TẠP A-HÀM QUYỂN 9
Tôi nghe như vầy:
Một thời, Phật ở tại vườn Cấp cô độc, rừng cây
Kỳ-đà, nước Xá-vệ. Bấy giờ, có một Tỳ-kheo tên là Tam-di-ly-đề đi đến chỗ
Phật, đảnh lễ dưới chân Phật, rồi ngồi lui qua một bên, bạch Phật:
“Bạch Thế Tôn, gọi là thế gian. Vậy, thế nào gọi là
thế gian?”
Phật bảo Tam-di-ly-đề:
“Con mắt, sắc, nhãn thức, nhãn xúc và cảm thọ với
khổ thọ, lạc thọ và phi khổ phi lạc thọ được cảm thọ bên trong phát sanh
bởi nhân duyên nhãn xúc. Tai, mũi, lưỡi, thân, ý, pháp, ý thức, ý xúc và
cảm thọ với khổ thọ, lạc thọ và phi khổ phi lạc thọ được cảm thọ bên trong
phát sanh bởi nhân duyên ý xúc. Đó gọi là thế gian. Vì sao? Vì sáu nhập xứ
tập khởi nên xúc tập khởi, như vậy cho đến thuần một tụ khổ lớn cũng tập
khởi.
“Này Tam-di-ly-đề, nếu không có con mắt kia, không
có sắc, không có nhãn thức, không có nhãn xúc và không có cảm thọ với khổ
thọ, lạc thọ và phi khổ phi lạc thọ được cảm thọ bên trong phát sanh bởi
nhân duyên nhãn xúc; không có tai, mũi, lưỡi, thân, ý, pháp, ý thức, ý xúc
và cảm thọ với khổ thọ, lạc thọ và phi khổ phi lạc thọ được cảm thọ bên
trong phát sanh bởi nhân duyên ý xúc, thì không có thế gian, cũng không
thi thiết thế gian[2].
Vì sao? Vì sáu nhập xứ diệt nên xúc diệt, cho đến thuần một tụ khổ lớn
cũng diệt.”
Phật nói kinh này xong, Tỳ-kheo Tam-di-ly-đề nghe
những gì Đức Phật đã dạy, hoan hỷ phụng hành.
Như thế gian, chúng
sanh, cũng được thuyết như vậy.
*
Tôi nghe như vầy:
Một thời, Phật ở tại vườn Cấp cô độc, rừng cây
Kỳ-đà, nước Xá-vệ. Bấy giờ, có Tỳ-kheo tên là Tam-di-ly-đề, đi đến chỗ
Phật, đảnh lễ dưới chân Phật, rồi ngồi lui sang một bên, bạch Phật:
“Bạch Thế Tôn, gọi là thế gian. Vậy, thế nào gọi là
thế gian?”
Phật bảo Tam-di-ly-đề:
“Mong manh tan vỡ[4],
đó gọi là thế gian. Thế nào là mong manh tan vỡ?[5]
“Này Tam-di-ly-đề, mắt là pháp mong manh tan vỡ.
Sắc, nhãn thức, nhãn xúc và cảm thọ với khổ thọ, lạc thọ và phi khổ phi
lạc thọ được cảm thọ bên trong phát sanh bởi nhân duyên nhãn xúc, tất cả
chúng đều mong manh tan vỡ. Đối với tai, mũi, lưỡi, thân, ý cũng lại như
vậy. Đó là nói rằng vì nó mong manh tan vỡ cho nên gọi là thế gian.”
Phật nói kinh này xong, Tỳ-kheo Tam-di-ly-đề nghe
những gì Đức Phật đã dạy, hoan hỷ phụng hành.
*
Tôi nghe như vầy:
Một thời, Phật ở tại vườn Cấp cô độc, rừng cây
Kỳ-đà, nước Xá-vệ. Bấy giờ, có Tỳ-kheo tên là Tam-di-ly-đề, đi đến chỗ
Phật, đảnh lễ dưới chân Phật, rồi ngồi lui qua một bên, bạch Phật:
“Bạch Thế Tôn, nói rằng ‘Thế gian trống không[7].’
Vậy, thế nào gọi là ‘Thế gian trống không’?”
Phật bảo Tam-di-ly-đề:
“Mắt là không; pháp thường trú, vĩnh hằng, không
biến dịch là không; ngã sở là không[8].
Vì sao? Vì tánh của nó tự là như vậy. Sắc, nhãn thức, nhãn xúc và cảm thọ
với khổ thọ, lạc thọ và phi khổ phi lạc thọ được cảm thọ bên trong phát
sanh bởi nhân duyên nhãn xúc, tất cả chúng cũng không, pháp thường trú,
vĩnh hằng, không biến dịch là không, ngã sở là không. Vì sao? Vì tánh của
nó tự như vậy. Đối với tai, mũi, lưỡi, thân, ý cũng lại như vậy. Đó gọi là
thế gian không.”
Phật nói kinh này xong, Tỳ-kheo Tam-di-ly-đề nghe
những gì Đức Phật đã dạy, hoan hỷ phụng hành.
*
Tôi nghe như vầy:
Một thời, Phật ở tại vườn Cấp cô độc, rừng cây
Kỳ-đà, nước Xá-vệ. Bấy giờ, Thế Tôn nói với các Tỳ-kheo:
“Nay Ta sẽ nói về thế gian, về sự tập khởi của thế
gian, về sự diệt tận thế gian, về con đường đưa đến sự diệt tận thế gian.
Hãy lắng nghe và suy nghĩ kỹ.
“Thế nào là thế gian? Đó là sáu nội nhập xứ. Những
gì là sáu? Nhãn nội nhập xứ, nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý nội nhập xứ.
“Thế nào là sự tập khởi thế gian? Đó là tham ái đối
hữu tương lai, đi đôi với tham và hỷ, ước vọng tái sanh chỗ này chỗ kia[10].
“Thế nào là sự diệt tận thế gian? Đó là tham ái đối
hữu tương lai, đi đôi với tham và hỷ, ước vọng tái sanh chỗ này chỗ kia,
đã được đoạn trừ không dư tàn, đã xả bỏ, đã nhả ra, đã dứt sạch, đã ly
dục, tịch diệt, tịch tịnh, tĩnh chỉ.
“Thế nào là con đường đưa đến sự diệt tận? Là tám
Thánh đạo: chánh kiến, chánh chí, chánh ngữ, chánh nghiệp, chánh mạng,
chánh phương tiện, chánh niệm, chánh định.”
Phật nói kinh này xong, các Tỳ-kheo nghe những gì
Đức Phật dạy, hoan hỷ phụng hành.
*
Tôi nghe như vầy:
Một thời, Phật ở tại vườn Cấp cô độc, rừng cây
Kỳ-đà, nước Xá-vệ. Bấy giờ, Thế Tôn nói với các Tỳ-kheo:
“Ta không nói là có người đi đến tận cùng biên tế
của thế giới[12].
Ta cũng không nói là không đi đến tận cùng biên tế của thế giới mà có thể
cứu cánh tận cùng biên tế của khổ.”
Ngài nói như vậy rồi vào thất thiền định.
Sau khi Đức Thế Tôn đi rồi, thì bấy giờ có số đông
Tỳ-kheo cùng nhau bàn luận:
“Đức Thế Tôn vừa rồi đã tóm lược nói pháp là: ‘Ta
không nói là có người đi đến tận cùng biên tế của thế giới. Ta cũng không
nói là không đi đến tận cùng biên tế của thế giới mà có thể cứu cánh tận
cùng biên tế của khổ.’ Ngài nói như vậy rồi vào thất thiền định. Nay chúng
ta chưa hiểu rõ ý nghĩa của bài pháp mà Đức Thế Tôn đã nói tóm lược đó. Ở
trong các vị, ai là người có thể vì chúng ta nói đầy đủ ý nghĩa bài pháp
mà Đức Thế Tôn đã nói tóm lược đó không?”
Lại nói:
“Chỉ có Tôn giả A-nan là người thông minh, trí tuệ
ghi nhớ tất cả; thường theo hầu bên cạnh Thế Tôn và được Thế Tôn và các vị
phạm hạnh có trí khen ngợi là đa văn, có thể vì chúng ta mà nói đầy đủ ý
nghĩa bài pháp mà Đức Thế Tôn đã nói tóm lược đó. Chúng ta hãy đi đến chỗ
Tôn giả A-nan nhờ Tôn giả giải thích.”
Rồi thì, số đông Tỳ-kheo đến chỗ Tôn giả A-nan,
thăm hỏi nhau rồi ngồi qua một bên, đem hết mọi chuyện trên hỏi Tôn giả
A-nan.
Bấy giờ, Tôn giả A-nan bảo các Tỳ-kheo:
“Hãy lắng nghe và suy nghĩ kỹ, tôi sẽ vì các Tôn
giả mà nói. Hoặc là thế gian, hoặc là danh của thế gian, giác của thế
gian, ngôn từ của thế gian, ngữ thuyết của thế gian, tất cả những thứ này
đều thuộc vào số mục của thế gian[13].
Thưa các Tôn giả, mắt là thế gian, là danh của thế gian, là giác của thế
gian, là ngôn từ của thế gian, là ngữ thuyết của thế gian, tất cả chúng
đều thuộc vào số mục của thế gian. Tai, mũi, lưỡi, thân, ý lại cũng như
vậy. Đa văn Thánh đệ tử đối với sáu nhập xứ phải biết như thật về sự tập
khởi, về sự diệt tận, về vị ngọt, về sự tai hại, về sự xuất ly của chúng.
Đó gọi là đa văn Thánh đệ tử đã đến chỗ tận cùng của thế giới, biết được
thế gian và sức nặng của thế gian[14]
và vượt qua khỏi thế gian.”
Bấy giờ Tôn giả A-nan lại nói kệ:
Chẳng phải
do bước đi,
Mà đến bờ thế
giới.
Không đến bờ
thế giới,
Thì không
thoát khỏi khổ.
Cho nên Đức
Mâu-ni,
Là Đấng Biết Thế Gian[15],
Đã đến bờ thế giới,
Các phạm hạnh đã lập.
Bờ thế giới chỉ có
Chánh trí mới biết rõ.
Giác tuệ đạt thế gian,
Nên nói
vượt bờ kia.
“Như vậy các Tôn giả, vừa rồi Đức
Thế Tôn đã tóm lược bài pháp, rồi vào thất thiền định. Nay tôi vì các Tôn
giả phân biệt nói đầy đủ.”
Khi Tôn giả A-nan nói bài pháp này
rồi, số đông các Tỳ-kheo nghe những lời nói xong, hoan hỷ phụng hành.
*
Tôi nghe như vầy:
Một thời, Phật ở tại vườn Cấp cô độc, rừng cây
Kỳ-đà, nước Xá-vệ. Bấy giờ, Thế Tôn nói với các Tỳ-kheo:
“Có thầy, có đệ tử gần gũi, là khổ đối với đời sống
cô độc. Không thầy, không đệ tử gần gũi, là an lạc đối với đời sống cô độc[17].
Thế nào là có thầy, có đệ tử gần gũi, là khổ đối với đời sống cô độc?
Duyên vào mắt thấy sắc, sanh ra các niệm tưởng ác bất thiện[18]
câu hữu với tham, nhuế, si. Nếu Tỳ-kheo nào thực hành pháp này, thì gọi là
có thầy[19];
nếu trụ vào bên cạnh đó thì gọi là đệ tử gần gũi[20].
Đối với tai, mũi, lưỡi, thân, ý cũng lại như vậy.
“Như vậy nói là có thầy, có đệ tử gần gũi, thì
thường khổ đối với đời sống cô độc.
“Thế nào là không thầy, không đệ tử gần gũi, thường
an lạc đối với đời sống cô độc? Duyên vào mắt thấy sắc, sanh ra niệm ác
bất thiện câu hữu với tham, nhuế, si, mà Tỳ-kheo này không hành theo, đó
gọi là không thầy. Nếu không nương vào đó mà trụ thì gọi là không đệ tử
gần gũi. Đó gọi là không thầy, không đệ tử gần gũi, thường an lạc đối với
đời sống cô độc.
“Nếu Tỳ-kheo nào, không thầy, không đệ tử gần gũi,
thì Ta nói người này phước phạm hạnh. Vì sao? Tỳ-kheo không thầy, không đệ
tử gần gũi, thì Tỳ-kheo ấy đã kiến lập phạm hạnh ở nơi Ta, có khả năng
chân chánh diệt tận khổ, cứu cánh biên tế khổ.”
Phật nói kinh này xong, các Tỳ-kheo nghe những gì
Đức Phật dạy, hoan hỷ phụng hành.
*
Tôi nghe như vầy:
Một thời, Phật ở tại vườn Cấp cô độc, rừng cây
Kỳ-đà, nước Xá-vệ. Bấy giờ, vào buổi sáng sớm, Tôn giả Xá-lợi-phất đắp y
mang bát vào thành Xá-vệ khất thực. Khất thực xong trở về tinh xá, cất y
bát, rửa chân xong; cầm tọa cụ vào trong rừng, tọa thiền nghỉ trưa. Sau
khi tọa thiền xong, Tôn giả Xá-lợi-phất đến chỗ Phật, đảnh lễ dưới chân,
rồi ngồi lui qua một bên. Bấy giờ, Đức Phật hỏi Xá-lợi-phất:
“Ngươi từ đâu lại?”
Xá-lợi-phất đáp:
“Bạch Thế Tôn, con từ chỗ tọa thiền nghỉ trưa ở
trong rừng lại.”
Phật hỏi Xá-lợi-phất:
“Hôm nay ngươi nhập vào thiền nào mà an trú?”
Xá-lợi-phất bạch Phật:
“Hôm nay con ở trong rừng, nhập an trụ thiền Không
tam-muội[22].”
Phật bảo Xá-lợi-phất:
“Lành thay! Lành thay! Xá-lợi-phất, hôm nay ngươi
đã nhập thiền trú bậc thượng tọa mà tọa thiền[23].
Nếu các Tỳ-kheo nào, muốn nhập thiền thượng tọa, thì phải học như vầy:
“Khi vào thành, khi đi khất thực, hoặc lúc ra khỏi
thành, thì phải tư duy như thế này: ‘Hôm nay mắt ta thấy sắc, có khởi lên
dục, ân ái, ái lạc, niệm tưởng, đắm nhiễm không?’ Này Xá-lợi-phất, Tỳ-kheo
quán sát như vậy, nếu nhãn thức đối với sắc mà có ái niệm, đắm nhiễm, thì
Tỳ-kheo này vì để đoạn ác bất thiện nên phải phát khởi quyết ý tinh cần,
có khả năng buộc chặt ý niệm để tu học. Ví như có người bị lửa đốt cháy
đầu và áo, vì muốn dập tắt hết lửa, nên phải phát khởi nỗ lực quyết tâm để
dập tắt lửa. Tỳ-kheo này lại cũng phải như vậy, phải phát khởi quyết ý
tinh cần, buộc chặt ý niệm để tu học.
“Nếu Tỳ-kheo khi quán sát, hoặc ở giữa đường, hoặc
đi khất thực ở trong làng xóm, hoặc đi ra khỏi làng xóm, ngay trong lúc đó
mà nhãn thức đối với sắc không có ái niệm, đắm nhiễm, thì Tỳ-kheo này ước
nguyện bằng thiện căn hỷ lạc này, ngày đêm tinh cần cột niệm tu tập. Đó
gọi là Tỳ-kheo đi, đứng, ngồi, nằm, với sự khất thực đã được thanh tịnh.
Cho nên kinh này gọi là Thanh tịnh khất thực trụ.”
Phật nói kinh này xong, Tôn giả Xá-lợi-phất nghe
những gì Đức Phật đã dạy, hoan hỷ phụng hành.
*
Tôi nghe như vầy:
Một thời, Phật ở tại giảng đường Trùng các, bên
cạnh ao Di hầu tại Tỳ-da-ly. Bấy giờ có gia chủ tên là Úc-cù-lũ[25]
đi đến chỗ Phật, đảnh lễ dưới chân Phật, rồi ngồi lui qua một bên, bạch
Phật:
“Vì sao có Tỳ-kheo nhập Niết-bàn ngay trong đời này
và có Tỳ-kheo không nhập Niết-bàn ngay trong đời này?”
Phật bảo gia chủ:
“Nếu Tỳ-kheo nào, đối với sắc được nhận thức bởi
mắt mà có ái niệm, đắm nhiễm; do ái niệm, đắm nhiễm, thường y trên thức và
bị nó trói buộc, bị nó giữ chặt, nên không thể nhập Niết-bàn ngay trong
đời hiện tại. Đối với tai, mũi, lưỡi, thân, ý cũng lại như vậy.
“Nếu Tỳ-kheo nào, đối với sắc được nhận thức bởi
mắt mà không ái niệm, đắm nhiễm; vì không có ái niệm, đắm nhiễm nên không
y trên thức. Vì không bị xúc, không bị dính mắc, không bị chấp thủ, nên
các Tỳ-kheo này nhập Niết-bàn ngay trong đời hiện tại. Đối với tai, mũi,
lưỡi, thân, ý lại cũng như vậy.
“Cho nên, này gia chủ, có Tỳ-kheo nhập Niết-bàn
ngay trong đời này và có Tỳ-kheo không nhập Niết-bàn ngay trong đời này.”
Như kinh Gia chủ hỏi, kinh A-nan hỏi và kinh Phật
vì các Tỳ-kheo mà nói, cũng dạy như trên vậy.
*
Tôi nghe như vầy:
Một thời, Phật ở tại giảng đường Trùng các, bên
cạnh ao Di hầu tại Tỳ-da-ly. Bấy giờ có Tỳ-kheo đến chỗ Phật, đảnh lễ dưới
chân Phật, rồi ngồi lui sang một bên, bạch Phật:
“Bạch Thế Tôn, vì nhân gì, duyên gì mà nhãn thức
sanh? Và vì nhân gì duyên gì mà tai, mũi, lưỡi, thân, ý thức sanh?”
Phật bảo Tỳ-kheo:
“Vì mắt do duyên sắc nên nhãn thức sanh. Vì sao?
Khi nhãn thức sanh, là do tất cả mắt và sắc làm nhân duyên. Tai và âm
thanh làm nhân duyên, mũi và hương làm nhân duyên, lưỡi và vị làm nhân
duyên; ý và pháp làm nhân duyên nên ý thức sanh. Vì sao? Vì những gì là ý
thức, tất cả chúng đều do ý và pháp làm nhân duyên sanh ra.
“Này Tỳ-kheo, đó gọi là do nhân duyên sanh ra nhãn
thức, cho đến do nhân duyên sanh ra ý thức.”
Phật nói kinh này xong, Tỳ-kheo kia nghe những gì
Đức Phật đã dạy, hoan hỷ phụng hành.
*
Tôi nghe như vầy:
Một thời, Phật ở tại giảng đường Trùng các, bên
cạnh ao Di hầu tại Tỳ-da-ly. Bấy giờ Đức Thế Tôn bảo các Tỳ-kheo:
“Nay Ta sẽ nói về pháp bị kết buộc và pháp kết buộc[27].
“Thế nào là pháp bị kết sử trói buộc? Là mắt và
sắc, tai và âm thanh, mũi và mùi, lưỡi và vị, thân và xúc, ý và pháp. Đó
gọi là pháp bị kết sử trói buộc.
“Thế nào là pháp kết sử? Là dục tham[28].
Đó gọi là pháp kết sử.”
Phật nói kinh này xong, các Tỳ-kheo nghe những gì
Đức Phật dạy, hoan hỷ phụng hành.
*
Tôi nghe như vầy:
Một thời, Phật ở tại giảng đường Trùng các, bên
cạnh ao Di hầu tại Tỳ-da-ly. Bấy giờ Đức Thế Tôn bảo các Tỳ-kheo:
“Nay Ta sẽ nói về pháp bị chấp thủ và pháp chấp
thủ.
“Thế nào là pháp bị chấp thủ? Là mắt và sắc, tai và
âm thanh, mũi và mùi, lưỡi và vị, thân và xúc, ý và pháp. Đó gọi là pháp
bị chấp thủ.
“Thế nào là pháp chấp thủ? Là dục tham. Đó gọi là
pháp chấp thủ.”
Phật nói kinh này xong, các Tỳ-kheo nghe những gì
Đức Phật dạy, hoan hỷ phụng hành.
*
Tôi nghe như vầy:
Một thời, Phật ở tại giảng đường Trùng các, bên
cạnh ao Di hầu tại Tỳ-da-ly. Bấy giờ Thế Tôn bảo các Tỳ-kheo:
“Tỳ-kheo, phàm phu ngu si không học, thà dùng lửa
đốt cháy que đồng rồi đem thui con mắt của mình, khiến cho nó cháy thiêu,
chứ không để nhãn thức chấp vào sắc tướng mà chấp thủ hình dáng tốt đẹp.
Vì sao? Vì chấp vào sắc tướng, chấp thủ những hình ảnh tốt đẹp, nên bị rơi
vào đường ác, như hòn sắt bị chìm.
“Phàm phu ngu si, không học, thà nung đỏ dùi sắt
đem dùi lỗ tai mình còn hơn là dùng nhĩ thức chấp vào âm thanh mà chấp thủ
tiếng hay. Vì sao? Vì nhĩ thức chấp vào âm thanh mà chấp thủ tiếng hay,
thì khi thân hoại mạng chung sẽ rơi vào trong đường ác, như hòn sắt bị
chìm.
“Phàm phu ngu si, không học, thà dùng lưỡi dao bén
cắt đứt mũi mình đi, còn hơn là dùng tỷ thức chấp vào mùi mà chấp thủ
hương thơm. Vì sao? Vì chấp vào hương mà chấp thủ mùi thơm, thì khi thân
hoại mạng chung sẽ rơi vào trong dường ác, như hòn sắt bị chìm.
“Phàm phu ngu si, không học, thà dùng lưỡi dao bén
cắt đứt lưỡi mình đi, còn hơn là dùng thiệt thức chấp vào vị mà chấp thủ
vị ngon. Vì sao? Vì chấp vào vị mà chấp thủ vị ngon, thì khi thân hoại
mạng chung sẽ rơi vào trong đường ác, như hòn sắt bị chìm.
“Phàm phu ngu si, không học, thà dùng thanh sắt
cứng, cây giáo mũi nhọn đâm vào thân thể mình, còn hơn là dùng thân thức
chấp vào sự xúc chạm mà chấp thủ cảm giác xúc chạm êm ái. Vì sao? Vì chấp
vào sự xúc chạm mà chấp thủ cảm giác xúc chạm êm ái, thì khi thân hoại
mạng chung, sẽ rơi vào trong đường ác, như hòn sắt bị chìm.
“Này các Tỳ-kheo, ham ngủ là sinh hoạt của người
ngu, là mạng sống của người ngu, không lợi, không phước[31].
Nhưng này các Tỳ-kheo, thà nên mê ngủ còn hơn là đối với sắc kia mà khởi
lên giác tưởng[32].
Nếu khởi lên giác tưởng ắt sẽ sanh ra triền phược, tranh tụng, có thể
khiến cho mọi người đưa đến việc làm phi nghĩa, không mang lại lợi ích và
an lạc cho trời người[33].
“Đa văn Thánh đệ tử kia nên phải học như vầy: ‘Nay
ta thà nung đỏ cây thương bằng sắt đem đâm vào con mắt, còn hơn là dùng
nhãn thức để chạy theo sắc tướng thì chắc chắn sẽ bị rơi vào ba đường ác
phải chịu khổ lâu dài. Từ hôm nay, ta phải tư duy chân chánh, quán sát mắt
là vô thường, hữu vi, là pháp tâm duyên để sanh. Sắc, nhãn thức, nhãn xúc
và cảm thọ với khổ thọ, lạc thọ và phi khổ phi lạc thọ được cảm thọ bên
trong phát sanh bởi nhân duyên nhãn xúc, tất cả chúng đều là vô thường,
hữu vi, là pháp tâm duyên để sanh. Đối với tai, mũi lưỡi, thân nhập xứ,
cũng phải học như vậy. Thà dùng cây thương sắt đâm thủng thân mình, còn
hơn là đem thân thức chấp vào sự xúc chạm mà chấp thủ cảm giác xúc chạm êm
ái, thì sẽ rơi vào ba đường ác. Từ hôm nay, ta phải tư duy đúng, quán sát
thân là pháp hữu vi vô thường, tâm duyên sanh. Hoặc xúc, thân thức, thân
xúc và cảm thọ với khổ thọ, lạc thọ và phi khổ phi lạc thọ được cảm thọ
bên trong phát sanh bởi nhân duyên thân xúc, chúng cũng là vô thường, hữu
vi, là pháp tâm duyên để sanh.’
“Đa văn Thánh đệ tử nên học như vầy: ‘Ham ngủ là
sinh hoạt của người ngu, là mạng sống của người không lợi, không phước. Ta
không ham ngủ, cũng không khởi giác tưởng. Nếu khởi giác tưởng thì sẽ sanh
ra triền phược, tranh tụng, khiến cho mọi người làm những việc phi nghĩa,
không lợi ích, không đem lại an lạc.’
“Đa văn Thánh đệ tử quán sát như vậy đối với mắt
sanh ra nhàm tởm. Sắc, nhãn thức, nhãn xúc và cảm thọ với khổ thọ, lạc thọ
và phi khổ phi lạc thọ được cảm thọ bên trong phát sanh bởi nhân duyên
nhãn xúc, đối với chúng cũng sanh ra nhàm tởm. Do nhàm tởm nên không yêu
thích; vì không yêu thích nên được giải thoát, giải thoát tri kiến: ‘Ta,
sự sanh đã dứt, phạm hạnh đã lập, những gì cần làm đã làm xong, tự biết
không còn tái sanh đời sau nữa.’ Đối với tai, mũi, lưỡi, thân, ý lại cũng
như vậy.”
Phật nói kinh này xong, các Tỳ-kheo nghe những gì
Đức Phật dạy, hoan hỷ phụng hành.
*
Tôi nghe như vầy:
Một thời, Phật ở tại giảng đường Trùng các, bên
cạnh ao Di hầu tại Tỳ-da-ly. Bấy giờ Đức Thế Tôn bảo các Tỳ-kheo:
“Đối với mắt mà không liễu tri, không nhận thức,
không đoạn tận, không ly dục, thì không thể chân chánh diệt khổ. Đối với
mắt, nếu liễu tri, nhận thức, đoạn tận, ly dục, thì có thể chân chánh diệt
khổ.”
Phật nói kinh này xong, các Tỳ-kheo nghe những gì
Đức Phật dạy, hoan hỷ phụng hành.
]
Như bốn kinh thuyết về mắt cho đến ý, hai mươi bốn
kinh cũng thuyết như trên vậy.
Tôi nghe như vầy:
Một thời, Phật ở tại giảng đường Trùng các, bên
cạnh ao Di hầu tại Tỳ-da-ly. Bấy giờ Đức Thế Tôn bảo các Tỳ-kheo:
“Này các Tỳ-kheo, nếu nếm vị nơi mắt, thì nên biết,
Sa-môn, Bà-la-môn đó không tự tại thoát khỏi bàn tay của ma, bị ma trói
buộc và lọt vào sự trói buộc của ma. Đối với tai, mũi, lưỡi, thân, ý lại
cũng như vậy. Nếu Sa-môn, Bà-la-môn nào mà không nếm vị nơi mắt, thì nên
biết Sa-môn, Bà-la-môn đó không chạy theo ma, thoát khỏi bàn tay của ma,
không lọt vào sự trói buộc của ma.”
Phật nói kinh này xong, các Tỳ-kheo nghe những gì
Đức Phật dạy, hoan hỷ phụng hành.
]
Như vị ngọt, đối với hoan hỷ, khen ngợi, đắm
nhiễm, trụ vững, yêu thích, ghen ghét cũng thuyết như vậy. Như bảy kinh
Nội nhập xứ, bảy kinh Ngoại nhập xứ cũng thuyết như vậy.
Tôi nghe như vầy:
Một thời, Phật ở tại giảng đường Trùng các, bên
cạnh ao Di hầu tại Tỳ-da-ly. Bấy giờ Đức Thế Tôn bảo các Tỳ-kheo:
“Có sáu móc câu của ma. Những gì là sáu? Đó là, sắc
được con mắt nếm vị, đó là móc câu của ma. Tiếng được tai nếm vị, đó là
móc câu của ma. Hương được mũi nếm vị, đó là móc câu của ma. Lưỡi đắm vào
vị ngọt của vị, đó là móc câu của ma. Xúc được thân nếm vị, đó là móc câu
của ma. Pháp được ý nếm vị, đó là móc câu của ma. Nếu Sa-môn, Bà-la-môn
nào mà mắt nếm vị ngọt của sắc, thì nên biết là Sa-môn, Bà-la-môn ấy bị
móc câu của ma móc vào yết hầu của họ, đối với ma không được tự tại.”
Nói uế, nói về tịnh, cũng chi tiết như trên.
*
Tôi nghe như vầy:
Một thời, Phật ở nơi tụ lạc Điều phục bác ngưu, tại
Câu-lưu-sấu[38],
lúc bấy giờ Đức Thế Tôn bảo các Tỳ-kheo:
“Nay Ta sẽ vì các ông nói pháp, ngôn ngữ phần đầu
thiện xảo, ngôn ngữ phần giữa thiện xảo, ngôn ngữ phần cuối cũng thiện
xảo, nghĩa thiện xảo, vị thiện xảo, thuần nhất, thanh tịnh, phạm hạnh
thanh bạch. Đó là kinh ‘Tứ phẩm pháp’, hãy lắng nghe và suy nghĩ kỹ, Ta sẽ
vì các ông mà nói.
“Kinh Tứ phẩm pháp là gì? Có sắc được nhận thức bởi
mắt là đáng yêu, đáng nhớ, đáng thích, đáng say đắm. Tỳ-kheo thấy rồi thì
hoan hỷ, tán thán, ái lạc, bám chặt vào đó. Có sắc được nhận thức bởi mắt
là không đáng yêu, không đáng nhớ, không đáng thích đắm vào, chỉ có khổ,
đáng nhàm tởm. Tỳ-kheo thấy rồi thì sân hận, bất mãn. Những Tỳ-kheo như
vậy không được tự tại thoát khỏi ma,... cho đến sẽ không giải thoát khỏi
sự trói buộc của ma. Đối với tai, mũi, lưỡi, thân, ý lại cũng như vậy.
“Có sắc được nhận thức bởi mắt là đáng yêu, đáng
nhớ, đáng thích, đáng say đắm. Tỳ-kheo thấy rồi không hoan hỷ, không tán
thán, không ái lạc mà bám chặt vào đó. Có sắc được nhận thức bởi mắt là
không đáng yêu, không đáng nhớ, không đáng thích đắm vào, chỉ có khổ, đáng
nhàm tởm. Tỳ-kheo thấy rồi thì không sân hận, không bất mãn. Tỳ-kheo như
vậy, không bị ma tự tại chi phối,... cho đến thoát khỏi mọi sự trói buộc
của ma. Đối với tai, mũi, lưỡi, thân, ý lại cũng như vậy. Đó gọi là kinh
Tứ phẩm pháp của Tỳ-kheo.”
*
Tôi nghe như vầy:
Một thời, Phật ở trong núi Kỳ-xà-quật tại thành
Vương xá[40].
Bấy giờ vào lúc sáng sớm Thế Tôn đắp y bưng bát vào thành Vương xá khất
thực. Lúc ấy[41]
Thiên ma Ba-tuần nghĩ rằng, “Vừa sáng sớm mà Sa-môn Cù-đàm đã đắp y mang
bát vào thành Vương xá khất thực. Nay ta nên đến đó làm nhiễu loạn ý đạo
của ông ta.” Bấy giờ, Ma Ba-tuần hóa làm một người đánh xe, cầm roi đi tìm
bò, mặc đồ rách rưới, đầu tóc rối bù, tay chân nứt nẻ, tay cầm roi bò, đến
trước Thế Tôn hỏi:
“Cù-đàm có thấy con bò của tôi ở đâu không?”
Đức Thế Tôn liền nghĩ, “Đây là ác ma, muốn đến gây
nhiễu loạn Ta.” Ngài liền nói với ma:
“Này ác ma, ở đâu có bò? Cần bò để làm gì?”
Ma liền nghĩ, Sa-môn Cù-đàm đã biết ta là ma rồi,
bèn bạch Phật:
“Bạch Cù-đàm, nhãn xúc nhập xứ là xe tôi cưỡi. Tai,
mũi, lưỡi, thân, ý xúc nhập xứ là xe tôi cưỡi.”
Lại hỏi:
“Bạch Cù-đàm, Ngài muốn đi đến đâu?”
Phật bảo ác ma:
“Ngươi có nhãn xúc nhập xứ, nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý
xúc nhập xứ. Nếu kia là chỗ không có nhãn xúc nhập xứ, không có nhĩ, tỷ,
thiệt, thân, ý xúc nhập xứ, thì chỗ đó không đến được. Ta đi đến đó.”
Bấy giờ Thiên ma Ba-tuần nói kệ rằng:
Ở đâu thường
có ngã,
Chúng đều là
của ta,
Tất cả thuộc
về ta.
Cù-đàm đi
đến đâu?
Đức Thế Tôn dùng kệ đáp lại:
Nếu ai nói
có ngã,
Kia nói ngã là
quấy.
Như vậy biết Ba-tuần,
Tự hãm vào
bế tắc.
Ma lại nói kệ:
Nếu bảo rằng
biết đạo,
An ổn đến Niết-bàn;
Ngài một mình đi đến,
Phiền gì
dạy người khác?
Đức Thế Tôn nói kệ đáp:
Nếu có người
lìa ma,
Hỏi đường qua
bờ giác,
Vì họ nói bình
đẳng,
Chân thật
quyết không sót,
Tu tập không buông lung,
Thường
khỏi ma chi phối.
Ma lại nói kệ:
Có đá tựa
cục thịt,
Quạ đói đến
muốn ăn,
Nó tưởng là
mềm ngon,
Muốn lấp vào
bụng trống.
Xong không
được vị kia;
Mỏ gãy mà bay
đi.
Ta nay giống như quạ,
Cù-đàm như cục đá,
Không được, thẹn mà đi.
Như quạ bay giữa trời,
Trong lòng ôm sầu độc,
Biến nhanh mất đường
bay.
*
Tôi nghe như vầy:
Một thời, Phật ở trong núi Kỳ-xà-quật tại thành
Vương xá. Bấy giờ, Thế Tôn bảo các Tỳ-kheo:
“Nếu có Sa-môn, Bà-la-môn nào mắt quen gần gũi[42]
sắc, thì bị rơi vào chỗ tự tại của ma, cho đến không giải thoát được sự
trói buộc của ma. Đối với tai, mũi, lưỡi, thân, ý lại cũng như vậy. Nếu có
Sa-môn, Bà-la-môn nào, mà mắt không quen gần gũi sắc, không bị rơi vào chỗ
tự tại của ma, cho đến, sẽ giải thoát được sự trói buộc của ma. Đối với
tai mũi, lưỡi, thân, ý lại cũng như vậy.”
Phật nói kinh này xong, các Tỳ-kheo nghe những gì
Đức Phật dạy, hoan hỷ phụng hành.
]
Như kinh quen gần gũi: trói buộc, đắm nhiễm, vị
ngọt, chòm xóm láng giềng, (nếu)
sai sử, trói chặt, ngã sở, mong cầu, ham muốn, thuần, nồng hậu
không bỏ, cũng thuyết như trên vậy.[43]
Tôi nghe như vầy:
Một thời, Phật ở tại Kê lâm viên[44],
nước Ba-tra-lợi Phất-đa-la[45].
Bấy giờ Tôn giả A-nan đến chỗ Tôn giả Đại Thuần-đà[46],
cùng nhau thăm hỏi xong, ngồi qua một bên. Bấy giờ Tôn giả A-nan thưa Tôn
giả Thuần-đà:
“Có những điều tôi muốn hỏi, Tôn giả có rảnh rỗi để
giải đáp cho không?”
Tôn giả Thuần-đà nói với Tôn giả A-nan:
“Tùy theo những gì Nhân giả hỏi, nếu biết thì tôi
sẽ trả lời.”
Tôn giả A-nan hỏi Tôn giả Thuần-đà:
“Như Đức Thế Tôn Như Lai, Ứng Cúng, Đẳng Chánh
Giác, bậc Tri giả, Kiến giả, đã nói, sắc do bốn đại tạo được thi thiết,
được hiển thị, rằng sắc do bốn đại tạo này là phi ngã. Như Lai Chánh Đẳng
Chánh Giác, bậc Tri giả, Kiến giả, cũng nói thức là phi ngã chăng[47]?”
Tôn giả Thuần-đà nói với Tôn giả A-nan:
“Tôn giả là đa văn bậc nhất. Tôi từ xa đến chỗ Tôn
giả là vì muốn hỏi pháp này. Hôm nay Tôn giả xin vì tôi mà nói nghĩa này.”
Tôn giả A-nan hỏi Thuần-đà:
“Nay tôi hỏi Tôn giả, hãy tùy ý mà trả lời. Thưa
Tôn giả Thuần-đà, vì có mắt, có sắc, có nhãn thức phải không?”
Đáp:
“Phải.”
Tôn giả A-nan lại hỏi:
“Do duyên vào mắt và sắc nên nhãn thức sanh phải
không?”
Đáp:
“Đúng như vậy.”
Tôn giả A-nan lại hỏi:
“Duyên mắt và sắc sanh ra nhãn thức; nhân này,
duyên này là thường hay là vô thường?”
Đáp:
“Là vô thường.”
Tôn giả A-nan lại hỏi:
“Nhân này, duyên này sanh ra nhãn thức; nhân này,
duyên này là vô thường, biến dịch, vậy thức kia có trụ không?”
Đáp:
“Bạch Tôn giả, không.”
Tôn giả A-nan lại hỏi:
“Theo ý Tôn giả thế nào, pháp kia hoặc sanh hoặc
diệt có thể biết được, đa văn Thánh đệ tử ở trong đó có thấy là ngã, khác
ngã, hay ở trong nhau không?”
Đáp:
“Bạch Tôn giả A-nan, không.”
Tôn giả A-nan lại hỏi:
“Theo ý Tôn giả thế nào đối với tai, mũi, lưỡi,
thân, ý và pháp; có ý, có pháp, có ý thức không?”
Đáp:
“Có.”
Tôn giả A-nan lại hỏi:
“Do duyên vào ý và pháp mà ý thức sanh chăng?”
Đáp:
“Đúng như vậy.”
Tôn giả A-nan lại hỏi:
“Nếu ý duyên pháp mà ý thức sanh; nhân này, duyên
này là thường hay vô thường?”
Đáp:
“Là vô thường.”
Tôn giả A-nan lại hỏi:
“Hoặc nhân, hoặc duyên mà sanh ra ý thức; nhân này,
duyên này là vô thường, biến dịch, vậy ý thức có trụ không?”
Đáp:
“Không.”
Tôn giả A-nan lại hỏi:
“Theo ý Tôn giả thế nào, pháp này hoặc sanh hay
diệt có thể biết, đa văn Thánh đệ tử ở trong đó có thấy ngã, khác ngã, hay
ở trong nhau không?”
Đáp:
“Bạch Tôn giả A-nan, không.”
Tôn giả A-nan nói với Tôn giả Thuần-đà:
“Cho nên, này Tôn giả, Như Lai Ứng Cúng Chánh Đẳng
Chánh Giác, bậc Tri giả, Kiến giả, đã nói, thức cũng vô thường.
“Giống như có người cầm rìu vào núi, thấy cây
chuối, cho là có thể dùng được, liền chặt đứt gốc, tách bỏ lá, lột bẹ để
tìm lõi của nó. Nhưng lột đến chỗ tận cùng vẫn không thấy chỗ nào chắc cả.
Cũng vậy, đa văn Thánh đệ tử quán sát chân chánh nhãn thức, nhĩ, tỷ,
thiệt, thân, ý thức. Khi quán sát chân chánh, không có gì để chấp thủ. Vì
không có gì để chấp thủ nên không có gì để đắm nhiễm; vì không có gì để
đắm nhiễm nên tự mình chứng ngộ Niết-bàn: ‘Ta, sự sanh đã dứt, phạm hạnh
đã lập, những gì cần làm đã làm xong, tự biết không còn tái sanh đời sau
nữa.’”
Khi hai vị Chánh sĩ kia nói pháp trên, cả hai đều
hoan hỷ và mỗi vị trở về chỗ ở của mình.
*
Tôi nghe như vầy:
Một thời, Phật ở tại vườn Cấp cô độc, rừng cây
Kỳ-đà, nước Xá-vệ. Bấy giờ, Tôn giả A-nan đến chỗ Tôn giả Xá-lợi-phất, nói
với Tôn giả Xá-lợi-phất:
“Tôi có những điều muốn hỏi, Tôn giả có thì giờ vì
tôi mà giải thích được không?”
Tôn giả Xá-lợi-Phất nói:
“Tùy theo những gì Tôn giả hỏi, nếu tôi biết thì sẽ
trả lời.”
Tôn giả A-nan hỏi Tôn giả Xá-lợi-phất:
“Sáu xúc nhập xứ, sau khi đã đoạn tận, ly dục, diệt
tận, tịch tĩnh, có còn gì nữa không?”
Tôn giả Xá-lợi-phất nói với Tôn giả A-nan:
“Đừng hỏi rằng: ‘Sáu xúc nhập xứ, sau khi đã đoạn
tận, ly dục, diệt, tịch tĩnh, có còn gì nữa không?’”
Tôn giả A-nan lại hỏi Tôn giả Xá-lợi-phất:
“Sáu xúc nhập xứ, sau khi đã đoạn tận, ly dục, diệt
tận, tịch tĩnh, không còn gì nữa chăng?”
Tôn giả Xá-lợi-phất trả lời Tôn giả A-nan:
“Cũng đừng nên hỏi rằng: ‘Sáu xúc nhập xứ, sau khi
đã đoạn tận, ly dục, diệt tận, tịch tĩnh, không còn gì nữa chăng?’”
Tôn giả A-nan lại hỏi Tôn giả Xá-lợi-phất:
“Sáu xúc nhập xứ, sau khi đã đoạn tận, ly dục, diệt
tận, tịch tĩnh, có vừa còn vừa không còn gì, vừa chẳng phải còn vừa chẳng
phải chẳng còn gì chăng?”
Tôn giả Xá-lợi-phất trả lời Tôn giả A-nan:
“Ở đây, cũng không nên hỏi rằng: ‘Sáu xúc nhập xứ,
sau khi đã đoạn tận, ly dục, diệt tận, tịch tĩnh, có vừa còn vừa không còn
gì, vừa chẳng phải còn vừa chẳng phải chẳng còn gì chăng?’”
Tôn giả A-nan lại hỏi Tôn giả Xá-lợi-phất:
“Như những gì Tôn giả đã nói, sáu xúc nhập xứ, sau
khi đã bị đoạn tận, ly dục, diệt tận, tịch tĩnh, không nên nói có, cũng
không nên nói không, cũng không nên nói vừa có vừa không, cũng không nói
chẳng phải có chẳng phải không. Vậy thì, những lời nói này có nghĩa gì?”
Tôn giả Xá-lợi-phất bảo Tôn giả A-nan:
“Sáu xúc nhập xứ, sau khi đã đoạn tận, ly dục, diệt
tận, tịch tĩnh, có còn gì chăng? Đây là những lời hư vọng. Hoặc không còn
gì chăng? Đây cũng là lời hư vọng. Hoặc có và không còn gì chăng? Đây cũng
là lời hư vọng. Hoặc chẳng phải có còn chẳng phải không còn gì chăng? Đây
cũng là những lời hư vọng. Nếu nói, sáu xúc nhập xứ sau khi đã đoạn tận,
ly dục, diệt tận, tịch diệt, thì xa lìa các hư ngụy, đạt được Niết-bàn. Đó
là những lời dạy của Phật.”
Bấy giờ, hai vị Chánh sĩ đều hoan hỷ và mỗi người
trở về chỗ của mình.
*
Tôi nghe như vầy:
Một thời, Phật ở tại vườn Trúc, khu Ca-lan-đà,
thành Vương xá.
Bấy giờ Tôn giả Xá-lợi-phất, Tôn giả Ma-ha
Câu-hi-la cùng ở trong núi Kỳ-xà-quật.
Buổi chiều sau khi từ thiền tịnh dậy, Tôn giả Ma-ha
Câu-hi-la đến chỗ Tôn giả Xá-lợi-phất, cùng nhau thăm hỏi, rồi ngồi lui
qua một bên, nói với Tôn giả Xá-lợi-phất:
“Tôi có điều muốn hỏi, Nhân giả có rảnh để giải đáp
cho chăng?”
Tôn giả Xá-lợi-phất trả lời:
“Tùy theo những gì Nhân giả hỏi, nếu tôi biết, tôi
sẽ trả lời.”
Tôn giả Ma-ha Câu-hi-la hỏi Tôn giả Xá-lợi-phất:
“Thưa Tôn giả Xá-lợi-phất, thế nào, mắt kết buộc
sắc[50],
hay sắc kết buộc mắt? Tai và âm thanh, mũi và mùi, lưỡi và vị, thân và
xúc, ý và pháp; ý kết buộc pháp hay pháp kết kết buộc ý?”
Tôn giả Xá-lợi-phất trả lời Tôn giả Ma-ha
Câu-hi-la:
“Chẳng phải mắt kết buộc sắc, cũng chẳng phải sắc
kết buộc mắt, cho đến, chẳng phải ý kết buộc pháp, cũng chẳng phải pháp
kết buộc ý. Tôn giả Ma-ha Câu-hi-la, ở giữa hai cái đó, cái gì là dục tham
thì cái đó là kết buộc.
“Tôn giả Ma-ha Câu-hi-la, giống như hai con bò, một
đen một trắng, cùng bị buộc vào một cái ách. Có người hỏi, ‘Bò đen buộc bò
trắng hay bò trắng buộc bò đen?’ Hỏi như vậy có đúng không?”
Đáp:
“Không, Tôn giả Xá-lợi-phất, chẳng phải bò đen buộc
bò trắng, cũng chẳng phải bò trắng buộc bò đen. Nhưng ở đây, hoặc là cái
ách, hay là dây buộc cổ, là cái kết buộc chúng.”
Tôn giả Xá-lợi-phất nói:
“Cũng vậy, Tôn giả Ma-ha Câu-hi-la, chẳng phải mắt
kết buộc sắc, cũng chẳng phải sắc kết buộc mắt, cho đến, chẳng phải ý kết
buộc pháp, cũng chẳng phải pháp kết buộc ý. Ở đây dục tham kết buộc chúng.
Thưa Tôn giả Ma-ha Câu-hi-la, nếu mắt kết buộc sắc, hay nếu sắc kết buộc
mắt và cho đến, nếu ý kết buộc pháp, hay nếu pháp kết buộc ý, thì Thế Tôn
đã không dạy người kiến lập phạm hạnh để đoạn tận khổ. Vì chẳng phải mắt
kết buộc sắc, cũng chẳng phải sắc kết buộc mắt và cho đến, chẳng phải ý
kết buộc pháp, cũng chẳng phải pháp kết buộc ý, nên Đức Thế Tôn dạy người
kiến lập phạm hạnh để đoạn tận khổ. Thưa Tôn giả Ma-ha Câu-hi-la, Thế Tôn
khi mắt thấy sắc hoặc tốt, hoặc xấu, không khởi dục tham; còn những chúng
sanh khác khi mắt thấy sắc hoặc tốt, hoặc xấu thì khởi dục tham. Cho nên
Đức Thế Tôn nói hãy đoạn tận dục tham, thì tâm được giải thoát. Cho đến, ý
và pháp lại cũng như vậy.”
Bấy giờ, hai vị Chánh sĩ đều hoan hỷ, mỗi người trở
về chỗ của mình.
*
Tôi nghe như vầy:
Một thời, Phật ở tại vườn Trúc, khu Ca-lan-đà,
thành Vương xá.
Bấy giờ Tôn giả Xá-lợi-phất, Tôn giả Ma-ha
Câu-hi-la cùng ở trong núi Kỳ-xà-quật.
Buổi chiều sau khi từ thiền tịnh dậy, Tôn giả Ma-ha
Câu-hi-la đến chỗ Tôn giả Xá-lợi-phất, cùng nhau thăm hỏi, rồi ngồi lui
qua một bên, nói với Tôn giả Xá-lợi-phất:
“Tôi có điều muốn hỏi, Nhân giả có rảnh để giải đáp
cho chăng?”
Tôn giả Xá-lợi-phất trả lời:
“Tùy theo những gì Nhân giả hỏi, nếu tôi biết, tôi
sẽ trả lời.”
Tôn giả Ma-ha Câu-hi-la hỏi Tôn giả Xá-lợi-phất:
“Gọi là vô minh, vậy thế nào là vô minh?”
Tôn giả Xá-lợi-phất trả lời:
“Là không biết. Không biết tức là vô minh. Không
biết cái gì? Không biết như thật mắt là vô thường; đó gọi là không biết.
Không biết như thật mắt là pháp sanh diệt, đó gọi là không biết. Đối với
tai, mũi, lưỡi, thân, ý cũng lại như vậy. Như vậy, Tôn giả Ma-ha Câu-hi-la
đối với sáu xúc nhập xứ này mà không như thật thấy, biết, không vô gián
đẳng[52],
ngu si, không sáng, tối tăm, đó gọi là vô minh.”
Tôn giả Ma-ha Câu-hi-la lại hỏi Tôn giả
Xá-lợi-phất:
“Gọi là minh, vậy thế nào là minh?”
Tôn giả Xá-lợi-phất trả lời:
“Là biết. Biết tức là minh. Biết những gì? Mắt là
vô thường, nên biết như thật mắt là vô thường; mắt là pháp sanh diệt, nên
biết như thật mắt là pháp sanh diệt. Đối với tai, mũi, lưỡi, thân, ý lại
cũng như vậy. Thưa Tôn giả Ma-ha Câu-hi-la, đối với sáu xúc nhập xứ này mà
như thật biết, thấy, sáng tỏ, giác ngộ, có trí tuệ, có vô gián đẳng, đó
gọi là minh.”
Bấy giờ, hai vị Chánh sĩ đều tùy hỷ, mỗi người trở
về chỗ của mình.
*
Tôi nghe như vầy:
Một thời, Phật ở tại vườn Trúc, khu Ca-lan-đà thành
Vương xá. Bấy giờ có Tỳ-kheo tên là Ưu-ba-tiên-na ở trong khu Hàn lâm[54],
giữa bãi tha ma, dưới chân núi Xà-đầu, hành xứ Ca-lan-đà tại thành Vương
xá[55].
Bấy giờ Tôn giả Ưu-ba-tiên-na đang ngồi thiền một mình trong hang đá, có
một con rắn rất độc, dài khoảng một thước, từ trên phiến đá rơi xuống trên
người Ưu-ba-tiên-na. Ưu-ba-tiên-na gọi Tôn giả Xá-lợi-phất đi nói với các
Tỳ-kheo:
“Có con rắn độc rơi xuống trên người tôi. Thân tôi
đang bị trúng độc. Các ông hãy đến nhanh lên, khiêng người tôi ra để bên
ngoài, chớ để người tôi hủy hoại như một đống trấu nát.”
Lúc ấy, Tôn giả Xá-lợi-phất đang ngồi dưới bóng cây
gần đó, nghe Ưu-ba-tiên-na nói, liền đến chỗ Ưu-ba-tiên-na nói với
Ưu-ba-tiên-na:
“Nay nhìn sắc tướng của thầy, tôi thấy các căn vẫn
bình thường không đổi khác, mà nói là trúng độc, nhờ ‘khiêng người tôi ra
để bên ngoài, chớ để người tôi hủy hoại như một đống trấu.’ Vậy thì rốt
cuộc là thế nào?”
Ưu-ba-tiên-na nói với Tôn giả Xá-lợi-phất:
“Nếu ai đó nói, ‘Con mắt là tôi, là của tôi. Tai,
mũi, lưỡi, thân, ý là tôi, là của tôi. Sắc, thanh, hương, vị, xúc, pháp là
tôi, là của tôi. Địa giới là tôi, là của tôi. Nước, lửa, gió, không, thức
giới là tôi, là của tôi; đối với sắc ấm, chấp sắc ấm là tôi, là của tôi.
Thọ, tưởng, hành, thức ấm là tôi, là của tôi. Với người đó, sắc mặt và các
căn có thể biến đổi khác đi. Nhưng hiện tại tôi không như vậy. Mắt không
phải là tôi, là không phải của tôi, cho đến, thức ấm không phải tôi, không
phải của tôi, vì vậy cho nên sắc mặt và các căn không có biến đổi khác
đi.”
Tôn giả Xá-lợi-phất nói:
“Như vậy, này Ưu-ba-tiên-na, nếu thầy vĩnh viễn xa
lìa ngã, ngã sở, ngã mạn kết sử, khiến đoạn tận gốc rễ của chúng như chặt
ngọn cây đa-la, thì đối với đời vị lai vĩnh viễn không khởi lên trở lại,
vậy làm sao sắc mặt và các căn biến đổi khác đi được?”
Rồi thì, Tôn giả Xá-lợi-phất liền đi vòng qua dìu
thân Tôn giả Ưu-ba-tiên-na ra khỏi hang. Thân người bị trúng độc của Tôn
giả Ưu-ba-tiên-na đang hủy hoại như một đống trấu nát.
Bấy giờ, Tôn giả Xá-lợi-phất liền nói kệ:
Từ lâu,
trồng phạm hạnh,
Khéo tu tám
Thánh đạo,
Hoan hỷ xả bỏ
thân,
Giống như vất
bát độc.
Từ lâu, trồng
phạm hạnh,
Khéo tu tám
Thánh đạo,
Hoan hỷ xả bỏ
thân,
Như người bệnh
hết bệnh.
Từ lâu, trồng
phạm hạnh,
Khéo tu tám
Thánh đạo,
Như ra khỏi
nhà lửa,
Lúc chết không lo tiếc.
Từ lâu, trồng phạm hạnh,
Khéo tu tám Thánh đạo,
Dùng tuệ quán thế gian,
Giống như cây cỏ thối,
Không còn mong gì nữa,
Cũng không
tiếp tục nữa.
Sau khi cúng dường thi thể Tôn giả
Ưu-ba-tiên-na xong, Tôn giả Xá-lợi-phất đi đến chỗ Phật, đảnh lễ dưới
chân, rồi ngồi lui qua một bên, bạch Phật:
“Bạch Thế Tôn, Tôn giả
Ưu-ba-tiên-na bị con rắn nhỏ cực độc bằng chiếc thẻ tre trị mắt, rơi xuống
trên người và thân thể Tôn giả hủy hoại như đống trấu nát.”
Phật bảo Xá-lợi-phất:
“Nếu Ưu-ba-tiên-na tụng bài kệ này,
thì sẽ không trúng độc và thân thể cũng không bị hủy hoại như đống trấu
nát được.”
Tôn giả Xá-lợi-phất bạch Phật:
“Bạch Thế Tôn, tụng những bài kệ
nào và văn cú của nó ra sao?”
Phật liền vì Xá-lợi-phất đọc kệ:
Thường
thường thương xót chúng,
Kiên cố Lại-tra-la,
Thương Y-la-bàn-na,
Thi-bà-phất-đa-la,
Khâm-bà-la thượng mã,
Cũng thương Ca-câu-tra.
Cùng Cù-đàm đen kia,
Nan-đà, Bạt-nan-đà,
Thương xót loài không
chân,
Và cả loài hai chân,
Bốn chân, cùng nhiều
chân,
Cũng khởi lòng thương
xót.
Thương xót các loài
rồng,
Trên đất liền, dưới
nước,
Thương tất cả chúng
sanh,
Dễ sợ, không dễ sợ[56].
An vui cho tất cả,
Cũng lìa sanh phiền não,
Muốn cho tất cả hiền,
Tất cả chớ sanh ác,
Thường ở núi Xà-đầu,
Các ác không nhóm hợp.
Rắn hung hại ác độc,
Thường hại mạng chúng
sanh,
Như lời chân thật này,
Đại Sư vô thượng dạy.
Nay Ta tụng kệ này,
Lời Đại Sư chân thật,
Tất cả các ác độc,
Không thể hại thân ta.
Tham dục, sân, nhuế, si,
Ba độc của thế gian,
Như ba ác độc này,
Vĩnh trừ gọi Phật bảo.
Pháp bảo diệt các độc,
Tăng bảo cũng hoàn toàn,
Phá hoại ác hung độc,
Nhiếp thủ hộ người lành,
Phật phá tất cả độc,
Nay vì phá rắn độc,
Nên nói
chú thuật này.
Ô-đam-bà-lệ, đam-bà-lệ, đam-lục,
ba-la-đam-lục, nại-tí, túc-nại-tí, chỉ-bạt-tí, văn-na-di, tam-ma-di,
đàn-đế, ni-la-chỉ-thí, bà-la-câu-bế-ô-lệ, ô-ngu-lệ, tất-bà-ha[57].
“Này Xá-lợi-phất, nếu lúc ấy thiện
gia nam tử Ưu-ba-tiên-na mà đọc bài kệ này, tụng những câu này, thì chắc
chắn rắn độc không rơi trúng người và thân thể cũng không hủy hoại như
đống trấu nát.”
Xá-lợi-phất bạch Phật:
“Bạch Thế Tôn, Tôn giả
Ưu-ba-tiên-na chưa từng nghe bài kệ này, chưa từng nghe những câu chú
thuật này. Hôm nay Thế Tôn mới nói nó, mục đích chính là vì đời sau.”
Sau khi nghe Phật nói kinh này
xong, Tôn giả Xá-lợi-phất hoan hỷ, làm lễ rồi lui.
*
Tôi nghe như vầy:
Một thời, Tôn giả Ưu-đà-di[59]
đi qua nước Câu-tát-la, du hành trong nhân gian, đến thôn Câu-bàn-trà[60],
trú trong vườn Am-la của nữ Bà-la-môn dòng họ Tỳ-nữu Ca-chiên-diên.
Bấy giờ có những người đệ tử nhỏ tuổi của nữ
Bà-la-môn Tỳ-nữu Ca-chiên-diên thị[61]
đi nhặt củi trong vườn Am-la, thấy Tôn giả Ưu-đà-di đang ngồi dưới bóng
cây, tướng mạo đoan chánh, các căn vắng lặng, tâm ý an trụ, thành tựu sự
điều phục bậc nhất; thấy vậy bèn đến chỗ ngài, cùng nhau thăm hỏi, rồi
ngồi qua một bên. Bấy giờ, Tôn giả Ưu-đà-di vì các thiếu nữ, bằng nhiều
hình thức, thuyết pháp, khích lệ họ xong, rồi im lặng. Sau khi nghe Tôn
giả dạy, các thiếu niên tùy hỷ hoan hỷ, từ chỗ ngồi đứng dậy ra đi. Các
thiếu nữ vác củi trở về chỗ nữ Bà-la-môn Tỳ-nữu Ca-chiên-diên thị, đặt củi
xuống đất, rồi đến chỗ nữ Bà-la-môn Tỳ-nữu Ca-chiên-diên thị, thưa:
“Hòa thượng ni của chúng con biết cho, trong vườn
Am-la có Sa-môn Ưu-đà-di, dòng họ Cù-đàm đang ở nơi đó và nói pháp rất
hay.”
Nữ Bà-la-môn Tỳ-nữu Ca-chiên-diên thị bảo các thiếu
nữ:
“Các con hãy đến đó mời Sa-môn Ưu-đà-di dòng họ
Cù-đàm ngày mai đến đây dùng cơm.”
Bấy giờ, các đệ tử thiếu nữ vâng lời nữ Bà-la-môn
Tỳ-nữu Ca-chiên-diên đến chỗ Tôn giả Ưu-đà-di bạch:
“Tôn giả biết cho, nữ Bà-la-môn Tỳ-nữu
Ca-chiên-diên, Hòa thượng của chúng con, mời Tôn giả ngày mai đến dùng
cơm.”
Bấy giờ, Ưu-đà-di im lặng nhận lời. Các thiếu nữ
biết Tôn giả Ưu-đà-di đã nhận lời mời rồi, trở về chỗ nữ Bà-la-môn Tỳ-nữu
Ca-chiên-diên, thưa:
“Bạch Hòa thượng ni, chúng con đã vâng lời Hòa
thượng ni mời Tôn giả Ưu-đà-di và Tôn giả Ưu-đà-di đã im lặng nhận lời mời
rồi, xin Hòa- thượng-ni biết cho.”
Qua khỏi đêm, sáng hôm sau, Tôn giả Ưu-đà-di đắp y
mang bát đến nhà nữ Bà-la-môn Tỳ-nữu Ca-chiên-diên. Nữ Bà-la-môn Tỳ-nữu
Ca-chiên-diên từ xa trông thấy Tôn giả Ưu-đà-di lại, vội vàng trải giường
chõng mời ngồi; dọn các thứ đồ ăn thức uống ra, tự tay mình cúng dường các
món ngon đầy đủ. Sau khi ăn xong, rửa tay, rửa bát, rồi trở lại chỗ ngồi.
Bấy giờ, nữ Bà-la-môn Tỳ-nữu Ca-chiên-diên biết Tôn giả đã ăn xong, bà
mang một đôi giầy tốt, lấy vải phủ đầu, để riêng một cái ghế cao, tỏ vẻ
khinh thường, ngạo mạn mà ngồi và nói với Tôn giả Ưu-đà-di:
“Tôi có điều muốn hỏi, ngài có rảnh để trả lời cho
không?”
Tôn giả Ưu-đà-di đáp:
“Thưa chị, hôm nay không phải lúc.”
Nói như vậy xong, Tôn giả từ chỗ ngồi đứng dậy ra
đi. Sáng hôm sau các đệ tử lại đến vườn Am-la nhặt củi và nghe pháp và trở
về lại bạch với Hòa thượng ni. Hòa thượng ni lại sai đi mời Tôn giả thọ
trai. Ba lần như vậy đến thỉnh pháp, vẫn trả lời là chưa đúng lúc, mà
không nói pháp. Các đệ tử thiếu niên lại bạch Hòa thượng ni:
“Ở trong vườn Am-la Sa-môn Ưu-đà-di nói pháp rất
hay.”
Hòa thượng ni nói:
“Ta cũng biết là ông ấy nói pháp rất hay. Nhưng qua
ba lần mời đến cúng dường và hỏi pháp, luôn luôn bảo là chưa đúng lúc,
không nói mà bỏ đi.”
Các đệ tử thưa:
“Hòa thượng ni mang giầy tốt, dùng vải che đầu,
ngồi không cung kính, thì Tôn giả này làm sao nói được. Vì sao? Vì Tôn giả
Ưu-đà-di này rất cung kính pháp nên không nói mà bỏ đi.”
Hòa thượng ni bảo:
“Nếu như vậy thì nên vì ta mời lại Tôn giả đi.”
Các đệ tử vâng lời dạy, thỉnh cúng dường trở lại
như trước.
Bấy giờ, Hòa thượng ni biết Tôn giả đã ăn uống xong
xuôi, bà ta liền cởi giầy, sửa lại quần áo, ngồi xuống một chiếc ghế thấp,
cung kính bạch:
“Tôi có điều muốn hỏi, Tôn giả có rảnh mà trả lời
cho không?”
Tôn giả Ưu-đà-di đáp:
“Hôm nay, chị cứ hỏi, tôi sẽ nói cho chị nghe.”
Cô ta liền hỏi:
“Có Sa-môn, Bà-la-môn nói: ‘Khổ vui là do mình tự
tạo.’ Hoặc lại có người nói: ‘Khổ vui là do người khác tạo.’ Hoặc lại có
người nói: ‘Khổ vui là do tự mình tạo và người khác tạo.’ Hoặc có người
nói: ‘Khổ vui chẳng phải do mình tạo cũng chẳng do ngưới khác tạo[62].’
Vậy theo Tôn giả thì thế nào?”
Tôn giả Ưu-đà-di đáp:
“Này chị, A-la-ha[63]
nói khổ vui phát sanh bằng cách khác, chứ không phải nói như vậy.”
Nữ Bà-la-môn lại hỏi:
“Nghĩa ấy như thế nào?”
Tôn giả Ưu-đà-di đáp:
“A-la-ha nói, từ nhân duyên các khổ và lạc sanh.”
Tôn giả Ưu-đà-di lại nói với nữ Bà-la-môn:
“Bây giờ tôi hỏi chị, tùy ý mà trả lời tôi. Ý chị
nghĩ sao, có mắt không?”
Đáp:
“Bạch có.”
“Có sắc không?”
Đáp:
“Bạch có.”
“Có nhãn thức, nhãn xúc và các cảm thọ khổ, lạc,
phi khổ phi lạc trong nội thân phát sanh bởi nhân duyên là nhãn xúc
không?”
Đáp:
“Bạch Tôn giả Ưu-đà-di, có như vậy.”
Tôn giả Ưu-đà-di lại hỏi:
“Có tai, mũi, lưỡi, thân, ý, các cảm thọ khổ, lạc,
phi khổ phi lạc trong nội thân phát sanh bởi nhân duyên là ý xúc không?”
Đáp:
“Bạch Tôn giả Ưu-đà-di, có như vậy.”
Tôn giả Ưu-đà-di nói:
“Đó là điều mà các A-la-ha nói, từ nhân duyên khổ
vui sanh.”
Nữ Bà-la-môn bạch Tôn giả Ưu-đà-di:
“A-la-ha nói, từ nhân duyên khổ vui sanh, là như
vậy chăng?”
Tôn giả Ưu-đà-di đáp:
“Nữ Bà-la-môn, đúng như vậy.”
Nữ Bà-la-môn lại hỏi:
“Bạch Sa-môn, A-la-ha nói như thế nào, từ nhân
duyên khổ vui, không khổ không vui diệt?”
Tôn giả Ưu-đà-di đáp:
“Bây giờ tôi hỏi chị, cứ tùy ý mà trả lời tôi. Này
nữ Bà-la-môn, khi tất cả mắt, tất cả thời, diệt không còn gì, bấy giờ còn
tồn tại chăng các cảm thọ khổ, lạc, phi khổ phi lạc trong nội thân phát
sanh bởi nhân duyên là nhãn xúc?”
Đáp:
“Bạch Sa-môn, không.”
“Cũng vậy, khi tai, mũi, lưỡi, thân, ý và tất cả
thời cũng diệt tận vĩnh viễn không còn gì hết, thì bấy giờ còn tồn tại
chăng các cảm thọ khổ, lạc, phi khổ phi lạc trong nội thân phát sanh bởi
nhân duyên là ý xúc?”
“Bạch Sa-môn, không.”
“Như vậy, này nữ Bà-la-môn, đó là điều mà bậc
A-la-ha nói, từ nhân duyên khổ vui, không khổ không vui diệt.”
Khi Tôn giả Ưu-đà-di nói pháp này, nữ Bà-la-môn
Tỳ-nữu Ca-chiên-diên xa lìa trần cấu, được con mắt pháp thanh tịnh.
Bấy giờ, nữ Bà-la-môn Tỳ-nữu Ca-chiên-diên, thấy
pháp, đắc pháp, biết pháp, nhập pháp, vượt qua khỏi mọi nghi hoặc không do
ai khác; thâm nhập vào giáo pháp của Phật, đối với pháp đạt được vô sở úy,
từ chỗ ngồi đứng dậy sửa lại y phục, cung kính chắp tay bạch Tôn giả
Ưu-đà-di:
“Hôm nay, con quyết định, ngay từ bây giờ con xin
qui y Phật, quy y Pháp, quy y Tăng, từ nay cho đến suốt đời con xin quy y
Tam bảo.”
Lúc bấy giờ Tôn giả Ưu-đà-di vì nữ Bà-la-môn nói
pháp, soi sáng, chỉ bày, dạy bảo, làm cho vui vẻ, rồi từ chỗ ngồi đứng dậy
ra đi.
*
Tôi nghe như vầy:
Một thời, Phật ở tại vườn Trúc, khu Ca-lan-đà thành
Vương xá. Bấy giờ có Tôn giả Nhị-thập-ức-nhĩ[65]
ở núi Kỳ-xà-quật, thường tinh tấn chuyên cần tu tập pháp Bồ-đề phần. Rồi
Tôn giả Nhị-thập-ức-nhĩ một mình lặng lẽ thiền tư và nghĩ rằng: “Ở trong
hàng đệ tử Thanh văn tinh tấn chuyên cần của Đức Thế Tôn, thì ta có trong
số đó. Nhưng hôm nay ta chưa diệt tận được các lậu. Ta là người thuộc dòng
quý tộc, có nhiều của cải quí báu, nay thà hoàn tục để hưởng thọ ngũ dục,
rồi làm phước, bố thí rộng rãi còn tốt hơn nhiều.”
Bấy giờ, Đức Thế Tôn biết tâm niệm của
Nhị-thập-ức-nhĩ nên bảo một Tỳ-kheo:
“Ngươi hãy đến chỗ Nhị-thập-ức-nhĩ bảo là Thế Tôn
cho gọi.”
Tỳ-kheo này vâng lời Phật dạy đến chỗ Tỳ-kheo
Nhị-thập-ức-nhĩ, nói rằng:
“Đức Thế Tôn cho gọi thầy.”
Nhị-thập-ức-nhĩ nghe Tỳ-kheo kia bảo là Đại Sư gọi,
liền đến chỗ Đức Thế Tôn, đảnh lễ dưới chân, rồi ngồi lui qua một bên.
Bấy giờ, Đức Thế Tôn bảo Nhị-thập-ức-nhĩ:
“Có thật ngươi ở một mình lặng lẽ thiền tư và nghĩ
rằng: ‘Ở trong hàng Thanh văn đệ tử tinh tấn chuyên cần của Đức Thế Tôn,
thì ta có trong số đó. Nhưng mãi đến hôm nay ta vẫn chưa diệt tận được các
lậu. Ta là người thuộc dòng dõi quý tộc, có nhiều của cải quí báu, ta thà
hoàn tục để hưởng thọ ngũ dục, rồi làm phước, bố thí rộng rãi.’ Có phải
không?”
Khi ấy, Nhị-thập-ức-nhĩ nghĩ rằng: ‘Thế Tôn đã biết
tâm ta.’ Vừa kinh ngạc vừa sợ hãi, lông dựng đứng, bạch Phật:
“Bạch Thế Tôn, thật như vậy.”
Phật bảo Nhị-thập-ức-nhĩ:
“Nay Ta hỏi ngươi, ngươi cứ theo ý mình mà trả lời
cho Ta. Này Nhị-thập-ức-nhĩ, khi ngươi còn ở ngoài đời, ngươi đàn hay lắm
phải không?”
“Bạch, đúng vậy.”
Thế Tôn lại hỏi:
“Theo ý ngươi thì thế nào, khi ngươi khảy đàn, nếu
sợi dây của nó căng quá, thì âm thanh có hòa nhã và vi diệu không?”
“Bạch, không.”
Thế Tôn lại hỏi:
“Thế nào, nếu sợi dây của nó chùng quá, thì âm
thanh có phát ra hòa nhã và vi diệu không?”
“Bạch, không.”
Thế Tôn lại hỏi:
“Thế nào, nếu biết điều chỉnh sợi dây đàn không
căng quá cũng không chùng quá, thì sau đó mới phát ra âm thanh hòa nhã, vi
diệu phải không?”
“Bạch Thế Tôn, đúng như vậy.”
Phật bảo Nhị-thập-ức-nhĩ:
“Người nào tinh tấn thái quá thì sẽ tăng thêm điệu
hối, còn người thiếu tinh tấn quá thì sẽ sanh ra giải đãi. Cho nên, ngươi
phải bình đẳng trong tu tập và nhiếp thọ, không đắm nhiễm, không buông
lung, không chấp tướng.”
Sau khi được Thế Tôn dạy, Tôn giả Nhị-thập-ức-nhĩ
luôn luôn nghĩ về thí dụ cây đàn cầm của Đức Thế Tôn đã nói. Tôn giả một
mình lặng lẽ thiền tư, như trên đã nói, cho đến các lậu được diệt hết, tâm
được giải thoát, thành A-la-hán. Rồi Tôn giả Nhị-thập-ức-nhĩ đạt được
A-la-hán, bên trong có cảm giác hỷ lạc giải thoát và tự nghĩ: ‘Nay ta nên
đến thăm viếng Đức Thế Tôn.’ Và Tôn giả Nhị-thập-ức-nhĩ liền đến chỗ Phật,
đảnh lễ dưới chân, rồi ngồi lui qua một bên, bạch Phật:
“Bạch Thế Tôn, trong pháp của Thế Tôn, đạt được
A-la-hán, đoạn tận các lậu, việc cần làm đã làm xong, rời bỏ gánh nặng,
đạt được mục đích của mình, dứt sạch các hữu kết, chánh trí tâm giải
thoát. Ngay lúc đó được sáu xứ giải thoát[66]ù.
Những gì sáu? Đó là: ly dục giải thoát, lìa nhuế giải thoát, viễn ly giải
thoát, ái tận giải thoát, các thủ giải thoát, tâm không xao lãng giải
thoát.
“Bạch Thế Tôn, nếu có người nào dựa vào một ít tín
tâm mà bảo là ly dục[67]
giải thoát, thì điều này không đúng. Đoạn tận tham, nhuế, si, đó mới gọi
là chân thật ly dục giải thoát.
“Nếu có người nào lại chỉ dựa vào một ít việc trì
giới mà bảo rằng ta được lìa nhuế giải thoát, thì điều này cũng không
đúng. Đoạn tận tham, nhuế, si, đó mới gọi là chân thật giải thoát.
“Nếu có người nào lại chỉ dựa vào sự tu tập để có
lợi dưỡng mà bảo là đã viễn ly[68]
giải thoát, thì điều này cũng không đúng. Đoạn tận tham, nhuế, si, đó mới
gọi là chân thật xa lìa được giải thoát.
“Đoạn tận được tham, nhuế, si, cũng gọi là lìa ái,
cũng là lìa thủ, cũng gọi là lìa xao lãng[69]
giải thoát.
“Như vậy, bạch Thế Tôn, nếu các Tỳ-kheo chưa được
La-hán, chưa đoạn tận các lậu, thì đối với sáu xứ này không được giải
thoát.
“Lại nếu có Tỳ-kheo nào, còn ở nơi học địa, chưa
được Niết-bàn an lạc tăng thượng, mà tu tập hướng về an trụ tâm, bấy giờ
thành tựu được học giới, thành tựu được học căn và sau đó lậu hoặc sẽ được
đoạn hết, được vô lậu tâm giải thoát, cho đến... ‘tự biết không còn tái
sanh đời sau nữa.’ Ngay lúc bấy giờ được vô học giới, được vô học các căn.
Như đứa trẻ mới sinh ngu ngơ, còn nằm ngửa, sau đó một thời gian các căn
của đứa bé mới được thành tựu và từ từ tăng trưởng; bấy giờ mới thành tựu
được các căn của người lớn. Người còn ở tại học địa lại cũng như vậy, khi
chưa được an lạc tăng thượng và cho đến, thành tựu vô học giới, vô học các
căn.
“Nếu mắt thường phân biệt sắc, vẫn không hề phương
hại tâm giải thoát, tuệ giải thoát. Vì ý an trụ chắc chắn, bên trong tu vô
lượng thiện giải thoát và quán sát sanh diệt, cho đến vô thường. Tai phân
biệt âm thanh, mũi phân biệt mùi hương, lưỡi phân biệt vị, thân phân biệt
xúc chạm, ý phân biệt pháp trần, vẫn không hề phương hại tâm giải thoát,
tuệ giải thoát. Vì ý đã an trụ chắc chắn, bên trong tu vô lượng thiện giải
thoát, cùng quán sát sanh diệt. Như núi đá lớn ở gần thôn ấp, không chẻ
đứt, không đập vỡ, không đục thủng nó được, vì núi đá dày đặc; giả sử như
có gió bốn phương thổi đến thì cũng không làm cho nó lay động được, không
thể xuyên thủng qua được. Người vô học kia cũng lại như vậy, mắt thường
phân biệt sắc, cho đến ý thường phân biệt pháp trần, vẫn không hề phương
hại tâm giải thoát, tuệ giải thoát. Vì ý đã an trụ chắc chắn, bên trong tu
vô lượng thiện giải thoát, cùng quán sát sanh diệt.”
Bấy giờ, Nhị-thập-ức-nhĩ lập lại bằng bài kệ:
Ly dục, tâm
giải thoát,
Không nhuế
thoát cũng vậy;
Viễn ly, tâm
giải thoát,
Tham ái quyết
không còn.
Tâm giải thoát
các thủ,
Và ý không mất
niệm,
Rõ ràng nhập
xứ sanh,
Ở kia tâm giải thoát.
Người kia tâm giải
thoát,
Tỳ-kheo ý dừng nghỉ,
Đã làm những gì cần,
Không còn việc để làm.
Giống như núi đá lớn,
Gió bốn phương không
động,
Sắc, thanh, hương, vị,
xúc,
Và những pháp tốt xấu,
Thường đối sáu nhập xứ,
Không lay động tâm mình,
Tâm thường trụ vững
chắc,
Quán sát
pháp sanh diệt.
Khi Tôn giả Nhị-thập-ức-nhĩ nói bài
kệ này, tâm Đại Sư hoan hỷ. Các vị phạm hạnh có học nghe những gì Tôn giả
Nhị-thập-ức-nhĩ nói cũng đều rất hoan hỷ.
Khi Tôn giả Nhị-thập-ức-nhĩ nghe
Đức Phật nói pháp, tùy hỷ hoan hỷ, làm lễ mà lui.
Sau khi biết Tôn giả
Nhị-thập-ức-nhĩ đi không lâu, Đức Thế Tôn bảo các Tỳ-kheo:
“Người có tâm khéo giải thoát, nên
tuyên bố như vậy, giống như Nhị-thập-ức-nhĩ đã bằng trí tuệ mà tuyên bố,
không phải tự cao, cũng không phải coi rẻ người, nói đúng nghĩa của nó,
không phải như những người tăng thượng mạn, không đạt được nghĩa của nó,
mà tự khen ngợi mình được pháp hơn người, để tự mình phải chuốc lấy tổn
giảm.”
*
Tôi nghe như vầy:
Một thời, Tôn giả Ma-ha Ca-chiên-diên trú tại hang
A-luyện-nhã, trong thôn Di hầu, bên cạnh sông Thấp-ma-đà, nước A-bàn-đề[71].
Có Bà-la-môn Lỗ-hê-giá[72],
cung kính phụng sự theo pháp của một La-hán.
Bấy giờ là sáng sớm, Tôn giả Ma-ha Ca-chiên-diên
đắp y mang bát vào thôn Di-hầu-thất, theo thứ tự khất thực, khất thực xong
trở về, cất y bát, rửa chân rồi, vào thất ngồi thiền.
Khi ấy có các đệ tử thiếu niên của Bà-la-môn
Lỗ-hê-giá đi nhặt củi, đến bên cạnh hang của Tôn giả Ma-ha Ca-chiên-diên,
cùng nhau cười đùa nói: “Có Sa-môn trọc đầu đang ở trong này. Ông là người
đen đủi, chẳng phải là hạng người đáng tôn quý, nhưng Bà-la-môn Lỗ-hê-giá
lại tôn trọng cúng dường, đúng như pháp La-hán?” Bấy giờ, Tôn giả Ma-ha
Ca-chiên-diên bảo các thiếu niên:
“Này các cậu trẻ, các cậu chớ làm ồn!”
Các thiếu niên này trả lời:
“Chúng con không dám nói nữa.”
Qua ba lần như vậy, chúng vẫn nói mãi. Lúc này Tôn
giả Ma-ha Ca-chiên-diên phải ra ngoài cửa nói với các thiếu niên:
“Này các cậu trẻ, các cậu đừng làm ồn nữa. Bây giờ,
ta sẽ vì các cậu mà nói pháp, các cậu hãy lắng nghe.”
Các thiếu niên nói:
“Vâng ạ, xin ngài giảng pháp cho, chúng con sẽ lắng
nghe và lãnh thọ.”
Bấy giờ, Tôn giả Ma-ha Ca-chiên-diên liền nói bài
kệ:
Bà-la-môn
xưa kia,
Tu tập giới
thắng diệu,
Được sanh trí
túc mạng,
An vui thiền chân thật,
Thường ở trong từ bi,
Đóng hết cửa các căn,
Điều phục lỗi về miệng,
Xưa kia hành như vậy.
Bỏ gốc hành chân thật,
Mà giữ việc hư dối,
Giữ tộc tánh buông lung,
Theo căn duyên sáu cảnh,
Đói khát ở gò mả,
Tắm ba (lần), tụng ba
kinh,
Không giữ gìn cửa căn,
Giống như mộng được báu.
Bện tóc, khoác áo da,
Giới trộm, mình trét
tro,
Áo thô dùng che hình,
Chống gậy mang bình
nước,
Giả hình Bà-la-môn,
Vì tìm cầu lợi dưỡng.
Khéo nhiếp hộ thân mình,
Lắng sạch lìa trần cấu,
Không não hại chúng
sanh,
Là đạo
Bà-la-môn.
Bấy giờ, các thiếu niên Bà-la-môn,
lòng sân hận không vui, bảo Tôn giả Ma-ha Ca-chiên-diên là đã hủy báng
kinh điển họ, hủy hoại những gì kinh điển đã nói và nhục mạ Bà-la-môn, rồi
ôm củi trở về chỗ Bà-la-môn Lỗ-hê-giá, tâu lại với Bà-la-môn Lỗ-hê-giá
rằng:
“Hòa thượng biết không, ông Ma-ha
Ca-chiên-diên phỉ báng kinh điển ta, dùng lời lẽ chê bai, mạ nhục
Bà-la-môn.”
Bà-la-môn Lỗ-hê-giá nói với các
thiếu niên:
“Các con chớ nói những lời như vậy.
Vì sao? Vì ngài Ma-ha Ca-chiên-diên giữ trọng giới đức, không lý lại đi
hủy báng kinh điển ta, dùng lời lẽ chê bai, mạ nhục Bà-la-môn?”
Các thiếu niên bạch:
“Nếu Hòa thượng không tin những lời
của chúng con, thì nên tự mình đến đó xem sao?”
Khi ấy Bà-la-môn Lỗ-hê-giá không
tin những lời nói của các thiếu niên, liền đi đến chỗ Tôn giả Ma-ha
Ca-chiên-diên, cùng nhau thăm hỏi sức khỏe rồi, ngồi lui qua một bên, bạch
với ngài Ma-ha Ca-chiên-diên:
“Các đệ tử thiếu niên của tôi có
đến đây không?”
Đáp:
“Có đến đây.”
“Ngài có nói chuyện ít nhiều gì với
chúng không?”
Đáp:
“Có cùng với chúng nói chuyện.”
Bà-la-môn Lỗ-hê-giá bạch:
“Ngài đã cùng với các thiếu niên
nói chuyện, vậy nay ngài có thể vì tôi mà nói lại hết mọi chuyện.”
Ngài Ma-ha Ca-chiên-diên liền kể
lại đầy đủ câu chuyện.
Khi ấy, Bà-la-môn Lỗ-hê-giá cũng
nổi sân nhuế, tâm không vui, nói với Tôn giả Ma-ha Ca-chiên-diên:
“Trước đây, tôi không tin những lời
của bọn trẻ, nhưng bây giờ thì đích thật là ngài đã phỉ báng kinh điển
tôi, nói những lời lẽ chê bai và mạ nhục Bà-la-môn.”
Ngừng một lát, ông lại nói với Tôn
giả Ma-ha Ca-chiên-diên:
“Nhân giả đã nói về cửa. Vậy cái gì
là cửa?”
Ma-ha Ca-chiên-diên nói:
“Lành thay, lành thay, Bà-la-môn! Điều ông hỏi là
đúng pháp. Nay tôi sẽ vì ông mà nói về cửa. Này Bà-la-môn, mắt là cửa, vì
nó thấy sắc. Tai, mũi, lưỡi, thân, ý là cửa, vì nó nhận thức pháp.”
Bà-la-môn nói:
“Kỳ diệu thay, ngài Ma-ha Ca-chiên-diên! Tôi hỏi về
cửa thì ngài liền nói về cửa. Như những gì ngài đã nói, không giữ gìn cửa.
Vậy thế nào là không giữ gìn cửa?”
Ngài Ma-ha Ca-chiên-diên nói:
“Lành thay, lành thay, Bà-la-môn! Ông đã hỏi về
việc không giữ gìn cửa, là câu hỏi đúng pháp. Bây giờ tôi sẽ ông nói về
việc không giữ gìn cửa. Này Bà-la-môn, kẻ phàm phu ngu si không học, khi
mắt thấy sắc rồi, nếu là sắc đáng nhớ thì khởi tâm duyên vào đắm nhiễm;
nếu là sắc không đáng nhớ thì khởi tâm sân nhuế, không an trụ vào thân
niệm xứ, nên đối với tâm giải thoát, tuệ giải thoát, không biết như thật,
ở nơi đó khởi lên các thứ pháp ác bất thiện, không đạt được Vô dư
Niết-bàn, đối với tâm giải thoát, tuệ giải thoát có phương hại, không được
đầy đủ. Vì tâm giải thoát, tuệ giải thoát không đầy đủ, nên thân dẫy đầy
những ác hạnh, không dừng nghỉ, tâm không được tịch tĩnh. Vì nó không tịch
tĩnh nên đối với các căn nó không điều phục, không giữ gìn, không tu tập.
Như mắt và sắc, tai và âm thanh, mũi và mùi hương, lưỡi và vị, thân và
xúc, ý và pháp cũng lại như vậy.”
Bà-la-môn Lỗ-hê-giá nói:
“Kỳ diệu thay, kỳ diệu thay, ngài Ma-ha
Ca-chiên-diên! Tôi hỏi về việc không giữ gìn cửa, thì ngài liền vì tôi nói
về việc không giữ gìn cửa. Vậy, bạch ngài Ma-ha Ca-chiên-diên, thế nào gọi
là việc khéo giữ gìn cửa?”
Tôn giả Ma-ha Ca-chiên-diên nói với Bà-la-môn:
“Lành thay! Lành thay! Ông đã hỏi tôi về việc khéo
giữ gìn cửa. Hãy lắng nghe và suy nghĩ kỹ. Tôi sẽ vì ông mà nói về nghĩa
khéo giữ gìn. Đa văn Thánh đệ tử biết như thật khi mắt thấy sắc rồi, đối
với sắc đáng nhớ thì không khởi lên tâm duyên vào đắm nhiễm; đối với sắc
không đáng nhớ, thì không khởi lên tâm sân nhuế, thường nhiếp tâm mình, an
trụ vào thân niệm xứ, vô lượng tâm giải thoát, tuệ giải thoát. Những pháp
ác bất thiện khởi lên ở nơi đó, thì hoàn toàn dứt bặt, đối với tâm giải
thoát, tuệ giải thoát thì được đầy đủ. Do đã giải thoát đầy đủ rồi nên
những ác hạnh của thân xúc tất cả đều được dừng nghỉ, tâm đạt được chánh
niệm. Đó gọi là cửa đầu tiên của việc khéo điều phục giữ gìn trong lúc tu
tập. Như mắt và sắc, đối với tai và âm thanh, mũi và mùi hương, lưỡi và
vị, thân và xúc, ý và pháp lại cũng như vậy.”
Bà-la-môn Lỗ-hê-giá nói:
“Kỳ diệu thay, Tôn giả Ma-ha Ca-chiên-diên! Tôi hỏi
về nghĩa giữ gìn cửa, ngài liền vì tôi nói về nghĩa giữ gìn cửa. Giống như
người tìm cỏ thuốc độc mà lại được cam lộ; nay tôi cũng như vậy, ôm lòng
sân nhuế đến ngồi nơi đây, mà lại được ngài dùng mưa pháp rưới lên thân
tôi như mưa cam lộ. Bạch Tôn giả Ma-ha Ca-chiên-diên, tôi đang bận nhiều
công việc tại nhà, xin phép ngài tôi cáo từ.”
Tôn giả Ma ha Ca-chiên-diên nói:
“Bà-la-môn, nên biết đúng thời.”
Sau khi nghe những gì Tôn giả Ma-ha Ca-chiên-diên
nói xong, Bà-la-môn hoan hỷ, từ chỗ ngồi đứng dậy ra về.
*
[1].
Pāli, S. 35. 65-68. Samiddhi.
[2].
Thi thiết thế gian
施設世間, giả thiết hay khái niệm về thế gian.
Pāli: lokapaññatti.
[3].
Pāli, xem kinh 230; tham chiếu, S. 35.
82. Loka.
[4].
Nguy thúy bại hoại
危脆敗壞:
mong manh, giòn, dễ tan vỡ. Pāli:
lujjati;
xem cht.5 dưới.
[5].
Pāli, S. 35. 82. Loka, câu này Phật trả
lời cho một Tỳ-kheo (aññataro
bhikikhu):
lujjatī ‘ti kho, bhikkhu, tamsā lokoti vuccati,
nó bị tan vỡ, do đó nó được gọi là thế gian. Theo định nghĩa này, danh
từ loka
(thế gian) là do gốc động từ
lujjati (tan vỡ, vì quá
giòn, hay mong manh).
[6].
Pāli, S. 35. 65-85. Suñña.
[7].
Hán: thế gian không
世間空.
Pāli: suñño loko.
Trong bản Pāli, câu hỏi này do Ānanda.
[8].
Pāli, S. 35. 85:
cakkhuṃ suññaṃ attena vā
attaniyena vā, con mắt trống không,
không ngã hay ngã sở.
[9].
Pāli, S. 35. 107. Loka.
[10].
Đương lai hữu ái
當來有愛;
Pāli: taṇhā ponobhavikā, khát ái về đời sống tương lai, khát vọng tồn
tại đời sau.
[11].
Pāli, S. 35. 116. Lokakāmaguṇa (phẩm chất
dục lạc của thế gian).
[12].
Pāli: nāhaṃ, bhikkhave, gamanena lokassa
antaṃ ñāteyyaṃ, daṭṭheyyaṃ, patteyyaṃ vadāmi, Ta không nói rằng, do đi
mà có thể đến và thấy và biết tận cùng biên tế của thế giới.
[13].
Pāli:
yena āvusao lokasmiṃ lokasaññī hoti lokamānī – ayaṃ
vuccati ariyassa vinaye loko, cái mà do
bởi nó người có khái niệm về thế gian, có suy tưởng về thế gian, cái
đó trong Thánh pháp luật được gọi là thế gian (= thế giới).
[15].
Trí Thế Gian
知世間,
tức Thế Gian Giải, một trong mười hiệu của Phật.
[16].
Cận trụ
近住,
đây hiểu là nội trú: đệ tử hầu cạnh thầy. Pāli, S. 35. 150. Antevāsī.
[17].
Pāli:
santevāsiko, bhikkhave, bhikkhu sācariyako dukkhaṃ na
phāsu viharati. Anantevāsiko, bhikkhave, bhikkhu anācariyako sukhaṃ
phāsu viharati, Tỳ-kheo có đệ tử nội
trú, có thầy, sống không thoải mái. Tỳ-kheo không đệ tử nội trú, không
thầy, sống an lạc.
[18].
Ác bất thiện giác
惡不善覺.
Pāli: pāpakā akusalā
dhammā sarasaṅkappā saṃyojaniyā, các
pháp ác bất thiện được tưởng nhớ, được ước vọng, dẫn đến sự trói buộc.
[19].
Hán: hữu sư
有師.
Pāli: sācariyako,
người có thầy:
samudācaranti naṃ pāpakā akusalā dhammāti, tasmā sācariyakoti vuccati,
các pháp ác bất thiện dẫn nó đi, nên nó được nói là người có thầy.
[20].
Hán: cận trụ đệ tử
近住弟子.
Pāli: antevāsa,
đệ tử nội trú.
[21].
An trụ nơi sự thanh tịnh của khất thực;
sống với sự khất thực thanh tịnh. Pāli, M. 151. Piṇḍapātapārisuddhi-sutta.
Cf. №125 (45.6).
[22].
Pāli:
suññatāvihārena kho ahaṃ bhante etarahi bahulaṃ
vihārāmī ti, bạch Thế Tôn, ở đây con
phần nhiều an trú bằng sự an trụ nơi không tánh.
[23].
Pāli:
mahāpurisavihāro eso, sāriputta, yadidaṃ suññaṃ,
đây là sự an trụ của bậc Đại nhân, này Sariputta, đó là an trụ không.
[24].
Pāli, S. 35. 124. Vesāli.
[25].
Úc-cù-lũ
郁瞿婁.
Pāli: Ugga
(Úc-già).
[26].
Kết
結,
hay kết sử
結使
chỉ sự trói buộc của phiền não. Pāli, S.35.
109, 122. Saṃyojana.
[27].
Kết sở hệ pháp, kết pháp
結所繫法, pháp bị trói buộc bởi kết sử và kết
sử. Pāli: saṃyojaniye
dhamme, saṃyojanaṃ.
[28].
Dục tham
欲貪.
Pāli:
chandarāgo.
[29].
Pāli, S. 35. 110, 123. Upādāna.
[30].
Thiêu nhiệt
燒熱,
hay xí nhiên
熾然:
rực cháy; ngọn lửa đang bùng cháy. Pāli, S. 35. 194.
Ādittena.
[31].
Pāli:
sottaṃ kho... vañjhaṃ jīvitānaṃ... aphalaṃ
jīvitānaṃ... momūhaṃ jīvitānaṃ vadāmi:
ngủ, Ta nói là sự không sanh sản của sinh mạng, là sự không kết trái
của sinh mạng, là sự ngu mê của sinh mạng.
[32].
Pāli: na tveva tathārupe vitakke
vitakkeyya, không tư duy tầm cầu những tư duy tầm cầu.
[33].
Bản Pāli: (...) saṅghaṃ bhindeyya, còn có
thể khiến phá hòa hợp Tăng.
[34].
Pāli, S. 35. 111-112. Pajāna.
[35].
Pāli, S. 35. 15-18. Assādena, v.v…
[36].
Móc câu của ma. Pāli, S. 35. 114-115.
Mārapāsa.
[37].
Pāli, S. 35. 189. Bālisika.
[38].
Câu-lưu-sấu Điều phục bác ngưu tụ lạc拘留搜調伏駁牛聚落,
tức Pāli:
Kurusu Kammāsadamma. Xem kinh 263 dưới.
[39].
Bảy năm. Pāli, S. 35. 24. Sattavassāni.
[40].
Bản Pāli: Phật trú tại Uruvela
(Ưu-lâu-tần-loa), bên bờ sông Nerañjara (Ni-liên-thiền).
[41].
Bản Pāli: lúc bấy giờ, Ma Ba-tuần theo
gót Thế Tôn suốt bảy năm.
[42].
Tập cận習近,
Pāli:
sevati, thân cận và phục vụ.
[43].
Tóm tắt mười bốn kinh.
[44].
Kê lâm viên
雞林園,
cũng thường gọi là Kê viên. Pāli:
Kukkuṭārāma.
[45].
Ba-tra-lợi Phất-đa-la quốc
波吒利弗多羅國,
thường nói là Hoa thị thành. Pāli:
Pātaliputta.
[46].
Đại Thuần-đà
大純陀.
Em trai của ngài Xá-lợi-phất. Pāli:
Mahā-Cunda.
[47].
Tham chiếu, S. 35. 193. Udāyi:
Yatheva nu kho, āvuso ānanda,
ayaṃ kāyo bhagavatā anekapariyāyena akkāto vivaṭo pakāsito – itipāyaṃ
kāyo anttā ti sakkā evameva viññāṇaṃ pidaṃ ācikkhituṃ desetuṃ
paññaoetuṃ paṭṭhapetuṃ vivarituṃ vibhajituṃ uttānīkātuṃ – itipidaṃ
viññāṇaṃ anattā ti? Thế Tôn bằng nhiều
phương tiện thuyết minh thân này, rằng thân này là vô ngã. Theo như
vậy, thì có thể thuyết minh, hiển thị, phân biệt, làm sáng tỏ về thức
này, rằng thức này là vô ngã, được chăng?
[48].
Pāli, A. 4. 174. Koṭṭhika.
[49].
Pāli, S. 35. 191. Koṭṭhika.
[50].
Nhãn hệ sắc, sắc hệ nhãn
眼繫色,
色繫眼.
Pāli: kiṃ nu kho... cakkhu
rūpānaṃ saṃyojanaṃ, rūpā cakhussa saṃyojanan ti:
Mắt là kết sử của các sắc, hay các sắc là kết sử của mắt?
[51].
Pāli, A. 4. Koṭṭhika (hoặc Upavāṇa); M.
43. Mahāvedalla. Cf. №26 (211).
[52].
Tức không hiện quán, không lý giải chính
xác.
[53].
Pāli, S. 35. 69. Upasena.
[54].
Hàn lâm
寒林,
rừng lạnh, khu đất trống vất xác người chết, không thiêu. Pāli:
sītavana.
[55].
Vương xá thành, Xà-đầu nham hạ
Ca-lăng-già hành xứ
王舍城,
蛇頭巖,
迦陵伽行處.
Pāli: rājagahe viharati
sītavane sappasoṇḍikapabbhāre, trú Vương
xá, trong rừng Lạnh, trong một hang đá trong núi Xà-đầu.
[56].
Bản Cao-ly: hữu lượng
有量
(lường được); Tống-Nguyên-Minh: hữu úy
有畏 (dễ
sợ).
[57].
Chưa tìm thấy gốc tiếng Phạm.
[58].
Pāli, S. 35. 133. Verahaccāni.
[59].
Ưu-đà-di
優陀夷.
Pāli: Udāyi.
[60].
Câu-tát-la quốc, Câu-bàn-trà tụ lạc
拘薩羅國,
至拘磐茶聚落.
Pāi: kāmaiḍāyaṃ viharati
todeyyassa brahmanassa ambavane, trú ở
Kāmaṇḍa, trong vườn xoài của Bà-la-môn Todeyya.
[61].
Tỳ-nữu Ca-chiên-diên thị Bà-la-môn ni
毘紐迦旃延氏婆羅門尼.
Pāli: verahaccānigottāya
brāhmaṇiyā, của Bà-la-môn ni dòng họ
Verahaccāni.
[62].
Câu hỏi trong bản Pāli:
kismiṃ nu kho bhante arahanto
sukhadukkhaṃ paññapenti, kismiṃ asati arahanto sukhadukkhaṃ paññapenti,
do cái gì tồn tại và cái gì không tồn tại, các A-la-hán tuyên bố về
khổ và lạc?
[63].
A-la-ha 阿羅訶.
Pāli: ārahā,
tức A-la-hán; ở đây chỉ chung các bậc Thánh được tôn sùng, không phải
riêng A-la-hán trong hàng Thanh văn của Phật.
[64].
Pāli, A. 6. 55. Soṇa.
[65].
Nhị-thập-ức-nhĩ
二十億耳.
Pāli: Soṇa.
[66].
Giải thoát lục xứ
解脫六處.
Pāli: cha ṭhānāni
adhimutto hoti: nekkhammādhimutto, pavivekādhimutto,
avyāpajjādhimutto, taṇhakkhayādhimutto, upādānakkhayādhimutto,
asammohādhimutto, sáu thắng giải xứ, hay
sáu trường hợp quyết tâm: quyết tâm xuất gia, quyết tâm viễn ly (sống
cô độc), quyết tâm không sân, quyết tâm đoạn tận ái, quyết tâm diệt
tận thủ, quyết tâm vô si.
[67].
Ly dục
離欲
ở đây chỉ xuất gia.
[68].
Viễn ly
遠離, ở
đây chỉ đời sống ẩn dật, xa lánh thế tục.
[69].
Thất niệm
失念,
tức quên mất chánh niệm. Trong bản Pāli: asammoha, không si.
[70].
Pāli, S. 35. 132. Lohicca.
[71].
A-bàn-đề quốc, Thấp-ma-đà giang trắc, Di
hầu thất A-luyện-nhã quật
阿磐提國,
濕摩陀江側,
獼猴室,
阿練若窟.
Pāli: avantīsu viharati
makkarakate araññakuṭikāyaṃ, trú tại
Avanti, ngoài thị trấn Makkarakata (bản Hán đọc là
Makkarakuṭikā),
tại một thảo am trong khu rừng vắng (Pāli:
araññakuṭikāyaṃ,
bản Hán đọc là
arññakūṭāyaṃ).
[72].
Lỗ-hê-giá
魯醯遮.
Pāli:
Lohicca.