Trong sách này, mỗi chương đều
hữu-ích cho tất cả những ai thật tâm niệm Phật cầu Vãng Sanh. Nếu chư liên-hữu
tin tưởng vào chúng tôi xin đọc kỹ các chương sau cùng này và dạy cho con cháu,
nhắc nhở thân nhân bạn bè cùng đọc, chắc chắn sẽ hữu ích cho việc Vãng Sanh
Tây-Phương Cực-Lạc Tịnh-Độ.
Xin luôn luôn nhớ đến hai chữ Cực
-Lạc và đừng để bị người ta đánh lừa một cõi Tịnh-Độ nào khác mà thiếu hai chữ
Cực-Lạc, là cõi Phật của Đức Từ Phụ A-Di-Đà.
Ngoài niềm tin vào Đức Từ Phụ
A-Di-Đà, chúng ta còn cần thêm một lòng tin vững chắc là, chúng ta không phải
là người trung căn hay hạ căn, mà là người đã có căn lành từ muôn kiếp. Bao
nhiêu kiếp về trước - một kiếp là 16 triệu 800 ngàn năm - chúng ta đã từng gặp
Phật, từng cúng dường và thân cân với Phật, nên kiếp này nghe nói đến Pháp môn
Niệm Phật chúng ta tin theo ngày và dốc lòng trì niệm danh hiệu A-Di-Đà Phật.
Nhưng, dù đã thân cận Phật hay chưa
gần gũi, bất cứ ai tin vào lời nguyện của Phật A-Di-Đà, đều được Phật tiếp dẫn
như nhau.
Lòng tin này sẽ giúp cho chúng ta
cảm thấy thân thương, quý ái và gần gũi với Đức Từ Phụ nhiều hơn. Chúng ta
giống như người con xa nhà từ lâu, nay trở về mà tình yêu thương vẫn đượm nồng
chan chứa.
Trong chuyến xa nhà này, chúng ta
đã luân hồi khắp nơi. Chẳng biết bao nhiêu kiếp, chúng ta đã lên các cõi trời.
Nơi nào cũng đã đi hết. Hết ở cõi trời có khi chúng ta xuống làm người; có lần
từ cõi trời chúng ta lại lọt tuốt xuống địa-ngục, không sao nhớ tính cho hết.
Mỗi lần đổi thân là chúng ta quên hết. Chỉ bực đại Bồ-Tát, chứng Vô-sanh nhẫn
mới nhớ được. Nhưng trong duyên may, chúng ta có lần gặp Phật, cúng dường Phật
và nghe Pháp. Nhờ vậy, lần này chúng ta trở lại làm người và nghe biết Pháp môn
niệm Phật này.
Nhờ duyên may được gặp lần này nếu
chúng ta không biết nhơn cơ hội nắm lấy cho chắc danh hiệu Nam-Mô A-Di-Đà Phật
từ ngay giờ phút này thì, coi chừng chúng ta bị vuột mất dịp quý. Vì, nếu khi
qua một đời khác, chẳng rõ chúng ta có được lại thân người nữa không, hay sẽ
đổi thân khác, sẽ mang lông đội sừng hay làm ngạ-quỷ, hay rơi thẳng địa-ngục.
Chúng ta có đổi thân khác hay
không, là do cái nghiệp lành, nghiệp dữ của chúng ta tạo ra, từ những kiếp
trước và kiếp này.
Chỉ có một hạng người vượt khỏi
thông lệ chung này. Đó là hạng người "Đới nghiệp Vãng Sanh". Họ mang
cả nghiệp vượt tất cả, khỏi tam giới, Nhờ bản-nguyện, oai thần và công-đức của
Đức Phật A-Di-Đà. Họ nhờ niệm danh-hiệu A-Di-Đà Phật, khi sắp lâm chung, Phật
A-Di-Đà và Thánh-chúng đến tiếp dẫn.
Tại sao người niệm Phật có được
ngoại lệ này?
Đức A-Di-Đà có 48 Đại -nguyện,
người niệm Phật đáp ứng bản-nguyện của Đức Phật A-Di-Đà, bằng Tín là lòng tin
vững chắc; bằng Nguyện là phát nguyện Vãng Sanh; bằng Hạnh là nhứt-tâm trì niệm
hằng ngày. Mỗi câu niệm Phật của người trì danh hiệu Phật - Giống nhau chư
liên-hữu - sẽ được trừ tội lỗi tám trăm ngàn (tức 80 ức) kiếp sanh tử cho một
niệm.
Khi chúng ta niệm Phật, chúng ta
được giảm dần nghiệp ác. Chúng ta được nhẹ bớt nghiệp ác chứ không bao giờ hết
được, vì chúng ta đã tạo-nghiệp từ vô-lượng vô-biên kiếp, mà không sao tính
biết được.
Trí-Húc Đại sư trước là người tu
Thiền, là một bực Thiền Sư nổi danh trong đời, sau viết "Kinh A-Di-Đà Yếu
Giải" đã tự nói rõ:
"Húc tôi đây, khi mới
xuất-gia, tự phụ là một nhà Thiền-Tông, khinh thường các giáo điển, dám nói bậy
rằng phép "Tu trì niệm danh hiệu Phật" chỉ là một phương tiện bày ra,
riêng cho người trung căn và hạ căn.
Về sau, nhân vì tôi đau nặng, mới
chịu phát tâm cầu về Tây-Phương".
Nhờ niệm Phật, Trí-Húc Đại sư hết
bịnh, và về sau trở thành một vị Tổ Tịnh-Độ Tông với danh hiệu Ngẫu-Ích.
Ở các chương trước chúng tôi đã
nhắc nhở, lập đi, lập lại về công-đức của Phật A-Di-Đà, xin chư vị luôn luôn
nhớ chữ công-đức nầy.
Ngài Trí-Húc viết:
"A-Di-Đà Phật, là một danh
hiệu lớn lao, gồm có vạn công-đức, niệm danh-hiệu ấy để đời công-đức của Ngài
đến với mình, thì công-đức nào cũng phải đến hết".
Chư liên-hữu nào đã niệm Phật rất lâu
năm, chắc hẳn bây giờ công-đức của chư vị đã nhiều vô số: đương nhiên chư
liên-hữu ấy đã có được chút ít ngoại lệ rồi.
Nhưng Ngài Trí-Húc có nói một điều:
"Vì rằng những thiện căn tán
loạn man mác ra..., thì khó lòng địch lại tội ác tích luỹ từ vô thỉ kiếp. Phải
biết rằng những tội ác ấy, giá mà có thể tướng, thì cả một cõi hư không này
cũng không chứa được hết, tuy rằng một đêm một ngày niệm được 100 ngàn tiếng
A-Di-Đà Phật, mỗi tiếng niệm được tám mươi ức kiếp sanh tử trọng tội, mà niệm
đủ một trăm năm, thì cũng chẳng tiêu được hết những tội nghiệp ấy, vì rằng
những tội đã diệt rồi thì ít lắm, chỉ bằn một tí đất ở đầu móng tay mà thôi, mà
những tội lỗi chưa diệt được hãy còn nhiều bằng cả một quả đất này".
Cho nên ở trên chúng tôi dùng chữ
"Đương nhiên chư liên hữu ấy đã có được chút ít ngoại lệ rồi". Dù
rằng chúng ta niệm Phật mà chưa được nhứt tâm.
Hãy nghe Ngài Trí-Húc viết tiếp:
"Chỉ có người nào niệm Phật
đến chỗ nhứt tâm bất loạn thì mới có sức mạnh như một kiện tướng phá vòng vây
tội ác ấy mà ra..."
Khi một người niệm Phật tới nhứ
tâm, lâm chung Phật A-Di-Đà và Thánh chúng đến đón, thì ngoại lệ hiện tiền;
công đức của Phật A-Di-Đà hiện bày; như hào quang chiếu sáng, hương thơm ngào
ngạt, tâm không điên đảo ta vui mừng báo tin cho thân nhân rồi theo Phật và
Thánh chúng về cõi Cực-Lạc một cách tự tại!
Kinh nói: "Những người Vãng
Sanh về nước Cực-Lạc, tất cả đều đủ ba mươi hai tướng, trí tuệ đầy đủ vào sâu
các pháp, thấu rõ chỉ thú thâm yếu vi diệu, thần thông vô ngại các căn sáng lạ...."
Một người đang là phàm phu ở Ta bà, trong một sát na về tới Cực -Lạc tất cả đều
đủ ba mươi hai tướng tốt. Thật là khó nghĩ bàn.
Cho nên Phật dạy nên phát nguyện
sanh sang kia. Kinh A-Di-Đà mới có câu:
"Ai nay phát nguyện thì nay
được sanh". Chữ nay có nghĩa là trong đời này, như chương trước đã nói.
Tại sao hầu hết sẽ được quyết định
vào giờ phút lâm chung của đời?
Chữ hầu hết trên đây là ám-chỉ
người không tu pháp môn niệm Phật, sống thiếu công-đức của Phật A-Di-Đà cho nên
khi lâm chung phải tuỳ theo nghiệp lực mà trả vay, và rồi theo cận tử nghiệp mà
sanh về một cõi nào. Đó là quyết định vào giờ phút lâm chung.
Có người tu pháp môn khác, nói với
chúng tôi rằng, tôi tu với ý định sau khi chết sẽ trở lại độ chúng sanh, rồi tu
tiếp.
Đó là người chỉ nói chớ chưa chiêm
nghiệm lúc chết sẽ ra sao, sẽ hôn mê như thế nào (?).
Tâm nguyện thì tốt, nhưng sự hiểu
biết về sống chết, luân hồi còn quá non cạn, e rằng khó được như ý tốt.
Bởi sao? Ngài Trí-Húc Đại sư viết
trong sách Yếu Giải:
"Vì rằng cứ tự lực mình tu
hành ở nơi uế-trược này, khi tới lúc sắp chết, là lúc đến cái "Cửa ải tử
sinh", rất khó đủ lực mà đi qua được. Chẳng nói làm gì những kẻ tu hành
ngoan cố, có chút trí tuệ cuồng ngông, buồn tủi không có kết quả, nói ngay
những người tu phép Thiền-Tông đốn ngộ sâu xa, giữ gìn cẩn thận thực tế và tiềm
tàng đích xác lắm, thế mà đến lúc ấy (lúc lâm chung), chỉ một tí Tập Khí (đều
là tập quán và khí lực của tham, sân, si, mạn nghi là kiến...) bằng sợi tơ còn
sót lại chưa trừ được hết, nó cũng thừa sức mạnh lôi kéo mình đi truỵ lạc, chưa
thoát khỏi được đâu".
Kinh nói: "Đến đời Mạt Pháp,
ức vạn người tu hành, ít khi có một người đắc đạo, chỉ còn nhờ vào phép tu niệm
Phật này mà được độ thoát thôi.
Người tu được quả dạo thứ nhứt
Tiểu-Thừa rồi mà phải đầu thai, lúc đẻ ra, thành người mê muội. Vì Bồ-Tát cách
thân ngũ ấm này sang thân khác, thàm người hôn mê. Lúc đó, nó có để cho mình cố
gượng làm chủ tế mình đâu, mà còn lơ mơ cầu may ra thì được ".
Trên đây toàn là lời của Trí-Húc
Đại-sư.
Bồ-Tát sau khi chết, bỏ thân ngũ ấm
này sang thân khác, còn bị hôn mê quên hết quá khứ. Vậy có người nói rằng tôi
tu kiếp này, chết rồi sẽ trở lại làm người tu kiếp, làm sao làm được?
Nếu là người hiểu về Phật pháp thì
phải biết là điều ấy khó thực hiện vào thời mạt pháp này.
Đối với người từng niệm Phật, Đức
Thích-Ca còn dạy trong Kinh Niệm Phật Ba-La-Mật rằng:
"Người Niệm Phật cũng lại như
thế. Tuy đã phát khởi tín tâm dũng mãnh, và công-phu không gián đoạn bê trễ,
nhưng nếu tái-sanh cõi Ta Bà vần bị luân-chuyển vì Định Tuệ vần còn non kém,
quả đức chưa hoàn mãn. Cần phải Vãng Sanh Cực-Lạc Thế-giới, cần kề Phật và
Thánh-Chúng..."
Nên biết rằng được Vãng Sanh Cực-Lạc thì không bao giờ trở lại địa vị phàm phu
với thân xác ngũ uẩn nữa.
Người niệm Phật, dù tín tâm dũng
mãnh, công phu niệm Phật không gián đoạn, dù có công-đức của Phật A-Di-Đà ban
cho thêm, nhưng nếu không Vãng Sanh Cực-Lạc để gần gũi Phật và Thánh-Chúng, thì
vẫn bị luân chuyển luân hồi tuỳ theo nghiệp thọ sanh vào bất cứ đường nào, vẫn
có thể bị oan gia trái chủ đòi nợ. Trừ phi Vãng Sanh Cực-Lạc, thì mới không bao
giờ trở lại địa vị phàm phu với thân năm uẩn.
Nếu ai đã từng đọc Kinh Hoa-Nghiêm,
Đức Phật Thích-Ca cũng nói ở phẩm cuối cùng rằng:
"Người này khi sắp mạng chung,
trong khoảng sát-na rốt sau, tất cả các căn thảy đều tan-hoại, tất cả quyết
thuộc thảy đều lìa bỏ, tất cả oai-thế thảy đều hư mất. Duy có nguyện-vương này
chẳng rời bỏ nhau, trong tất cả thời nó đều dẫn dắt ở trước. Và trong khoảng
một sát-na, kẻ ấy được Vãng Sanh về Thế-giới Cực-Lạc".
Nguyện vương là gì?
Đây là hạnh Nguyện của Bồ-Tát
Phổ-Hiển, tức là mười điều-nguyện của vị Bồ-Tát này. Bởi trong Kinh Hoa-Nghiêm,
Đức Thế-Tôn dạy các pháp để tu thành Phật. Nhưng, thời mạt pháp này không ai tu
chứng. Cho nên Đức Phật nói, người này sắp mạng chung, trong khoảng sát-na sau
rốt, tất cả các căn thảy đều tan-hoại, tất cả quyến thuộc thảy đều lìa bỏ, tất
cả oai-thế thảy đều lui mất, thì dù là người tu hành Thiền định lúc sắp mạng
chung, các căn thảy đều tan-hoại, tất cả quyến thuộc đệ tử bạn bè rồi cũng đều
lìa bỏ. Đây là một sự thật của thời mạt pháp này. Tất cả oai-thế của người tu
cũng đều lui mất.
Nhưng! duy có Nguyện Vương là không
rời bỏ nhau, trong tất cả thời, nó đều dẫn dắt ở trước. Và trong khoảng một
sát-na, kẻ ấy liền được Vãng Sanh về Thế-giới Cực-Lạc.
Phút lâm chung là phút đáng sợ
chung của mọi người, dù là "xuất gia" hay "tại gia". Đừng
tưởng người xuất gia được miễn lệ. Nhưng người xuất-gia tu Tịnh được may mắn
hơn, vì lúc sắp lâm chung chư vị ấy được nhiều đồng tu tụng kinh và niệm Phật
trợ niệm và sau khi chết lại được tụng kinh, trợ niệm liên tục nhiều ngày.
Người tại gia không tu niệm Phật cơ may quá ít vì thân nhân học hỏi quá ít.
Lúc ấy Phật đang nói Kinh Thiền và
Kinh Hoa-Nghiêm, Phật đang dạy chư Thanh Văn, Bồ-Tát tu Thiền-định, nhưng cuối
Kinh, Đức Phật vẫn thương chư vị ấy, chỉ thêm mười hạnh nguyện Phổ-Hiền, như cố
ý rỉ tai: "Chư vị nên học thêm pháp môn này, giờ chót mà chưa được thì hãy
học mười hạnh nguyện Phổ-Hiền. Xin Phật A-Di-Đà đến tiếp dẫn về Thế-giới
Cực-Lạc".
Trong sách này ở phần sau có kể
chuyện Niệm Phật Vãng Sanh Lưu-Xá-Lợi" của cố Hoà-Thượng Thích-Thọ-Trị.
Ngài tu Hoa-Nghiêm Tông, chuyện lấy máu viết Kinh Hoa-Nghiêm. Cuối cùng Ngài
thực hành Nguyện Vương của Bồ-Tát Phổ-Hiền. Ngài niệm Phật Vãng Sanh Cực-Lạc và
dạy đệ tử niệm Phật Vãng Sanh.
Cho nên trong Kinh Hoa-Nghiêm, sau
khi Phổ-Hiền Bồ-Tát nói mười đại nguyện, Ngài khuyến tấn các hàng Bồ-Tát ở bực
Thập Tín, Thập trụ, Thập hạnh, Thập hồi hướng, Thập địa, Đẳng giác đều nên phát
nguyện cầu sanh về Cực-Lạc.
Trong Kinh Thủ-Lăng-Nghiêm và Pháp
Hoa, Đức Phật đều có nhắc đến cõi Cực-Lạc và coi như Cõi Cực-Lạc và điểm tựa
an-toàn cho người xuất-gia và tại gia ở Ta bà này.
Nhờ dành nhiều ngày tháng, chúng
tôi đọc nhiều kinh sách, rồi bỏ công ngồi suy gẫm, khi viết bài này chúng tôi
mới thấy rõ, lúc lâm chung có trăm ngàn trường hợp người sắp chết khổ sở lắm.
Nếu như, những người còn thiếu nợ các oan hồn trái chủ, họ đến đòi nợ với những
gương mặt khác nhau, lôi kéo dành phần. Nghiệp trái của chúng sanh chúng ta rất
nhiều, có khi trả hết lớp này, lại đến lớp khác vẫn chưa hết.
Thương chúng sanh, Hoà-Thượng Thiền
Tâm nói: "Nhiều vị xem dường như rảnh rang không oan trái, nhưng chưa hẳn
là không có, chỉ vì chưa đến thời tiết nhân duyên đền trả đó thôi".
Có nhiều người khi còn sống phó mặc
đời cho nó tới đâu thì tới. Bởi vậy, nếu hiểu một phần Phật pháp thì nên theo
lời Phật Thích-Ca dạy, bằng cách niệm Phật A-Di-Đà, thành khẩn, niệm Phật thu
lấy công-đức của Ngài, lâu ngày hoán đổi con người tội lỗi của mình thành con
người thanh tịnh; có thần lực, Phật lực gia-hộ; sám hối, hồi hướng công-đức
niệm Phật của mình cho oan gia trái chủ.
Nhờ vào niệm Phật hiệu A-Di-Đà, sám
hối và hồi hướng công-đức (do niệm Phật, được công-đức của Phật A-Di-Đà, thêm
cúng dường Tam Bảo, in kinh) con người của mình đã biến đổi mà mình không hay
biết. Các oan gia trái chủ cũng thông cảm, Nhờ hồi hướng thân nhân ta có người
được Vãng Sanh mà mình cũng không hề hay biết. Nếu nghiệm lại tự mình thấy tinh
thần mình trở nên nhẹ nhỏm, thảnh thơi, có phần tự tại.
Đó là giai-đoạn bắt đầu giải kết
với oan gia. Như các bực Tôn đức nói, có những oan gia theo nhau cả mười kiếp
chứ chẳng phải một kiếp.
Muốn được Vãng Sanh Cực-Lạc cần
phải dọn mình thanh-tịnh
Sau khi đọc nhiều kinh và sách, suy
tư nghiền ngẫm nhiều ngày; nghe băng giảng của nhiều bực Thầy, chọn lọc loại bỏ
những điều vô bổ - vì cũng có những băng tác hại cho người học đạo - chúng tôi
thấy có những hạnh tốt nên nói theo như sau:
1. Bố thí, như hạnh của Hoà-Thượng
Tịnh-Không Ngài cho tất cả, cuối cùng Ngài được cảm ứng tốt. Nhưng chúng tôi
không đòi hỏi ai ai cũng được như vậy. Chỉ cần có lòng bố thí là cũng quý rồi.
2. Phóng Sanh, như hạnh của Vĩnh-Minh Đại-sư. Ngài phóng thích vô số sanh mạng,
cá chim, giữa lúc người khác bắt ăn thịt. Ở đây là nói tấm lòng. Người biết
buông tha mạng người khác (dù là loài vật) thì oan gia cũng tốt lại với mình.
Trước đây chúng tôi hiểu lầm về
việc phóng sanh. Thấy trong lồng chim có những con bay ra muốn hết nỗi, nên
nghĩ rằng việc phóng sanh này làm lợi cho bọn bắt chim mà thôi. Nhưng bây giờ
hiểu ra, không phải mua chim cá, các loài cầm thú nói chung, rồi tha mạng
chúng, gọi là phóng-sanh. Mà chư Tăng Ni, hay người hiểu Pháp giảng Tam Quy,
cho chúng Quy y Phật, Quy y Pháp, Quy y Tăng. Để chi vậy?
Để sau khi chúng bỏ lớp thú, được
trả lại làm người, trong tàng thức chúng đã có chủng tử Phật, nhờ vào sự quy y
này. Một kiếp thú dài lâu lắm. Hy vọng nhờ việc phóng sanh này mà các thú ta
phóng sanh sớm được trở lại làm người, hoặc được Vãng Sanh Cực-Lạc.
Hẳn chư vị đều biết, loại chó mèo
ta nuôi trong nhà, hay cọp beo, được nghe kinh đa số được trở nên hiền lành.
Cố Hoà-Thượng Hư Vân, Quãng Khâm
khi sanh tiền đều giảng pháp quy y cho cọp dữ.
Tóm lại, khi phóng sanh, nếu không
có Tăng Ni, tự mình cũng có thể giảng pháp và kêu gọi chúng Quy y Tam Bảo.
3. Cầu nguyện cho oan hồn tử nạn
khắp nơi. Gần đây gọi là Pháp Hội Niệm Chú Tiêu-Tai Cát-Tường. Đây cũng là cách
vừa cầu-nguyện, vừa hồi hướng công-đức của mình cho họ thoát ly khổ hải.
Đây, thần chú "Tiêu Tai Cát
Tường"
"Nam-Mô Tam mãn đa. Mẫu đà
nẫm. A bạt la để. Hạ đa xá - Sa năng nẩm. Đát điệt tha. Án. Kha khư. Khư hê.
Khư hê. Hồng hông Nhập phạ ra. Nhập phạ ra. Bát ra nhập phạ ra. Bát ra nhập phạ
ra. Để sắt Xa. Để sắt Xa - Sắt trí ri. Sắt trí rị. Sa phan tra. Sa phan tra.
Phiến để ca. Thất lí duệ. Sa bà ha".
4. In kinh, in hình tượng Phật, Tam
Thánh, hồi hướng công-đức. Tại Việt -Nam có Ni sư Chơn Hảo in hình Tam Thánh
(cỡ lớn và thật đẹp), để tặng tất cả các chùa từ Nam ra Bắc. Phật tử tới chùa
lạy Phật, tạo công đức cho người đóng góp tịnh tài.
5. Đúc đại hồng-chung. Đón góp tịnh
tài để xây đại-hồng-chung tại thánh-địa Phật ở Ấn-Độ cũng là một công-đức lớn,
làm hành-trang chờ ngày Vãng Sanh Cực-Lạc vậy.
6. Đúc tượng Phật Di-Lặc, đóng góp
tịnh tài cho các nhà sư Mật Tông Tây-Tạng xây tượng cao và lớn nhất thế-giới.
Đây là Đức Phật vị lai sẽ giúp cho toàn thế-giới hiểu đạo Phật cũng là một
công-đức lớn, khiến cho Phật pháp trường tồn.
7. Cứu giúp cho người bị thiên tai
bão lụt, động đất, hoả-hoạn v.v....nhưng đây không phải là công-đức mà chỉ là
phước đức. Nhiều người hiểu lầm cho rằng làm bấy nhiêu việc là đủ rồi. Thật ra
đây chỉ là tích đức, nhưng cũng cần cho người tu Phật.
8 và 9. Hai việc sau cùng vẫn là
sám hối và hồi-hướng công-đức cho ông bà cha mẹ và oan gia trái chủ, khiến cho
thân tâm mình nhẹ nhàng, thanh thản khi ra đi.
Thưa chư liên-hữu thân mến,
Sách này mang tựa đề "NIỆM
PHẬT CÁCH NÀO CHẮC ĐƯỢC VÃNG SANH CỰC-LẠC?." Chúng tôi xin chắc hầu hết
chư vị đều muốn Vãng Sanh Cực-Lạc. Nhưng, chắc chắn còn một số vị không dám
nghĩ thẳng, không dám nói thẳng với tự tâm mình rằng: "Tôi niệm Phật để
được thành Phật".
Nếu bây giờ, tất cả chúng ta đồng
một lòng dũng mãnh nói lớn trước bàn Phật rằng: "Con quyết tâm niệm Phật
để thành Phật".
Thưa chư vị, trong kinh gọi đây là
"Phát Tâm Vô-Thượng Bồ-Đề", gọi tắt là Phát Tâm Thành Phật.
Đây là sự chắc được Vãng Sanh Cực-Lạc của tất cả chúng ta. Khi chư vị khẳng
định, trong tàng-thức chư vị đã ghi đậm nét: "Người này quyết tâm thành
Phật, liền nơi Cực-Lạc Phật A-Di-Đà đã thọ ký và một cánh sen mọc lên".
Chư liên-hữu đừng e ngại, cho rằng
mình hiểu ít Phật pháp làm sao thành Phật được. Với Pháp môn Tịnh-Độ, không cần
đòi hỏi hiểu hay không hiểu Phật pháp. Chỉ cần xưng niệm 6 chữ Nam-Mô A-Di-Đà
Phật hay 4 chữ A-Di-Đà Phật đến nhứt tâm là đủ. Chúng ta tự nguyện trong tâm,
tự nguyện trước Phật, chứ không cần khoe khoang với người khác.
Bồ -đề -tâm là cái nhơn, là hột
giống gieo trồng Không có cái nhơn, thì không thể kết được quả Vãng Sanh
Cực-Lạc rốt ráo. Khi chúng ta phát tâm Bồ-đề, chúng ta biết rằng chư Phật đều
đầy lòng đại tự đại bi thương xót chúng sanh, muốn tu được như chư Phật, chúng
ta cũng phải hành -động với tâm đại từ đại bi như Phật. Và chúng ta lấy niệm
Phật làm phương tiện cứu cánh.
Kinh nói: "Bồ-đề-tâm làm nhân, đại bi tâm làm căn bản, phương tiện làm cứu
cánh". Nếu chúng ta không tích cực phát nguyện "niệm Phật để thành
Phật", thì từ đây đến ngày lâm chung, chúng ta vẫn sống với tâm phàm phu,
hành động phàm phu thì khi sắp tắt thở Hoá Phật và Thánh Chúng đến rước sẽ đưa
về nơi biên-địa của Cực -Lạc. Đây cũng là cõi Cực -Lạc, nhưng ở ngoài biên-địa
như Kinh Phật Thuyết A-Di-Đà nói, sau đó cũng sẽ gặp Phật, nhưng phải mất thêm
một thời gian để tu tập sám hối.
Kinh Hoa-Nghiêm nói: "Nếu quên
mất Bồ-đề-tâm mà tu các pháp lành, đó là nghiệp ma".
Tại sao?
Hoà-Thượng Thích-Thiền-Tâm giảng
giải điều này trong sách Niệm Phật Thập Yếu như sau: "Ví như người cất
bước khởi hành, mà chẳng biết mình sẽ đến đâu, và đi với mục đích gì, thì cuộc
hành trình chẳng thành, quanh quẩn mỏi mệt cùng vô-ích lắm ư? Người tu cũng
thế, nếu dụng công khổ nhọc mà quên mất mục tiêu cần thành Phật để lợi mình sẽ
sanh, thì bao nhiêu hạnh lành, chỉ đem đến kết quả hưởng phước nhơn, thiên,
chung cuộc vẫn bị chìm mê quanh quẩn luôn hồi, chịu vô biên nổi khổ. Như vậy
chẳng là nghiệp mà còn là gì?"
Nhưng, tại sao được hưởng phước người
và trời mà Hoà-Thượng Thiền Tâm nói là, chung cuộc vẫn bị nghiệp ma?
Vì, người tu đạo Phật, dù xuất gia
hay tại gia, khi lâm chung phải đắc quả, và ra khỏi Tam-giới. Nhưng Đức Phật đã
huyền ký rằng: "Thời mạt pháp ức ức người tu hành ít có kẻ nào đắc quả..."
Nếu còn ở trong Tam-giới, dù lên được cõi Trời, làm Thiên tử, khi hưởng hết
phước vẫn phải theo nghiệp ma, tức những nghiệp ác cũ đã chồng chất từ muôn
kiếp mà đoạ vào đường dữ.
Tại sao vậy?
Vì, dù người hay trời đều có hai
thứ nghiệp lành và dữ. Nếu khi hưởng hết phước lành, thì chỉ còn có nghiệp dữ
thì phải rơi xuống. Vì trên Trời được gọi là Thiên Đàng nơi đó vui sướng lắm.
Các vị Trời hưởng thú vui ngày đêm không ngừng nghĩ, nhiều người chẳng lo tu
hành nữa. Cho nên khi hưởng hết phước lành, thì chỉ còn nghiệp dữ, khi thọ mạng
hết liền rơi thẳng địa-ngục, trừ vị nào biết tu tập tiếp. Chắc chư vị còn nhớ
Trí-Húc Đại-sư nói, nếu nghiệp dữ của chúng sanh có hình tướng, thì nghiệp ấy
đã chất chồng đầy cả hư không bao la, đầy cả bầu trời rồi. Vì chúng ta đã sống
Vô-Lượng kiếp rồi.
Nếu còn ở trong Tam-giới là còn
phải luân hồi.
Thời này, theo lời Phật dạy, chỉ có
Pháp môn niệm Phật mới ra được khỏi Tam-giới. Nhưng người tu niệm Phật, cũng
phải tu đúng cách, nghĩa là phải phát Bồ-đề-Tâm, nguyện tu thành Phật thì mới
chắc được Vãng Sanh. Nên Phật Thích-Ca xác quyết: "Vãng Sanh đồng ý nghĩa
với thành Phật. Vãng Sanh tức là Thành Phật".
Khi viết xong phần này, chúng tôi
nhận được sách Khai Thị, Hoà-Thượng Tịnh-Không nói: "Người thật sự phát
tâm Bồ-Đề, khi lâm chung, một niệm hoặc mười niệm quyết-định, sẽ được Vãng
Sanh. Vì sao? vì họ đã là người Thượng-Thiện-Nhân rồi, đầy đủ phước đức rồi.
Chỉ cần chợt khởi tâm muốn Vãng Sanh là được ngay".
Trí-Húc Đại-sư nói: "Một lần
sanh ở đây là được bổ lên ngôi Phật". Thế thì, người dân ở Cực-Lạc, hết
thảy đều là "Người Nhứt Sanh thành Phật", người nào cũng quyết là
thực chứng ngôi Nhứt Sanh Bồ-Xứ, ngang hàng với Bồ-Tát Di-Lặc,
Quán-Thế-Âm".
Kết lại, nếu chư vị nào đồng quyết
tâm Bồ-đề, nhứt định niệm Phật để thành Phật, thì chắc chắn chư vị ấy sẽ Vãng
Sanh và, Vãng Sanh đồng nghĩa với thành Phật, như Đức Phật Thích-Ca đã nói nơi
trang 30 Kinh Niệm Phật Ba-La-Mật.
Chúng tôi mong mỏi và thầm cầu
nguyện Đức Bổn Sư Thế-Tôn, Đức Từ Phụ A-Di-Đà và chư Đại Bồ-Tát gia hộ cho ý kiến
chúng tôi rằng: "Mỗi một liên-hữu đã đọc sách nầy đều tự tâm thệ nguyện
rằng: "Ngày nào con Vãng Sanh Cực-Lạc, được ngôi Bất-thối-chuyển, trở
thành bực Đại Bồ-Tát chứng Vô-Sanh-Nhẫn có đủ thần thông và ngũ-nhãn v.v...nếu
con trở lại Ta Bà này mà không bị hôn mê, quên mất tánh-giác, con nguyện liền
trở lại Ta bà này độ tất cả chúng sanh đang đau khổ. Xin chư Phật, chư Đại
Bồ-Tát gia hộ".
Nếu tất cả chư vị đọc sách này đồng
một lòng nguyện thệ như vậy, thì tương lai sẽ có thật nhiều, gọi là vô số đại
Bồ-Tát từ Cực-Lạc, trở về đây độ vô số chúng sanh. Tới lúc Phật Di-Lặc giáng
thế, chúng ta sẽ tiếp tay với Ngài, biến cõi uế-độ Ta bà thành cõi Tịnh-Độ vậy!
Do đâu chúng tôi khuyên chư
Liên-hữu như vậy?
Vì trong sách Niệm Phật Thập Yếu
của Hoà-Thượng Thích-Thiền-Tâm có đoạn (trang 59) gợi ý chúng tôi như sau:
Bởi khi chưa là bậc đắc đạo, lúc
chuyển sanh tất bị hôn mê, dễ quên tâm nguyện tu hành kiếp trước.
Kinh nói:
Bồ-Tát còn mê khi cách ấm
Thanh Văn còn muội lúc ra thai".
"Cách ấm" là trải cách từ
ấm thân này sang ấm thân khác. Như thân hiện tại là tiền ấm, chuyển sanh thân
kiếp sau là hậu ấm; trải qua sự xen cách từ thân trước đến thân sau như thế,
bậc Bồ-Tát chưa đắc quả bị hôn mê. Trong Kinh có nơi khác lại nói: "Hạng
phàm phu khi nhập thai, trụ thai và xuất thai đều bị hôn mê. Bậc
Chuyển-luân-thánh-vương do phước báu, lúc nhập thai thì biết, khi trụ thai,
xuất thai phải bị hôn mê. Hành Thanh Văn lúc nhập thai, trụ thai đều có thể
tỉnh biết, song khi xuất thai lại bị hôn mê. Duy có bậc Bồ-Tát chứng Vô-sanh-nhẫn,
lúc nhập thai, trụ thai và xuất thai đều tỉnh giác".
Đây là chỗ chúng tôi đề-nghị chư
Liên hữu nguyện khi chứng Đại Bồ-Tát Vô-Sanh-Nhẫn sẽ sanh trở lại Ta bà độ
chúng sanh.
Những điều nhắc nhở khi tu Niệm Phật
Pháp môn niệm Phật là pháp môn tối
thượng tối thắng. Cho nên nếu chư liên-hữu giải-nghĩa cho một người hiểu pháp
môn này, nếu họ chịu tu theo, công đức của chư liên-hữu, thật vô-lượng. Theo
Kinh Niệm Phật Ba-La-Mật, (trang 36) người ấy tuy đã quy y Tam-Bảo, nhưng chính
chư liên-hữu là người đã trực tiếp khai sanh tánh mạng tuệ giác của người ấy,
dù cả hai đều là đồng tu. Chư liên-hữu chính
là một Thiên-Tri-Thức vậy.
Nhưng, khi gặp một người không tin
vào Pháp môn Niệm Phật, người ấy khởi tâm tranh cãi, thì chư liên-hữu nên lập
tức dập tắt tranh cãi và rúy lui ngay. Đây là lời dặn tuyệt đối nên nhớ, không
tranh cãi.
Tại sao không tranh cãi?
Vì bản nguyện của Đức Phật A-Di-Đà
quá thâm diệu, phi thường. Khi chư vị tranh cãi, dù chư vị không cố ý hại ai;
nhưng người kia vì háo thắng, dành phần hơn, vô tình xúc phạm đến Đức Phật
A-Di-Đà, vô tình pham tội huỷ báng Phật pháp, xúc phạm uy danh Đức Phật sẽ pham
vào những quả Địa-Ngục không có ngày ra. Vô-tình chúng ta tranh thắng mà làm
hại người.
Khi Đức Phật hiện tiền, Ngài Tu
Bồ-Đề, đệ tử lớn của Phật, trước khi đi xin ăn Ngài quán chiếu xem hôm nay sẽ
gặp ai? Nếu người Ngài sẽ gặp, trong kiếp quá khứ đã cùng người đó có những ân
oán, mà nếu bây giờ gặp lại, do duyên xưa người đó sẽ nổi sân giận tạo thành
quả Địa-Ngục cho người đó, thì Ngài thà rằng hôm ấy nhịn đói, chứ không khất
thực.
Khi chúng tôi viết sách Lưu-Xá-Lợi,
có người phê bình chúng tôi viết sai, phàm phu làm gì có Xá-Lợi. chúng tôi
nghiêm cứu kỹ lại thấy mình viết đúng, một người tu niệm Phật được nhứt tâm, họ
được định, cái định này tạo cho xương cốt, tim, răng v.v...thành vật cứng, cộng
với những phần thiêng liêng tạo thành nên Xá-Lợi. Khi niệm Phật được định là
tuệ phát sanh.
Tuy biết mình viết đúng, nhưng
trong sách này chúng tôi không trả lời, vì người viết kia đã nuôi dưỡng tâm sân
hận; nếu bây giờ chúng tôi trả lời càng gây thêm sân hận; chúng tôi cũng có
lỗi. Thôi thà rằng nín thua là tốt nhứt.
Trong Kinh Niệm Phật Ba-La-Mật,
Bồ-Tát Quán-Thế-Âm giảng nói ở trang 80, như sau: "Khi xưng niệm Nam-Mô
A-Di-Đà Phật, hành giả dần dần thành tựu chánh-định Như-Lai, tự-nhiên phát sanh
tuệ-giác Không Tánh...".
Vả lại, khi viết sách, chúng tôi
chỉ là người thu nhập tài liệu, rồi viết lại. Chúng tôi đã tốn nhiều công phu
gạn lọc hẳn hòi, chất vấn đủ điều rồi mới đăng, và tất cả đều đã được chư
Tôn-Đức Tăng Ni chứng nhận. Chúng tôi chưa hề sáng tác chuyện nào hết.
Có người còn nói Xá-Lợi ấy kết tinh
do bịnh ung thư. Thật sự ung thư là kết quả của sự hư hoại trong cơ thể. Vậy
làm sao có được màu sắc đẹp đẽ lóng lánh?
Sở dĩ có người nói do ung thư, là
vì bài của chúng tôi có phân tách nói, do người bịnh biết mình mắc bịnh ung
thư, biết mình sẽ chết, nên tập trung tinh thần nhứt tâm niệm Phật mà sớm được
định.
Vào đầu tháng 5 năm 2002 vừa qua,
chúng tôi cảm thấy đau ở bụng, phía dưới gan. Bác-sĩ đưa đi làm siêu âm thì
thấy có cái gì nổi dài hai phân, nghi là ung-thư hay bướu ở túi mật. Được tin
này chúng tôi không một chút lo-lắng và mừng thầm trong bụng. Bởi nếu quả là
ung-thư, thì chúng tôi sẽ buông bỏ mọi chuyện, quyết sẽ nhứt tâm niệm Phật. Bởi
vì không có thời điểm của ngày chết, thì chúng ta sẽ lần lựa ngày tháng.
Dù sao chúng tôi đều cám ơn chư vị
ấy. Chư vị ấy đã giúp chúng tôi học hỏi thêm. Như trong sách này có chuyện
Xá-Lợi của cụ bà Diệu-Hỷ ở Sydney Úc. Khi cụ bà lâm chung có Đại Đức Thông
Hoàng (thuộc Thiền Tông), ở Hiện Quang Thiền-Viện đến khai thị, và kế tiếp là
Đại Đức Thích-Phước Tấn chùa Quang-Minh đến làm lễ.
Xá-Lợi của cụ Diệu-Hỷ được Tăng Ni
4 chùa công nhận và được trình bày liên-tiếp và lưu giữ ở các chùa ấy
Quang-Minh, Quảng-Đức và Hiện Quang Thiền-Viện.
Đặc biệt cụ Diệu-Hỷ có người con
trai cả uyên thâm Phập pháp và một người con thứ xuất gia trước tu Tiểu-Thừa,
sau tu Thiền. Vị này hoàn tục sau khi miền Nam mất. Sau khi thấy mẹ mình niệm
Phật có Xá-Lợi, người con thứ liền cạo đầu để ta tội với Phật và mẹ. Hình ảnh
và sự kiện do chính đương sự gởi đến cho chúng tôi làm bằng (xin xem bài đăng ở
phụ đính).
Từ giờ phút này chúng tôi không dám
tranh cãi nữa. Chúng tôi học hỏi theo lời dạy của cổ nhơn:
"Lửa sân si tam độc
Đốt hết rừng công đức
Muốn hành Bồ-Tát-đạo
Giữ thân tâm nhẫn nhục"
Chư Tôn Đức Dạy chúng ta Niệm Phật
Thế Nào Phải Cách?
Trong sách "Những Chuyện Niệm
Phật Vãng Sanh Lưu-Xá-Lợi" chúng tôi đã ghi lại những cách niệm Phật của
chư vị đã được Vãng Sanh, nghĩ rằng chư liên hữu có thể nghiền ngẫm cách thức
niệm Phật của mỗi một Bồ-Tát đã Vãng Sanh rồi đem áp dụng cho mình.
Nhưng, sách gởi đi khắp nơi, một
thời gian ngắn vẫn có nhiều người hỏi nên niệm Phật như thế nào chắc được Vãng
Sanh? Thế là chúng tôi phải tìm tòi, nghiên cứu viết sao cho chư vị ấy dễ áp
dụng.
Các bực cổ -đức có dạy rất nhiều
cách niệm Phật. Nếu viết hết ra đây chắc chư liên hữu càng rối rắm thêm, nên ở
đây chúng tôi chọn lựa vài cách. Chư liên hữu nên áp dúng thử các cách dưới đây
và chọn lại cách nào thích hợp với mình. Chúng tôi cũng ghi lại vài câu chuyện
để chư liên hữu rút lấy kinh-nghiệm.
Dưới đây là cách dạy của chư
Tôn-Đức.
Vĩnh -Minh Đại -sư: Ngài dạy, mỗi
ngày ngoài một muôn câu Phật hiệu, còn phải tu các hạnh khác gồm 108 môn. Đây
là viên tu của bậc Thượng Thượng Căn.
Ấn-Quang Đại-sư: Dạy hành giả tu
Thuần Tịnh, nghĩa là chỉ chuyên niệm Phật, không xen tạp môn nào khác. Khi niệm
Phật nên dùng "Ký Thập Trì Danh", nghĩa là niệm một hơi lấy mỗi mười
câu làm đơn vị rồi ghi số. Người hơi ngắn có thể niệm thành hai lượt mỗi lượt 5
câu. Niệm mỗi mười câu, lần một hạt chuỗi. Niệm cách này, tâm phải tập trung
vào niệm Phật, mà còn phải nhớ lần chuỗi, ghi số. Cho nên tâm phải chuyên. Cách
này có thể gọi là công cứ niệm Phật, hoặc cổ châu trì danh.
Điều quan trọng là phải giữ định số
mỗi ngày, không tham lam nhiều hơn, hoặc bê trễ ít hơn.
- Ngẫu-Ích Đại-sư:
Muốn đi đến cảnh giới "Nhứt
Tâm Bất loạn" không có cách chi kỳ diệu khác. Trước tiên hành giả cần lần
chuỗi ghi số, niệm niệm rành rẽ rõ ràng, mỗi ngày hoặc ba muôn, năm muôn, cho
đến mười muôn, giữ khoá trình quyết định chẳng thiếu, thề một đời không thay
đổi.
Niệm như thế lâu ngày thuần thục,
không niệm vẫn tự niệm, chừng ấy ghi số hay không ghi số cũng được (Ngài
Ngẫu-Ích niệm một hơi mười Phật hiệu, thành một niệm Người già không nên áp
dụng).
Đạo Nguyên Pháp Sư: Nếu rèn luyện
cho tinh thuần, mỗi ngày hành giả có thể niệm muôn câu Phật hiệu. Nhưng phải y
theo mấy điều kiện:
1. Phải ngồi mà niệm. Tuy đi đứng
nằm ngồi đều có thể niệm Phật, nhưng muốn niệm cho mau mà vẫn nghe được rành rẽ
rõ ràng, thì nên ngồi mới thích hợp.
2. Nên dùng chuỗi nhẹ và lấy mười
câu làm một đơn vị. Bởi niệm mau mà mỗi câu đều lần một hạt chuỗi, e tay lần
không kịp, dù có kịp cũng dễ bị chứng đau gân tay và mỏi nhức chả vai.
3. Chỉ niệm bốn chữ A-Di-Đà Phật, rút ngắn chữ, có thể lên đến một muôn năm
ngàn câu.
4. Phải niệm theo lối Kim-Cang-Trì,
nghĩa là chỉ sẽ động môi mà thôi. Nếu niệm thầm hoặc ra tiếng, sợ e niệm không
được mau, và khi cổ động cho tiếng phát ra khỏi miệng phải mất một khoảng thời
gian. Niệm ra tiếng một muôn câu, đổi lại niệm theo lối Kim-Cang-trì, có thể
lên đến hai ba muôn câu.
Từ Vân Pháp Sư
Đây là cách niệm Phật "Nhập
Phẩm" của Ngài Từ Vân. Căn cứ theo Kinh Quán Vô-Lượng-Thọ, Ngài chế ra
cách niệm Phật này dành riêng cho người quá bận việc, có thể niệm Phật và Vãng
Sanh Cực-Lạc. Phương-pháp này gồm có mười niệm, mỗi niệm là một hơi thở, mật ý
đi về chỗ "mượn hơi nhiếp tâm". Người hơi dài có thể một hơi niệm
mười mấy câu, kẻ hơi ngắn chỉ bảy, tám câu cũng được. Cứ mỗi hơi niệm Phật là
một niệm. Sau khi niệm xong mười hơi, tiếp tục đọc bài kệ hồi hướng như sau:
Nguyện Sanh Tây-Phương cõi Tịnh-Độ
Mẹ cha là chín phẩm sen lành
Hoa nở thấy Phật ngộ Vô sanh
Độ tất cả loài hàm thức.
Tịnh-Không Pháp Sư
Phần trình bày của Hoà-Thượng
Tịnh-Không rất dài, nhưng rất có giá trị, mong rằng chúng tôi trình bày không
sai lạc ý của Ngài (chính vì vậy mà chúng tôi đã gởi trước sách này qua Úc để
nhờ Cư-sĩ Thanh Trí đệ tử của Hoà-Thượng xem lại dùm. Vì cư sĩ Thanh Trí đã
chuyển ngữ và đọc băng các sách của Hoà-Thượng)
Hoà-Thượng nói:
"Phật có truyền dạy cho chúng
ta một phương-pháp vô cùng thù thắng và tiện lợi để có thể dự vào cảnh giới vô
trụ của các Ngài, đó là pháp môn Niệm Phật. Bồ-Tát trụ ở lục độ, quí vị trụ ở
Phật trụ, như vậy là quí vị được nâng cao hơn đẳng cấp của Bồ-Tát. Thế nhưng,
niệm Phật quí vị phải tương ưng.
Thế nào gọi là tương ứng?
Mỗi một tiếng niệm Phật, quí vị
phải trải lòng từ bi của mình đến với tất cả chúng sanh trong hư không và lan
rộng khắp pháp giới. Mỗi tiếng niệm Phật đều vì lợi ích cho chúng sanh, đều
mang lòng muốn ban vui cứu khổ đến mọi loài.
Có người hỏi: tiếng niệm Phật của
chúng ta, thực tế có lan rộng đến hư không cách pháp giới không? Khẳng định là
được. Trong kinh, Phật thường nói "tướng không rời tâm, tâm không rời
tướng", cái chơn tâm của chúng ta nguyên gốc của nó rộng khắp hư không,
trùm khắp pháp giới.
Sở dĩ tiếng niệm Phật của chúng ta không hoà nhập vào với hư không được, vì
chúng ta còn nhiều vọng tưởng phân biệt và chấp trước làm chướng ngại bản năng
tự nhiên của mình. Nếu âm ba của tiếng niệm hoà nhập với âm ba của tâm (chơn
tâm) lan rộng vào hư không tiến sâu vào khắp pháp giới; dù cho chư Phật thuyết
pháp ở xa xôi, bất luận nơi nào, một khi tâm đã lắng đọng không còn chướng
ngại, chúng ta vẫn có thể nghe được âm thanh lời pháp của các Ngài rất rõ ràng.
Cho nên mở rộng tâm lượng trong
pháp môn niệm Phật là một phương-pháp rất vi diệu, rất đặc biệt thì thắng có
thể khiến phàm phu trong một kiếp được bình đẳng thành Phật.
Tóm lại công-phu niệm Phật có đắc
lực hay không chúng ta có thể thấy biết, qua cảnh giới của tâm lượng và sắc
tướng của người đó. Một khi công phu niệm Phật đắc lực rồi, chắc chắn trên
gương mặt của quí vị sẽ luôn toả ra niềm vui an lạc, tự tại, trong đạo Phật gọi
là pháp Hỷ sung mãn.
Làm sao diệt được vọng niệm, vọng tưởng? Hoà-Thượng Tịnh-Không giảng trong bài
Pháp môn Nhị Lực (dành cho người "Phật Thất" niệm Phật một ngày).
Bởi suốt một ngày một đêm chỉ
duy-nhứt giữ câu A-Di-Đà Phật, tất cả vọng niệm suy nghĩ khác không còn nữa. Cả
phân biệt và chấp trước làm chướng ngại bản năng tự nhiên của mình cũng không
còn nữa. Vọng niệm không còn thì những việc ác không thể xảy ra. Như vậy là xa
lìa tất cả ác. Một câu vạn đức hồng danh, thiện pháp cao tột của thế -gian và
xuất thế -gian, chúng ta đã chấp trì từng câu liên tiếp không ngừng để tăng
trưởng thiện căn, đó là tất cả điều-thiện. Ý nghĩa câu đạt nhứt thiết Đà-la-ni
là như vậy. Đó là sự chứng nhập Tam-ma-địa còn đạt nhứt-thiết Đà-la-ni, người
Trung Hoa dịch là Tổng Trì là làm tất cả điều thiện, xa lìa tất cả việc ác.
Khi bước chân vào Niệm Phật Đường,
quí vị đã đạt được nhứt-thiết Đà-la-ni, nhưng vừa rời khỏi liền quên mất công
phu niệm Phật.
Tuy nhiên, nếu trong một tuần bảy
ngày, quí vị có một ngày chuyên nhất niệm Phật, đạt được tâm không sanh không
diệt và đạt nhứt thiết Đà-la-ni như vậy quý vị cũng đã giỏi lắm. Mỗi tuần một
ngày đến niệm Phật đường; niệm liên tiếp ba năm công phu của quý vị thật đáng
nể phục. Nếu có thời giờ rảnh rổi, mỗi ngày đều đến niệm Phật trong vòng ba năm
thôi, quý vị sẽ thành Phật. Bao nhiêu nghiệp tội trong vô-lượng kiếp đều dứt
sạch.
Hoà-Thượng Tịnh-Không có lối dẫn
dắt con người vào pháp tu niệm Phật thật hay. Nếu mỗi tuần chư liên-hữu đến dự
Phật Thất một hoặc hai ngày, như cuối năm vừa qua chúng tôi kêu gọi chư
liên-hữu dự Phật Thất tại chùa Long Thiền ở Cali, thì công phu chư vị sẽ tăng
tiến đáng nể phục. Rất tiếc ngay sau đó Ni Sư Thanh-Hà lâm bịnh, nên việc Phật
thất bất thành. Còn như Hoà-Thượng Tịnh -Không nói, nếu mỗi ngày chúng ta đều
đến niệm Phật trong vòng 3 năm, bao nhiêu nghiệp tội trong vô-lượng kiếp đều
dứt sạch, thì chúng ta sẽ Vãng Sanh thành Phật ngay.