn
sanh trong tâm,
Không thể hành
bố thí.
Người minh trí
cầu phước,
Mới thường
hành bố thí.
Bấy giờ, Thế Tôn nói kệ đáp:
Sợ hãi không
hành thí,
Thường sợ vì
không thí;
Sợ hãi về đói
khát,
Tham lẫn từ sợ sanh.
Đời này cùng đời khác,
Thường si, sợ đói khát;
Chết thì không ai theo,
Cô độc không tư lương.
Người ít của,
hay thí,
Nhiều của khó
cũng xả;
Khó xả mà hay
xả,
Thì đó là thí
khó.
Người vô tri
không biết,
Người trí biết
khó biết;
Đúng pháp nuôi
vợ con,
Của ít tịnh
tâm thí.
Hội thí trăm
nghìn vật[51]
Phước lợi được
từ đó,
So với thí pháp trước,
Không bằng phần mười
sáu.
Đánh, trói, hại chúng
sanh,
Tài vật được từ đó,
Bố thí an cõi nước,
Đó gọi thí có tội.
So với thí bình đẳng,
Cân lường nào sánh kịp;
Đúng pháp không làm
trái,
Được tài vật đem cho;
Khó thí mà hành thí,
Đúng là Hiền thánh thí;
Chỗ trụ thường được
phước,
Mạng chung
sanh lên trời.
Bấy giờ, Thiên tử kia lại nói kệ:
Lâu thấy
Bà-la-môn,
Mau đạt
Bát-niết-bàn;
Qua rồi mọi sợ
hãi,
Vượt hẳn
đời ái ân.
Thiên tử kia nghe những gì Phật
nói, hoan hỷ, tùy hỷ đảnh lễ sát chân Phật, liền biến mất.
*
Tôi nghe như vầy:
Một thời, Đức Phật ở trong thất đá, chỗ của quỷ
thần Kim-bà-la, nơi núi Kim-bà-la, tại thành Vương xá. Bấy giờ, Thế Tôn
vừa bị cây thương vàng[53]
đâm chân chưa bao lâu, nên khi cử động thân thể còn cảm thấy đau đớn;
nhưng Ngài xả tâm chánh trí, chánh niệm, kham nhẫn tự an, không có tưởng
thoái thất. Khi ấy có tám vị Thiên tử sơn thần tự nghĩ: ‘Hôm nay Thế Tôn
đang ở trong thất đá chỗ của quỷ thần núi Kim-bà-la tại thành Vương xá.
Ngài bị cây thương vàng đâm chân, cử động thấy đau, nhưng Ngài có thể xả
tâm, chánh niệm, chánh trí, kham nhẫn tự an, không có tưởng thoái thất.
Chúng ta phải đến tán thán trước Ngài.’ Nghĩ rồi, đến chỗ Phật, đảnh lễ
sát chân, ngồi lui qua một bên.
Vị Thiên thần thứ nhất nói kệ tán thán:
Sa-môn
Cù-đàm,
Sư tử giữa người;
Thân gặp thống khổ,
Kham nhẫn tự an.
Chánh trí chánh niệm,
Không hề
thoái thất.
Thiên tử thứ hai lại tán thán:
Bậc Đại sĩ
đại long,
Bậc Đại sĩ
ngưu vương;
Đại sĩ phu
dõng lực,
Đại sĩ phu
ngựa hay.
Đại sĩ phu
thượng thủ,
Đại sĩ phu
thù thắng.
Thiên tử thứ ba lại tán thán:
Sa-môn
Cù-đàm này,
Sĩ phu
Phân-đà-lợi[54];
Thân bị những
thống khổ,
Mà vẫn hành
tâm xả.
Trụ chánh trí,
chánh niệm,
Kham nhẫn để tự an;
Mà không
hề thoái thất.
Thiên tử thứ tư lại tán thán:
“Đối với Sa-môn Cù-đàm, nếu có
những gì sĩ phu Phân-đà-lợi nói, mà hiềm trái phản lại, thì nên biết những
người đó sẽ bị khổ mãi mãi, không được lợi ích. Chỉ trừ người không biết
chân thật.”
Thiên tử thứ năm lại nói kệ:
Quán định,
tam-muội kia,
Khéo trụ nơi
chánh thọ;
Giải thoát lìa
các trần,
Không hiện
cũng không ẩn.
Tâm kia trụ an ổn,
Mà được
tâm giải thoát.
Thiên tử thứ sáu lại nói kệ:
Dù trải năm
trăm năm,
Tụng kinh
Bà-la-môn;
Tinh cần tu
khổ hạnh,
Không lìa trần
giải thoát.
Thì là hàng
thấp kém,
Không qua
được bờ kia.
Thiên tử thứ bảy lại nói kệ:
Vì bị dục
bức bách,
Trì giới là
trói buộc;
Dù dõng mãnh
khổ hạnh,
Trải qua một
trăm năm.
Tâm kia không
giải thoát,
Không lìa các
trần cấu;
Thì là loại
thấp kém,
Không qua
đến bờ kia.
Thiên tử thứ tám lại nói kệ:
Tâm trụ dục
kiêu mạn,
Không thể tự
điều phục;
Không được
định, tam-muội,
Chánh thọ của
Mâu-ni.
Một mình ở
rừng núi,
Tâm kia thường
phóng dật;
Với quân ma
chết kia,
Không qua
được bờ kia.
Sau khi tám Thiên tử sơn thần kia
tán thán xong, đảnh lễ sát chân Phật, liền biến mất.
*
Tôi nghe như vầy:
Một thời, Đức Phật ở trong vườn Cấp cô độc, rừng
cây Kỳ-đà, nước Xá-vệ. Bấy giờ, có một Thiên tử tướng mạo tuyệt vời, vào
lúc cuối đêm, đến chỗ Phật, đảnh lễ sát chân Phật, ngồi lui qua một bên;
từ thân tỏa ánh sáng chiếu khắp vườn Cấp cô độc, rừng cây Kỳ-đà. Thiên tử
kia nói kệ:
Rộng không
gì hơn đất,
Sâu không gì
qua biển;
Cao không bằng
Tu-di,
Đại sĩ
không Tỳ-nữu[56].
Bấy giờ, Thế Tôn nói kệ đáp:
Rộng không
gì hơn ái,
Sâu không gì
qua bụng;
Cao không gì
bằng kiêu,
Đại sĩ
không hơn Phật.
Bấy giờ, Thiên tử kia lại nói kệ:
Lâu thấy
Bà-la-môn,
Mau đạt
Bát-niết-bàn;
Qua rồi mọi sợ
hãi,
Vượt hẳn
đời ái ân.
Thiên tử kia nghe những gì Phật
nói, hoan hỷ, tùy hỷ đảnh lễ sát chân Phật, liền biến mất.
*
Tôi nghe như vầy:
Một thời, Đức Phật ở trong vườn Cấp cô độc, rừng
cây Kỳ-đà, nước Xá-vệ. Bấy giờ, có một Thiên tử tướng mạo tuyệt vời, vào
lúc cuối đêm, đến chỗ Phật, đảnh lễ sát chân Phật, ngồi lui qua một bên;
từ thân tỏa ánh sáng chiếu khắp vườn Cấp cô độc, rừng cây Kỳ-đà. Thiên tử
kia nói kệ hỏi Phật:
Vật gì lửa không thiêu?
Gì gió không thể thổi?
Nạn lửa thiêu đại địa,
Vật gì không chảy tan?
Vua ác và giặc cướp,
Cưỡng đoạt tài vật
người;
Người nam, người nữ nào,
Không bị họ tước đoạt?
Làm sao chứa trân bảo,
Cuối cùng không mất mát?
Bấy giờ, Thế Tôn nói kệ đáp:
Phước, lửa không thể
thiêu,
Phước, gió không thể
thổi;
Thủy tai hại trời đất,
Phước, nước không chảy
tan.
Vua ác và giặc cướp,
Cưỡng đoạt của báu
người;
Nếu người nam, người nữ,
Có phước không bị cướp.
Kho báu, báo phước lạc,
Cuối cùng không bị mất.
Bấy giờ, Thiên tử kia lại nói kệ:
Lâu thấy
Bà-la-môn,
Mau đạt
Bát-niết-bàn;
Qua rồi mọi sợ
hãi,
Vượt hẳn
đời ái ân.
Thiên tử kia nghe những gì Phật
nói, hoan hỷ, tùy hỷ đảnh lễ sát chân Phật, liền biến mất.
*
Tôi nghe như vầy:
Một thời, Đức Phật ở trong vườn Cấp cô độc, rừng
cây Kỳ-đà, nước Xá-vệ. Bấy giờ, có một Thiên tử tướng mạo tuyệt vời, vào
lúc cuối đêm, đến chỗ Phật, đảnh lễ sát chân Phật, ngồi lui qua một bên;
từ thân tỏa ánh sáng chiếu khắp vườn Cấp cô độc, rừng cây Kỳ-đà. Thiên tử
kia nói kệ hỏi Phật:
Ai nên giữ tư lương?
Vật gì giặc không cướp?
Kẻ nào cướp thì ngăn,
Người nào cướp không
ngăn?
Người nào thường đi đến,
Người trí
tuệ hỷ lạc?
Bấy giờ, Thế Tôn nói kệ đáp:
Người tín giữ
tư lương,
Phước đức giặc
không cướp.
Giặc cướp đoạt
thì ngăn,
Sa-môn đoạt
hoan hỷ.
Sa-môn thường
đi đến,
Người trí
tuệ mừng vui.
Bấy giờ Thiên tử kia lại nói kệ:
Lâu thấy
Bà-la-môn,
Mau đạt
Bát-niết-bàn;
Qua rồi mọi sợ
hãi,
Vượt hẳn
đời ái ân.
Thiên tử kia nghe những gì Phật
nói, hoan hỷ, tùy hỷ đảnh lễ sát chân Phật, liền biến mất.
*
Tôi nghe như vầy:
Một thời, Đức Phật ở trong vườn Cấp cô độc, rừng
cây Kỳ-đà, nước Xá-vệ. Bấy giờ, có một Thiên tử tướng mạo tuyệt vời, vào
lúc cuối đêm, đến chỗ Phật, đảnh lễ sát chân Phật, ngồi lui qua một bên;
từ thân tỏa ánh sáng chiếu khắp vườn Cấp cô độc, rừng cây Kỳ-đà. Thiên tử
kia nói kệ hỏi Phật:
Tất cả tướng
ngăn che,
Biết tất cả thế gian;
An úy, vui tất cả,
Cúi xin Thế Tôn nói.
Thế nào là thế gian,
Những gì
khó được nhất?
Bấy giờ, Thế Tôn nói kệ đáp:
Làm chủ mà
nhẫn nhục,
Không của, mà
muốn thí;
Gặp khó mà
hành pháp,
Phú quý tu
viễn ly.
Bốn pháp ấy
như vậy,
Thì đó là
rất khó.
Bấy giờ, Thiên tử kia lại nói kệ:
Lâu thấy
Bà-la-môn,
Mau đạt
Bát-niết-bàn;
Qua rồi mọi sợ
hãi,
Vượt hẳn
đời ái ân.
Thiên tử kia nghe những gì Phật
nói, hoan hỷ, tùy hỷ đảnh lễ sát chân Phật, liền biến mất.
-ooOoo-
[1].
Đại Chánh, quyển 48, kinh 1267-1293. Ấn
Thuận, “Tụng 5; 25. Tương ưng chư Thiên (tiếp theo Đại Chánh quyển 22,
kinh 603).” Đại Chánh kinh 1267, tương đương Pāli, S. 1. 1. Cf.
№100(180).
[2].
Thiên thần này gọi Phật là “Tỳ-kheo”. Bản
Hán dư từ Thế Tôn. Pāli: kathaṃ nu tvaṃ,
mārisa, oghamatarī? “Thưa Tôn giả, Ngài làm thế
nào vượt qua dòng thác?”
[3].
Pāli:
appatiṭṭhaṃ khvāhaṃ, āvuso, ayūhaṃ oghamataran’ti,
“Ta không đình trú, không thẳng tiến (không cầu), mà vượt qua dòng
thác.”
[4].
Pāli: cirassa
vata passāmi, brāhmaṇaṃ parinibbutaṃ, từ lâu
rồi, tôi mới thấy vị Bà-la-môn tịch diệt.
[5].
Pāli: appatiṭṭhaư
anāyūhaṃ, tiṇṇaṃ loke visattikan ti, “không
trú, không thẳng tiến, vượt qua ái dục trong đời.”
[6].
Pāli, S.1. 2.
Nimokkha.
[7].
Pāli: sattānaṃ
nimokkhaṃ pamokkhaṃ
vivekaṃ, “(Biết) sự giải
thoát, thắng giải thoát, viễn ly. Sớ giải, SA. 1.21:
nimokkhanti ādīni
maggādinaṃ nāmāni;
maggena hi sattā kilesabandhanato nimuccati,
tasmā maggo sattānaṃ
nimokkhoti vutto. phalakkhaṇe pana te
kilesabandhanato pamuttā, tasmā
phalaṃ sattānam
pamokkhoti vuttaṃ; nibbānaṃ
patvā sattānaṃ
sabbadukkhaṃ viviccati, tasmā
nibbānānaṃ
viveko ti vuttaṃ, “Giải
thoát (nimokkha, Hán: quyết định giải thoát) là tên gọi đầu tiên của
sơ Thánh đạo. Bằng Thánh đạo, các chúng sanh giải thoát khỏi sự trói
buộc của phiền não; do đó, Thánh đạo được nói là sự giải thoát của
chúng sanh. Trong sát-na đắc quả, chúng hoàn toàn giải thoát khỏi các
trói buộc của phiền não; do đó, quả chứng là thắng giải thoát của
chúng sanh. Sau khi đạt đến Niết-bàn, chúng sanh xa lìa tất cả khổ, do
đó, Niết-bàn là sự viễn ly của chúng sanh.”
[8].
Pāli, S. 2. 15. Candana; №100(178).
[9].
Pāli: ko gambīre
na sīdati? Ai không chìm
sâu?
[10].
Pāli: paññavā susamāhito,
bằng trí tuệ mà khéo léo nhập định.
[11].
Pāli:
nandīrāgaparikkhīṇo, gambīre na sīdati, người
đã diệt tận hỷ tham không bị chìm sâu.
[13].
Câu-ca-ni, Quang minh thiên nữ
拘迦尼,
光明天女.
Đoạn sau, nói là Câu-ca-na-sa. №100(269):
Cầu-ca-ni-sa, Ba-thuần-đề nữ
求迦尼娑,
波純提女.
Xem kinh 1273.
[15].
Phi nhân, đây chỉ chư Thiên.
[16].
Pāli, S. 1. 40. Pajjunadhìta (2) (Vân
thiên Công chúa); №100(271).
[17].
Câu-ca-na-sa thiên nữ, Quang minh chi
thiên nữ
拘迦那娑天女,
光明之天女.
Pāli: Kokanadā
Pajjunassa dhītā,
Kokanadā, con gái của
Pajjuna (Hồng Liên, hay Vân Thiên công chúa). Pajjuna, thần mưa; có
hai người con gái: Kokanadà và Cūḷa-Kokanadā.
[18].
Pāli, S. 1. 39. Pajjuna-dhītā(1)
[19].
Châu-lô-đà
朱盧陀
. Pāli:
Cūḷa-Kokanadā
(Tiểu Hồng Liên), em gái của Kokanadā; xem kinh 1273.
[20].
S. 1. 22. Phussati; №100(273).
[21].
Pāli:
nāphusataṃ na phussati, cái phi xúc không xúc.
Sớ giải, SA. 1. 48: kammaṃ aphusantaṃ,
vipako na phusati, nghiệp là phi xúc; dị thục,
nó không xúc.
[22].
Pāli: tasmā
phusantaṃ phusati, appaduṭṭhapadosinan ti, vì
vậy cái xúc chạm nó xúc chạm người nào gây sự tà ác cho người vô tội.
Bản Hán hiểu padosin là sự sân hận thay vì là người gây sự tà ác.
[23].
Xem Pháp cú 125, Pāli:
yo appaduṭṭhassa narassa dussati, suddhassa
posassa anaṅgaṇassa, tam eva bālaṃ pacceti pāpaṃ; sukkhumo rajo
paṭivātaṃvā khitto. “Ai gây ác cho người vô
tội, người thanh tịnh, không tì vết, ác báo rơi trở lại chính kẻ ngu
ấy, như ngược gió tung bụi.”
[25].
S. 1. 35. Ujjhānasaññino; №100(275).
[26].
Sớ giải của Pāli, SA. 1. 64, các Thiên
thần này bất bình về sự thọ dụng bốn duyên của Phật: Phật ca ngợi
người sống với y phấn tảo, ngủ dưới gốc cây..., nhưng chính Ngài lại
khoác y thượng hạng, sống tại trú xứ như cung điện vua.
[27].
Sn.3. 10. Kokāliya; №100(276).
[28].
Cù-ca-lê
瞿迦梨
. Pāli:
Kokāliya.
[29].
Bát-đàm-ma
鈢曇摩
. Pāli:
Paduma (sen đỏ) tên địa
ngục.
[30].
A-phù-đà
阿浮陀.
Pāli: abbuda.
[31].
Các đơn vị đo lường: A-la
阿羅;
độc-lung-na
獨籠那 ; xà-ma-na
闍摩那
; ma-ni 摩尼;
khư-lê 佉梨.
Pāli: khārika.
Sớ giải, 4 patthā =
1 āḷhaka; 4
āḷhaka = 1
doṇa; 4
doṇa = 1
māṇika; 4
māṇika = 1
khāri.
[32].
Pāli: 20
khārika = 1 xe hạt cải (tilavāha).
[33].
Ni-la-phù-đà
尼羅浮陀.
Pāli: Nirabbuda.
[34].
A-tra-tra
阿吒吒.
Pāli: Aṭaṭa.
[35].
A-ba-ba
阿波波.
Pāli: Ababa.
[36].
A-hưu-hưu
阿休休.
Pāli: Ahaha.
[37].
Ưu-bát-la
優鈢羅.
Pāli: Uppalaka.
[38].
Pāli, Sn.1.6. Parābhava. №100(277).
[40].
S. 1.24 Nanonivāraṇā; №100(279).
[41].
Pāli: yato
yato mano nivāraye, na dukkhameti naṃ tato tato,
nơi nào ý bị ngăn chặn, nơi ấy không đau khổ.
[42].
Pāli: yato
yato ca pāpakaṃ, tato tato mano nivāraye, nơi
nào có sự ác, nơi đó ngăn chặn ý.
[43].
D.31. Siṅgālaka. Cf. №26(135. Kinh Thiện
Sanh), №1(16. Kinh Thiện Sanh), №100(281).
[44].
Jā. 243. Guttila; №100(282).
[45].
S. 1.71. Chetvā; №100(283).
[46].
S. 1.34. Nasanti, 36. Saddhā; №100(284).
[47].
Pāli: na
santi kāmā manujesu niccā, santīdha kamanīyāni yesu baddho,
các dục trong đời vốn không thường. Ai ở đó có ái lạc, kẻ đó bị trói
buộc.
[48].
Pāli:
tiṭṭhanti citrāni tatheva loka: Những vật đa
dạng vẫn tồn tại như vậy trong đời.
[49].
S. 1.31. Sabbi; №100(285).
[50].
S. 1.32. Macchari; №100(286).
[51].
Hán: Bách thiên da thạnh hội
百千耶盛會.
Pāli: sataṃ sahassānaṃ sahassayāginam.
[52].
S. 1.38. Sakalika; №100 (287).
[53].
Hán: Kim thương
金鎗
(槍).
Pāli: sakalikā ya khato hoti:
bị mảnh vụn (dằm cây) đâm.
[54].
Hoa sen trong loài người.
[56].
Tức Thần Viṣṇu, không gì cao cả hơn.