TẠP A-HÀM QUYỂN 29
Tôi nghe như vầy:
Một thời, Phật ở trong vườn Cấp cô độc, rừng cây
Kỳ-đà, nước Xá-vệ. Bấy giờ Đức Thế Tôn bảo các Tỳ-kheo:
“Có pháp Sa-môn[2]
và quả Sa-môn[3].
Hãy lắng nghe và suy nghĩ cho kỹ, Ta sẽ vì các ông mà nói:
“Những gì là pháp Sa-môn? Đó là tám Thánh đạo, từ
chánh kiến… cho đến chánh định. Những gì là quả Sa-môn? Đó là quả
Tu-đà-hoàn, quả Tư-đà-hàm, quả A-na-hàm và quả A-la-hán.
“Thế nào là quả Tu-đà-hoàn? Đoạn trừ ba kết. Thế
nào là quả Tư-đà-hàm? Đoạn trừ ba kết; tham, nhuế, si mỏng. Thế nào là quả
A-na-hàm? Đoạn sạch hết năm hạ phần kết. Thế nào là quả A-la-hán? Đoạn trừ
vĩnh viễn tham, nhuế, si; đoạn trừ vĩnh viễn tất cả các thứ phiền não.”
Sau khi Phật nói kinh này xong, các Tỳ-kheo nghe
những gì Phật đã dạy, đều hoan hỷ phụng hành.
*
Tôi nghe như vầy:
Một thời, Phật ở trong vườn Cấp cô độc, rừng cây
Kỳ-đà, nước Xá-vệ. Bấy giờ Đức Thế Tôn bảo các Tỳ-kheo:
“Có pháp Sa-môn, Sa-môn và nghĩa Sa-môn[5].
Hãy lắng nghe và suy nghĩ cho kỹ, Ta sẽ vì các ông mà nói:
“Những gì là pháp Sa-môn? Đó là tám Thánh đạo, từ
chánh kiến… cho đến chánh định. Những gì là Sa-môn? Người thành tựu pháp
Sa-môn này. Những gì là nghĩa Sa-môn? Đã đoạn trừ vĩnh viễn tham dục, sân
nhuế, si mê; đoạn trừ vĩnh viễn tất cả các phiền não.”
Sau khi Phật nói kinh này xong, các Tỳ-kheo nghe
những gì Phật đã dạy, đều hoan hỷ phụng hành.
*
Tôi nghe như vầy:
Một thời, Phật ở trong vườn Cấp cô độc, rừng cây
Kỳ-đà, nước Xá-vệ. Bấy giờ Đức Thế Tôn bảo các Tỳ-kheo:
Như đã nói trên, nhưng có một vài sai biệt.
“Có quả Sa-môn. Những gì là quả Sa-môn? Đó là quả
Tu-đà-hoàn, quả Tư-đà-hàm, quả A-na-hàm, quả A-la-hán.”
Sau khi Phật nói kinh này xong, các Tỳ-kheo nghe
những gì Phật đã dạy, đều hoan hỷ phụng hành.
*
Cũng vậy, pháp Bà-la-môn, Bà-la-môn, nghĩa Bà-la-môn, quả Bà-la-môn; pháp
phạm hạnh, người phạm hạnh, nghĩa phạm hạnh, quả phạm hạnh, đều nói như
trên.
*
Tôi nghe như vầy:
Một thời, Phật ở trong vườn Cấp cô độc, rừng cây
Kỳ-đà, nước Xá-vệ. Bấy giờ Đức Thế Tôn bảo các Tỳ-kheo:
“Có năm pháp mang lại nhiều lợi ích cho sự tu
An-na-ban-na niệm. Những gì là năm? An trụ luật nghi Ba-la-đề-mộc-xoa, oai
nghi hành xử đầy đủ; đối với những tội vi tế hay sanh lòng sợ hãi, thọ trì
học giới. Đó gọi là pháp thứ nhất mang lại nhiều lợi ích cho sự tu
An-na-ban-na niệm.
“Lại nữa, Tỳ-kheo ít muốn, ít sự việc, ít tác vụ.
Đó là pháp thứ hai mang lại nhiều lợi ích cho sự tu An-na-ban-na niệm.
“Lại nữa, Tỳ-kheo nào ăn uống biết lường, không ít
cũng không nhiều. Không vì việc ăn uống mà sanh ra tư tưởng ham muốn; luôn
tinh cần tư duy. Đó là pháp thứ ba mang lại nhiều lợi ích cho sự tu
An-na-ban-na niệm.
“Lại nữa, Tỳ-kheo đầu đêm, cuối đêm, không đắm say
ngủ nghỉ, mà luôn tinh cần tư duy. Đó là pháp thứ tư mang lại nhiều lợi
ích cho sự tu An-na-ban-na niệm.
“Lại nữa, Tỳ-kheo ở trong rừng hoang vắng, xa lìa
những nơi náo nhiệt. Đó là pháp thứ năm mang lại nhiều lợi ích cho sự tu
An-na-ban-na niệm.”
Sau khi Phật nói kinh này xong, các Tỳ-kheo nghe
những gì Phật đã dạy, đều hoan hỷ phụng hành.
*
Tôi nghe như vầy:
Một thời, Phật ở trong vườn Cấp cô độc, rừng cây
Kỳ-đà, nước Xá-vệ. Bấy giờ Đức Thế Tôn bảo các Tỳ-kheo:
“Nên tu An-na-ban-na niệm. Nếu
Tỳ-kheo tu tập An-na-ban-na niệm, tu tập nhiều, thân chỉ tức và tâm chỉ
tức, có giác, có quán, tịch diệt, thuần nhất, phân minh tưởng, tu tập đầy
đủ.”
Sau khi Phật nói kinh này xong, các
Tỳ-kheo nghe những gì Phật đã dạy, đều hoan hỷ phụng hành.
*
Tôi nghe như vầy:
Một thời, Phật ở trong vườn Cấp cô
độc, rừng cây Kỳ-đà, nước Xá-vệ. Bấy giờ Đức Thế Tôn bảo các Tỳ-kheo:
“Hãy tu tập An-na-ban-na niệm. Nếu
Tỳ-kheo tu tập An-na-ban-na niệm, tu tập nhiều, thân chỉ tức và tâm chỉ
tức, có giác, có quán, tịch diệt, thuần nhất, phân minh tưởng, tu tập đầy
đủ. Thế nào là tu tập An-na-ban-na niệm, tu tập nhiều, thân chỉ tức và tâm
chỉ tức, có giác, có quán, tịch diệt, thuần nhất, phân minh tưởng, tu tập
đầy đủ? Tỳ-kheo, nương vào xóm làng, thành ấp mà ở; sáng sớm đắp y, mang
bát, vào thôn khất thực, nên khéo hộ trì thân, giữ gìn các căn, khéo cột
tâm an trụ; khất thực xong trở về chỗ ở, cất y bát, rửa chân xong, hoặc
vào trong rừng, trong phòng vắng, dưới bóng cây, hoặc nơi đất trống, thân
ngồi ngay thẳng, cột niệm trước mặt, cắt đứt mọi tham ái thế gian, ly dục
thanh tịnh, đoạn trừ sân nhuế, thùy miên, trạo hối và nghi, vượt qua các
nghi hoặc, đối với các pháp lành, tâm được quyết định; viễn ly năm triền
cái vốn làm phiền não tâm, khiến tuệ lực suy giảm, là phần chướng ngại,
không hướng đến Niết-bàn.
“Niệm hơi thở vào[9],
cột niệm, hãy khéo học. Niệm hơi thở ra[10],
cột niệm, hãy khéo học. Hơi thở dài[11],
hơi thở ngắn[12].
Cảm giác biết toàn thân khi thở vào, khắp toàn thân thở vào, hãy khéo học[13];
cảm giác biết toàn thân khi thở ra, khắp toàn thân thở ra, hãy khéo học.
Giác tri tất cả sự an tịnh của tất cả thân hành khi thở vào[14],
tất cả thân hành an tịnh thở vào, hãy khéo học; giác tri tất cả sự an tịnh
của tất cả thân hành khi thở ra, tất cả thân hành an tịnh thở vào, hãy
khéo học. Giác tri hỷ, giác tri lạc, giác tri tâm hành[15],
giác tri sự an tịnh của tâm hành khi thở vào, giác tri tâm hành an tịnh
thở vào, hãy khéo học[16].
Giác tri sự an tịnh của tâm hành khi thở ra, giác tri tâm hành an tịnh thở
ra, hãy khéo học. Giác tri tâm, giác tri tâm hoan hỷ, giác tri tâm định,
giác tri tâm giải thoát khi thở vào[17],
giác tri tâm giải thoát thở vào, hãy khéo học. Giác tri tâm giải thoát khi
hơi thở ra, giác tri tâm giải thoát thở ra, hãy khéo học. Quán sát vô
thường, quán sát đoạn, quán sát vô dục, quán sát diệt[18]
khi hơi thở vào, quán sát diệt thở vào, phải khéo học.
Quán sát diệt khi hơi thở ra, quán sát diệt thở ra, phải khéo học. Đó gọi
là tu An-na-ban-na niệm, thân chỉ tức và tâm chỉ tức, có giác, có quán,
tịch diệt, thuần nhất, phân minh tưởng, tu tập đầy đủ.”
Sau khi Phật nói kinh này xong, các
Tỳ-kheo nghe những gì Phật đã dạy, đều hoan hỷ phụng hành.
*
Tôi nghe như vầy:
Một thời, Phật ở trong vườn Cấp cô
độc, rừng cây Kỳ-đà, nước Xá-vệ. Bấy giờ Đức Thế Tôn bảo các Tỳ-kheo:
“Hãy tu An-na-ban-na niệm tu tập
An-na-ban-na niệm, tu tập nhiều, sẽ đoạn trừ các giác tưởng. Thế nào tu
tập An-na-ban-na niệm, tu tập nhiều, sẽ đoạn trừ các giác tưởng? Tỳ-kheo
nào nương vào làng xóm, thành ấp mà ở, nói đầy đủ như trên… cho đến khéo
học đối với việc quán sát diệt khi hơi thở ra. Đó gọi là tu tập
An-na-ban-na niệm, tu tập nhiều, sẽ đoạn trừ các giác tưởng.”
Sau khi Phật nói kinh này xong, các
Tỳ-kheo nghe những gì Phật đã dạy, đều hoan hỷ phụng hành.
Như đoạn
trừ giác tưởng, cũng vậy không dao động, được quả lớn, phước lợi lớn; cũng
vậy được cam lộ, cứu cánh cam lộ và được hai quả, bốn quả, bảy quả, kinh
nào cũng nói như trên.[20]
*
Tôi nghe như vầy:
Một thời, Phật ở trong vườn Cấp cô độc, rừng cây
Kỳ-đà, nước Xá-vệ. Bấy giờ Đức Thế Tôn bảo các Tỳ-kheo:
“Như An-na-ban-na niệm mà Ta đã giảng dạy, các ông
có tu tập không?”
Lúc ấy, có Tỳ-kheo tên là A-lê-sắt-tra, đang ngồi ở
trong chúng, liền từ chỗ ngồi đứng dậy, sửa lại y phục, làm lễ Phật, quỳ
gối phải sát đất, chắp tay bạch Phật rằng:
“Bạch Thế Tôn, con đã tu tập An-na-ban-na niệm mà
Thế Tôn đã giảng dạy.”
Phật bảo Tỳ-kheo A-lê-sắt-tra:
“Ông tu tập thế nào An-na-ban-na niệm mà Ta đã
giảng dạy?”
Tỳ-kheo bạch Phật:
“Đối các hành quá khứ con không luyến tiếc, các
hành vị lai không sanh ra hoan lạc, đối với các hành hiện tại không sanh
ra đắm nhiễm; khéo chân chánh trừ diệt những tưởng về đối ngại[22]
bên trong và bên ngoài. Con đã tu tập An-na-ban-na niệm mà Thế Tôn đã
giảng dạy như vậy.”
Phật bảo Tỳ-kheo A-lê-sắt-tra:
“Ông thật sự đã tu An-na-ban-na niệm mà Ta đã giảng
dạy, chứ chẳng phải không tu. Song có Tỳ-kheo đối với chỗ tu tập
An-na-ban-na niệm của ông lại còn có phần vi diệu hơn, vượt trội hơn.
Những gì là An-na-ban-na niệm vi diệu hơn, vượt trội hơn những gì
An-na-ban-na niệm tu tập? Tỳ-kheo nương vào làng xóm, thành ấp mà ở, như
đã nói ở trên… cho đến, quán sát diệt thở ra, phải khéo học. Này Tỳ-kheo
A-lê-sắt-tra, đó gọi là An-na-ban-na niệm vi diệu hơn, vượt trội hơn những
gì An-na-ban-na niệm mà ông tu tập.”
Sau khi Phật nói kinh này xong, các Tỳ-kheo nghe
những gì Phật đã dạy, đều hoan hỷ phụng hành.
*
Tôi nghe như vầy:
Một thời, Phật ở trong vườn Cấp cô
độc, rừng cây Kỳ-đà, nước Xá-vệ. Hôm ấy, vào sáng sớm Đức Thế Tôn đắp y,
bưng bát, vào thành Vương xá khất thực. Ăn xong, trở về tinh xá, cất y
bát, rửa chân xong, mang Ni-sư-đàn vào rừng An-đà, ngồi dưới một bóng cây,
thiền tịnh ban ngày.
Lúc bấy giờ, Tôn giả Kế-tân-na,
cũng vào sáng sớm, đắp y mang bát vào thành Vương xá khất thực. Xong, trở
về cất y bát, rửa chân xong, mang Ni-sư-đàn vào rừng An-đà ngồi thiền tịnh
dưới một bóng cây cách Đức Phật không xa; thẳng người bất động, thân tâm
chánh trực, tư duy thắng diệu.
Vào buổi chiều hôm ấy, có số đông
các Tỳ-kheo sau khi từ thiền tịnh tỉnh giấc, đi đến chỗ Đức Phật, cúi đầu
dảnh lễ dưới chân Phật, rồi ngồi lui qua một bên. Phật bảo các Tỳ-kheo:
“Các ông có thấy Tôn giả Kế-tân-na
không? Cách Ta không xa, vị đó đang ngồi ngay thẳng trang nghiêm, thân tâm
bất động, an trú thắng diệu trú[24].”
Các Tỳ-kheo bạch Phật:
“Chúng con thường xuyên thấy Tôn
giả này ngồi thẳng trang nghiêm, khéo thu nhiếp thân mình không lay không
động, chuyên tâm thắng diệu.”
Phật bảo các Tỳ-kheo:
“Nếu Tỳ-kheo nào, tu tập tam-muội,
thân tâm an trụ, không lay không động, trụ vào thắng diệu, thì Tỳ-kheo này
sẽ đạt được tam-muội này mà không cần đến phương tiện, tùy theo ý muốn
liền có được.”
Các Tỳ-kheo bạch Phật:
“Tam-muội gì mà Tỳ-kheo đạt được
tam-muội này thì thân tâm bất động, an trụ thắng diệu trụ?”
Phật bảo các Tỳ-kheo:
“Nếu Tỳ-kheo nào nương vào làng xóm
mà ở, sáng sớm đắp y mang bát vào thôn khất thực, ăn xong trở về tinh xá
cất y bát, sau khi rửa chân xong, vào ngồi trong rừng, hoặc nơi phòng
vắng, đất trống, cột niệm tư duy… cho đến, quán sát diệt, thở ra, phải
khéo học. Đó gọi là Tam-muội, nếu Tỳ-kheo nào ngồi trang nghiêm suy tư,
thân tâm sẽ bất động, an trụ thắng diệu trụ.”
Sau khi Phật nói kinh này xong, các
Tỳ-kheo nghe những gì Phật đã dạy, đều hoan hỷ phụng hành.
*
Tôi nghe như vầy:
Một thời, Phật ở trong rừng
Nhất-xa-năng-già-la[26].
Bấy giờ Đức Thế Tôn bảo các Tỳ-kheo:
“Ta muốn tọa thiền trong vòng hai tháng. Các
Tỳ-kheo chớ nên tới lui, chỉ trừ Tỳ-kheo đưa thức ăn và khi bố-tát.”
Sau khi Thế Tôn nói những lời này xong, liền ở lại
đây hai tháng[27]
để thiền tọa, không một Tỳ-kheo nào dám tới lui, chỉ trừ lúc đưa thức ăn
và bố-tát.
Bấy giờ, sau khi trải qua hai tháng thiền tọa xong,
Ngài từ thiền tịnh tỉnh giấc, ngồi trước Tỳ-kheo Tăng; bảo các Tỳ-kheo:
“Nếu có những xuất gia ngoại đạo nào đến hỏi các
ông: ‘Sa-môn Cù-đàm trong hai tháng tọa thiền gì?’ Thì các ông nên đáp
rằng: ‘Trong hai tháng Như Lai bằng An-na-ban-na niệm an trú trong thiền
tịnh tư duy. Vì sao? Vì suốt trong hai tháng này Ta luôn luôn an trụ tư
duy nhiều nơi niệm An-na-ban-na. Khi hơi thở vào, biết như thật niệm hơi
thở vào; khi hơi thở ra, biết như thật niệm hơi thở ra. Hoặc dài, hoặc
ngắn. Cảm giác toàn thân, biết như thật niệm hơi thở vào; cảm giác toàn
thân, biết như thật niệm hơi thở ra. An tịnh thân hành, biết như thật niệm
hơi thở vào;… cho đến, diệt, biết như thật hơi thở ra. Sau khi Ta đã biết,
bấy giờ, Ta tự nghĩ: ‘Ở đây vẫn còn trụ tư duy thô. Nay Ta sau khi đình
chỉ tư duy này, hãy tu thêm các tu tập vi tế khác mà an trụ.’
“Rồi, Ta sau khi đình chỉ tư duy thô, liền nhập tư
duy vi tế và an trụ nhiều nơi đó mà an trụ. Khi đó có ba vị Thiên tử,
tướng mạo rất tuyệt diệu, sáng sớm, ra đi đến chỗ Ta. Một Thiên tử nói như
vầy: ‘Sa-môn Cù-đàm đã đến thời[28].’
Lại có một Thiên tử nói: ‘Đây chẳng phải đã đến thời, mà sắp đến.’ Vị
Thiên tử thứ ba nói: ‘Chẳng phải đã đến thời, cũng chẳng phải sắp đến, mà
đây là an trụ tu tập. Đây là sự tịch diệt của vị A-la-hán[29]
vậy’.”
Phật bảo các Tỳ-kheo:
“Nếu có chánh thuyết nào về Thánh trụ[30],
Thiên trụ[31],
Phạm trụ[32],
Học trụ[33],
Vô học trụ[34],
Như Lai trụ[35];
và hiện pháp lạc[36]
trụ của Thánh nhân vô học mà hàng hữu học chưa được sẽ được, chưa đến sẽ
đến, chưa chứng sẽ chứng; đó là nói về An-na-ban-na niệm. Đây là chánh
thuyết. Vì sao? Vì An-na-ban-na niệm là Thánh trụ, Thiên trụ, Phạm trụ…
cho đến Vô học hiện pháp lạc trú.”
Sau khi Phật nói kinh này xong, các Tỳ-kheo nghe
những gì Phật đã dạy, đều hoan hỷ phụng hành.
*
Tôi nghe như vầy:
Một thời, Phật ở trong vườn cây
Ni-câu-luật tại Ca-tỳ-la-việt[38].
Bấy giờ có Ma-ha-nam dòng họ Thích[39]
đến chỗ Tôn giả Tỳ-kheo Ca-ma[40],
đảnh lễ dưới chân Tỳ-kheo Ca-ma, rồi ngồi lui qua một bên, thưa Tỳ-kheo
Ca-ma rằng:
“Thế nào, Tôn giả Ca-ma, có phải
bậc Học trụ[41]
tức là Như Lai trụ[42]
không? Hay Học trụ khác, Như Lai trụ khác?”
Tỳ-kheo Ca-ma đáp rằng:
“Này Ma-ha-nam, Học trụ khác, Như
Lai trụ khác. Ma-ha-nam, Học trụ là do đoạn trừ năm triền cái mà an trụ
nhiều[43].
Như Lai trụ đối với năm triền cái đã đoạn, đã biến tri, chặt đứt gốc rễ
của nó, như chặt đầu cây đa-la, làm cho không còn sanh trưởng nữa, ở đời
vị lai trở thành pháp bất sanh.
“Một thời, Thế Tôn ở trong rừng
Nhất-xà-năng-già-la[44].
Bấy giờ Thế Tôn bảo các Tỳ-kheo: ‘Ta muốn ở trong rừng Nhất-xà-năng-già-la
này thiền tọa trong vòng hai tháng[45],
Tỳ-kheo các ông chớ tới lui, chỉ trừ Tỳ-kheo đưa thức ăn và lúc bố-tát,
nói đầy đủ như trước… cho đến Vô học hiện pháp lạc trụ.’ Này Ma-ha-nam, vì
vậy cho nên biết, Học trụ khác, Như Lai trụ khác.”
Sau khi Ma-ha-nam thuộc dòng họ
Thích nghe những gì Tỳ-kheo Ca-ma đã nói, hoan hỷ, từ chỗ ngồi đứng dậy ra
về.
*
Tôi nghe như vầy:
Một thời, Phật ở trong rừng
Tát-la-lê, cạnh sông Bạt-cầu-ma tại tụ lạc Kim cương[47].
Bấy giờ Đức Thế Tôn vì các Tỳ-kheo nói về bất tịnh quán, khen ngợi bất
tịnh quán rằng:
“Các Tỳ-kheo nên tu tập bất tịnh
quán; tu tập bất tịnh quán nhiều thì sẽ được quả lớn, phước lợi lớn.”
Các Tỳ-kheo sau khi đã tu tập bất
tịnh quán rồi, đều rất chán sợ thân này, hoặc dùng đao tự sát, hoặc uống
thuốc độc, hoặc dùng dây tự vẫn, hoặc lao đầu vào vách núi tự sát, hoặc
nhờ Tỳ-kheo khác giết.
Có Tỳ-kheo kia sanh lòng cực kỳ
nhàm chán sự bất tịnh xấu xa[48],
nên đến chỗ con Phạm chí Lộc Lâm[49]
nói với người con Phạm chí Lộc Lâm rằng:
“Hiền thủ! Người làm ơn giết tôi, y
bát xin tặng lại ông.”
Bấy, người con Phạm chí Lộc Lâm
liền giết Tỳ-kheo này, rồi mang đao đến bờ sông Bạt-cầu-ma[50]
để rửa. Lúc ấy, có Ma thiên ở giữa hư không, khen ngợi con Phạm chí Lộc
Lâm rằng:
“Lành thay! Lành thay! Hiền thủ,
ông được vô lượng công đức, có thể khiến cho Sa-môn Thích tử trì giới có
đức, người chưa độ được độ, người chưa thoát được thoát, người chưa yên
nghỉ khiến được yên nghỉ, người chưa được Niết-bàn khiến được Niết-bàn; y
bát và các thứ tạp vật cùng những lợi dưỡng tất cả đều thuộc về ông.”
Sau khi con Phạm chí Lộc Lâm nghe
những lời khen ngợi này rồi, thì ác tà kiến tăng thêm, tự nghĩ: ‘Hôm nay
ta đã thật sự tạo ra phước đức lớn, khiến cho Sa-môn Thích tử, người trì
giới, công đức, người chưa độ được độ, người chưa thoát được thoát, người
chưa yên nghỉ khiến được yên nghỉ, người chưa được Niết-bàn khiến được
Niết-bàn; y bát và các thứ tạp vật cùng những lợi dưỡng tất cả đều thuộc
về ta.’ Nghĩ xong tay cầm đao bén đi đến các phòng xá, những nơi kinh
hành, phòng riêng, phòng Thiền, gặp các Tỳ-kheo nói như vầy:
“Những Tỳ-kheo nào trì giới có đức,
ai chưa được độ ta có thể độ cho, ai chưa thoát sẽ khiến cho thoát, ai
chưa yên nghỉ sẽ khiến được yên nghỉ, chưa Niết-bàn sẽ khiến được
Niết-bàn.”
Lúc ấy, các Tỳ-kheo đang chán sợ
thân này, đều ra khỏi phòng nói với con Phạm chí Lộc Lâm rằng:
“Tôi chưa được độ, ông nên độ tôi;
tôi chưa được thoát, ông nên giải thoát tôi; tôi chưa được yên nghỉ, ông
nên khiến cho tôi được yên nghỉ; tôi chưa được Niết-bàn, ông nên khiến cho
tôi được Niết-bàn.” Bấy giờ con Phạm chí Lộc Lâm liền dùng đao bén giết
Tỳ-kheo này và lần lượt, giết chết cho đến sáu mươi người.
Bấy giờ, đến ngày mười lăm, lúc
thuyết giới, Đức Thế Tôn ngồi trước đại chúng, bảo Tôn giả A-nan:
“Vì lý do gì mà các Tỳ-kheo càng
lúc càng ít, càng lúc càng giảm, càng lúc càng hết như vậy?”
A-nan bạch Phật rằng:
“Thế Tôn đã vì các Tỳ-kheo nói về tu bất tịnh quán,
khen ngợi bất tịnh quán. Khi các Tỳ-kheo tu tập bất tịnh quán, đâm ra chán
sợ thân này, nói đầy đủ… cho đến giết hại sáu mươi Tỳ-kheo. Bạch Thế Tôn,
vì lý do này nên khiến cho các Tỳ-kheo càng lúc càng ít, càng lúc càng
giảm, càng lúc càng hết. Cúi xin Thế Tôn thuyết giảng pháp khác, để cho
các Tỳ-kheo sau khi nghe xong tinh cần tu tập trí tuệ, an lạc mà tiếp thọ
Chánh pháp; an vui sống trong Chánh pháp.”
Phật bảo A-nan:
“Vì vậy, nay Ta sẽ lần lượt nói về sự an trụ vi tế
trụ, tùy thuận mà khai giác, khiến pháp ác bất thiện đã khởi hay chưa khởi
đều nhanh chóng lắng xuống. Như trời mưa lớn, những thứ bụi bặm đã khởi
lên hay chưa khởi lên đều khiến cho chúng lắng xuống. Cũng vậy, Tỳ-kheo
khi tu tập an trụ nơi vi tế trụ, có thể khiến các pháp ác bất thiện đã
khởi hay chưa khởi đều lắng xuống.
“Này A-nan, thế nào là an trụ vi tế trụ, tùy thuận
mà khai giác, khiến pháp ác bất thiện đã khởi hay chưa khởi đều lắng
xuống? Đó là an trụ vào An-na-ban-na niệm.”
A-nan bạch Phật:
“Thế nào là tu tập an trụ vào An-na-ban-na niệm,
theo đó mà khai mở giác, thì những pháp ác bất thiện dù đã khởi hay chưa
khởi lên cũng có khả năng khiến chúng dừng lại?”
Phật bảo A-nan:
“Nếu Tỳ-kheo, nương vào làng xóm mà ở, như đã
nói đầy đủ ở trước… cho đến khéo học như quán diệt khi niệm hơi thở
ra.”
Sau khi Phật nói kinh này xong, Tôn giả A-nan nghe
những gì Phật đã dạy, hoan hỷ phụng hành.
*
Tôi nghe như vầy:
Một thời, Phật ở trong rừng Tát-la-lê, cạnh sông
Bạt-cầu-ma tại tụ lạc Kim cương. Bấy giờ giờ Tôn giả A-nan ở một mình nơi
vắng, thiền quán tư duy, tự nghĩ như vầy: ‘Có một pháp nào được tu tập, tu
tập nhiều, khiến cho bốn pháp đầy đủ. Bốn pháp đã đầy đủ rồi, thì bảy pháp
đầy đủ. Bảy pháp đã đầy đủ rồi, thì hai pháp đầy đủ?’
Sau khi từ thiền tịnh tỉnh giấc, Tôn giả A-nan đến
chỗ Phật, cúi đầu đảnh lễ dưới chân, rồi ngồi lui qua một bên, bạch Phật
rằng:
“Khi con ở một mình nơi chỗ vắng, thiền quán tư duy
tự nghĩ: ‘Có một pháp nào được tu tập, tu tập nhiều, khiến cho bốn pháp
đầy đủ. Bốn pháp đã đầy đủ rồi, thì bảy pháp đầy đủ. Bảy pháp đã đầy đủ
rồi, thì hai pháp đầy đủ?’.”
Phật bảo A-nan:
“Có một pháp được tu tập, tu tập nhiều,… cho đến
hai pháp đầy đủ. Những gì là một pháp? Đó là An-na-ban-na niệm, được tu
tập, tu tập nhiều, có khả năng làm cho bốn Niệm xứ đầy đủ. Bốn Niệm xứ đã
đầy đủ rồi, bảy Giác phần đầy đủ. Bảy Giác phần đã đầy đủ rồi, minh và
giải thoát[52]
đầy đủ.
“Thế nào là tu tập An-na-ban-na niệm, thì bốn Niệm
xứ đầy đủ? Tỳ-kheo nương vào làng xóm mà ở… cho đến khéo học quán diệt khi
niệm hơi thở ra.
“Này A-nan, như vậy Thánh đệ tử, khi niệm hơi thở
vào, học như niệm hơi thở vào; khi niệm hơi thở ra, học như niệm hơi thở
ra. Hoặc dài hoặc ngắn. Giác tri tất cả thân hành, khi niệm hơi thở vào,
học như niệm hơi thở vào; khi niệm hơi thở ra, học như niệm hơi thở ra.
Thân hành an tịnh khi niệm hơi thở vào, học như thân hành an tịnh niệm hơi
thở vào; thân hành an tịnh khi niệm hơi thở ra, học như thân hành an tịnh
niệm hơi thở ra. Thánh đệ tử lúc bấy giờ, an trụ chánh niệm quán thân trên
thân. Nếu khác với thân[53],
kia cũng như vậy, tùy theo thân tương tự tư duy.
“Nếu có lúc Thánh đệ tử giác tri hỷ, giác tri lạc,
giác tri tâm hành, giác tri tâm hành an tịnh, khi niệm hơi thở vào, học
như tâm hành an tịnh niệm hơi thở vào; tâm hành an tịnh khi niệm hơi thở
ra, học như tâm hành an tịnh niệm hơi thở ra. Thánh đệ tử lúc bấy giờ, an
trụ chánh niệm quán thọ trên thọ. Nếu khác với thọ thì kia cũng tùy theo
thọ tương tự tư duy[54].
“Nếu có khi Thánh đệ tử giác tri tâm, giác tri tâm
hoan hỷ, tâm định, tâm giải thoát, khi niệm hơi thở vào, học như tâm giải
thoát niệm hơi thở vào. Tâm giải thoát khi niệm hơi thở ra, học như tâm
giải thoát niệm hơi thở ra. Thánh đệ tử lúc bấy giờ, an trụ chánh niệm
quán tâm nơi tâm. Nếu có tâm khác, kia cũng tùy theo tâm tương tự tư duy.
“Nếu có khi Thánh đệ tử quán vô thường, đoạn, vô
dục, diệt, học an trụ quán như vô thường, đoạn, vô dục, diệt. Thánh đệ tử
lúc bấy giờ, an trụ chánh niệm quán pháp trên pháp. Nếu có pháp khác, kia
cũng tùy theo pháp tương tự tư duy. Đó gọi là tu An-na-ban-na niệm, thì
bốn Niệm xứ đầy đủ.”
A-nan bạch Phật:
“Khi tu tập An-na-ban-na niệm như vậy, khiến cho
bốn Niệm xứ đầy đủ. Thế nào là tu bốn Niệm xứ làm cho bảy Giác phần đầy
đủ?”
Phật bảo A-nan:
“Nếu Tỳ-kheo an trụ chánh niệm quán thân trên thân.
Sau an trụ với chánh niệm, cột niệm trụ yên không cho mất, bấy giờ, phương
tiện tu Niệm giác phần. Khi đã tu niệm giác phần rồi, niệm giác phần được
đầy đủ. Khi niệm giác phần đã đầy đủ rồi, đối với pháp mà tuyển trạch, tư
lường; bấy giờ phương tiện tu Trạch pháp giác phần. Khi đã tu trạch pháp
giác phần rồi, trạch pháp giác phần được đầy đủ. Sau khi đối với pháp đã
tuyển trạch, phân biệt, tư lường rồi, phương tiện tinh cần sẽ đạt được,
lúc bấy giờ phương tiện tu tập Tinh tấn giác phần. Khi đã tu tinh tấn giác
phần rồi, tinh tấn giác phần được đầy đủ. Sau khi phương tiện tinh tấn,
tâm được hoan hỷ, lúc bấy giờ phương tiện tu Hỷ giác phần. Khi đã tu hỷ
giác phần rồi, hỷ giác phần được đầy đủ. Khi đã có hoan hỷ rồi, thân tâm
khinh an, lúc bấy giờ phương tiện tu Khinh an giác phần. Khi đã tu khinh
an phần rồi, khinh an giác phần được đầy đủ. Sau khi thân tâm an lạc rồi
đạt được tam-muội, lúc bấy giờ tu định giác phần. Sau khi đã tu Định giác
phần rồi, định giác phần được đầy đủ. Khi định giác phần đã đầy đủ rồi,
tham ưu thế gian bị diệt, đạt được xả bình đẳng, lúc bấy giờ phương tiện
tu Xả giác phần. Sau khi đã tu xả giác phần rồi, xả giác phần được đầy đủ.
Đối với thọ, tâm, pháp trên pháp niệm xứ cũng nói như vậy. Đó gọi là tu
bốn Niệm xứ thì bảy Giác phần sẽ đầy đủ.”
A-nan bạch Phật:
“Đó gọi là tu bốn Niệm xứ, bảy Giác phần sẽ đầy đủ.
Thế nào là khi tu bảy Giác phần thì minh và giải thoát sẽ đầy đủ?”
Phật bảo A-nan:
“Nếu Tỳ-kheo tu Niệm giác phần, y viễn ly, y vô
dục, y diệt, hướng đến xả. Sau khi đã tu niệm giác phần rồi, minh giải
thoát sẽ đầy đủ… cho đến khi tu xả giác phần y viễn ly, y vô dục, y diệt,
hướng đến xả. Cũng vậy, khi đã tu xả giác phần rồi, minh giải thoát sẽ đầy
đủ.
“A-nan, đó gọi là mọi pháp đều tùy thuộc vào nhau,
mọi pháp đều ảnh hưởng lẫn nhau. Mười ba pháp như vậy, một pháp làm tăng
thượng, một pháp là cửa ngõ, theo thứ lớp tiến lên, tu tập đầy đủ.”
Sau khi Phật nói kinh này xong, Tôn giả A-nan nghe
những gì Phật đã dạy, hoan hỷ phụng hành.
*
Cũng vậy, những gì Tỳ-kheo khác hỏi và Đức Phật hỏi
các Tỳ-kheo cũng nói như trên.[55]
*
Tôi nghe như vầy:
Một thời, Phật ở trong rừng Kim-tỳ,
tụ lạc Kim-tỳ-la[57].
Bấy giờ Thế Tôn bảo Tôn giả Kim-tỳ-la:
“Nay Ta sẽ nói về sự tinh tấn tu
tập bốn Niệm xứ. Hãy lắng nghe và suy nghĩ cho kỹ, Ta sẽ vì ông mà nói.”
Đức Thế Tôn lập lại ba lần như vậy,
trong khi Tôn giả Kim-tỳ-la[58]
vẫn ngồi im lặng. Bấy giờ, Tôn giả A-nan nói với Tôn giả Kim-tỳ-la:
“Nay Đại Sư nhắc bảo thầy.”
Ba lần như vậy.
Tôn giả Kim-tỳ-la nói với Tôn giả
A-nan:
“Tôi đã biết, Tôn giả A-nan! Tôi đã biết, Tôn giả
Cù-đàm[59]!”
Khi ấy Tôn giả A-nan bạch Phật rằng:
“Bạch Thế Tôn, thật đúng lúc. Bạch Thế Tôn, đã đúng
lúc. Bạch Thiện Thệ, xin vì các Tỳ-kheo nói về tu tập tinh tấn bốn Niệm
xứ. Các Tỳ-kheo sau khi nghe xong sẽ phụng hành.”
Phật bảo A-nan:
“Hãy lắng nghe và suy nghĩ kỹ, Ta sẽ vì các ông mà
nói.
“Tỳ-kheo, nếu lúc niệm hơi thở vào, học như hơi thở
vào;… cho đến lúc diệt niệm hơi thở ra thì, nên học như diệt niệm hơi thở
ra.
“Bấy giờ Thánh đệ tử khi niệm hơi thở vào, học như
niệm hơi thở vào;… cho đến thân hành tĩnh chỉ khi niệm hơi thở ra, học như
thân hành tĩnh chỉ hơi thở ra.
“Bấy giờ Thánh đệ tử an trụ chánh niệm quán thân
trên thân. Bấy giờ Thánh đệ tử an trụ chánh niệm quán thân trên thân rồi,
biết khéo tư duy bên trong cũng như vậy.”
Phật bảo A-nan:
“Thí như, có người cỡi xe từ phương Đông lắc lư mà
đến, lúc bấy giờ có giẫm đạp lên gò nỗng không?”
A-nan bạch Phật:
“Bạch Thế Tôn, có như vậy.”
Phật bảo A-nan:
“Cũng vậy, Thánh đệ tử lúc niệm hơi thở và học như
niệm hơi thở vào. Cũng vậy,… cho đến khéo tư duy bên trong. Nếu bấy giờ
Thánh đệ tử giác tri hỷ,... cho đến, học giác tri ý hành tĩnh chỉ,
Thánh đệ tử an trụ chánh niệm quán thọ nơi thọ; khi Thánh đệ tử đã an trụ
chánh niệm quán thọ trên thọ rồi, biết khéo tư duy bên trong cũng như vậy.
“Thí như, có người cỡi xe từ phương Nam đi xe lại.
Thế nào A-nan, nó có giẫm đạp lên gò nỗng không?”
A-nan bạch Phật:
“Bạch Thế Tôn, có như vậy.”
Phật bảo A-nan:
“Cũng vậy, Thánh đệ tử khi an trụ chánh niệm quán
thọ trên thọ, biết khéo tư duy bên trong. Thánh đệ tử giác tri tâm, tâm
hân hoan, tâm định, tâm giải thoát khi hơi thở và học như tâm giải thoát
hơi thở vào; tâm giải thoát khi hơi thở ra, học như tâm giải thoát hơi thở
ra.
“Đệ tử bậc Thánh lúc này sống quán niệm tâm trên
tâm; khi đệ tử bậc Thánh đã sống quán niệm tâm trên tâm như vậy rồi, biết
khéo tư duy bên trong.
“Thí như, có người đi xe từ phương Tây lại, có giẫm
đạp lên gò nỗng không?”
A-nan bạch Phật:
“Bạch Thế Tôn, có như vậy.”
Phật bảo A-nan:
“Cũng vậy, Thánh giác tri tâm… cho đến tâm giải
thoát khi hơi thở ra, học như tâm giải thoát hơi thở ra.
“Cũng vậy, Thánh đệ tử bấy giờ an trụ chánh niệm
quán tâm trên tâm, biết khéo tư duy bên trong.
Khéo ở nơi thân, thọ, tâm mà diệt bỏ tham ưu, bấy
giờ, Thánh đệ tử an trụ chánh niệm quán pháp trên pháp. Sau khi Thánh đệ
tử đã an trụ chánh niệm quán pháp trên pháp như vậy rồi, biết khéo tư duy
bên trong.
“Này A-nan, thí như nơi ngã tư đường có ụ mô đất,
có người cỡi xe từ phương Bắc đi xe lại, có giẫm đạp lên ụ mô đất không?”
A-nan bạch Phật:
“Bạch Thế Tôn, có như vậy.”
Phật bảo A-nan:
“Cũng vậy, Thánh đệ tử an trụ chánh niệm quán pháp
trên pháp, biết khéo tư duy bên trong.
“Này A-nan, đó gọi là Tỳ-kheo phương tiện tinh tấn
tu bốn Niệm xứ.”
Sau khi Phật nói kinh này xong, Tôn giả A-nan nghe
những gì Phật đã dạy, hoan hỷ phụng hành.
*
Tôi nghe như vầy:
Một thời, Phật ở trong vườn Cấp cô
độc, rừng cây Kỳ-đà, nước Xá-vệ. Bấy giờ Đức Thế Tôn bảo các Tỳ-kheo:
“Hãy tu An-na-ban-na niệm.
An-na-ban-na niệm được tu tập, tu tập nhiều rồi, thân không mệt mỏi, mắt
cũng không đau nhức, tùy thuận quán an trụ lạc, giác tri lạc, không đắm
nhiễm[61].
“Thế nào là tu An-na-ban-na niệm,
thân không mệt mỏi, mắt cũng không đau nhức, tùy thuận quán an trụ lạc,
giác tri lạc, không đắm nhiễm?
“Tỳ-kheo khi nương vào làng xóm mà
ở… cho đến quán diệt lúc hơi thở ra, học như quán diệt hơi thở ra. Đó gọi
là khi tu An-na-ban-na niệm, thân không mệt mỏi, mắt cũng không đau nhức,
tùy thuận quán an trụ lạc, giác tri lạc, không đắm nhiễm. Như vậy, tu
An-na-ban-na niệm được quả lớn, phước lợi lớn.
“Tỳ-kheo muốn cầu ly dục pháp ác
bất thiện, có giác, có quán, có hỷ lạc do viễn ly sanh, chứng và an trú Sơ
thiền; Tỳ-kheo ấy nên tu An-na-ban-na niệm. Như vậy, tu An-na-ban-na niệm
được quả lớn, phước lợi lớn.
“Tỳ-kheo muốn cầu đệ Nhị, đệ Tam,
đệ Tứ thiền, Từ, Bi, Hỷ, Xả, Không nhập xứ, Thức nhập xứ, Vô sở hữu nhập
xứ, Phi tưởng phi phi tưởng nhập xứ; ba kết hoàn toàn hết, đắc quả
Tu-đà-hoàn; ba kết đã hết, tham, nhuế, si đã mỏng, đắc quả Tư-đà-hàm; năm
hạ phần kết sử đã hết, đắc quả A-na-hàm; đạt được vô lượng sức thần thông,
Thiên nhĩ, Tha tâm trí, Túc mạng trí, Sanh tử trí và Lậu tận trí; Tỳ-kheo
ấy nên tu An-na-ban-na niệm. Như vậy, tu An-na-ban-na niệm, được quả lớn,
phước lợi lớn.”
Sau khi Phật nói kinh này xong, các
Tỳ-kheo nghe những gì Phật đã dạy, đều hoan hỷ phụng hành.
*
Tôi nghe như vầy:
Một thời, Phật hạ an cư ở trong
vườn Cấp cô độc, rừng cây Kỳ-đà, nước Xá-vệ. Bấy giờ số đông các Thượng
tọa Thanh văn, an cư ở chung quanh Thế Tôn, hoặc dưới gốc cây, hoặc trong
hang động.
Khi ấy, có số đông các Tỳ-kheo trẻ
đến chỗ Phật, đảnh lễ dưới chân Phật, rồi ngồi lui qua một bên. Đức Phật
vì các Tỳ-kheo trẻ nói pháp, khai thị, chỉ giáo, soi sáng, làm cho hoan
hỷ. Sau khi khai thị, chỉ giáo, soi sáng, làm cho hoan hỷ rồi, Ngài ngồi
im lặng. Các Tỳ-kheo trẻ sau khi nghe những gì Phật đã dạy, đều hoan hỷ
tùy hỷ, từ chỗ ngồi đứng dậy làm lễ mà đi.
Các Tỳ-kheo trẻ đến chỗ Tỳ-kheo
Thượng tọa, lễ dưới chân Thượng tọa, rồi ngồi một bên. Khi ấy các Tỳ-kheo
Thượng tọa suy nghĩ như vầy: ‘Chúng ta nên nhiếp thọ các Tỳ-kheo trẻ này.
Hoặc một người nhận một người; hoặc một người nhận một, hai, ba hay nhiều
người.’ Sau khi nghĩ như vậy xong liền nhiếp thọ hoặc một người nhận một
người, hoặc nhận hai, ba, hay nhiều người; hoặc có Thượng tọa… cho đến
nhận sáu mươi người.
Bấy giờ là ngày mười lăm, lúc
bố-tát, Đức Thế Tôn trải chỗ ngồi mà ngồi ở trước đại chúng. Sau khi Đức
Thế Tôn quán sát các Tỳ-kheo xong, bảo các Tỳ-kheo rằng:
“Lành thay! Lành thay! Hôm nay Ta
rất hoan hỷ vì các Tỳ-kheo đã làm những việc chính đáng. Cho nên Tỳ-kheo
phải nỗ lực tinh tấn.”
Ở tại Xá-vệ, sau khi tháng Ca-đê[62]
đã mãn, các Tỳ-kheo du hành trong nhân gian nghe rằng:
‘Đức Thế Tôn an cư ở nước Xá-vệ, tháng Ca-đê đã mãn, may y đã xong, đắp y
mang bát đang du hành trong nhân gian ở nước Xá-vệ.’ Các Tỳ-kheo đi dần
đến nước Xá-vệ, sau khi cất y bát, rửa chân xong, đến chỗ Thế Tôn, cúi đầu
đảnh lễ dưới chân, rồi ngồi lui qua một bên.
Bấy giờ, Thế Tôn vì các Tỳ-kheo du
hành nhân gian nói pháp khai thị, chỉ giáo, soi sáng, làm cho hoan hỷ. Sau
khi khai thị, chỉ giáo, soi sáng, làm cho hoan hỷ rồi, Ngài ngồi im lặng.
Sau khi các Tỳ-kheo du hành nhân gian nghe Phật nói pháp, đều hoan hỷ, tùy
hỷ, từ chỗ ngồi đứng dậy làm lễ mà đi. Họ đến chỗ Tỳ-kheo Thượng tọa, cúi
đầu đảnh lễ dưới chân, rồi ngồi lui qua một bên.
Lúc này, các Tỳ-kheo Thượng tọa
nghĩ như vầy: ‘Chúng ta nên nhiếp thọ các Tỳ-kheo du hành nhân gian này.
Hoặc một người nhận một người, hoặc một người nhận một, hai, ba hay nhiều
người.’ Sau đó liền nhiếp thọï, hoặc một người nhận một người, hoặc nhận
hai, ba,… cho đến nhận sáu mươi người. Có Tỳ-kheo Thượng tọa nhận các
Tỳ-kheo du hành nhân gian giáo giới, giáo thọ, làm khéo biết thứ lớp trước
sau.
Bấy giờ, ngày mười lăm, ngày
bố-tát, Đức Thế Tôn trải chỗ ngồi mà ngồi trước đại chúng, sau khi quán
sát chúng Tỳ-kheo, Ngài bảo các Tỳ-kheo:
“Lành thay! Lành thay! Các Tỳ-kheo,
Ta rất hoan hỷ vì các ông đã làm những việc chính đáng. Các Tỳ-kheo, chư
Phật quá khứ, cũng có chúng Tỳ-kheo mà sở hành chính đáng, như chúng hiện
tại này vậy. Chư Phật vị lai cũng sẽ có chúng và cũng sẽ có những sở hành
chính đáng như vậy, như chúng hiện tại này vậy. Vì sao? Vì các Tỳ-kheo
Trưởng lão trong chúng hiện tại này, có vị đã đắc và an trụ đầy đủ Sơ
thiền, đệ Nhị thiền, đệ Tam thiền, đệ Tứ thiền, Từ, Bi, Hỷ, Xả, Không nhập
xứ, Thức nhập xứ, Vô sở hữu nhập xứ, Phi tưởng phi phi tưởng xứ. Có
Tỳ-kheo ba kết đã hết, đắc Tu-đà-hoàn, không đọa vào pháp đường ác, nhất
định hướng đến Vô thượng Chánh giác, chỉ còn bảy lần qua lại Trời, Người,
cứu cánh hết khổ. Có Tỳ-kheo ba kết đã hết, tham, thuế, si mỏng, đắc
Tư-đà-hàm. Có Tỳ-kheo năm hạ phần kết đã hết, đắc A-na-hàm, Sanh
Bát-niết-bàn, không tái sanh vào cõi đời này nữa. Có Tỳ-kheo đắc cảnh giới
Vô lượng thần thông Thiên nhĩ, Tha tâm trí, Túc mạng trí, Sanh tử trí, Lậu
tận trí. Có Tỳ-kheo tu quán bất tịnh để đoạn tham dục, tu tâm từ để đoạn
sân nhuế, tu vô thường để đoạn ngã mạn, tu An-na-ban-na niệm để đoạn giác
tưởng.
“Thế nào là tu An-na-ban-na niệm để
đoạn giác tưởng? Tỳ-kheo nương vào làng xóm mà ở… cho đến quán diệt khi
hơi thở ra, học như quán diệt hơi thở ra. Đó gọi là tu An-na-ban-na niệm
để đoạn trừ giác tưởng.”
Sau khi Phật nói kinh này xong, các
Tỳ-kheo nghe những gì Phật đã dạy, đều hoan hỷ phụng hành.
*
Tôi nghe như vầy:
Một thời, Phật ở trong vườn Cấp cô độc, rừng cây
Kỳ-đà, nước Xá-vệ. Bấy giờ Đức Thế Tôn bảo các Tỳ-kheo:
“Có ba học. Những gì là ba? Đó là tăng thượng Giới
học, tăng thượng Ý học[64],
tăng thượng Tuệ học. Sau đó Thế Tôn liền nói kệ rằng:
Người đầy đủ
ba học,
Là Tỳ-kheo
chánh hạnh;
Tăng thượng
giới, tâm, tuệ,
Nỗ lực siêng ba pháp.
Dũng mãnh, thành trì
vững,
Luôn giữ gìn các căn.
Ngày cũng như ban đêm,
Ban đêm cũng như ngày.
Trước lại cũng như sau,
Sau lại cũng như trước;
Như trên cũng như dưới,
Như dưới cũng như trên.
Các tam-muội vô lượng,
Chiếu khắp cả các
phương;
Đó lối đi giác ngộ,
Tập tươi mát bậc nhất[65].
Lìa bỏ vô minh tránh,
Tâm ấy khéo giải thoát.
Ta Đấng Thế Gian Giác,
Minh hạnh đều đầy đủ.
Trụ chánh niệm không
quên,
Tâm này được giải thoát.
Khi thân hoại mạng
chung,
Như đèn
hết dầu tắt.
Sau khi Phật nói kinh này xong, các
Tỳ-kheo nghe những gì Phật đã dạy, đều hoan hỷ phụng hành.
*
Tôi nghe như vầy:
Một thời, Phật ở trong vườn Cấp cô độc, rừng cây
Kỳ-đà, nước Xá-vệ. Bấy giờ Đức Thế Tôn bảo các Tỳ-kheo:
“Cũng có ba học nữa. Những gì là ba? Đó là tăng
thượng Giới học, tăng thượng Ý học, tăng thượng Tuệ học.
“Thế nào là tăng thượng Giới học? Tỳ-kheo an trụ
giới, luật nghi Ba-la-đề-mộc-xoa, đầy đủ oai nghi, hành xứ, thấy tội nhỏ
nhặt sanh lòng sợ hãi, thọ trì học giới.
“Thế nào là tăng thượng Ý học? Tỳ-kheo ly dục, ly
pháp ác bất thiện… cho đến, chứng và an trụ đệ Tứ thiền.
“Thế nào là tăng thượng Tuệ học? Tỳ-kheo biết như
thật về Khổ Thánh đế này, biết như thật về Tập, Diệt, Đạo Thánh đế, đó gọi
là tăng thượng Tuệ học.”
Bấy giờ, Đức Thế Tôn liền nói kệ như đã nói ở trên.
Sau khi Phật nói kinh này xong, các Tỳ-kheo nghe
những gì Phật đã dạy, đều hoan hỷ phụng hành.
*
Tôi nghe như vầy:
Một thời, Phật ở trong vườn Cấp cô độc, rừng cây
Kỳ-đà, nước Xá-vệ. Bấy giờ Đức Thế Tôn bảo các Tỳ-kheo:
“Có Tỳ-kheo học tăng thượng Giới, không phải học
tăng thượng Ý, tăng thượng Tuệ. Có vị học tăng thượng Giới, tăng thượng Ý,
không phải học tăng thượng Tuệ.
“Thánh đệ tử an trụ tăng thượng Tuệ, phương tiện
tùy thuận mà thành tựu và an trụ, thì sự tu tập tăng thượng Giới, tăng
thượng Ý cũng sẽ đầy đủ. Cũng vậy, Thánh đệ tử an trụ tăng thượng Tuệ,
phương tiện tùy thuận mà thành tựu và an trú, thì sẽ sống theo tuổi thọ
của trí tuệ vô thượng.”[67]
Sau khi Phật nói kinh này xong, các Tỳ-kheo nghe
những gì Phật đã dạy, đều hoan hỷ phụng hành.
*
Tôi nghe như vầy:
Một thời, Phật ở trong vườn Cấp cô độc, rừng cây
Kỳ-đà, nước Xá-vệ. Bấy giờ Đức Thế Tôn bảo các Tỳ-kheo:
“Hơn hai trăm năm mươi giới[69],
cứ mỗi nửa tháng, lại thuyết Ba-la-đề-mộc-xoa. Để cho kia tự minh cầu học
mà học, nói ba học có thể tổng nhiếp các giới. Những gì là ba? Đó là tăng
thượng Giới học, tăng thượng Ý học và tăng thượng Tuệ học.”
Sau khi Phật nói kinh này xong, các Tỳ-kheo nghe
những gì Phật đã dạy, đều hoan hỷ phụng hành.
*
Tôi nghe như vầy:
Một thời, Phật ở trong vườn Cấp cô độc, rừng cây
Kỳ-đà, nước Xá-vệ. Bấy giờ Đức Thế Tôn bảo các Tỳ-kheo:
Nói như trên, nhưng có một vài sai biệt.
“Thế nào là tăng thượng Giới học? Tỳ-kheo thiên
trọng nơi giới[71],
giới tăng thượng; không thiên trọng nơi định, định không tăng thượng;
không thiên trọng nơi tuệ, tuệ không tăng thượng. Đối với từng phần từng
phần giới vi tế, nếu phạm thì theo đó mà sám hối. Vì sao? Ta không nói là
kia không có khả năng, nếu giới kia tùy thuận phạm hạnh, làm lợi ích cho
phạm hạnh, làm tồn tại lâu dài phạm hạnh; Tỳ-kheo như vậy giới vững chắc,
giới sư luôn tồn tại[72],
giới thường tùy thuận mà sanh, thọ trì mà học. Biết như vậy, thấy như vậy,
thì sẽ đoạn trừ ba kết là thân kiến, giới thủ và nghi. Ba kết này đã đoạn
trừ, đắc Tu-đà-hoàn, không còn đọa vào pháp đường ác, nhất định sẽ hướng
đến Vô thượng Chánh giác, chỉ còn qua lại bảy lần Trời, Người, cứu cánh
thoát khổ. Đó gọi là tăng thượng Giới học.
“Thế nào là tăng thượng Ý học? Tỳ-kheo thiên trọng
giới, giới tăng thượng; thiên trọng định, định tăng thượng; không thiên
trọng tuệ, tuệ không tăng thượng. Đối với từng phần từng phần giới vi tế…
cho đến thọ trì học giới. Biết như vậy, thấy như vậy, đoạn trừ năm hạ phần
kết, là thân kiến, giới thủ, nghi, tham dục, sân nhuế. Năm hạ phần kết này
đã đoạn trừ, đắc Sanh Bát-niết-bàn A-na-hàm, không còn trở lại đời này. Đó
gọi là tăng thượng Ý học.
“Thế nào là tăng thượng Tuệ học? Tỳ-kheo thiên
trọng giới, giới tăng thượng; thiên trọng định, định tăng thượng; thiên
trọng tuệ, tuệ tăng thượng. Tỳ-kheo biết như vậy, thấy như vậy, tâm giải
thoát dục hữu lậu, tâm giải thoát hữu hữu lậu, tâm giải thoát vô minh hữu
lậu; giải thoát tri kiến,‘Ta, sự sanh đã dứt, phạm hạnh đã lập, những việc
cần làm đã làm xong, tự biết không còn tái sanh đời sau nữa.’ Đó gọi là
tăng thượng Tuệ học.”
Sau khi Phật nói kinh này xong, các Tỳ-kheo nghe
những gì Phật đã dạy, đều hoan hỷ phụng hành.
*
Tôi nghe như vầy:
Một thời, Phật ở trong vườn Cấp cô độc, rừng cây
Kỳ-đà, nước Xá-vệ. Bấy giờ Đức Thế Tôn bảo các Tỳ-kheo:
“Hơn hai trăm năm mươi giới[74],
cứ mỗi nửa tháng, lại thuyết Ba-la-đề-mộc-xoa. Nếu thiện nam tử tự theo ý
muốn của mình mà học, Ta nói cho ba học. Nếu học ba học này, thì sẽ tóm
thâu được tất cả các học giới. Những gì là ba? Đó là tăng thượng Giới học,
tăng thượng Ý học, tăng thượng Tuệ học.
“Thế nào là tăng thượng Giới học? Tỳ-kheo thiên
trọng nơi giới[75],
giới tăng thượng; không thiên trọng nơi định, định không tăng thượng;
không thiên trọng nơi tuệ, tuệ không tăng thượng. Đối với từng phần từng
phần giới vi tế,… cho đến nên giữ gìn học giới. Nếu Tỳ-kheo biết như vậy,
thấy như vậy, đoạn ba kết là thân kiến, giới thủ, nghi; và tham, nhuế, si
đã mỏng, thành tựu Nhất chủng đạo[76].
Ở vào địa vị này chưa phải là đẳng giác, nên gọi là Tư-đà-hoàn, hay gọi là
Gia-gia, gọi là Thất hữu, gọi là Tùy pháp hành, gọi là Tùy tín hành. Đó
gọi là tăng thượng Giới học.
“Thế nào là tăng thượng Ý học? Tỳ-kheo thiên trọng
giới, giới tăng thượng; thiên trọng định, định tăng thượng; không thiên
trọng tuệ, tuệ không tăng thượng. Đối với từng phần từng phần giới vi tế…
cho đến thọ trì học giới. Nếu Tỳ-kheo biết như vậy, thấy như vậy, đoạn
được năm hạ phần kết, là thân kiến, giới thủ, nghi, tham dục, sân nhuế;
nếu đoạn trừ được năm hạ phần này có thể được Trung Bát-niết-bàn. Ở địa vị
này nếu chưa được Đẳng giác, thì được Sanh Bát-niết-bàn; ở địa vị này nếu
chưa được Đẳng giác, thì được Vô hành Bát-niết-bàn; ở địa vị này nếu chưa
được Đẳng giác, thì được Hữu hành Bát-niết-bàn; ở địa vị này nếu chưa được
Đẳng giác, thì được Thượng lưu Bát-niết-bàn. Đó gọi là tăng thượng Ý học.
“Thế nào là tăng thượng Tuệ học? Tỳ-kheo thiên
trọng giới, giới tăng thượng; thiên trọng định, định tăng thượng; thiên
trọng tuệ, tuệ tăng thượng. Tỳ-kheo biết như vậy, thấy như vậy, tâm giải
thoát dục hữu lậu, tâm giải thoát hữu hữu lậu, tâm giải thoát vô minh hữu
lậu; giải thoát tri kiến,‘Ta, sự sanh đã dứt, phạm hạnh đã lập, những việc
cần làm đã làm xong, tự biết không còn tái sanh đời sau nữa.’ Đó gọi là
tăng thượng Tuệ học.”
Sau khi Phật nói kinh này xong, các Tỳ-kheo nghe
những gì Phật đã dạy, đều hoan hỷ phụng hành.
*
Tôi nghe như vầy:
Một thời, Phật ở trong vườn Cấp cô độc, rừng cây
Kỳ-đà, nước Xá-vệ. Bấy giờ Đức Thế Tôn bảo các Tỳ-kheo:
“Nếu Tỳ-kheo an trụ giới đầy đủ, khéo nhiếp trì
Ba-la-đề-mộc-xoa, đầy đủ oai nghi hành xứ, thấy những tội vi tế hay sanh
lòng sợ hãi. Tỳ-kheo khi đã an trụ giới đầy đủ, khéo nhiếp trì
Ba-la-đề-mộc-xoa, đầy đủ oai nghi hành xứ, thấy những tội vi tế hay sanh
lòng sợ hãi, bình đẳng thọ trì học giới, khiến cho sự tu tập Ba học đầy
đủ. Những gì là ba? Đó là tăng thượng Giới học, tăng thượng Ý học, tăng
thượng Tuệ học.
“Thế nào là tăng thượng Giới học? Tỳ-kheo giới thì
đầy đủ[78],
nhưng định ít, tuệ ít; đối với mỗi một phần giới vi tế… cho đến nên gìn
giữ giới học. Nếu Tỳ-kheo nào biết như vậy, thấy như vậy, thì sẽ đoạn trừ
được ba kết đó là thân kiến, giới thủ và nghi; khi đã đoạn trừ ba kết này,
thì sẽ được Tu-đà-hoàn, không còn đọa vào đường ác, nhất định hướng đến Vô
thượng Chánh giác, chỉ còn bảy lần qua lại Trời, Người, cứu cánh thoát
khổ.
“Thế nào là tăng thượng Ý học? Là Tỳ-kheo định đã
đầy đủ, tam-muội đã đầy đủ, nhưng tuệ ít; đối với mỗi một phần giới vi tế,
nếu phạm thì theo đó mà sám hối… cho đến nên gìn giữ học giới. Nếu Tỳ-kheo
nào biết như vậy, thấy như vậy, thì sẽ đoạn trừ năm hạ phần kết đó là thân
kiến, giới thủ, nghi, tham dục, sân nhuế; khi đã đoạn trừ năm hạ phần kết
này rồi, được A-na-hàm, Sanh Bát-niết-bàn, không còn tái sanh vào đời này.
Đó gọi là tăng thượng Ý học.
“Thế nào là tăng thượng Tuệ học? Là Tỳ-kheo học
giới đã đầy đủ, định đã đầy đủ, tuệ đã đầy đủ. Nếu Tỳ-kheo nào biết như
vậy, thấy như vậy, giải thoát dục hữu lậu, tâm giải thoát hữu hữu lậu,
giải thoát tâm vô minh hữu lậu, giải thoát tri kiến, ‘Ta, sự sanh đã dứt,
phạm hạnh đã lập, những việc cần làm đã làm xong, tự biết không còn tái
sanh đời sau nữa.’ Đó gọi là tăng thượng Tuệ học.”
Sau khi Phật nói kinh này xong, các Tỳ-kheo nghe
những gì Phật đã dạy, đều hoan hỷ phụng hành.
*
Tôi nghe như vầy:
Một thời, Phật ở trong vườn Cấp cô độc, rừng cây
Kỳ-đà, nước Xá-vệ. Bấy giờ Đức Thế Tôn bảo các Tỳ-kheo:
“Nếu Tỳ-kheo an trụ giới đầy đủ, khéo nhiếp trì
Ba-la-đề-mộc-xoa, đầy đủ oai nghi hành xứ, thấy những tội vi tế hay sanh
lòng sợ hãi. Tỳ-kheo khi đã an trụ giới đầy đủ, khéo nhiếp trì
Ba-la-đề-mộc-xoa, đầy đủ oai nghi hành xứ, thấy những tội vi tế hay sanh
lòng sợ hãi, bình đẳng thọ trì học giới, khiến cho sự tu tập Ba học đầy
đủ. Những gì là ba? Đó là tăng thượng Giới học, tăng thượng Ý học, tăng
thượng Tuệ học.
“Thế nào là tăng thượng Giới học? Tỳ-kheo giới đầy
đủ[79],
nhưng định ít, tuệ ít; đối với mỗi một phần giới vi tế… cho đến nên gìn
giữ giới học. Nếu Tỳ-kheo nào biết như vậy, thấy như vậy thì sẽ đoạn được
ba kết và tham, nhuế, si còn mỏng, được Nhất chủng đạo[80].
Ở địa vị này nếu chưa được Đẳng giác, thì sẽ được Tư-đà-hàm; ở địa vị này
nếu chưa được Đẳng giác, thì được gọi là Gia-gia[81];
ở địa vị này nếu chưa được Đẳng giác thì, sẽ được Tu-đà-hoàn; ở địa vị này
nếu chưa được Đẳng giác, thì sẽ được Tùy pháp hành; ở địa vị này nếu chưa
được Đẳng giác, thì sẽ được Tùy tín hành. Đó gọi là tăng thượng Giới học.
“Thế nào là tăng thượng Ý học? Là Tỳ-kheo định đã
đầy đủ, tam-muội đã đầy đủ, nhưng tuệ ít; đối với mỗi một phần giới vi tế,
nếu phạm thì theo đó mà sám hối… cho đến nên gìn giữ học giới. Nếu Tỳ-kheo
nào biết như vậy, thấy như vậy, thì sẽ đoạn trừ năm hạ phần kết đó là thân
kiến, giới thủ, nghi, tham dục, sân nhuế; khi đã đoạn trừ năm hạ phần kết
này rồi, thì sẽ được Trung Bát-niết-bàn. Ở đây nếu chưa được Đẳng giác,
thì sẽ được Sanh Bát-niết-bàn; ở đây nếu chưa được Đẳng giác, thì sẽ được
Vô hành Bát-niết-bàn; ở đây nếu chưa được Đẳng giác, thì sẽ được Hữu hành
Bát-niết-bàn; ở đây nếu chưa được Đẳng giác, thì sẽ được Thượng lưu
Bát-niết-bàn. Đó gọi là tăng thượng Ý học.
“Thế nào là tăng thượng Tuệ học? Là Tỳ-kheo học
giới đã đầy đủ, định đã đầy đủ, tuệ đã đầy đủ. Nếu Tỳ-kheo nào biết như
vậy, thấy như vậy, thì sẽ giải thoát tâm dục hữu lậu, giải thoát tâm hữu
hữu lậu, giải thoát tâm vô minh hữu lậu; giải thoát tri kiến, ‘Ta, sự sanh
đã dứt, phạm hạnh đã lập, những việc cần làm đã làm xong, tự biết không
còn tái sanh đời sau nữa.’ Đó gọi là tăng thượng Tuệ học.”
Sau khi Phật nói kinh này xong, các Tỳ-kheo nghe
những gì Phật đã dạy, đều hoan hỷ phụng hành.
*
Tôi nghe như vầy:
Một thời, Phật ở trong vườn Cấp cô độc, rừng cây
Kỳ-đà, nước Xá-vệ. Bấy giờ Đức Thế Tôn bảo các Tỳ-kheo:
“Có hai học. Những gì là hai? Đó là thượng oai nghi
học và thượng Ba-la-đề-mộc-xoa học. Sau đó Thế Tôn liền nói kệ rằng:
Người học[83],
lúc học giới,
Thẳng đường,
đi theo đó;
Chuyên xét,
siêng phương tiện,
Khéo tự giữ
thân mình.
Được sơ vô lậu
trí[84],
Kế, cứu cánh
vô tri[85];
Được vô tri
giải thoát,
Đã vượt qua tri kiến.
Thành bất động giải
thoát,
Các hữu kết diệt hết;
Các căn kia đầy đủ,
Các căn vui vắng lặng.
Giữ thân sau cùng này,
Hàng phục
các ma oán.
Sau khi Phật nói kinh này xong, các
Tỳ-kheo nghe những gì Phật đã dạy, đều hoan hỷ phụng hành.
*
Tôi nghe như vầy:
Một thời, Phật ở trong vườn Cấp cô độc, rừng cây
Kỳ-đà, nước Xá-vệ. Bấy giờ Đức Thế Tôn bảo các Tỳ-kheo:
“Học giới sẽ mang lại nhiều phước lợi, an trú trí
tuệ là bậc trên; giải thoát kiên cố, niệm là tăng thượng. Nếu Tỳ-kheo nào
đã học giới được phước lợi; an trú trí tuệ là bậc trên; giải thoát kiên
cố, niệm là tăng thượng, thì sẽ khiến cho ba học đầy đủ. Những gì là ba?
Đó là tăng thượng Giới học, tăng thượng Ý học và tăng thượng Tuệ học. Sau
đó Thế Tôn liền nói kệ rằng:
Phước lợi
theo học giới,
Thiền định
chuyên tư duy;
Trí tuệ là tối
thượng,
Đời này là tối
hậu.
Thân Mâu-ni
cuối cùng,
Hàng ma
qua bờ kia.
Sau khi Phật nói kinh này xong, các
Tỳ-kheo nghe những gì Phật đã dạy, đều hoan hỷ phụng hành.
*
Tôi nghe như vầy:
Một thời, Phật ở trong vườn Cấp cô
độc, rừng cây Kỳ-đà, nước Xá-vệ. Bấy giờ Đức Thế Tôn bảo các Tỳ-kheo:
Như đã nói ở trên, nhưng có một
vài sai biệt:
“Này các Tỳ-kheo, thế nào là học
giới theo phước lợi? Là Đại Sư vì các Thanh văn chế giới để nhiếp thủ
Tăng, tích cực nhiếp thủ Tăng, khiến người không tin, được tin; người đã
tin, tăng trưởng lòng tin; điều phục người ác; người tàm quý được sống an
vui; phòng hộ hữu lậu hiện tại; chính thức đối trị được đời vị lai; khiến
cho phạm hạnh tồn tại lâu dài. Như Đại Sư đã vì Thanh văn chế giới để
nhiếp thủ Tăng… cho đến khiến cho phạm hạnh tồn tại lâu dài. Học giới như
vậy như vậy, hành trì giới kiên cố, giới hằng tại, giới thường hành, giữ
gìn học giới. Đó gọi là Tỳ-kheo nhờ giới mà được phước lợi[87].
“Thế nào trí tuệ là hơn hết? Đại Sư
vì Thanh văn nói pháp với lòng đại bi thương cảm, vì nghĩa lợi, hoặc vì an
ủi, hoặc vì an lạc, hoặc vì an ủi, an lạc. Như vậy, Đại Sư vì các Thanh
văn nói pháp với lòng đại bi thương cảm, vì nghĩa lợi, an ủi, an lạc. Như
vậy, đối với pháp nào, chỗ nào cũng dùng trí tuệ quán sát. Đó gọi là
Tỳ-kheo trí tuệ là hơn hết.
“Thế nào là giải thoát kiên cố? Đại
Sư vì các Thanh văn nói pháp với lòng đại bi thương cảm, vì nghĩa lợi, an
ủi, an lạc. Như vậy, thuyết giảng pháp nào, chỗ nào, nơi nào cũng đem lại
được an vui giải thoát. Đó gọi là Tỳ-kheo giải thoát kiên cố.
“Thế nào là Tỳ-kheo niệm tăng
thượng? Người chưa đầy đủ giới thân, chuyên tâm cột niệm an trụ; điều chưa
được quán sát, thì ở chỗ này chỗ kia bằng trí tuệ cột niệm an trụ. Điều đã
được quán sát, thì ở chỗ này chỗ kia trùng khởi khởi niệm an trụ. Pháp
chưa được xúc, thì ở chỗ này chỗ kia giải thoát niệm an trụ. Pháp đã được
xúc, thì ở chỗ này chỗ kia giải thoát niệm an trụ. Đó gọi là Tỳ-kheo chánh
niệm tăng lên. Sau đó Thế Tôn liền nói kệ rằng:
Phước lợi
theo học giới,
Thiền định
chuyên tư duy;
Trí tuệ là tối
thượng,
Đời này là tối
hậu.
Thân Mâu-ni
cuối cùng,
Hàng ma
qua bờ kia.
Sau khi Phật nói kinh này xong, các
Tỳ-kheo nghe những gì Phật đã dạy, đều hoan hỷ phụng hành.
Kinh
Thi-bà-ca như Phật sẽ nói ở sau. Cũng vậy, Tỳ-kheo A-nan và Tỳ-kheo khác
hỏi, Đức Phật hỏi các Tỳ-kheo. Ba kinh này cũng nói như trên.
*
Tôi nghe như vầy:
Một thời, Phật ở trong vườn Cấp cô
độc, rừng cây Kỳ-đà, nước Xá-vệ. Bấy giờ Đức Thế Tôn bảo các Tỳ-kheo:
“Thí như điền phu, có ba viẹâc để
làm ruộng, phải khéo tùy theo thời mà làm. Những gì là ba? Điền phu kia
phải theo thời mà cày bừa, phải theo thời mà dẫn nước vào, phải theo thời
mà gieo hạt. Khi điền phu kia đã theo thời cày bừa, đã dẫn nước, đã gieo
hạt xuống rồi, thì không nghĩ rằng: ‘Muốn ngay ngày hôm nay chúng sanh
trưởng, có quả ngay hôm nay, chín ngay hôm nay, hoặc là ngày mai hay ngày
sau.’ Nhưng này các Tỳ-kheo, gia chủ kia sau khi đã cày bừa, dẫn nước,
gieo hạt xuống rồi, tuy không nghĩ rằng: ‘Đang sanh trưởng, có quả và chín
ngay hôm nay, hoặc ngày mai hay ngày sau.’ Mà những hạt giống kia khi đã
được gieo vào trong đất, thì tự chúng theo thời mà sanh trưởng, mà có quả,
mà chín.
“Cũng vậy, Tỳ-kheo đối với ba học
này, phải khéo tùy thời mà học, nghĩa là phải khéo học Giới, khéo học Ý,
khéo học Tuệ; khi đã học chúng rồi không nghĩ rằng: ‘Mong ta ngày nay
không khởi lên các lậu, tâm khéo giải thoát, hoặc ngày mai hay ngày sau.’
Cũng không nghĩ rằng: ‘Mong có thần lực tự nhiên mà có thể khiến cho không
khởi lên các lậu, tâm giải thoát ngay hôm nay, hoặc ngày mai hay ngày
sau.’ Khi đã tùy thời học tăng thượng Giới, học tăng thượng Ý, học tăng
thượng Tuệ rồi, thì tùy thời mà tự mình đạt không khởi lên các lậu, tâm
khéo giải thoát.
“Này Tỳ-kheo, thí như gà mái ấp
trứng, có thể từ mười cho đến mười hai ngày; phải tùy thời thăm chừng,
chăm sóc giữ gìn ấm lạnh. Con gà mái ấp kia không nghĩ rằng: ‘Ngay hôm
nay, hoặc ngày mai hay ngày sau, ta sẽ dùng mỏ mổ, hoặc dùng móng cào, để
cho con của thoát ra khỏi vỏ một cách an toàn.’ Nhưng gà mái ấp kia khéo
ấp con nó, tùy thời chăm sóc thương yêu, con của nó sẽ tự nhiên thoát ra
khỏi vỏ an toàn. Cũng vậy, Tỳ-kheo khéo học Ba học, tùy theo thời tiết sẽ
tự đạt được không khởi lên các lậu, tâm khéo giải thoát.”
Sau khi Phật nói kinh này xong, các
Tỳ-kheo nghe những gì Phật đã dạy, đều hoan hỷ phụng hành.
*
Tôi nghe như vầy:
Một thời, Phật ở trong vườn Cấp cô độc, rừng cây
Kỳ-đà, nước Xá-vệ. Bấy giờ Đức Thế Tôn bảo các Tỳ-kheo:
“Thí như con lừa đi theo đàn bò, tự nghĩ rằng: ‘Ta
phát ra tiếng bò.’ Nhưng hình dáng của nó không giống bò, màu sắc cũng
không giống, âm thanh phát ra không giống, mà theo đàn bò, rồi tự cho mình
là bò, phát ra tiếng bò kêu, mà thật ra khác bò xa!
“Cũng vậy, có một nam tử ngu si vi phạm giới luật,
mà còn đi theo đại chúng nói rằng: ‘Ta là Tỳ-kheo! Ta là Tỳ-kheo!’ mà
không học tập thắng dục về tăng thượng Giới học, tăng thượng Ý học, tăng
thượng Tuệ học. Còn theo đại chúng tự cho rằng: ‘Ta là Tỳ-kheo! Ta là
Tỳ-kheo!’ Nhưng kỳ thật khác xa Tỳ-kheo.”
Rồi Thế Tôn liền nói kệ rằng:
Thú cùng
móng, không sừng,
Đủ bốn chân,
tiếng kêu;
Đi theo sau đàn bò,
Luôn cho là bạn bè.
Hình dạng chẳng phải bò,
Không thể kêu tiếng bò;
Cũng vậy, người ngu si,
Chẳng theo cột tâm niệm.
Đối lời dạy Thiện Thệ,
Không muốn siêng phương
tiện;
Tâm biếng nhác, khinh
mạn,
Không được đạo Vô
thượng.
Như lừa trong đàn bò,
Mà luôn xa đàn bò.
Kia tuy theo đại chúng,
Nhưng luôn
trái tâm hành.
Sau khi Phật nói kinh này xong, các
Tỳ-kheo nghe những gì Phật đã dạy, đều hoan hỷ phụng hành.
*
Tôi nghe như vầy:
Một thời, Phật ở tại thôn Bạt-kỳ.
Bấy giờ Tôn giả Bạt-kỳ Tử hầu bên Phật. Bấy giờ, Tôn giả Bạt-kỳ Tử đến chỗ
Phật, cúi đầu đảnh lễ dưới chân, rồi ngồi lui qua một bên, bạch Phật rằng:
“Bạch Thế Tôn, Ngài đã nói hơn hai
trăm năm mươi giới khiến cho con nhà tộc tánh, cứ mỗi nửa tháng đến thuyết
Ba-la-đề-mộc-xoa tu-đa-la, khiến con nhà tộc tánh tùy ý muốn mà học. Nhưng
nay, bạch Thế Tôn, con không thể theo đó để học.”
Phật bảo Bạt-kỳ Tử:
“Ông có thể tùy thời mà học ba học được không?”
Bạt-kỳ Tử bạch Phật rằng:
“Có thể, bạch Thế Tôn!”
Phật bảo Bạt-kỳ Tử:
“Ông sẽ tùy thời mà học tăng thượng Giới, học tăng
thượng Ý, học tăng thượng Tuệ; khi đã theo thời siêng năng học tăng thượng
Giới, học tăng thượng Ý, học tăng thượng Tuệ rồi, thì không bao lâu các
hữu lậu sẽ được hết, tâm giải thoát vô lậu, tuệ giải thoát, hiện tại tự
biết tác chứng: ‘Ta, sự sanh đã dứt, phạm hạnh đã lập, những việc cần làm
đã làm xong, tự biết không còn tái sanh đời sau nữa.’”
Sau khi Bạt-kỳ Tử đã nghe những gì Phật đã dạy,
hoan hỷ, tùy hỷ, làm lễ mà lui.
Bấy giờ, Tôn giả Bạt-kỳ Tử sau khi nhận lãnh những
lời dạy dỗ, giáo giới của Phật xong; một mình ở nơi vắng, chuyên tinh tư
duy, như đã nói ở trên… cho đến tâm khéo giải thoát, đắc A-la-hán.
*
[1].
Quốc Dịch, quyển 26, tụng 5. Đạo tụng
tiếp theo, “5. Tương ưng Thánh đạo, phẩm 2”. Đại Chánh, quyển 29, kinh
số 797. –Pāli, S. 45.35. Sāmañña.
[2].
Sa-môn pháp
沙門法
Pāli: sāmañña.
[3].
Sa-môn quả
沙門果
Pāli: sāmaññaphala.
[4].
Pāli, S. 45.36.
Sāmañña.
[5].
Sa-môn nghĩa
沙門義
. Pāli: sāmaññattha.
[6].
Pāli, 45. 37.
Brahmaĩaĩa; 30-40. Brahmacariya.
[7].
Quốc Dịch,
quyển 26, Tụng 5. Đạo tụng, Tương ưng 6. An-na-ban-na, gồm mười tám
kinh, kinh số 12559-12576; một phẩm duy nhất. Ấn Thuận Hội Biên,
Tụng 4. Đạo phẩm, Tương ưng 14. An-na-ban-na
niệm, gồm hai mươi hai kinh, kinh số 1082-1103. Phần lớn tương đương
Pāli, S. 54. Ànàpànasaưyutta. Đại
Chánh quyển 29, kinh số 801-815. Phật Quang quyển 29, kinh
số 813-827.
[8].
Pāli, S.54.1.
Ekadhamma. Cf. N0101(15).
[9].
Hán: nội tức
內息
Pāli: passasati,
thở vào.
[10].
Hán: ngoại tức
外息
Pāli: assasati,
thở ra.
[11].
Hán: tức trường
息長
Pāli: dīghaṃ vā
assasanto dīghaṃ assasāmī’ ti pajānāti, trong khi thở ra dài,
biết rằng “Tôi đang thở ra dài”.
[12].
Hán: tức đoản
息短
. Pāli: rassaṃ vā
assasanto rassaṃ assasāmī’ ti pajānāti, trong khi thở ra ngắn,
biết rằng “Tôi đang thở ra ngắn”.
[13].
Pāli:
sabbakāyapaṭisaṃvedī passasissāmī’ ti sikkhati, vị ấy học tập
rằng, “cảm giác toàn thân tôi sẽ thở vào”.
[14].
Hán:... nhất thiết thân hành tức xuất tức
一
切身行息出息
Pāli: passaṃbhayaṃ
kāyasaṃkhāraṃ assasissāmī’ti sikkhati, vị ấy học tập rằng,
“thân hành an tĩnh, tôi sẽ thở vào”.
[15].
Hán: giác tri hỷ, giác tri lạc, giác tri
tâm hành
覺知喜覺知樂覺知心行 Pāli:
pītippaṭisaṃvedī..., sukhappaṭisaṃvedī...,
cittasaṃkhārappaṭisaṃvedī...
[16].
Hán:... tâm hành tức nhập tức... 心行息入息
Pāli: passambhayaṃ
cittasaṃkhāraṃ passasissāmī’ti sikkhati, vị ấy học rằng, “tâm
hành an tĩnh, tôi sẽ thở vào,”
[17].
Giác tri tâm, giác tri tâm duyệt, giác
tri tâm định, giác tri tâm giải thoát
覺知心覺知心悅覺知心定覺知心解脫入息.
Pāli: cittappaṭisaṃvedī..., abhippamodayaṃ
cittaṃ..., samādahaṃ cittaṃ..., vimocayaṃ cittaṃ...,
[18].
Hán: quán sát vô thường... đoạn... vô
dục... diệt
觀察無常斷無欲烕
Pāli: aniccanupassī... virāgānupassī...
nirodhānupassī... paṭinissaggānupassī, quán vô thường, quán ly
dục, quán diệt, quán xả ly.
[19].
Pāli, S. 54. 2-5.
Bojjhaṅga,v.v...
[20].
Tóm tắt có bảy kinh.
[21].
Pāli, S. 54.6.
Ariṭṭha.
[22].
Hán: ư nội ngoại đối ngại tưởng
於內外對礙想.
Pāli: ajjhattaṃ bahidhā ca dhammesu paṭighasañña,
tri giác tưởng về tính đối ngại (tính đối kháng của vật chất, cũng có
nghĩa sự sân hận) nơi các pháp nội và ngoại.
[23].
Pāli, S. 54.7.
Kappina.
[24].
Pāli: neva kayassa iñjitaṃ và hoti
phanditaṃ vā, na cittassa iñjitaṃ và hoti phanditaṃ vā, thân không dao
động, không khuynh động; tâm không dao động, không khuynh động.
[25].
Pāli, S. 54.11.
Icchānaṅgala.
[26].
Nhất-xa-năng-già-la
一奢能伽羅
Pāli: Icchānaṅgala.
[27].
Hán: nhị nguyệt
二
月
. Pāli: temāsaṃ,
ba tháng.
[28].
Hán: thời đáo
時到
. Có lẽ Pāli: kālagata,
chết.
[29].
Trong bản: A-la-ha tịch diệt
阿羅訶寂滅
[30].
Thánh trụ
聖住
Pāli: ariyavihāra.
[31].
Thiên trụ
天住
Pāli: dibbavihāra.
[32].
Phạm trụ
梵住
Pāli: brahmavihāra.
[33].
Học trụ
學住
Pāli: sekhavihāra.
[34].
Vô học trụ
無
學
住
Pāli: asekhavihāra.
[35].
Như Lai trụ
如
來
住
Pāli: tathāgatavihāra.
[36].
Hiện pháp lạc trụ
現
法
樂
住
Pāli:
diṭṭhadhammasukhavihāra.
[37].
Pāli, S.54.12.
Kaṅkheyya.
[38].
Ca-tỳ-la-việt Ni-câu-luật thọ viên
. Pāli:
Kapilavatthusmiư nigrodhàràme.
[39].
Thích thị Ma-ha-nam
釋氏摩訶南.
Pāli: Mahānāmo sakko.
[40].
Ca-ma Tỳ-kheo
迦摩比丘
ma Bản Pāli: āyasmā
Lokasakaṃbhiyo.
[41].
Học trụ
學住
Pāli: sekhavihāra.
[42].
Xem cht.35, kinh 807.
[43].
Pāli: bhikkhū
sekhā... te pañca nīvaraṇe pahāya viharanti, các Tỳ-kheo hữu
học an trụ sau khi đoạn trừ năm triền cái.
[45].
Xem cht.27, kinh 807 trên.
[46].
Pāli, S. 54.9.
Vesāli. Tham chiếu, Tứ phần quyển 2, Tăng kỳ quyển 4, Ngũ phần
quyển 2; Mahavagga iii.68.
[47].
Kim cương tụ lạc Bạt-cầu-ma hà trắc
Tát-la-lê lâm
金剛聚落跋求摩河側薩羅梨林. Bản Pāli:
Vesāliyaṃ... Mahāvane Kūṭāgārālāyaṃ.
[48].
Hán: bất tịnh ác lộ. Pāli:
asubha.
[49].
Lộc Lâm phạm chí tử
鹿林梵志子.
Tứ phần: Vật-lực-già Nan-đề
物力伽難提
. Thập tụng: Lộc Trượng phạm chí
鹿丈梵志
. Pāli: Miga-laṇḍika samaṇakuttaka. Bản Hán
đọc puttaka (con trai) thay vì kuttaka (kẻ giả trang).
[50].
Bạt-cầu-ma hà
跋求摩.
Pāli: Vaggumudā.
[51].
Pāli, S. 54.
13-14. Ānanda.
[52].
Minh giải thoát
明解脫Pāli:
vijjāvimutti.
[53].
Hán: dị ư thân
異於身.
Pāli: kāyantarāhaṃ ānanda etam vadāmi yadidaṃ assāsa passāsaṃ, tùy
thuộc một (trong hai) thân, ta nói cái đó là hơi thở ra, hơi thở vào.
[54].
Hán: dị thọ... tùy thọ (nguyên
bản: thân) tỉ tư duy
異受[08]隨受(身)比[*]思惟 .
Pāli: vedanāññatarāhaṃ ānanda etaṃ vadāmi yadidaṃ assāsa passāsaṃ
sādhukaṃ manasikaṃ, tùy theo một thọ, ta nói cái này là hơi thở ra,
hơi thở vào được khéo léo tác ý.
[55].
Tóm tắt có hai kinh.
[56].
Pāli, S. 54.10.
Kimila.
[57].
Kim-tỳ-la tụ lạc Kim-tỳ lâm
金毘羅聚落金毘林.
Pāli: Kimilāyaṃ viharati
veḷuvane.
[58].
Kim-tỳ-la
金毘羅Pāli:
Kimila, tức
Kimbila.
[59].
Cù-đàm, đây chỉ A-nan, gọi theo dòng họ.
[60].
Không mệt nhọc. Pāli, S. 54.8.
Dīpa.
[61].
Pāli: neva kāyo
kilamati na cakkhūni anupādāya ca me āsavehi cittaṃ vimuccati,
thân không mệt mỏi, mắt cũng không; Ta, sau khi không còn chấp thủ,
tâm được giải thoát khỏi các lậu hoặc.
[62].
Ca-đê nguyệt
迦低月Pāli:
kaṭṭika, thường chỉ tháng sau ngày giải
chế an cư.
[63].
Ấn Thuận Hội Biên, “15. Tương ưng học,”
gồm ba mươi hai kinh, số 1104-1135 (Đại Chánh, kinh 816-832).
Không có tương đương Saṃyutta Pāli;
phần lớn tương đương Aṅguttara. 3. Quốc Dịch, quyển 26, “7. Tương ưng
học,” kinh số 12577-12608 (qua một phần quyển 27), chia làm hai phẩm,
phẩm 1, kinh 12577-12593, phẩm 2, kinh 12594-12608. –Đại Chánh, quyển
29, kinh 816. Pāli, A. 3.89. Sikkhā.
[64].
Tăng thượng ý
增上意
tức tăng thượng tâm, chỉ định học.
Pāli: adhicitta.
[65].
Thị thuyết vi giác tích đệ nhất thanh
lương tập
是說為覺跡第一清涼集Pāli: tamāhu
sekkhaṃ paṭipadaṃ, atho saṃsuddhacāriyam,
đây gọi là lối đi hữu học, hành thanh tịnh. Bản Hán
đọc samudàcàra,
sự tập khởi, hay tập hành.
[66].
Pāli, S. 3.88.
Sikkhā.
[67].
Hán: vô thượng tuệ thọ nhi hoạt
無上慧壽而活.
[68].
Pāli, S. 3.87.
Sādhika
(Sikkhā.1).
[69].
Hán: quá nhị bách ngũ thập giới
過二百五十戒
Bản Pāli:
diyaḍḍha-sikkhāpadasataṃ, một trăm năm mươi điều học giới.
[70].
Pāli, A. 3.86.
Sekkha.
[71].
Pāli: sīìlesu
paripūrakārī hoti samādhismiṃ mattaso kārī paññāya mattaso kārī,
nơi giới hành trì toàn phần, nơi định, tuệ hành trì một phần nhỏ.
[72].
Hán: giới sư thường trú
戒
師
常
住
Pāli: ṭhitasīlo,
giới trụ vững.
[73].
Pāli, A. 3.85.
Sikkhā.
[74].
Xem cht.69 kinh 819 trên.
[75].
Xem cht.71 kinh 820 trên.
[76].
Nhất chủng đạo
一種道
quả vị thuộc Tư-đà-hàm. Pāli:
ekabīja.
[78].
Xem cht.71 kinh 820.
[79].
Xem cht.71 kinh 820.
[80].
Nhất chủng đạo (Pāli: ekabījīka),
Câu-xá 24 gọi là nhất gián
一間
, vị Thánh giả còn một lần tái sanh Dục giới
nữa sẽ chứng quả A-na-hàm.
[81].
Gia gia (Pāli: kulaṃ kula), chỉ vị
Tu-đà-hoàn còn một hay ba lần tái sanh nữa thì đạt Nhất lai hướng. Xem
Câu-xá 24.
[82].
Pāli, A.3.84. Sekha.
[83].
Hán: học giả
學者
tức học nhân, chỉ Thánh giả hữu học. Paki:
sekha.
[84].
Pāli: khayasmiṃ
paṭhamaṃ ñāṇaṃ, trong sự đoạn tận, trí thứ nhất (khởi lên).
[85].
Hán: thứ cứu cánh vô tri
次究竟無知
Pāli: tato aññā anantarā,
kế đó, không gián đoạn, chánh trí (khởi lên). Bản Hán đọc
aññāṇa, vô tri hay vô trí, thay vì là
aññā: chánh trí (của A-la-hán).
[86].
Cf. It. 46. Sikkhā.
[87].
Luật các bộ: thập cú nghĩa
十句義
, mười mục đích Phật chế giới. Cf. Pāli: dasa
atthavase paṭicca.
[88].
Pāli, S. 3.82.
Sukhetta.
[89].
Con lừa. Pāli. A. 3.81.
Samaṇa.
[90].
Pāli, A. 3.83.
Vajjiputta.