Trong phần trình bày này, tôi muốn dùng việc phân tích lịch sử để
phá bỏ khuôn mẫu cố định xưa cũ và những thành kiến đã chia rẽ tín đồ
của hai tông phái chính của Phật giáo. Từ đó chúng ta có thể xây dựng sự
hoà hợp của hai tông phái một cách lành mạnh chứ không mang tính cạnh
tranh nhau. Hai khuôn mẫu cố định xưa cũ như sau :
1) Các vị
A-la-hán và Phật tử phái Nguyên thủy chỉ quan tâm đến việc tự giải thoát
chính mình, chứ không quan tâm đến lợi lạc của kẻ khác, họ có chủ đích
hẹp hòi về vấn đề giải thoát cá nhân, bởi vì họ "sợ hãi vòng sinh tử",
và vì vậy ít có lòng từ bi đối với kẻ khác, và không đảm nhận các hoạt
động nhằm đưa đến lợi lạc cho kẻ khác.
2) Đệ tử của lý tưởng Bồ
tát và các Phật tử theo phái Đại thừa, quá quan tâm đến các công tác xã
hội nhắm mục đích làm lợi lạc cho kẻ khác đến nỗi họ không thực hiện
việc tu tập mà Đức Phật đã giáo huấn các đệ tử, chẳng hạn như, điều phục
tâm và phát triển trí tuệ. Họ đã quá bận rộn với các nhiệm vụ xã hội
nên đã từ bỏ việc tu tập thiền định.
Tôi sẽ nói đến hai khuôn mẫu
cố định này theo thứ tự, và bắt đầu với khuôn mẫu các vị A-la-hán cổ
đại. Mặc dù Đức Phật là vị tiền phong trong việc khám phá ra con đường
giải thoát, điều này không có nghĩa là các vị đệ tử A-la-hán của Ngài
chỉ gặt hái một cách ích kỷ những lợi lạc của con đường ấy mà không làm
gì cho chúng sanh. Trái lại, chúng ta đã tìm thấy trong kinh điển rất
nhiều vị đã tự mình trở thành những bậc thầy vĩ đại có khả năng hướng
dẫn kẻ khác đi đến giải thoát. Những vị nổi tiếng nhất trong số đó là
Ngài Xá Lợi Phất, Ngài Đại Ca-Chiên-Diên, Ngài Mục Kiền Liên và Ngài A
Nan. Có tôn giả Phú-Lâu-Na đã đi đến một vùng quê man rợ là Suncparanta,
chấp nhận nguy hiểm đến tính mạng để giảng pháp cho dân chúng ở đó. Có
những nữ tôn giả như Khema và Dhammadina là những vị giảng sư xuất
chúng. Nữ tôn giả Patacaca, một bậc ni sư về giới luật, và nhiều vị khác
nữa. Trải qua 400 năm, kinh Phật được truyền khẩu, truyền từ thầy sang
đệ tử, và rõ ràng đã phải có hằng ngàn tăng ni đã cống hiến cuộc đời để
học kinh và dạy lại cho học trò, tất cả chỉ vì mục đích duy trì Phật
pháp cho thế gian.
Những tấm gương sáng do các vị đại đệ tử của
Đức Phật tạo nên đã là mẫu mực cho những Phật tử đi theo con đường
A-la-hán trong suốt lịch sử. Trong lúc những vị theo đuổi lý tưởng
A-la-hán không phát những hạnh nguyện cao thượng như những vị chọn lý
tưởng Bồ tát, họ được khơi nguồn cảm hứng nhờ tấm gương của Đức Phật và
các vị đại đệ tử của Ngài để hoạt động nhằm mục đích nâng cao đạo đức và
tâm linh của chúng sanh với tất cả khả năng của họ: bằng cách giảng
dạy, bằng cách nêu gương, bằng ảnh hưởng tâm linh trực tiếp, họ đã được
khơi nguồn cảm hứng theo mệnh lệnh của Đức Phật là: "Hãy ra đi để làm
lợi lạc cho chúng sanh, vì hạnh phúc của chúng sanh, vì lòng từ bi đối
với thế gian, vì lợi ích, an lạc, và hạnh phúc cho chư thiên và loài
người".
Mẫu mực đời sống của một đệ tử theo lý tưởng A-la-hán phù
hợp với mẫu mực đời sống của Đức Phật trong nhiều phương diện. Tôi lấy
ví dụ về những vị có thể chưa thật sự đắc quả A-la-hán nhưng đang tu tập
theo mẫu mực này và đã đạt đến một giai đoạn chứng đắc tâm linh cao
hơn. Trong giai đoạn đầu của đời sống xuất gia, họ có thể đi đến một
ngôi chùa trong rừng hay một trung tâm thiền định để được một vị thầy
đạo đức cao trọng huấn luyện. Rồi sau khi đã đạt đến một mức độ trưởng
thành đủ để có thể tự mình tu tập, họ sẽ đi sống riêng một mình để phát
triển công phu tu tập trong một thời gian chừng năm năm hoặc hơn. Rồi,
vào một thời điểm nào đó, thành quả tu tập của họ bắt đầu có ảnh hưởng
đến người khác. Họ có thể bắt đầu giảng dạy theo sáng kiến của mình,
hoặc vị thầy của họ có thể yêu cầu họ bắt đầu giảng dạy, hoặc những học
trò tương lai có thể nhận thức rằng các vị tỳ kheo này đã đạt đến một
trình độ cao siêu nào đó và yêu cầu những vị này hướng dẫn họ. Từ lúc
này trở đi, các vị tỳ kheo ấy bắt đầu thuyết giảng, và sẽ đến lúc họ có
thể trở thành những vị thầy hướng dẫn tâm linh đáng kính trọng, với
nhiều đệ tử và nhiều trung tâm tu học đặt dưới sự hướng dẫn của những vị
tỳ kheo này.
Trái ngược với hình ảnh " giải thoát riêng mình một
cách ích kỷ" mà những Phật tử Đại thừa đã gán cho những vị tu theo hạnh
A-la-hán và những vị theo Thanh văn thừa, những vị thầy xuất sắc nhất
của truyền thống Nguyên thủy thường giảng dạy cho hàng ngàn đệ tử xuất
gia và tại gia. Có nhiều vị làm việc một ngày mười giờ hoặc hơn. Ví dụ,
trong thời gian gần đây, Thượng tọa Mahasi Sayadaw ở Miến điện đã thiết
lập hằng trăm trung tâm thiền định ở Miến và đã làm chủ tọa Hội Đồng
Phật Giáo Thứ Sáu; Ngài Ajahn Chah đã có một tu viện chính và nhiều tu
viện chi nhánh ở Thái lan, Thượng tọa Pa Auk Sayadaw, U Pandita, và Ngài
Blante Gunaratana – là những vị thiền sư Nguyên thủy hiện nay – đã du
hành khắp thế giới để hướng dẫn các khóa tu; Ngài Ajahn Mahaboowa, vào
tuổi 93 đã nổi tiếng là một bậc A-la-hán, đã hổ trợ 60 bệnh viện ở Thái
lan, và thường xuyên thăm viếng bệnh viện để an ủi bệnh nhân và phân
phát thuốc men. Những vị không có khả năng hoạt động như các vị thiền sư
vẫn có thể trở thành những giảng sư về triết lý và giáo lý đạo Phật và
cống hiến cuộc đời của họ một cách vị tha để hướng dẫn quần chúng hiểu
được Phật pháp, hoặc bằng cách huấn luyện tăng ni, hướng dẫn Phật tử tại
gia, giảng dạy trong các trường thuộc tu viện Phật giáo, hay thuyết
pháp tại các chùa Phật giáo.
Theo quan điểm của Phật giáo Nguyên
thủy, hoạt động xã hội dĩ nhiên là rất đáng ca ngợi, nhưng trong số tất
cả các công đức có thể hiến tặng cho kẻ khác, bố thí pháp vẫn là công
đức cao quí nhất. Như vậy, việc theo đuổi con đường giải thoát của một
vị A-la-hán không phải là một nỗ lực cá nhân riêng tư, mà có một ảnh
hưởng sâu rộng và có thể tác động lên toàn xã hội. Trong các quốc gia
theo truyền thống Nguyên thủy, trước khi có ảnh hưởng hư hỏng của Tây
phương tràn vào, cả sinh hoạt của cộng đồng xoay quanh sinh hoạt Phật
sự. Các vị tỳ kheo tu thiền trong rừng núi là nguồn cảm hứng và gương
mẫu cho xã hội, những vị thuyết pháp và giảng dạy trong làng đã giúp
truyền bá Phật pháp vào đại chúng. Cộng đồng Phật tử tại gia, từ vua cho
đến dân làng, đều thấy nhiệm vụ chính của họ là hộ trì tăng chúng. Vì
vậy mục đích tối thượng của quả vị A-la-hán đã trở thành mục tiêu của
toàn hệ thống xã hội, được khơi nguồn cảm hứng và duy trì bền vững nhờ
lòng tận tâm phục vụ Phật pháp.
Những vị tìm đến cứu cánh Niết
bàn không chờ đến lúc các ngài đắc quả A-la-hán mới bắt đầu công tác hoá
độ chúng sanh. Trong hệ thống này, bố thí được xem là nền tảng của tất
cả mọi đức hạnh khác, đó là công đức đầu tiên và cũng là hạnh đầu tiên
của thập độ Ba-la-mật. Như vậy, kinh tạng Pali, và các vị tăng lúc
thuyết pháp đều khuyến khích quần chúng bố thí hết sức mình. Các Phật tử
tại gia hộ trì tăng chúng với những nhu cầu đơn giản như thực phẩm, y
áo, chỗ ở và thuốc men. Họ cũng bố thí rộng rãi cho những người nghèo
khó và tàn tật. Ví dụ, ở Sri Lanka, những cuộc vận động hiến máu rất phổ
biến trong các ngày nghỉ lễ Phật giáo, và nhiều người đã hiến mắt cho
ngân hàng mắt,và hiến các cơ phận của họ sau khi chết cho các công trình
nghiên cứu khoa học. Tôi biết mới đây ở Sri Lanka, hơn 200 vị tăng đã
hiến thận, và không hề có ý nghĩ được đền bù hay được lợi lộc riêng, mà
chỉ vì họ muốn có cơ duyên được bố thí một phần thân thể họ mà thôi. Các
vị tăng có kiến thức Phật pháp và có biện tài trở thành các vị thầy
thuyết pháp và giảng sư. Những vị có khả năng quản lý có thể trở thành
những người phụ trách hành chánh quản lý các tu viện. Một số ít có động
cơ mạnh mẽ muốn nỗ lực để đạt được giải thoát ngay trong đời này sẽ dành
trọn tâm trí để hành thiền trong các cốc nhỏ trong rừng. Các vị thiền
sư đã đạt đạo sẽ cống hiến thời giờ để giảng dạy thiền tập và cũng sẽ cố
gắng dành thời giờ trau dồi công phu tu tập của mình. Đôi lúc các vị ấy
phải trì hoãn công phu tu tập để hoàn thành nhiệm vụ giảng dạy.
Đã
có quá nhiều hiểu lầm liên quan đến lý tưởng A-la-hán, và bây giờ đến
lượt lý tưởng Bồ tát. Tôi nghĩ rằng sẽ quá đơn giản khi đồng hoá việc
theo đuổi hạnh nguyện Bồ tát với việc tham gia công tác phuc vụ xã hội,
và cho rằng vị Bồ tát đã từ bỏ công phu tu tập trên con đường giải
thoát. Theo sự hiểu biết của tôi, nền tảng của Bồ tát đạo là phát khởi
tâm bồ đề, là nguyện vọng đạt đến giác ngộ tối thượng. Tâm này chỉ phát
khởi qua tinh tấn tu tập thiền định. Theo những nguồn văn bản có thẩm
quyền về thiền định của Phật giáo Đại thừa, để phát khởi tâm bồ đề, hành
giả phải rèn luyện tâm thức một cách có hệ thống để có thể nhận thấy
tất cả chúng sanh đều như cha mẹ, anh chị em của mình, và khởi tâm từ bi
vô lượng đối với họ, cho đến khi tri giác ấy trở thành hoàn toàn tự
nhiên. Điều này không dễ chút nào. Tôi đã đọc bài viết về đức Đạt Lai
Lạt Ma, Ngài nói chính Ngài đã cảm nhận được tâm bồ đề đích thực trong
một vài lần mà thôi, mỗi lần kéo dài một lúc thôi, điều này cho chúng ta
đôi chút khái niệm về việc đạt được tâm bồ đề là khó khăn như thế nào.
Tâm bồ đề không thể đạt được bằng cách thỉnh thoảng tham gia một ít công
tác xã hội rồi tự tin rằng mình đã phát khởi tâm bồ đề.
Đúng là
vị Bồ tát phát nguyện làm lợi lạc cho chúng sanh theo con đường rộng lớn
hơn đệ tử của Thanh văn thừa, nhưng tất cả nỗ lực ấy có vẻ hời hợt nếu
chúng không đươc hổ trợ bởi tâm bồ đề. Ngoài việc phát nguyện tâm bồ đề,
vị Bồ tát phải áp dụng tâm bồ đề qua việc thực hành lục độ Ba-la-mật và
những hành động hy sinh quên mình của vị đại Bồ tát. Lục độ ba-la-mật
bắt đầu bằng bố thí ba-la-mật. Hoạt động xã hội chắc chắn có thể xếp vào
hạnh này, vì nó liên hệ đến tài thí và vô úy thí. Nhưng những việc bố
thí đó, dù có giá trị như thế, cũng không thể sánh bằng giá trị của việc
bố thí pháp, vì bố thí pháp đưa đến chấm dứt vĩnh viễn mọi khổ đau. Để
có đủ khả năng bố thí pháp đòi hỏi những kỹ năng vượt xa các công tác xã
hội.
Hạnh ba-la-mật tiếp theo là trì-giới ba-la mật, việc tham
gia công tác xã hội có thể được xếp vào hoạt động đạo đức vị tha, những
hành động có lợi ích cho kẻ khác. Trong lúc tham gia công tác xã hội, vị
Bồ tát cũng phải tu tập hạnh nhẫn nhục - nhẫn nhục chịu đựng các hoàn
cảnh khó khăn, nhẫn nhục chịu đựng sự xem thường và xúc phạm của kẻ
khác, như vậy vị này đã hoàn thành hạnh nhẫn nhục ba-la-mật. Và công tác
xã hội đòi hỏi năng lực tinh tấn. Điều này giúp hành giả hoàn thành
hạnh nguyện tinh tấn ba-la-mật. Như vậy tham gia công tác xã hội có thể
đóng góp vào việc hoàn thành bốn hạnh nguyện trong lục độ ba-la-mật.
Nhưng
vị Bồ tát cũng phải hoàn thành viên mãn hạnh nguyện thiền định
ba-la-mật và trí tuệ ba-la-mật, và hai hạnh này đòi hỏi việc thực hành
nếp sống thiền. Kinh Bát Nhã Ba-la-mật nói rằng trí tuệ ba-la-mật hướng
dẫn và điều khiển năm hạnh ba-la-mật kia, và năm hạnh ba-la-mật chỉ trở
thành "viên mãn" hay những đức hạnh siêu thế gian khi nào năm hạnh này
được nối kết với trí tuệ ba-la-mật. Nhưng trí tuệ ba-la-mật chỉ có thể
đạt được qua thiền định, bằng cách sống một cuộc đời tương tự như vị tu
theo hạnh A-la-hán.
Những kinh tiền-Đại- thừa, như Kinh Chư Hiền
Giả ( Ugrapariprccha), không khuyên các vị Bồ tát xuất gia cấp bậc sa-di
nên tham gia công tác xã hội, mà họ đã chỉ đường cho các vị sa-di ấy đi
vào rừng và căn dặn các vị ấy dành trọn nỗ lực để tu tập thiền định.
Nếu chúng ta nhìn vào lịch sử Phật giáo Đại thừa, dù ở Ấn độ, Trung hoa
hay Tây tạng, chúng ta sẽ thấy những vị đại sư Đại thừa như ngài Long
Thọ ( Nagarjura), Vô Trước (Asanga), và A-Đề-Sa (Atisha) ở Ấn Độ; ngài
Huệ Năng ( Hui-Neng), Trí Khải ( Zhi-Yi) và Huyền Trang ( Xuan Zang) ở
Trung hoa; ngài Lonchen, Gampola và Tsongkhapa ở Tây tạng; đều không nổi
tiếng về việc tham gia công tác xã hội, nhưng nổi tiếng nhờ những thành
tựu của họ như những triết gia, học giả hay Thiền sư. Chính Đức Phật đã
chứng đắc quả vị cao nhất về thiền định. Vì các vị Bồ tát nhắm mục đích
thành Phật, điều tự nhiên là họ phải rèn luyện thật hoàn hảo những kỹ
năng thiền định, vốn là đặc điểm của một vị Phật.
Mặc dù động cơ
và nền tảng triết lý đối với những vị đệ tử theo Bồ tát thừa khác với
các vị đệ tử theo Thanh văn thừa, nếp sống của những vị đệ tử thuộc cả
hai tông phái không khác nhau nhiều. Hình ảnh quen thuộc phổ biến của vị
A-la-hán ẩn cư, đơn độc và hình ảnh rất tích cực hoạt động và thân tiện
với quần chúng của vị Bồ tát thật ra chỉ là giả tưởng. Trong đời sống
thực tế, cả hai giống nhau nhiều hơn người ta vẫn tưởng. Những vị
A-la-hán, và những người tìm cầu quả vị A-la-hán, thường hoạt động để
cải thiện đời sống vật chất và tâm linh của chúng sanh. Các vị Bồ tát và
những người có nguyện vọng theo Bồ tát hạnh, thường phải trải qua nhiều
thời gian dài nhập thất hành thiền để tu tập những kỹ năng thiền định
vốn rất cần thiết để họ có thể đạt đến quả vị Phật. Họ cũng phải học tất
cả giáo lý và con đường của Thanh văn thừa, tuy không cần phải thực
hiện con đường ấy. Các vị theo Bồ tát đạo phải học để biết nhập định,
thực hành thiền định và cuối cùng phải trở thành thiện xảo với những
pháp môn này. Các vị ấy sẽ phải quán chiếu Tam pháp ấn của Phật giáo là
vô thường, khổ và vô ngã. Các vị ấy phải đạt được tri kiến tối thượng về
Tam pháp ấn ấy. Những vị này khác với các vị Thanh văn ở chỗ là các vị
Thanh văn nhằm mục đích dùng tri kiến tối thượng để đạt đến Niết bàn.
Một vị Bồ tát sẽ kết hợp công phu tu tập của mình với tâm bồ đề, với
những hạnh nguyện Bồ tát, và lòng từ bi vô lượng. Nhờ được nâng đỡ bởi
các hạnh nguyện ấy, một vị Bồ tát sẽ có thể quán chiếu bản chất của thực
tại mà không đắc quả Niết bàn cho đến khi vị ấy đã viên mãn tất cả
những đức hạnh toàn thiện của quả vị Phật. Trong số các hạnh nguyện ấy
là hạnh bố thí và hồi hướng công đức về khắp tất cả chúng sanh. Nhưng bố
thí pháp là bố thí tối thượng mà một hành giả có thể hiến tặng cho
người khác, và công đức tối thượng mà một hành giả có thể hồi hướng cho
chúng sanh là giảng dạy Phật pháp và hướng dẫn họ thực hành Phật pháp.
Mặc dù một vị Bồ tát dĩ nhiên có thể tham gia các hoạt động xã hội như
một biểu hiện của lòng từ bi, nhưng để đạt được những giai đoạn cao hơn
của bồ tát đạo, vị hành giả sẽ cần nhiều kỹ năng khác hơn là các kỹ năng
dùng trong công tác xã hội, những kỹ năng này gần giống với kỹ năng của
vị tu theo hạnh A-la-hán.