TẠP A-HÀM QUYỂN 39
Tôi nghe như vầy:
Một thời Đức Phật ở vườn Lộc dã, tại nước
Ba-la-nại. Bấy giờ sáng sớm Thế Tôn đắp y, ôm bát, vào thành Ba-la-nại
khất thực. Lúc ấy, cũng có Tỳ-kheo đắp y, ôm bát, vào thành khất thực,
đứng dưới gốc cây bên đường, vì nương vào ác tham[2]
nên sanh giác tưởng bất thiện[3].
Thế Tôn thấy Tỳ-kheo đứng dưới bóng cây, sống bằng vị ác tham nên sanh
giác tưởng bất thiện, bảo rằng:
“Này Tỳ-kheo! Tỳ-kheo! Chớ gieo trồng hạt giống
đắng[4],
để rồi xông lên mùi thối, nước rỉ chảy ra. Nếu Tỳ-kheo nào gieo trồng hạt
giống đắng, để rồi xông lên mùi thối, nước rỉ chảy ra, mà muốn cho ruồi
nhặng không tranh nhau bu lại, thì điều đó không thể có được.”
Lúc ấy Tỳ-kheo kia tự nghĩ: “Thế Tôn đã biết được
niệm ác trong tâm ta.” Chợt lòng cảm thấy sợ hãi, toàn thân lông dựng
đứng.
Bấy giờ, sau khi Thế Tôn vào thành khất thực, trở
về tinh xá, cất y bát, rửa chân, rồi vào phòng tọa thiền. Chiều hôm ấy, từ
thiền tịnh dậy, Ngài vào trong Tăng, trải tòa ngồi trước đại chúng và bảo
các Tỳ-kheo:
“Sáng nay, Ta đắp y, ôm bát vào thành khất thực,
thấy một Tỳ-kheo đứng dưới bóng cây, nương vào ác tham dục, phát sanh giác
tưởng bất thiện. Khi Ta thấy vậy liền bảo rằng: ‘Tỳ-kheo! Tỳ-kheo! Chớ
gieo trồng hạt giống đắng, để rồi xông lên mùi thối, nước rỉ chảy ra. Nếu
Tỳ-kheo nào gieo trồng hạt giống đắng, để rồi xông lên mùi thối, nước rỉ
chảy ra, mà muốn cho ruồi nhặng không tranh nhau bu lại, thì điều đó không
thể có được.’ Lúc đó, Tỳ-kheo kia liền tự nghĩ: ‘Phật đã biết được niệm
của ta.’ Lòng cảm thấy hổ thẹn, sợ hãi đến nỗi lông dựng cả lên, rồi theo
đường mà đi.”
Khi ấy, có một Tỳ-kheo từ chỗ ngồi đứng dạy, sửa
lại y phục, bày áo vai bên hữu, chắp tay bạch Phật:
“Bạch Thế Tôn, thế nào là hạt giống đắng? Thế nào
là sanh hôi thối? Thế nào là nước rỉ chảy? Thế nào là ruồi nhặng?”
Phật bảo Tỳ-kheo:
“Phẫn nộ, phiền oán gọi là hạt giống đắng. Công đức
ngũ dục gọi là sanh hôi thối. Đối với lục xúc nhập xứ không nhiếp luật
nghi gọi là chất nước rỉ chảy. Và khi đã không nhiếp xúc nhập xứ, thì các
tâm ác bất thiện, tham ưu tranh nhau sanh ra, đó gọi là ruồi nhặng[5].”
Bấy giờ, Thế Tôn liền nói kệ:
Tai mắt
không phòng hộ,
Tham dục theo đó sanh;
Đó gọi là giống đắng,
Hôi thối, nước rỉ chảy.
Khí vị các giác quán,
Do nếm ác tham dục.
Nơi xóm làng, chỗ vắng,
Đối với ngày hoặc đêm,
Viễn ly, tu phạm hạnh,
Cứu cánh biên tế khổ.
Nếu nội tâm tịch tĩnh,
Quyết định biết chân
thật.
Thức ngu thường an lạc,
Ruồi nhặng bị tận diệt.
Thân cận bậc Chánh sĩ,
Khéo nói đường Hiền
thánh;
Biết rõ bát Chánh đạo,
Không tái
sanh thân sau.
Phật nói kinh này xong, các Tỳ-kheo
nghe những gì Phật dạy, hoan hỷ phụng hành.
*
Tôi nghe như vầy:
Một thời Đức Phật ở trong vườn Cấp cô độc, rừng cây
Kỳ-đà, tại nước Xá-vệ. Bấy giờ, sáng sớm Thế Tôn đắp y, ôm bát, vào thành
Xá-vệ khất thực. Khất thực xong Thế Tôn trở về tinh xá, rửa chân rồi vào
rừng An-đà tọa thiền.
Khi ấy có một Tỳ-kheo cũng sáng sớm đắp y, ôm bát
vào thành Xá-vệ khất thực. Khất thực xong trở về tinh xá, rửa chân rồi vào
rừng An-đà nhập chánh thọ ban ngày[7],
dưới một bóng cây. Khi Tỳ-kheo này nhập chánh thọ ban ngày, vì nương vào
tâm nếm vị tham dục nên khởi lên giác tưởng bất thiện. Khi ấy có Thiên
thần đang ở tại rừng An-đà tự nghĩ: “Tỳ-kheo này, thật không tốt đẹp,
không thích hợp, ngồi thiền ở trong rừng An-đà mà tâm nếm vị ác tham, khởi
lên giác tưởng bất thiện. Ta nên đến quở trách.” Nghĩ xong liền nói với
Tỳ-kheo:
“Tỳ-kheo! Tỳ-kheo, đang nổi nhọt, bướu phải không?”
Tỳ-kheo đáp:
“Sẽ trị cho khỏi.”
Thiên thần bảo Tỳ-kheo:
“Bệnh ung nhọt như cái vạc sắt, làm sao có thể bình
phục được?”
Tỳ-kheo bảo:
“Chánh niệm, chánh trí đủ có thể bình phục.”
Thiên thần bạch rằng:
“Tốt thay! Hay thay! Đó là cách trị bệnh nhọt chân
thật của Hiền thánh. Trị bệnh nhọt như vậy, cuối cùng có thể bớt, mà không
bao giờ phát tác nữa.”
Chiều hôm ấy, Thế Tôn từ thiền tịnh dậy, trở về
vườn Cấp cô độc, rừng cây Kỳ-đà, vào trong Tăng, trải tòa ngồi trước đại
chúng và bảo các Tỳ-kheo:
“Sáng sớm nay Ta đắp y, ôm bát vào thành Xá-vệ khất
thực, khất thực xong trở về rừng An-đà tọa thiền, nhập chánh thọ ban ngày.
Có một Tỳ-kheo cũng sáng sớm đắp y, ôm bát vào thành Xá-vệ khất thực. Khất
thực xong trở về tinh xá, rửa chân rồi vào rừng An-đà nhập chánh thọ ban
ngày, dưới một bóng cây. Khi Tỳ-kheo này nhập chánh thọ ban ngày, vì nương
vào tâm nếm vị tham dục nên khởi lên giác tưởng ác bất thiện. Khi ấy có
thiên thần đang ở tại rừng An-đà tự nghĩ: ‘Tỳ-kheo này, thật không tốt
đẹp, không thích hợp, ngồi thiền ở trong rừng An-đà mà tâm nếm vị ác tham,
khởi lên giác tưởng bất thiện. Ta nên đến quở trách.” Nghĩ xong liền nói
với Tỳ-kheo: ‘Tỳ-kheo! Tỳ-kheo, đang nổi nhọt, bướu phải không?’ Nói
đầy đủ như trên… cho đến như vậy Tỳ-kheo: ‘Tốt thay! Hay thay! Đó là
cách trị bệnh nhọt chân thật của Hiền thánh.’”
Bấy giờ, Thế Tôn nói kệ:
Con người[8]
nổi nhọt, bướu,
Tự sanh ra bệnh khổ;
Mong cầu dục thế gian,
Tâm nương vào ác tham.
Vì sanh ra nhọt bướu,
Ruồi nhặng tranh nhau
đến.
Nhọt, bướu là tham cầu,
Ruồi nhặng là ác giác,
Cùng các tâm tham nếm,
Thảy đều từ ý sanh;
Đục khoét tâm con người,
Để cầu hoa danh lợi.
Lửa dục càng hừng hực,
Vọng tưởng giác bất
thiện;
Thân tâm ngày đêm suy.
Xa lìa đạo tịch tĩnh,
Nếu nội tâm vắng lặng,
Trí quyết định sáng
suốt;
Không còn nhọt bướu kia,
Thấy Phật, đường an ổn,
Vết tích Chánh sĩ theo,
Hiền thánh khéo tuyên
nói,
Con đường trí sáng biết,
Không còn
thọ các hữu.
Phật nói kinh này xong, các Tỳ-kheo
nghe những gì Phật dạy, hoan hỷ phụng hành.
*
Tôi nghe như vầy:
Một thời Đức Phật ở nơi giảng đường Trùng các, bên
ao Di-hầu, tại nước Tỳ-xá-ly. Bấy giờ sáng sớm, có nhiều Tỳ-kheo đắp y, ôm
bát, vào thành Tỳ-xá-ly khất thực. Khi đó, có một Tỳ-kheo tuổi trẻ, xuất
gia chưa bao lâu, không rành Pháp luật, nên lúc khất thực không biết thứ
tự trước sau; các Tỳ-kheo khác thấy vậy nói với vị ấy:
“Thầy tuổi còn trẻ, mới xuất gia, chưa biết Pháp
luật: không được đi vượt qua, không được đi ngang hàng. Đi khất thực mà
trước sau không theo thứ tự, trường kỳ sẽ chịu khổ, không bao giờ được lợi
ích.”
Tỳ-kheo tuổi trẻ thưa:
“Các Thượng tọa cũng vượt thứ lớp, không theo trước
sau, đâu phải chỉ một mình tôi.”
Đã ba lần như vậy, vẫn không thể làm cho vị ấy dừng
lại. Các Tỳ-kheo đi khất thực xong, trở về tinh xá cất y bát, rửa chân
xong, đến chỗ Phật đảnh lễ dưới chân Phật, ngồi lui ra một bên, bạch Phật:
“Bạch Thế Tôn, sáng sớm chúng con đắp y, ôm bát vào
thành Tỳ-xá-ly khất thực, có một Tỳ-kheo tuổi trẻ xuất gia nơi Pháp luật
này chưa bao lâu, khi đi khất thực không theo thứ tự trước sau, lại đi
ngang hàng. Các Tỳ-kheo đã ba lần can gián nhưng vẫn không chịu, mà nói
rằng: ‘Các Thượng tọa cũng không có thứ tự sao lại rầy tôi?’ Các Tỳ-kheo
chúng con đã ba lần răn nhắc, vẫn không chịu nghe nên đến bạch Thế Tôn,
xin Thế Tôn vì thương xót mà dẹp trừ điều phi pháp.”
Phật bảo các Tỳ-kheo:
“Như trong đầm không, có hồ nước lớn, có một long
tượng[10]
to ở trong đó, nhổ những củ rễ, rửa sạch bùn đất sau đó ăn chúng. Ăn rồi
thì thân thể mập mạp, sung sức và đầy hạnh phúc. Vì lý do này nên luôn
sống lạc sướng. Có một con voi thuộc chủng tộc khác[11],
hình thể gầy yếu, bắt chước long tượng kia, nhổ củ rễ, nhưng rửa không
sạch, còn để lẫn bùn đất mà ăn. Ăn vào không tiêu, thân thể không mập mạp
mà trở thành gầy yếu, vì vậy dẫn đến chỗ chết, hoặc khổ gần chết.
“Cũng vậy, Tỳ-kheo tôn túc, đức độ, học đạo lâu
ngày, không ưa thích đùa giỡn, tu phạm hạnh đã lâu, được Đại Sư khen ngợi;
cũng được các vị tu phạm hạnh trí khác lại càng khen ngợi hơn. Các Tỳ-kheo
này nương nơi thành ấp, làng xóm; sáng sớm đắp y, ôm bát đi khất thực,
khéo giữ gìn thân miệng, khéo nhiếp các căn, chuyên tâm cột niệm, có thể
khiến người nào không tin phát lòng tin, người đã có lòng tin sẽ không
biến đổi. Khi được tài lợi, y phục, đồ ăn, thức uống, giường nằm, thuốc
men; vị ấy không nhiễm, không đắm, không tham, không ham, không mê, không
theo đuổi; mà thấy được lỗi lầm, tai hại, thấy sự xuất ly chúng, sau đó
mới dùng. Ăn xong, thân tâm đều đượm vẻ an lạc, sắc được tươi, sức được
khỏe. Vì nhân duyên này Tỳ-kheo luôn luôn được an lạc.
“Tỳ-kheo tuổi trẻ kia xuất gia chưa được bao lâu,
chưa quen rành Pháp luật, y theo các bậc Trưởng lão, nương vào nơi làng
xóm. Khi đắp y, ôm bát vào thôn khất thực, mà không khéo hộ thân, không
giữ gìn các căn, không chuyên cột niệm, không thể khiến cho người chưa tin
phát lòng tin và người đã tin không thay đổi. Nếu được tài lợi, y phục, đồ
ăn, thức uống, ngọa cụ, thuốc men; mà sanh nhiễm, đắm, tham lam, đeo đuổi,
không thấy lỗi lầm, tai hại, không thấy sự thoát ly, vì tâm tham nếm thức
ăn này, nên không thể làm cho thân lạc tươi, an ổn, sung sướng được. Vì ăn
như vậy nên chuyển đến cái chết, hoặc khổ giống như chết. Nói là chết có
nghĩa là xả giới, hoàn tục, mất Chánh pháp, Chánh luật. Khổ giống như chết
nghĩa là phạm Chánh pháp luật, không biết tội tướng, không biết trừ tội.”
Bấy giờ Thế Tôn liền nói kệ:
Long tượng
nhổ rễ sen,
Nước rửa sạch
rồi ăn,
Voi giống khác
bắt chước,
Ăn rễ dính lẫn
bùn.
Vì ăn nhằm bùn
đất,
Gầy yếu
bệnh đến chết.
Phật nói kinh này xong, các Tỳ-kheo
nghe những gì Phật dạy, hoan hỷ phụng hành.
*
Tôi nghe như vầy:
Một thời Đức Phật ở giữa bãi tha ma trong rừng Lạnh[13],
thành Vương xá. Bấy giờ Thế Tôn bảo các Tỳ-kheo:
“Mệnh sống rất ngắn, chỉ thoáng đã trở thành đời
sau. Hãy nên siêng tu tập pháp thiện, tu các phạm hạnh. Không có gì sanh
mà không chết. Nhưng người thế gian không siêng năng, nỗ lực chuyên tu
pháp thiện, tu hiền, tu nghĩa.”
Lúc ấy, Ma Ba-tuần tự nghĩ: ‘Sa-môn Cù-đàm đang trú
giữa nghĩa địa trong rừng Lạnh, thành Vương xá, vì các Thanh văn nói pháp
như vậy. Mệnh sống con người rất ngắn,… cho đến không tu hiền, tu
nghĩa. Nay ta nên đến làm nhiễu loạn.’
Ma Ba-tuần liền hóa thành một thiếu niên đến trước
Phật, mà nói kệ:
Thường bức
bách chúng sanh,
Được sống lâu
cõi người.[14]
Mê say tâm phóng dật,
Cũng không
đến chỗ chết.
Bấy giờ, Thế Tôn tự nghĩ: ‘Đây là
ác ma đến làm não loạn.’ Liền nói kệ:
Thường bức
bách chúng sanh,
Mạng sống thật
ngắn ngủi;
Nên tinh tấn cần tu,
Như cứu lửa cháy dầu.
Chớ lười dù chốc lát,
Khiến ma chết chợt đến.
Biết ngươi là ác ma,
Mau đi
khỏi nơi đây.
Thiên ma Ba-tuần tự nghĩ: ‘Sa-môn
Cù-đàm đã biết tâm ta.’ Liền hổ thẹn, lo buồn biến mất.
*
Tôi nghe như vầy:
Một thời Đức Phật ở giữa nghĩa địa trong rừng Lạnh,
tại thành Vương xá. Bấy giờ Thế Tôn bảo các Tỳ-kheo:
“Tất cả hành là vô thường, tất cả hành không thường
hằng, bất an, là pháp biến dịch, không nghỉ ngơi[16],…
cho đến hãy đình chỉ tất cả hành hữu vi, yểm ly, không ưa thích, giải
thoát.”
Lúc ấy, Ma Ba-tuần tự nghĩ: “Nay Sa-môn Cù-đàm đang
trú trong rừng Lạnh, tại thành Vương xá, vì các Thanh văn nói pháp như
vầy: ‘Tất cả hành là vô thường, không thường hằng, bất an, là pháp biến
dịch, không nghỉ ngơi… cho đến nên đình chỉ tất cả hữu vi, yểm ly, không
ưa thích, giải thoát.’ Ta sẽ đến đó làm nhiễu loạn.” Liền hóa ra một thiếu
niên đi đến chỗ Phật, đứng trước Phật mà nói kệ:
Mạng sống
trôi ngày đêm,
Không lúc nào
cùng tận.[17]
Mạng sống đến
rồi đi,
Giống như
bánh xe lăn.
Bấy giờ, Thế Tôn tự nghĩ: ‘Đó là ác
ma muốn làm nhiễu loạn.’ Liền nói kệ:
Ngày đêm
luôn đổi dời,
Mạng cũng theo đó giảm.
Mạng người tạm tiêu mất,
Giống như dòng nước nhỏ.
Ta biết ngươi ác ma,
Hãy tự
tiêu mất đi.
Ma Ba-tuần tự nghĩ: ‘Sa-môn Cù-đàm
đã biết tâm ta.’ Liền hổ thẹn, lo buồn biến mất.
*
Tôi nghe như vầy:
Một thời Đức Phật ở trong vườn Trúc, khu Ca-lan-đà,
tại thành Vương xá. Bấy giờ, ban đêm, Thế Tôn dậy đi kinh hành. Đến cuối
đêm, rửa chân, vào phòng ngồi ngay thẳng, chuyên tâm cột niệm.
Khi ấy, Ma Ba-tuần tự nghĩ: ‘Hiện tại Sa-môn Cù-đàm
đang ở trong vườn Trúc, khu Ca-lan-đà, tại thành Vương xá. Ban đêm Thế Tôn
dậy đi kinh hành. Đến cuối đêm, rửa chân, vào phòng ngồi ngay thẳng,
chuyên tâm cột niệm thiền tư. Bây giờ, ta sẽ đến làm nhiễu loạn.’ Liền hóa
ra một thiếu niên đứng trước Phật nói kệ:
Tâm ta ở
giữa không,
Cầm dây dài
buông xuống.[19]
Nhằm muốn trói
Sa-môn,
Khiến
ngươi không thoát được.
Bấy giờ, Thế Tôn tự nghĩ: ‘Ác Ma
Ba-tuần muốn làm nhiễu loạn.’ Liền nói kệ:
Ta nói, ở
thế gian,
Năm dục, ý thứ
sáu;
Đối chúng đã
lìa hẳn,
Tất cả khổ đã
dứt.
Ta đã lìa dục
kia,
Tâm ý thức
cũng diệt.
Ba-tuần, Ta biết ngươi,
Mau đi khỏi nơi đây.
Ma Ba-tuần tự nghĩ: ‘Sa-môn Cù-đàm đã biết tâm ta.’
Liền hổ thẹn, lo buồn biến mất.
*
Tôi nghe như vầy:
Một thời Đức Phật ở trong vườn Trúc, khu Ca-lan-đà,
tại nước Xá-vệ. Bấy giờ, vào ban đêm, Thế Tôn dậy đi kinh hành. Đến cuối
đêm, rửa chân, vào phòng, nằm nghiêng bên phải, cột niệm vào tướng ánh
sáng, chánh niệm, chánh trí, nghĩ tưởng đến thức.
Khi ấy, Ma Ba-tuần tự nghĩ: ‘Hiện tại Sa-môn Cù-đàm
đang ở trong vườn Trúc, khu Ca-lan-đà, tại thành Vương xá… cho đến
nghĩ tưởng đến thức. Bây giờ, ta sẽ đến để gây trở ngại.’ Liền hóa thành
một thiếu niên đứng trước mặt Phật mà nói kệ:
Ngủ sao, vì
sao ngủ?
Đã diệt, sao
còn ngủ?
Nhà trống, làm
sao ngủ?
Ra được,
sao lại ngủ?
Bấy giờ, Thế Tôn tự nghĩ: ‘Ác Ma
Ba-tuần muốn làm nhiễu loạn.’ Liền nói kệ đáp:
Vì lưới ái
nên nhiễm,
Không ái, ai
kéo đi?
Diệt tất cả
hữu dư,
Chỉ Phật được
ngủ yên.
Ngươi ác Ma Ba-tuần,
Nói những
gì ở đây?
Ma Ba-tuần tự nghĩ: ‘Sa-môn Cù-đàm
đã biết tâm ta.’ Liền hổ thẹn, lo buồn biến mất.
*
Tôi nghe như vầy:
Một thời Đức Phật ở trong núi Kỳ-xà-quật, tại thành
Vương xá. Bấy giờ vào ban đêm, trời mưa bụi, có tia chớp lóe lên. Thế Tôn
ra khỏi phòng đi kinh hành.
Khi ấy, Ma Ba-tuần tự nghĩ: ‘Hiện tại Sa-môn Cù-đàm
đang ở trong núi Kỳ-xà-quật, tại thành Vương xá. Đêm tối, trời mưa bụi,
tia chớp lóe lên, Sa-môn Cù-đàm ra khỏi phòng, đi kinh hành. Bấy giờ, ta
sẽ đến gây trở ngại.’ Nó cầm một khối đá to, đùa giỡn trên hai tay, đến
trước Phật bóp nát thành bụi nhỏ.
Bấy giờ, Thế Tôn tự nghĩ: ‘Ác Ma Ba-tuần muốn làm
nhiễu loạn.’ Liền nói kệ:
Dù núi Kỳ-xà-quật,
Trước Ta, bị bóp nát;
Thì chư Phật giải thoát,
Cũng không động mảy
lông.
Giả sử trong bốn biển,
Khiến tất cả núi non;
Và thân tộc phóng dật[22],
Khiến nát thành vi trần,
Cũng không làm lay động,
Một sợi
tóc Như Lai.
Ma Ba-tuần tự nghĩ: ‘Sa-môn Cù-đàm
đã biết tâm ta.’ Liền hổ thẹn, lo buồn biến mất.
*
Tôi nghe như vầy:
Một thời Đức Phật ở trong núi Kỳ-xà-quật, tại thành
Vương xá. Bấy giờ, ban đêm, Thế Tôn dậy đi kinh hành, cho đến cuối đêm,
rửa chân, vào phòng, thân ngồi ngay thẳng, cột niệm ở trước.
Khi ấy, Ma Ba-tuần tự nghĩ: ‘Hiện tại Sa-môn Cù-đàm
đang ở trong núi Kỳ-xà-quật, tại thành Vương xá, ban đêm Thế Tôn dậy đi
kinh hành cho đến cuối đêm, rửa chân, vào phòng, thân ngồi ngay thẳng, cột
niệm ở trước. Bây giờ, ta sẽ đến để gây trở ngại.’ Liền hóa thành một con
rồng to[24]
quấn Phật bảy vòng, cất đầu đến trên đảnh Phật, thân như chiếc
thuyền to, đầu như cái buồm lớn, mắt đỏ như lò đồng, lưỡi như điện chớp,
hơi thở dữ dội như tiếng sấm. Bấy giờ, Thế Tôn tự nghĩ: ‘Ác Ma Ba-tuần
muốn làm nhiễu loạn.’ Liền nói kệ:
Giống như
ngôi nhà trống,
Tâm Mâu-ni rỗng lặng;
Chuyển xoay ở trong đó,
Thân Phật cũng như vậy.
Vô lượng rồng hung ác,
Ruồi, muỗi, rệp, côn
trùng;
Tụ lại ăn thân kia,
Cũng không động lông
tóc.
Dù phá nát hư không,
Nghiêng úp cả đại địa;
Tất cả loài chúng sanh,
Đều đến gây kinh sợ.
Gươm, mâu, đao, tên bén,
Cũng đến hại thân Phật;
Mọi bạo hại như vậy,
Cũng không
tổn mảy lông.
Ma Ba-tuần tự nghĩ: ‘Sa-môn Cù-đàm
đã biết tâm ta.’ Trong lòng cảm thấy lo buồn liền biến mất.
*
Tôi nghe như vầy:
Một thời Đức Phật ở trong thất đá, núi Tỳ-bà-la
trong rừng Thất diệp thọ[26],
thành Vương xá. Bấy giờ, ban đêm, Thế Tôn dậy, nơi đất trống hoặc ngồi,
hoặc đi kinh hành đến cuối đêm, rửa chân, vào thất, nằm yên nghỉ, nghiêng
hông bên phải sát đất, hai chân chồng lên nhau, cột niệm vào tướng ánh
sáng, chánh niệm, chánh trí, nghĩ tưởng đến thức.
Khi ấy, Ma Ba-tuần tự nghĩ: ‘Hiện tại Sa-môn Cù-đàm
đang ở trong thất đá, núi Tỳ-bà-la trong rừng Thất diệp thọ, thành Vương
xá. Bấy giờ, ban đêm, Thế Tôn dậy, nơi đất trống, hoặc ngồi, hoặc đi kinh
hành đến cuối đêm, rửa chân, vào thất, nằm yên nghỉ, nghiêng hông bên phải
sát đất, hai chân chồng lên nhau, cột niệm vào tướng ánh sáng, chánh niệm,
chánh trí, nghĩ tưởng đến thức. Bây giờ, ta sẽ đến gây trở ngại.’ Ma
Ba-tuần hóa ra một thiếu niên đến đứng trước Phật, mà nói kệ:
Nhân vì ta
nên ngu?
Hay là vì đời sau?
Có nhiều tiền, của báu?
Cớ sao chọn ở rừng?
Một mình không bè bạn,
Mà mê đắm ngủ nghỉ?
Bấy giờ, Thế Tôn tự nghĩ: ‘Ác Ma Ba-tuần muốn làm
nhiễu loạn.’ Liền nói kệ:
Không nhân ngươi nên
ngủ,
Không phải vì đời sau,
Cũng không nhiều tiền
của,
Chỉ gom báu vô
ưu.
Vì thương xót
thế gian,
Nên nằm
nghiêng hông phải,
Thức cũng
không nghi hoặc
Ngủ cũng không
sợ hãi.
Hoặc ngày,
hoặc lại đêm,
Không tăng
cũng không giảm.
Vì thương
chúng sanh ngủ,
Nên không có
tổn giảm.
Dù dùng trăm
mũi nhọn,
Xuyên thân,
luôn khuấy động,
Vẫn được ngủ
an ổn,
Vì lìa gươm bên trong.
Ma Ba-tuần tự nghĩ: ‘Sa-môn Cù-đàm
đã biết tâm ta.’ Liền hổ thẹn, lo buồn biến mất.
*
Tôi nghe như vầy:
Một thời Đức Phật ở nơi thất đá, núi Tỳ-bà-la trong
rừng Thất diệp thọ[28],
thành Vương xá. Bấy giờ, có Tôn giả Cù-đề-ca[29]
cũng ở thành Vương xá, trong hang Đá đen bên sườn núi Tiên nhân[30],
một mình tư duy, tu hạnh không phóng dật, tự được nhiều lợi ích, tự chứng
ngộ tâm giải thoát nhất thời[31],
nhiều lần bị thoái chuyển. Lần thứ nhất, thứ hai, ba, bốn, năm, sáu, trở
đi, trở lại; sau khi tự thân tác chứng tâm giải thoát nhất thời, chẳng bao
lâu lại thoái chuyển.
Tôn giả Cù-đề-ca tự nghĩ: ‘Một mình ta ở chỗ vắng
tư duy, hành không phóng dật, tinh tấn tu tập để tự được lợi ích, khi tự
thân chứng ngộ tâm giải thoát nhất thời, mà nhiều lần lại còn thoái
chuyển, cho đến sáu lần vẫn còn thoái chuyển lại. Bây giờ, ta nên dùng đao
tự sát chớ để cho thoái chuyển lần thứ bảy.’
Khi ấy, Ma Ba-tuần tự nghĩ: “Hiện tại Sa-môn Cù-đàm
đang ở nơi thất đá, núi Tỳ-bà-la trong rừng Thất diệp thọ, tại thành Vương
xá, có đêï tử là Cù-đề-ca cũng ở thành Vương xá, trong hang Đá đen bên
sườn núi Tiên nhân, một mình ở chỗ vắng, chuyên tinh tư duy, khi tự thân
tác chứng tâm giải thoát nhất thời, qua sáu lần thoái chuyển. Ông tự nghĩ:
‘Ta đã qua sáu lần phản thoái mới trở lại được, chớ để cho thoái chuyển
lần thứ bảy. Ta hãy dùng đao tự sát chớ để cho thoái chuyển lần thứ bảy.’
Nếu Tỳ-kheo kia dùng đao tự sát, ta chớ để tự sát, mà ra khỏi cảnh giới
của ta. Bây giờ ta nên đến bảo Đại Sư ông ấy.”
Bấy giờ, Ma Ba-tuần cầm đàn tỳ bà bằng lưu ly, đến
chỗ Thế Tôn, vừa khảy đàn vừa nói kệ:
Đại trí đại
phương tiện,
Tự tại thần
lực lớn,
Được đệ tử
sáng chói,
Mà nay muốn chết đi.
Đại Mâu-ni nên ngăn,
Chớ để ông tự sát.
Sao để đệ tử Phật,
Theo học Chánh pháp
luật,
Học nhưng không chứng
đắc,
Chỉ muốn
chết cho xong?
Ma Ba-tuần nói kệ, Thế Tôn nói kệ
đáp:
Ba-tuần,
giống phóng dật,
Vì việc mình
nên đến,
Bậc đã được
kiên cố,
Thường trụ
diệu thiền định.
Ngày đêm
chuyên tinh tấn,
Không nghĩ đến
tánh mạng,
Thầy ba cõi
đáng sợ,
Đoạn trừ ái
dục kia.
Đã chiết phục
quân ma,
Cù-đề
Bát-niết-bàn.
Tâm Ba-tuần buồn lo,
Tỳ bà rơi xuống đất.
Lòng ôm ấp ưu sầu,
Liền biến
mất không hiện.
Bấy giờ, Thế Tôn bảo các Tỳ-kheo:
“Các ông hãy cùng Ta đến hang Đá
đen bên sườn núi Tiên nhân, xem Tỳ-kheo Cù-đề-ca dùng đao tự sát.”
Thế Tôn cùng các Tỳ-kheo đến hang
Đá đen bên sườn núi Tiên nhân, thấy Tỳ-kheo Cù-đề-ca đã tự sát nằm trên
đất, bảo các Tỳ-kheo:
“Các ông có thấy Tỳ-kheo Cù-đề-ca
tự sát, thân thể nằm trên đất không?”
Các Tỳ-kheo bạch Phật:
“Thưa vâng Thế Tôn, đã thấy.”
Thế Tôn bảo các Tỳ-kheo:
“Các ông có thấy chung quanh thân
thể Tỳ-kheo Cù-đề-ca bốc khói đen đầy khắp bốn phía không?”
Các Tỳ-kheo bạch Phật:
“Bạch Thế Tôn, đã thấy.”
Thế Tôn bảo các Tỳ-kheo:
“Đó là ác Ma Ba-tuần ở bên thân
thiện nam Cù-đề-ca, đang quanh quẩn tìm thần thức; nhưng Tỳ-kheo Cù-đề-ca
với tâm vô trụ[32]
mà cầm đao tự sát!”
Bấy giờ, Thế Tôn vì Tỳ-kheo
Cù-đề-ca thọ ký lần đầu tiên.
Lúc ấy, Ma Ba-tuần nói kệ:
Trên dưới
cùng các phương,
Tìm khắp thần
thức kia,
Đều không thấy
nơi này,
Cù-đề-ca
để đâu?
Bấy giờ, Thế Tôn lại nói kệ:
Bậc kiên cố
như vậy,
Không thể tìm
ở đâu.
Nhổ sạch gốc
ân ái,
Cù-đề
Bát-niết-bàn.
Phật nói kinh này xong, các Tỳ-kheo
nghe những gì Phật dạy, hoan hỷ phụng hành.
*
Tôi nghe như vầy:
Một thời Đức Phật ở dưới gốc cây Bồ-đề, tại làng
Uất-bề-la bên bờ sông Ni-liên-thiền, thành đạo chưa bao lâu. Bấy giờ, Ma
Ba-tuần tự nghĩ: ‘Hiện tại Sa-môn Cù-đàm đang ở dưới gốc cây Bồ-đề, tại
làng Uất-bề-la bên bờ sông Ni-liên-thiền, thành đạo chưa bao lâu. Ta sẽ
đến đó làm chướng ngại.’
Ma Ba-tuần hóa ra một thiếu niên đến trước Phật mà
nói kệ:
Một mình vào
chỗ vắng,
Thiền tư, tĩnh
tư duy,
Đã bỏ nước,
tài bảo,
Ở đây cầu lợi
gì?
Nếu cầu lợi
xóm làng,
Sao không gần
gũi người?
Đã không gần
gũi người,
Rốt cuộc
được gì nào?
Thế Tôn tự nghĩ: ‘Ma
Ba-tuần muốn làm nhiễu loạn.’ Liền nói kệ:
Đã được tài
lợi nhiều,
Tri túc, an tịch diệt,
Điều phục bọn quân ma,
Không đắm vào sắc dục.
Một mình riêng thiền tư,
Nếm vị thiền diệu lạc,
Cho nên không cùng
người,
Quanh quẩn
gần gũi nhau.
Ma lại nói kệ:
Cù-đàm
nếu tự biết,
Đường Niết-bàn an ổn,
Riêng mình lạc vô vi,
Tại sao
gượng dạy người?
Phật lại nói kệ đáp:
Chẳng phải
chỗ ma cấm,
Lại hỏi qua bờ
kia,
Thì Ta đáp
chân chánh,
Khiến người
đắc Niết-bàn.
Kịp thời không
phóng dật,
Tự tại
không theo ma.
Ma lại nói kệ:
Có đá như mỡ đặc,
Chim chóc muốn lại ăn,
Cuối cùng không được vị,
Trượt mỏ trở về không.
Nay ta cũng như chúng
Luống
nhọc về Thiên cung.
Ma nói vậy xong, trong lòng cảm
thấy lo buồn, tâm bỗng biến đổi, hối hận, cúi đầu sát đất, dùng ngón tay
vẽ lên đất[34].
Ma có ba người con gái: Người thứ
nhất tên là Ái Dục, người thứ hai tên là Ái Niệm, người thứ ba tên là Ái
Lạc[35]
đi đến chỗ Ma Ba-tuần nói kệ:
Cha đang lo buồn gì?
Con người đáng
gì lo,
Con dùng dây
ái trói
Trói chúng như
điều voi
Lôi đem đến
trước cha,
Tùy ý cha sai khiến.
Ma đáp lại con gái:
Khi đã lìa ân ái,
Không dục nào lôi được
Đã ra khỏi cảnh ma
Cho nên
ta
lo buồn.
Bấy giờ, ba con gái ma từ thân
phóng ra ánh sáng lóe lên như những tia chớp trong mây, đến chỗ Phật, đảnh
lễ dưới chân Phật, rồi đứng qua một bên bạch Phật:
“Nay con trở về dưới chân Thế Tôn,
để giúp đỡ hầu hạ, xin Ngài sai khiến.”
Bấy giờ, Thế Tôn không ngó ngàng
đến. Biết Như Lai đã lìa ái dục, tâm thiện giải thoát. Hai ba phen nói như
vậy, sau đó ba gái ma tự bảo với nhau rằng:
“Đàn ông có những loại ái dục tùy
theo hình tướng. Bây giờ chúng ta mỗi người sẽ biến hóa ra những loại này,
thành trăm thứ sắc của đồng nữ, trăm thứ sắc của thiếu nữ mới lấy chồng,
trăm thứ sắc của phụ nữ chưa sanh, trăm thứ sắc của phụ nữ đã sanh, trăm
thứ sắc của phụ nữ trung niên, trăm thứ sắc của phụ nữ đứng tuổi. Hóa ra
những loại hình như vậy rồi, chúng ta đi đến Sa-môn Cù-đàm nói rằng: ‘Hôm
nay tất cả đều về dưới chân Thế Tôn, hiến dâng cho Ngài sai sử.’”
Bàn bạc với nhau xong, chúng liền
biến hóa thành những loại như đã nói trên, đến chỗ Phật, đảnh lễ dưới chân
Phật, đứng lui qua một bên, bạch Phật:
“Bạch Thế Tôn, bọn chúng con hôm
nay về dưới chân Thế Tôn, hiến dâng cho Ngài sai sử.”
Bấy giờ, Thế Tôn cũng không hề để ý
đến.
“Pháp của Như Lai là lìa các ái
dục.” Phật lặp lại như vậy ba lần.
Bấy giờ, ba ma nữ lại bảo với nhau:
“Nếu đàn ông chưa lìa dục trông
thấy các hình thể tuyệt diệu của chúng ta, tâm sẽ bị mê loạn, dục khí dồn
nén bốc lên, lồng ngực muốn vỡ, máu nóng đỏ bừng trên mặt. Nhưng hiện
Sa-môn Cù-đàm không hề để ý đến chúng ta, nên biết Như Lai đã lìa dục,
giải thoát, được thiện giải thoát tưởng. Bây giờ chúng ta mỗi người nên
nói kệ để cật vấn.”
Ba ma nữ trở lại trước Phật, đảnh
lễ dưới chân Phật, đứng lui qua một bên. Thiên nữ Ái Dục liền nói kệ:
Một mình vào
chỗ vắng,
Thiền tư, tĩnh
tư duy,
Đã bỏ nước,
tài bảo,
Ở đây lại cầu
gì?
Nếu cầu lợi
xóm làng,
Sao không gần
gũi người?
Đã không gần
gũi người,
Rốt cuộc
được gì nào?
Thế Tôn nói kệ đáp:
Đã được tài
lợi nhiều,
Tri túc, an tịch diệt,
Điều phục bọn quân ma,
Không đắm vào sắc dục.
Một mình riêng thiền tư,
Nếm vị thiền diệu lạc.
Cho nên không cùng
người,
Quanh quẩn
gần gũi nhau.
Thiên nữ Ái Niệm nói kệ:
Tu nhiều
thiền diệu gì,
Để thoát dòng
ngũ dục?
Lại nhờ phương
tiện nào,
Vượt qua biển
thứ sáu?
Đối các dục
sâu rộng,
Làm sao tu diệu thiền,
Để qua được bờ kia,
Mà không
bị ái giữ?
Bấy giờ, Thế Tôn nói kệ đáp:
Thân được
lạc dừng nghỉ,
Tâm được khéo
giải thoát,
Vô vi, không
tạo tác,
Chánh niệm
không dao động.
Biết rõ tất cả
pháp,
Không khởi các
loạn giác,
Ái, nhuế, thùy
miên, phú,
Tất cả đều đã
lìa.
Tu tập nhiều
như vậy,
Thoát khỏi
được năm dục,
Như đổi biển
thứ sáu,
Tất qua được
bờ kia.
Tu tập thiền
như vậy,
Đối các dục
sâu rộng,
Đều qua được
bờ kia,
Không bị
chúng giữ lại.
Khi ấy, Thiên nữ Ái Lạc lại nói kệ:
Đã đoạn trừ
sân ái,
Chất chứa dục
sâu dày,
Người nhiều
đời tịnh tín,
Vượt qua được
biển dục.
Mở ra trí tuệ
sáng,
Vượt qua
cảnh tử ma.
Bấy giờ, Thế Tôn nói kệ đáp:
Đại phương
tiện, rộng độ,
Vào Pháp luật
Như Lai,
Những người
này đã độ,
Người trí còn
lo gì?
Bấy giờ, chí nguyện của ba Thiên nữ
chưa được thỏa mãn, trở lại chỗ Ma Ba-tuần, cha của chúng. Khi ấy, Ma
Ba-tuần vừa trông thấy các con gái đến, liền nói kệ trêu họ:
Các con, này ba đứa,
Tự khoe mình kham năng,
Toàn thân phóng lửa
sáng,
Như lằn chớp trong mây.
Đến chỗ Đại Tinh Tấn,
Mỗi người phô sắc đẹp.
Ngược lại đều bị phá,
Như gió lùa bông gòn.
Dùng ngón tay phá núi,
Dùng răng cắn hòn sắt,
Hay muốn dùng tóc, tơ,
Di chuyển hòn núi lớn?
Những người thoát hòa
hợp,
Mà mong loạn tâm kia.
Muốn buộc dính chân gió,
Khiến trăng rơi giữa
không,
Dùng tay khuấy biển lớn,
Hà hơi động núi tuyết.
Đã giải thoát hòa hợp,
Dễ làm gì dao động.
Ở giữa biển sâu rộng,
Mà tìm đất đặt chân,
Như Lai đối tất cả,
Hòa hợp tất giải thoát,
Trong biển lớn Chánh
giác,
Tìm dao động cũng vậy.
Ma Ba-tuần trêu ba cô con gái rồi biến mất.
*
Tôi nghe như vầy:
Một thời Đức Phật mới thành đạo, ở dưới cây Bồ-đề
lớn bên bờ sông Ni-liền-thiền, tại xứ Uất-bề-la. Thiên ma Ba-tuần tự nghĩ:
‘Sa-môn Cù-đàm mới thành đạo, đang ở dưới bóng cây Bồ-đề, bên bờ sông
Ni-liền-thiền, xứ Uất-bề-la. Nay ta sẽ đến làm chướng ngại.’ Tức thì tự
biến thân mình thành trăm thứ sắc tịnh và bất tịnh, đến chỗ Phật. Từ xa,
Đức Phật trông thấy một trăm thứ sắc tịnh và bất tịnh của Ma Ba-tuần liền
tự nghĩ: ‘Ác Ma Ba-tuần biến trăm thứ sắc tịnh và bất tịnh là muốn làm
nhiễu loạn.’ Liền nói kệ:
Mãi mãi
trong sanh tử,
Làm sắc tịnh bất tịnh,
Vì sao ngươi làm vậy?
Không vượt khổ, bờ kia.
Nếu thân, miệng và ý,
Không làm chướng ngại
người,
Không bị ma sai sử,
Không bị ma khống chế.
Biết ma ác như vậy,
Ma liền tự
biến mất.
Khi ấy, Ma Ba-tuần tự nghĩ: ‘Sa-môn
Cù-đàm đã biết tâm ta.’ Trong lòng cảm thấy buồn lo liền biến mất.
*
Tôi nghe như vầy:
Một thời Đức Phật mới thành đạo, ở dưới cây Bồ-đề
lớn, bên bờ sông Ni-liền-thiền, tại xứ Uất-bề-la. Bấy giờ, Thế Tôn một
mình ở chỗ yên tĩnh, chuyên tâm thiền định tư duy, tự nghĩ như vầy: ‘Nay
Ta khéo giải thoát khổ hạnh[38].
Lành thay! Nay Ta khéo giải thoát khổ hạnh. Trước kia tu chánh nguyện,
ngày nay đã được quả Vô thượng Bồ-đề.’
Khi ấy, Ma Ba-tuần tự nghĩ: ‘Sa-môn Cù-đàm mới
thành Chánh giác đang ở dưới cây Bồ-đề, tại xứ Uất-bề-la bên bờ sông
Ni-liền-thiền. Nay ta sẽ đến làm chướng ngại’. Liền biến thành một thiếu
niên đến trước Phật mà nói kệ:
Chỗ tu đại khổ hạnh,
Thường khiến được thanh
tịnh,
Nay ngược lại, vất bỏ,
Ở đây tìm những gì?
Muốn cầu tịnh ở đây,
Tịnh cũng
không thể được.
Bấy giờ, Thế Tôn tự nghĩ: ‘Ma
Ba-tuần muốn làm nhiễu loạn.’ Liền nói kệ:
Biết các tu
khổ hạnh,
Thảy đều không
có nghĩa,
Hoàn toàn
không được ích,
Như cung chỉ có tiếng[39].
Giới, định, văn, tuệ,
đạo,
Ta đều đã tu tập,
Được thanh tịnh bậc
nhất,
Tịnh này
không gì hơn.
Khi đó Ma Ba-tuần tự nghĩ: ‘Sa-môn
Cù-đàm đã biết tâm ta.’ Trong lòng cảm thấy buồn lo liền biến mất.
*
Tôi nghe như vầy:
Một thời Đức Phật ở tại làng Sa-la của Bà-la-môn[41].
Bấy giờ, sáng sớm Thế Tôn đắp y, ôm bát, vào làng Sa-la khất thực.
Khi ấy, Ma Ba-tuần tự nghĩ: “Nay Sa-môn Cù-đàm sáng
sớm đắp y, ôm bát, vào làng Sa-la khất thực. Bây giờ ta nên đến trước, vào
nhà họ, nói với những gia chủ Bà-la-môn tín tâm, để cho Sa-môn Cù-đàm ôm
bát trống ra về.” Lúc ấy, Ma Ba-tuần chạy theo sau Phật kêu: “Sa-môn!
Sa-môn! Không được thức ăn sao?”
Bấy giờ, Thế Tôn tự nghĩ: ‘Ác Ma Ba-tuần muốn làm
não loạn.’ Liền nói kệ:
Ngươi đối
với Như Lai,
Mới phạm vô
lượng tội,
Ngươi bảo rằng
Như Lai,
Chịu mọi
khổ não ư?
Khi ấy, Ma Ba-tuần nói: “Cù-đàm hãy
trở lại làng xóm. Tôi sẽ khiến cho Ngài được khất thực.”
Bấy giờ, Thế Tôn liền nói kệ:
Dù thật
không có gì,
Vẫn an lạc tự sống.
Như trời Quang âm kia,
Hỷ lạc là thức ăn.
Dù thật không có gì,
Vẫn an lạc tự sống.
Hỷ lạc là thức ăn.
Không
nương vào có thân.
Khi đó Ma Ba-tuần tự nghĩ: ‘Sa-môn
Cù-đàm đã biết tâm ta.’ Trong lòng cảm thấy buồn lo liền biến mất.
*
Tôi nghe như vầy:
Một thời Đức Phật ở trú xứ của các Tiên nhân, nước
Ba-la-nại. Bấy giờ, Thế Tôn bảo các Tỳ-kheo:
“Ta đã giải thoát dây trói buộc trời, người. Các
ông lại cũng đã giải thoát dây trói buộc trời, người. Các ông nên đi vào
nhân gian, đi qua nhiều chỗ, lợi ích nhiều nơi, an lạc cho trời, người.
Không cần bạn đồng hành, mỗi người tự đi[43].
Bây giờ, Ta cũng du hành trong nhân gian, đến trú xứ Uất-bề-la.”
Khi ấy, Ma Ba-tuần tự nghĩ: “Sa-môn Cù-đàm đang ở
trong vườn Lộc dã trú xứ của Tiên nhân, tại nước Ba-la-nại, vì các Thanh
văn mà nói như vầy: ‘Ta đã giải thoát dây ràng buộc trời, người. Các ông
lại cũng đã… Các ông, riêng mỗi người đi vào nhân gian giáo hóa,… cho đến
Ta cũng du hành trong nhân gian, đến trú xứ Uất-bề-la.’ Bấy giờ ta sẽ đến
làm chướng ngại.” Liền biến thành một thiếu niên đứng trước Phật mà nói
kệ:
Không thoát,
nghĩ tưởng thoát,
Tự hô giải
thoát rồi;
Lại buộc thêm
càng chặt,
Nay ta
quyết không tha.
Bấy giờ, Thế Tôn tự nghĩ: ‘Ma
Ba-tuần muốn làm nhiễu loạn.’ Liền nói kệ:
Ta thoát tất
cả rồi,
Mọi trói buộc
trời, người.
Đã biết ngươi
Ba-tuần,
Hãy tự
diệt, mất đi.
Khi đó Ma Ba-tuần tự nghĩ: ‘Sa-môn
Cù-đàm đã biết tâm ta.’ Trong lòng cảm thấy buồn lo liền biến mất.
*
Tôi nghe như vầy:
Một thời Đức Phật ở tại nhà Thạch Chủ[45]
dòng họ Thích, trong làng họ Thích. Bấy giờ, trong làng Thạch Chủ
họ Thích có nhiều người chết vì bệnh dịch. Dân chúng mọi nơi hoặc nam hoặc
nữ, từ bốn phương đều thọ trì tam quy. Những bệnh nhân nam nữ hoặc lớn
hoặc nhỏ này đều là những người nhân đến tự xưng tên họ: ‘Chúng con tên…
xin quy y Phật, quy y Pháp, quy y Tăng.’ Cả thôn cả ấp đều như vậy.
Bấy giờ, Thế Tôn vì hàng Thanh văn mà ân cần thuyết
pháp. Lúc ấy những người có tín tâm quy y Tam bảo đều được sanh vào trong
cõi trời, hay người. Khi ấy, Ma Ba-tuần tự nghĩ: ‘Hiện tại Sa-môn Cù-đàm
đang ở trong nhà Thạch Chủ họ Thích trong làng họ Thích, ân cần thuyết
pháp cho bốn chúng. Bây giờ, ta sẽ đến làm chướng ngại.’ Liền biến thành
một thiếu niên đến đứng trước Phật nói kệ:
Vì sao siêng
thuyết pháp,
Giáo hóa cho
mọi người?
Trái nghịch,
không trái nghịch,
Không khỏi bị
xua đuổi.
Vì còn bị ràng
buộc,
Nên vì họ
thuyết pháp[46].
Bấy giờ, Thế Tôn tự nghĩ: ‘Ác Ma
Ba-tuần muốn làm nhiễu loạn.’ Liền nói kệ:
Dạ-xoa ngươi
nên biết,
Chúng sanh sanh tập
quần,
Những người có trí tuệ,
Ai mà không thương xót?
Vì có lòng thương xót,
Không thể không giáo
hóa,
Thương xót mọi chúng
sanh,
Lẽ tự
nhiên như vậy[47].
Ma Ba-tuần tự nghĩ: ‘Sa-môn Cù-đàm
đã biết tâm ta.’ Trong lòng cảm thấy buồn lo liền biến mất.
*
Tôi nghe như vầy:
Một thời Đức Phật ở tại nhà Thạch Chủ dòng họ
Thích, trong làng họ Thích. Bấy giờ, Thế Tôn một mình ở chỗ yên tĩnh,
thiền định tư duy, tự nghĩ: “Có thể nào làm vua mà không sát sanh, không
khiến người sát sanh, một mực thi hành chánh pháp mà không thi hành phi
pháp chăng?”
Khi ấy, Ma Ba-tuần tự nghĩ: “Hiện tại Sa-môn Cù-đàm
đang ở trong nhà Thạch Chủ họ Thích, trong làng họ Thích, một mình ở chỗ
yên tĩnh, thiền định tư duy, tự nghĩ: ‘Có thể nào làm vua mà không sát
sanh, không khiến người sát sanh, một mực thi hành chánh pháp mà không thi
hành phi pháp chăng?’ Bây giờ, ta hãy nên đến đó vì họ mà nói pháp.” Liền
biến thành một thiếu niên đến đứng trước Phật nói rằng:
“Như vậy, Thế Tôn! Như vậy, Thiện Thệ! Có thể được
làm vua không sát sanh, không khiến người sát sanh, một mực thi hành chánh
pháp, không thi hành phi pháp. Thế Tôn nay hãy làm vua! Thiện Thệ nay hãy
làm vua! Có thể sẽ được như ý.”
Bấy giờ, Thế Tôn tự nghĩ: ‘Ác Ma Ba-tuần muốn làm
nhiễu loạn.’ Nên nói với ma rằng:
“Ma Ba-tuần, vì sao ngươi nói: ‘Thế Tôn nay hãy làm
vua! Thiện Thệ nay hãy làm vua! Có thể sẽ được như ý?’”
Ma bạch Phật:
“Chính tôi nghe từ Phật nói như vầy: ‘Nếu bốn Như ý
túc được tu tập, tu tập nhiều rồi, muốn khiến cho núi Tuyết chúa biến ra
vàng ròng tức thì làm được, không khác.’ Nay, Thế Tôn đã có tứ như ý túc,
tu tập, tu tập nhiều, có thể khiến cho núi Tuyết chúa biến ra vàng ròng
như ý, không khác. Cho nên tôi bạch: ‘Thế Tôn hãy làm vua! Thiện Thệ hãy
làm vua! Có thể sẽ được như ý.’”
Phật bảo Ba-tuần:
“Ta không có tâm muốn làm vua. Vì sao phải làm? Ta
cũng không có tâm muốn núi Tuyết chúa biến ra vàng ròng. Tại sao phải
biến?”
Bấy giờ, Thế Tôn liền nói kệ:
Dù thật có
vàng ròng,
Giống như núi
Tuyết chúa,
Một người được
vàng này,
Cũng còn không
biết đủ.
Cho nên người
trí tuệ,
Vàng đá coi như nhau.
Khi đó Ma Ba-tuần tự nghĩ: ‘Sa-môn
Cù-đàm đã biết tâm ta.’ Trong lòng cảm thấy buồn lo liền biến mất.
*
Tôi nghe như vầy:
Một thời Đức Phật ở tại nhà Thạch Chủ dòng họ
Thích, trong làng họ Thích. Bấy giờ, có số đông Tỳ-kheo tụ tập ở nhà cúng
dường để may y.
Lúc đó, Ma Ba-tuần tự nghĩ: “Hiện tại Sa-môn Cù-đàm
đang ở tại nhà Thạch Chủ dòng họ Thích, trong làng họ Thích, có số đông
Tỳ-kheo tụ tập ở nhà cúng dường để may y. Bây giờ, ta sẽ đến làm chướng
ngại.” Liền biến thành một thanh niên Bà-la-môn, quấn búi tóc to, mặc áo
da thú, tay cầm gậy cong, đến nhà cúng dường
[50]
, đứng im lặng trước chúng Tỳ-kheo, trong giây lát nói với các Tỳ-kheo:
“Các ông tuổi trẻ xuất gia, da trắng, tóc đen, tuổi
đang lúc sung sức nên hưởng thụ ngũ dục, trang điểm tự lạc. Vì sao trái
nghịch thân tộc, khiến họ khóc lóc chia lìa, chí tin, không nhà, xuất gia
học đạo? Tại sao lại bỏ cái lạc hiện tại mà đi tìm cái lạc phi thời của
đời khác?"
[51]
Các Tỳ-kheo nói với Bà-la-môn:
“Chúng tôi không bỏ cái lạc hiện tại mà đi tìm cái
lạc phi thời của đời khác, nhưng bỏ cái lạc phi thời để thành tựu cái lạc
hiẹân tại?”
Ma Ba-tuần lại hỏi:
“Thế nào là bỏ cái lạc phi thời để thành tựu cái
lạc hiẹân tại?”
Tỳ-kheo đáp:
“Thế Tôn đã dạy: ‘Cái lạc của đời khác thú vị ít mà
khổ nhiều, lợi ít mà hại nhiều.’ Thế Tôn đã nói: ‘Cái lạc hiẹân tại xa lìa
các nhiệt não, không đợi thời tiết, có thể tự thông đạt, duyên vào tự tâm
mà giác tri.’ Này Bà-la-môn, đó gọi là cái lạc hiẹân tại.”
Khi ấy Bà-la-môn ấm ớ, lắc đầu ba lần, chống gậy
xuống đất rồi biến mất.
Bấy giờ, các Tỳ-kheo sanh lòng sợ hãi, lông trong
người dựng đứng, tự hỏi: ‘Đó là hạng Bà-la-môn nào, đến đây rồi biến mất?’
Liền đến chỗ Phật, đảnh lễ dưới chân Phật, ngồi lui qua một bên, bạch
Phật:
“Bạch Thế Tôn, Tỳ-kheo chúng con đang ở nhà cúng
dường để may y, có một thanh niên Bà-la-môn quấn búi tóc to đến chỗ chúng
con nói rằng: ‘Các ông tuổi trẻ xuất gia… Nói đầy đủ như trên cho đến: ấm
ớ, lắc đầu ba lần, chống gậy xuống đất rồi biến mất. Chúng con sanh lòng
sợ hãi, lông trong người dựng đứng. Đó là hạng Bà-la-môn nào mà đến đây
rồi biến mất?”
Phật bảo các Tỳ-kheo:
“Đó không phải là Bà-la-môn nào, mà là Ma Ba-tuần
đến chỗ các ông, muốn làm nhiễu loạn.”
Bấy giờ, Thế Tôn liền nói kệ:
Phàm sanh
các khổ não,
Đều do nơi ái dục.
Biết đời là kiếm nhọn,
Người nào ưa thích dục?
Biết thế gian hữu dư,
Tất cả là kiếm nhọn,
Cho nên người trí tuệ,
Phải luôn tự điều phục.
Tích tụ vàng ròng nhiều,
Giống như núi Tuyết
chúa,
Chỉ một người thọ dụng,
Ý còn không biết đủ,
Cho nên người trí tuệ,
Phải tu
bình đẳng quán.
Phật nói kinh này xong, các Tỳ-kheo
nghe những gì Phật dạy, hoan hỷ phụng hành.
*
Tôi nghe như vầy:
Một thời Đức Phật ở tại nhà Thạch Chủ dòng họ
Thích, trong làng họ Thích. Bấy giờ, có Tôn giả Thiện Giác[53],
sáng sớm đắp y, ôm bát vào làng Thạch Chủ họ Thích khất thực. Sau khi khất
thực trở về tinh xá, cất y bát, rửa chân, cầm tọa cụ vắt lên vai phải, vào
trong rừng ngồi dưới một bóng cây, nhập chánh thọ ban ngày, tự nghĩ: “Ta
được điều lợi ích! Đã xuất gia học đạo trong Chánh pháp luật. Ta được điều
lợi ích! Đã may mắn gặp Đại Sư Như Lai Đẳng Chánh Giác. Ta được điều lợi
ích! Đã được ở trong đại chúng phạm hạnh, trì giới đầy đủ, đức độ, hiền
thiện chân thật. Nay ta sẽ được mạng chung một cách hiền thiện. Ở đời vị
lai cũng được tốt lành.”
Khi ấy, Ma Ba-tuần tự nghĩ: ‘Hiện tại Sa-môn Cù-đàm
đang ở nhà Thạch Chủ làng họ Thích và có đệ tử Thanh văn tên là Thiện Giác
đắp y, ôm bát… nói đầy đủ như trên cho đến sẽ được mạng chung một
cách hiền thiện. Ở đời vị lai cũng được tốt lành. Bây giờ, ta sẽ đến làm
chướng ngại.’ Liền hóa thân to lớn, sức lực khỏe mạnh, ai thấy cũng sợ.
Sức mạnh này có thể lật úp đại địa, đi đến chỗ Tỳ-kheo Thiện Giác.
Tỳ-kheo Thiện Giác vừa trông thấy thân to lớn, sức
lực khỏe mạnh, liền sanh lòng sợ hãi, từ chỗ ngồi đứng dậy đến chỗ Phật,
đảnh lễ dưới chân Phật, ngồi lui qua một bên, bạch Phật:
“Bạch Thế Tôn, sáng sớm con đắp y, ôm bát… nói
đầy đủ như trên cho đến sẽ được mạng chung một cách hiền thiện. Ở đời
vị lai cũng được tốt lành. Con thấy có người thân to lớn, sức lực dũng
mãnh có thể lay động quả đất, thấy rồi sanh lòng sợ hãi, sợ hãi đến dựng
đứng cả lông!”
Phật bảo Thiện Giác:
“Đó không phải là người thân to lớn, là Ma Ba-tuần
muốn làm nhiễu loạn. Ông hãy trở về nương vào dưới bóng cây tu tập
tam-muội như trước, hãy tác động ma kia, để nhờ đó thoát khổ.”
Khi ấy Tôn giả Thiện Giác liền trở về chỗ cũ, sáng
sớm đắp y, ôm bát vào nhà Thạch Chủ, làng họ Thích khất thực, khất thực
xong trở về tinh xá. Nói đầy đủ như trên,… cho đến sẽ được mạng
chung một cách hiền thiện. Ở đời vị lai cũng được tốt lành.
Lúc ấy, Ma Ba-tuần tự nghĩ: ‘Hiện tại Sa-môn Cù-đàm
đang ở nhà Thạch Chủ làng họ Thích và có đệ tử Thanh văn tên là Thiện
Giác, đắp y, ôm bát. Nói đầy đủ như trên,… cho đến sẽ được mạng
chung một cách hiền thiện. Ở đời vị lai cũng được tốt lành. Bây giờ, ta sẽ
đến làm chướng ngại.’ Lại hóa ra thân to lớn, sức mạnh dũng mãnh, có thể
lay động quả đất, đến đứng trước Thiện Giác. Tỳ-kheo Thiện Giác vừa trông
thấy ma lại liền nói kệ:
Ta chánh tín
không nhà,
Để xuất gia học đạo.
Nơi Phật, vô giá bảo[54],
Chuyên buộc tâm chánh
niệm.
Mặc ngươi hóa hình sắc,
Tâm ta không dao động.
Biết ngươi là huyễn hóa,
Từ đây hãy
mất đi.
Khi đó Ma Ba-tuần tự nghĩ: ‘Sa-môn
Cù-đàm đã biết tâm ta.’ Trong lòng cảm thấy buồn lo liền biến mất.
*
Tôi nghe như vầy:
Một thời Đức Phật ở trong vườn Lộc dã, chỗ ở của
các Tiên nhân, tại nước Ba-la-nại. Bấy giờ, Thế Tôn bảo các Tỳ-kheo:
“Thanh văn của Như Lai rống lên tiếng rống của sư
tử, nói là: ‘Đã biết! Đã biết!’ Vậy, không biết Thanh văn của Như Lai đã
biết những pháp gì? Vì đã biết nên rống lên tiếng rống của sư tử, đó là:
‘Thánh đế về khổ, Thánh đế về sự tập khởi của khổ, Thánh đế về sự tận diệt
khổ, Thánh đế về con đường đưa đến diệt khổ.’”
Khi ấy, Ma Ba-tuần tự nghĩ: ‘Sa-môn Cù-đàm đang ở
trong vườn Lộc dã, chỗ ở của các Tiên nhân, tại nước Ba-la-nại, vì các
Thanh văn thuyết pháp,… cho đến đã biết bốn Thánh đế. Bây giờ, ta sẽ đến
làm chướng ngại.’ Liền hóa ra một thiếu niên đứng trước Phật nói kệ:
Vì sao giữa
đại chúng,
Sư tử rống
không sợ,
Bảo rằng:
‘Không ai địch’,
Mong điều
phục tất cả.
Bấy giờ, Thế Tôn tự nghĩ: ‘Ác Ma
Ba-tuần muốn làm nhiễu loạn.’ Liền nói kệ:
Như Lai đối
tất cả,
Chánh pháp
luật sâu xa,
Phương tiện sư
tử rống,
Nơi pháp không
sợ hãi,
Nếu người có
trí tuệ,
Cớ sao tự
lo sợ?
Khi đó Ma Ba-tuần tự nghĩ: ‘Sa-môn
Cù-đàm đã biết tâm ta.’ Trong lòng cảm thấy buồn lo liền biến mất.
*
Tôi nghe như vầy:
Một thời Đức Phật ở trong đồng trống bị nhiều người
giẫm đạp, tại thành Vương xá, cùng với năm trăm Tỳ-kheo; Ngài lấy năm trăm
bình bát để giữa sân, vì họ mà nói pháp.
Bấy giờ, Thế Tôn lại vì năm trăm Tỳ-kheo nói về năm
uẩn là pháp sanh diệt. Khi ấy, Thiên ma Ba-tuần tự nghĩ: ‘Sa-môn Cù-đàm
đang ở trong đồng trống bị nhiều người giẫm đạp, tại thành Vương xá, cùng
với năm trăm Tỳ-kheo… cho đến nói về năm uẩn là pháp sanh diệt. Bây giờ,
ta nên đến làm chướng ngại.” Liền hóa ra một con trâu lớn đến chỗ Phật,
vào chỗ để năm trăm bình bát. Các Tỳ-kheo muốn bảo vệ các bình bát, liền
đuổi đi.
Lúc bấy giờ, Thế Tôn bảo các Tỳ-kheo:
“Đó không phải là trâu, là Ma Ba-tuần muốn làm
nhiễu loạn.” Liền nói kệ:
Sắc, thọ,
tưởng, hành, thức,
Không phải
ngã, ngã sở,
Nếu biết nghĩa
chân thật,
Không đắm
trước nơi chúng.
Tâm không đắm
trước pháp,
Thoát khỏi sắc
ràng buộc,
Thấu rõ khắp
mọi nơi,
Không trụ
cảnh giới ma.
Phật nói kinh này xong, các Tỳ-kheo
nghe những gì Phật dạy, hoan hỷ phụng hành.
*
Tôi nghe như vầy:
Một thời Đức Phật ở trong đồng trống bị nhiều người
giẫm đạp, tại thành Vương xá, cùng với sáu trăm Tỳ-kheo. Bấy giờ, Thế Tôn
lại vì các Tỳ-kheo nói về sáu xúc nhập xứ[58]
tập, sáu xúc tập, sáu xúc diệt. Khi ấy, Ma Ba-tuần tự nghĩ: “Sa-môn Cù-đàm
đang ở đồng trống bị nhiều người giẫm đạp, tại thành Vương xá, vì sáu trăm
Tỳ-kheo nói về sáu xúc nhập xứ, nói đây là pháp tập, đây là pháp diệt. Bây
giờ, ta nên đến làm chướng ngại.’ Liền hóa ra một thanh niên thân to lớn,
sức lực dũng mãnh có thể lay động quả đất đi đến chỗ Phật.
Các Tỳ-kheo kia vừa trông thấy thanh niên to lớn,
dũng mãnh, sanh lòng sợ hãi, lông trong người dựng đứng, nói với nhau
rằng:
“Kia là ai mà hình dáng đáng sợ vậy?”
Bấy giờ, Phật bảo các Tỳ-kheo:
“Đó là Ác ma Ba-tuần muốn làm nhiễu loạn.”
Bấy giờ, Thế Tôn liền nói kệ:
Sắc, thanh, hương, vị,
xúc,
Và thứ sáu: các pháp,
Niệm, ái, thích, vừa ý,
Thế gian chỉ có vậy.
Đây là tham ác nhất,
Thường trói buộc phàm
phu,
Người vượt những bệnh
này,
Là Thánh đệ tử Phật,
Vượt qua cảnh giới ma,
Như mặt trời không mây.
Khi đó Ma Ba-tuần tự nghĩ: ‘Sa-môn Cù-đàm đã biết
tâm ta.’ Trong lòng cảm thấy buồn lo liền biến mất.
*
[1].
Đại Chánh, quyển 39. Quốc Dịch, quyển 33. “Tụng vii. Kệ.1. Tương ưng
Tỳ-kheo” tiếp theo Pāli, A.3.126 Kaṭuviya.
Biệt dịch, No 100 (20).
[2].
Hán: y
ác
tham
thị
依惡貪嗜. Pāli:
rittassādaṃ
bāhirassādaṃ,
vị
trống
không,
vị
ngoại
giới.
[3].
Pāli:
muṭṭhassatiṃ asampajnaṃ
asamāhitaṃ vibhantacittaṃ pākantimdriyaṃ,
mất
chánh
niệm,
không tỉnh giác, không tập trung, tâm loạn động, các căn phóng túng.
[4].
Pāli:
mā… attānaṃ kaṭuviyam akāsi,
đừng
làm
tự
ngã
hư
thối.
[5].
Pāli:
abhijjhā… kaṭuvuyaṃ vyāpādo
āmâgndho pāpakā ạkusalā vitakkā makkhikā,
tham
là
thối nát, sân là mùi hôi thối, tầm cầu ác bất thiện là ruồi
nhặng.
[6].
Pāli, không thấy tương đương. Biệt dịch, No
100(21).
[8].
Nguyên Hán: Sĩ phu
士夫.
[9].
Pāli, S. 20. 9. Nāgo. Biệt dịch, No 100(22).
[10].
Long tượng
龍象.
Pāli: nāga, số nhiều.
[11].
Pāli: taruṇā bhivikacchāpā, những con voi
nhỏ.
[12].
Quốc
Dịch,
“Tụng
vii.
Kệ.
2. Tương
ưng
Ma”
gồm
hai
phẩm,
hai mươi mốt kinh.
Ấn
Thuận,
“Tụng
viii.
Tám chúng. 18. Tương ưng Ma” hai mươi
kinh, Đại Chánh, 1084-1103. Quốc
Dịch,
phẩm
1, mười
một
kinh.
Pāli,
S.
4.9.
Āyu (1). Biệt dịch, No
100(23).
[13].
Hàn lâm
寒林.
Pāli: Sītavana, khu rừng ở gần thành Rājagaha.
[14].
Pāli: dīghamāyu
manussānaṃ, na naṃ hīḷe suporiso, tuổi
thọ con người rất dài; người khôn ngoan không xem khinh điều này.
[15].
Pāli, S. 4.10. Āyu (2).
Biệt dịch, No 100(24).
[16].
Tô
tức 穌息.
Pāli: assāsaka,
có hơi thở điều hòa, an tâm.
[17].
Pāli: nācca
yanti aho rattā jīvitaṃ nūparujjhati,
ngày đêm không đi qua, mạng sống không giảm thiểu.
[18].
Pāli, S. 4.15. Mānasa.
Biệt dịch, No 100(25).
[19].
Pāli: antalikkhacaro
pāso, yoyaṃ carati
mānaso, tâm ý này dong ruổi, như sợi dây
thòng giữa hư không.
[20].
Pāli, S. 4.7. Suppati. Biệt dịch, No 100(26).
[21].
Pāli, S. 4. 11.
Pāsāṇa.
Biệt dịch, No 100(27).
[22].
Đây chỉ quyến thuộc của A-tu-la.
[23].
Pāli, S. 4.6. Sappa (Rắn). Biệt dịch, No
100(28).
[24].
Hán:
đại
long 大龍.
Pāli:
mahanta sapparājā,
đại
xà
vương.
[25].
Pāli,
S.
4.13.
Sakalika.
Biệt
dịch,
No 100(29).
[26].
Vương
xá
thành
Tỳ-bà-la
sơn
Thất
diệp
thọ
lâm
thạch
thất
王舍城毘婆羅山七葉樹林石室. Đây
chỉ
hang Sattapaṇṇiguhā,
trên
sườn
núi Vebhāra, thành Rājagaha. Nhưng
bản Pāli: Maddakucchismiṃ Migadāye,
vườn
Nai,
trong
rừng
Maddakucchi.
[27].
Pāli,
S.4.23.
Godhika.
Biệt
dịch,
No 100(30).
[28].
Xem
cht.26,
kinh1090.
[29].
Cù-đề-ca 瞿低迦.
Pāli: Godhika.
[30].
Tiên
nhân sơn trắc Hắc
thạch thất
仙人山側黑石室.
Pāli: Isigili-passa, Kālasilā.
[31].
Hán:
thời
thọ
ý
giải
thoát
時受意解脫; tức,
thời
giải
thoát
hay
thời
ái
tâm
giải
thoát,
trường
hợp A-la-hán chứng tâm giải thoát tùy
thuộc hoàn cảnh; khi nghịch duyên, có thể bị thoái thất. Xem, Câu-xá
25, Đại 29, tr.129a 19, 130b 16 Pāli:
sāmāyikaṃ ceto-vimuttiṃ.
[32].
Hán:
bất
trụ
tâm 不住心.
Pāli: appatiṭṭhitena
viññāṇena,
bằng
thức
vô
trụ
(không
trụ
xứ).
[33].
Pāli,
S.4.24.
Sattavassa;
S.4.25.
Dhītaro.
Biệt
dịch,
No 100(31).
[34].
Pāli:
kaṭṭhena bhūmiṃ vilikhanto,
dùng
que
vạch
lên
đất.
[35].
Ái
Lạc 愛欲,
Ái niệm 愛念,
Ái dục 愛樂.
Pāli: Taṇhā
(Khát ái), Rati
(Không lạc), Rāga
(tham dục).
[36].
Pāli, S.4.2. Nāga;
4.3. Subha.
Biệt dịch, No 100(32).
[37].
Quốc
Dịch,
phẩm
2. Pāli,
S.
4. 1. 1. Tapokammañca.
[38].
Khổ
hành 苦行.
Pāli:
dukkhārakārikāya,
đây
chỉ
sáu
năm
khổ
hạnh
của
Phật.
[39].
Pāli:
như
bánh
lái
của
chiếc
thuyền
trên
cạn.
[40].
Pāli, S.4.18.
Piṇḍa.
[41].
Sa-la
Bà-la-môn
tụ
lạc
娑羅婆羅門聚. Pāli: Pañcasālāyaṃ
brāhmaṇagāme.
[42].
Pāli, S.4.4-5
Pāsa.
[43].
Sf. Mv.i., vin.i - 21.
[44].
Pāli, S.4.14.
Paṭirūpa.
[45].
Thạch
Chủ 石主.
Pāli: Kosalesu Ekasālāyaṃ brāhmaṇagāme.
[46].
Pāli:
netaṃ tava paṭỉūpaṃ, tad aññam anusāssasi,
anurodhavirodhesu, mā sajjittho tad ācaran ti,
“Thật không thích hợp để Ngài giáo hóa người khác. Chớ đi giữa những
người tán thành và những người chống đối.”
[47].
Pāli:
hitānukampī sambuddho, yad aññam
anusāssati; anurodha-virodhehi vippamutto Tathāgato ti,
Đấng Chánh Giác giáo hóa mọi người do lòng thương tưởng,
lân mẫn. Như Lai đã giải thoát ngoài những tán thành và chống đối.
[48].
Pāli, S.4.20. Rajja.
[49].
S. 4.21. Sambahulā.
[50].
Nhà thị giả, hay nhà khách trong tinh xá.
[51].
Xem
cht.55, kinh 1078.
[52].
Pāli, S.4.22. Samiddhi.
[53].
Thiện
Giác 善覺.
Pāli:
Samiddhi.
[54].
Vô
giá
bảo 無價寶.
Bản
Tống-Nguyên-Minh:
Pháp
Tăng
bảo 法僧寶
[55].
Pāli, S.4.12.
Sīha.
[56].
Pāli, S.4.16. Patta.
[57].
Pāli, S.4.17. Āyatana.
[58].
Xúc
nhập
xứ 觸入處.
Pāli:
phassāyatana.