Hoà-Thượng giảng giới thứ ba tức là
"Thâu Đạo".
Thâu Đạo nói ở đây chẳng phải là
trộm cắp đồ vật con người. Những ngôn hành gian trá, quái lạ, huyền hoặc khủng
động (huyền là khoe khoang, hoặc là mê hoặc người, khủng là khủng bố hăm doạ)
cách làm này mục đích của nó là mong cầu được cúng dường, tham đồ lanh lợi, tất
cả đều là Đạo giới. Cho đến một niệm mong cầu lấy được lợi dưỡng, đều là Thâu
Đạo.
Do đây có thể biết, giới Đạo trong
Phật pháp phạm vi vô cùng rộng lớn. Bất luận anh hùng thủ đoạn gì để đạt được
danh lợi, đều gọi là trộm cắp (thâu đạo). Điều này chúng ta không thể không cẩn
thận.
Người xuất gia, nhận sự cúng dường
của tín -chúng tại gia, có cho là trộm cắp hay không? Điều này phải tự hiểu
mình. Nếu chúng ta dùng các thứ phương-pháp hy vọng có được cúng dường, là đã
phạm giới trộm cắp.
Chúng ta trong tâm không có một
niệm, người ta tự đống đến cúng dường, tuyệt đối không dùng phương-pháp để dụ
dỗ họ; đó là không phạm giới trộm cắp. Nhưng quý vị nên ghi nhớ, Phật môn
thường nói: "Một hạt gạo của thí chủ, lớn như núi Tu Di. Kiếp này không liễu
đạo thì phải mang sừng, đội lông để trả". Những gì hôm nay thí chủ cúng
dường cho chúng ta, chúng ta phải thật sự thành tựu. Cái thành tựu thấp nhứt là
vãng sanh đến Tây Phương Cực Lạc thế giới. Những người cúng dường đều có phước,
sanh về Tây Phương Cực Lạc thế giới thì một đời hoàn thành Phật đạo. Họ giúp
anh thành tựu đạo nghiệp, họ có phước. Nếu như Tây Phương Cực Lạc thế giới chưa
đi được thì những cúng dường là, họ cho ta mượn, tương lai đều phải trả. Nói
một cách khác, anh mượn nhiều thì tương lai phải trả nhiều, mượn ít thì trả ít.
Bây giờ dùng nó thì rất tiện, dùng càng nhiều càng tốt, khi trả thì phiền phức.
Lúc mượn ít thì khi trả cũng ít. Món nợ này phải trả cho đàng hoàng.
Bởi vậy thời đại hiện nay và trước
kia không giống nhau. Trước kia, người xuất gia nhận cúng dường là "tứ sự
cúng dường", (tứ sự là thức ăn, uống, ngoạ cụ, thuốc men). Hiện nay thì
dùng tiền để thay thế mọi người đều cúng tiền. Tiền cúng dường càng ngày càng
nhiều. Khi không có tiền thì có đạo tâm, khi vừa có tiền nhiều thì mê. Cho nên
tôi thường nói, cư sĩ tại gia nên cẩn thận việc cúng dường. Người xuất gia này
có đạo tâm, cuối cùng thí chủ làm cho họ mê, lôi họ trở lại thế tục, khiến họ
phạm tội. Nên cư sĩ tại gia cũng vậy, cũng đều có lỗi, nên ta phải đề cao cảnh
giác. Bất luận thế nào, anh ra khỏi Tam giới. Tương lai sẽ phải trả nợ. Tôi học
Phật, những đạo lý này tôi lo rất rõ ràng, rất minh bạch, cho nên tôi rất cẩn
thận. Tôi có cách làm của tôi. Họ đến cúng dường không nhận thì không được.
Nhứt định phải kết duyên với họ. Phải tiếp nhận cúng dường. Sau khi tiếp nhận
rồi, tôi đem nó bố thí hết. Trong việc bố thí của tôi, điều khoản lớn nhứt là
in kinh. In kinh bố thí. Nếu tôi không ra khỏi Tam giới, thì những người này
trả nợ cho tôi.
Lời thêm của Tịnh-Hải:
Vừa qua có nhiều Liên hữu viết thơ
hoặc gọi điện thoại, hỏi chúng tôi: "Tại sao kinh nói thời mạt pháp kinh
điển sẽ mất dần, mà bây giờ chúng tôi thấy kinh sách, băng cassette dẫy đầy vậy?"
Chúng tôi đáp: "Lời kinh không sai. Nhưng các bực tôn đức Tăng Ni và cư sĩ
muốn cho Phật pháp được còn lâu dài với thế gian, nên đã cố gắng in kinh, sách,
Kinh Đại Niết Bàn nói: "Ngày nào người thọ trì đọc tụng Kinh Đại Niết Bàn
bị khinh chê; dó là thời kỳ Phật pháp sắp diệt".
Hoà-Thượng Tịnh-Không tiếp, chúng
ta xem phần Kinh Văn:
" A-Nan! Lại như chúng sanh
lục đạo trong thế giới, tâm không thâu đạo, thì không theo dòng sanh tử nối
tiếp".
Nói một cách khác: nếu có ý niệm
trộm cắp thì không ra khỏi luân hồi, thì không thể liễu sanh tử.
Ông tu pháp Tam-muội, cố ra khỏi trần lao, nếu lòng thâu đạo không trừ, thì
không ra khỏi trần lao được.
Trần lao ở đây là chỉ cho tam giới,
lục đạo.
Dầu có nhiều trí thiền định hiện
tiền, nếu không đoạn được lòng thâu đạo, chắc phải lạc vào tà đạo, hạng trên
thì thành tinh linh, hạng giữa thì thành yêu mị, hạng dưới thì thành người tà
đạo, bị các loài quỷ mị nhập vào; các bọn tà đạo cũng có đồ-chúng mỗi mỗi tự
xưng là thành đạo Vô-Thượng"
Người Trung Quốc gọi bọn Tà đạo là
yêu tinh.
Không đoạn Dâm mà tu đạo Bồ -Đề đều
rơi vào Ma đạo. Không đoạn Sát thì rơi vào Quỹ Đạo. Không đoạn Thâu Đạo, thì
thành Yêu Tinh. Đầy là Yêu - Ma - Quỷ - Quái.
Những loại Yêu-Ma-Quỷ Quái này,
thời kỳ Mạt pháp rất nhiều. Nếu chúng ta bình tĩnh mà quan sát thường thường có
thể thấy được. Nhưng quan trọng nhứt, chúng ta phải bình tĩnh mà suy nghĩ, xem
mình có phải Yêu - Ma - Quỷ Quái hay không? Đây mới là quan trọng.
Thời đại này Pháp nhược, Ma cường,
chúng ta cũng không thể đắc tội với chúng. Cho nên, thái độ của chúng ta là
phải "kính nhi viễn chi".
Kinh dạy tiếp:
"Sau khi ta diệt độ rồi, trong
đời mạt pháp có nhiều những hạng yêu mị tà đạo ấy sôi nổi trong thế gian, chúng
lén lút gian dối, tự xưng là Thiên-trí -thức, mỗi người tự xưng đã được
đạo-pháp thượng nhân, lừa gạt kẻ không biết, doạ -dẫm khiến cho mất lòng chánh
tín; chúng đi qua đến đâu, cửa nhà người ta đều bị hao-tổn tan-nát".
Hoà -Thượng Tịnh -Không nói:
Những thứ yêu ma quỷ quái này, thứ
lớn đều có thần thông. Thần thông rất làm mê hoặc người. Nếu qua lại vói nó,
vài năm sau, qua lời Phật nói trong kinh cửa nhà hao tổn tan nát. Lúc đó hối
hận cũng không kịp nữa. Điều này không thể không biết. Điều bất hạnh nhứt là đã
bị trúng độc rất sâu, biến thành thần -kinh phân liệt (đây là danh từ khoa học
hiện nay) phải vào bịnh viện tâm thần (nhà thương điên) không cứu được nữa.
Tương lai một đời người bị huỷ hoại mất. Tôi đã gặp rất nhiều những nạn nhân
này, đều là hạng trí -thức cao đẳng. Thậm chí có người đã đậu bằng thạc sĩ, bác
sĩ, vẫn trở thành nông nổi này. Thật là đáng thương, thật là bi ai.
Có nhiều người trúng độc nhẹ hơn
một tí, nhưng đã bị nó khống chế. Họ thường tự cảm thấy có ma ở trong người. Ý
chí của chính họ không thể tập trung, không thể làm chủ. Sức mạnh vô hình của
ma ở trong đó khống chế họ.
Có lúc tôi đang giảng kinh, họ gặp
tôi hỏi:
- Tôi đã bị ma nhập một hai năm
rồi, Pháp sư có cách gì đuổi con ma ở trong tôi không?
Tôi đáp:
- Tôi không có khả năng này. Tôi
học giáo, chứ không học qua thần thông, đối phó không nổi mấy con ma này.
Cho nên tôi mới hỏi họ:
- Ông ưa thích thần thông lắm phải
không?
- Dạ phải!
Tôi nói:
- Phải rồi, là vì ông khởi một niệm
thần thông, cùng với nó cả hai đều liên hệ lẫn nhau, thì ông đã bị hắn lừa!
Cho nên người học Phật phải biết,
Bồ-Tát A-la-hán đều có thần thông. Nhưng mà trogn Phật môn không lấy thần thông
làm Phật sự. Cái gì gọi là làm Phật sự, tức là tiếp dẫn chúng sanh, giáo hoá
chúng sanh, nhưng tuyệt đối không dùng thần thông. Vì yêu ma quỷ quái có thần
thông, nếu Phật và Bồ-Tát cũng dùng thần thông thì Phật Bồ-Tát cùng yêu ma quỷ
quái lẫn lộn phải không?
Hoà-Thượng Tịnh-Không hỏi:
"Anh từ đâu để phân biệt?" và nói: "Thế nên chư Phật, Bồ-Tát có
thần thông mà không dùng".
Đó là Ngài cố ý nói cho biết:
"Hễ thấy ai dùng thần thông, thì đó là yêu ma quỷ quái. Chớ chẳng
sai."
Lời thêm của Tịnh-Hải:
Ngày xưa, một dạo nọ, Đức Thế Tôn
đi đến bờ sông Hằng, nơi mà các đạo sĩ Bà -la-Môn thường đến để thi thố thần
thông. Một đạo sĩ mới khoe với Đức Phật rằng tôi tu đã năm mươi năm, tôi có thể
đi từ bờ sông Hằng bên này đến bờ sông Hằng bên kia mà không cần đến tiền đò.
Lúc đó Phật mới nói với vị đạo sĩ: "Ông tốn 50 năm để đi trên mặt nước
sông mà không chìm, tôi chỉ tốn 3 xu thôi". Đây là 3 xu tiền đò.
Cái tu thần thông ấy không
cần-thiết đối với người tu học Phật. Đây là lời dạy của Phật mà nhiều người
không lưu tâm, lo chạy theo thần thông. Nó chẳng có lợi gì cho người tu học
Phật. Thần thông chẳng giúp ích cho việc vượt khỏi luân hồi, vượt qua Tam giới,
hay vãng sanh Cực-Lạc. Năm mươi năm tu tập tốn bao nhiêu công-đức chẳng lợi ích
gì. Nếu năm mươi năm đó, một người suốt ngày chỉ xưng niệm không ngừng một câu
Phật hiệu, thì đã vãng sanh về Cực-Lạc ở Thượng Phẩm Thượng Sanh rồi.
Vì vậy, chúng tôi xin khuyên chư
Liên hữu đừng bao giờ quan tâm đến thần thông để tránh trở thành quyến thuộc
của ma. Vì nếu đã dính vào, thì việc thoát khỏi luân hồi trở nên khó khăn.
Hòa-Thượng Tịnh-Không nói:
"Anh hiếu kỳ thì bị bọn yêu ma quỷ quái lừa. Tâm anh phải thuần chính. Đối
với những trò kỳ quái này, không nghe không hỏi, sống trong an-nhiên, ma đối
với anh cũng chẳng làm chi được. Chúng không thể nhập vào người anh. Điều này
chúng ta cần phải biết. Chúng ta cũng không thể dùng phương pháp dối trá đó để
dụ hoặc những đồng tu. Phải biết quả báo vô cùng đáng sợ. Nếu anh dùng những
thứ này, nói một cách khác, là anh tự cam chịu đoạ lạc. Sau khi bị đoạ lạc, tương
lai từ trong ác đạo trở ra, vẫn phải trả nợ. Không thể nói, sau khi tôi đã đoạ
lạc thì nợ không cần phải trả. Không có chuyện dễ dàng như vậy. Vẫn phải y theo
như cũ mà trả nợ.
Xem tiếp Kinh Văn phía trước:
- Ta dạy hàng Tỳ Kheo thứ lớp khất
thực để bỏ lòng tham, thành đạo Bồ-Đề. Các hàng Tỳ Kheo không tự nấu ăn, gởi
cái sống thừa tạm bợ, phiêu bạt trong ba cõi thị hiện một phen đi về, đi rồi
không trở lại nữa.
Hoà-Thượng nói: "Đoạn khai thị
này rất quang trọng, nếu như thật sự y theo mấy câu khai thị này mà phụng hành,
có thể nói: "Người này là người thật sự giác ngộ". Chúng ta hiện nay
ở trong xã-hội hiện đại. Tuy rằng hiện nay chế độ khất thực không còn tồn tại.
Vào thời xưa, giữa đời nhà Đường bắt đầu, Mã-Tồ kiến-thiết tòng lâm, Bá Trượng
lập thanh quy. Đây là hai vị Đại Đức theo sự ghi chép sử truyền, là Đại Bồ-Tát
tái lai, giúp đỡ cho Phật giáo đi vào khuôn mẫu Trung quốc hoá. Bá-Trượng đã
hiện đại hoá Phật giáo Trung-Hoa, khiến sanh hoạt của kẻ xuất gia, một mặt vì
tự mình để canh tác tự lực kiếm ăn. Bá-Trượng Đại sư nói, một ngày không làm,
một ngày không ăn. Điều này khác với chế độ nguyên thuỷ Ấn-Độ hoàn toàn khác
nhau.
Cho nên, đoạn trước đã trình bày với quý vị, trong giới luật chỉ có 4 trọng
giới Sát - Đạo - Dâm - Vọng là vượt khỏi thời gian không gian. Bất luận xưa hay
nay, ở Trung Quốc, Ấn-Độ hay bất cứ nược Phật giáo nào, cũng đều không thay đổi.
Ngoài ra tuỳ địa phương, hoàn cảnh sanh hoạt xã -hội mà có thể tu chính.
Chúng ta gọi Thanh Quy, là giới
luật đã được hiện-đại hoá. Hiện nay tuy là nhận được sự cúng dường của tín đồ,
chúng ta không cần tự lực kiếm ăn. Đức Phật Thích Ca dạy khất thực là để diệt
trừ tham niệm. Chúng ta phải nắm vững tinh thần này, đoạn trừ tâm tham (trong
gới Thâu Đạo là cũng trừ tâm tham). Cho nên, sanh hoạt cần phải đơn giản. Mỗi
ngày chúng ta có thể ăn được no, có thể mặc được ấm là có thể an tâm tu rồi.
Những cái còn thừa lại đừng nên cất giữ. Phật trong kinh thường nói: "Tập
tài tán đạo". Tiền bạc chẳng phải là đồ tốt. Anh xem tiền tài, Trung Quốc
gọi là thông hoá. Thông là lưu thông, Anh tập trung nó lại là không thông, khi
không thông là thối. Nước nếu không thông thì thối, phải làm cho nó chảy thông.
Tiền tài cũng phải lưu thông đừng nên tích trữ. Chúng ta đã đủ dùng rồi, còn
lại thì nên đem mà bố thí. Xoay quầng bố thí. Cái cần bố thí nhứt là tinh thần.
Cuộc sống tinh thần ngày nay nói chung quá ư nghèo túng. Cái quan trọng nhứt là
Chánh-pháp. Bố-thí Phật pháp, bố-thí Chánh-pháp đều có thể cứu vãn thế đạo,
nhơn tâm. Chỉ cần chúng ta tận tâm, tận lực để làm. Thật là công-đức vô lượng.
Cho nên tôi thường hay khuyên quý
vị phải tu bố thí. Anh tu bố thí tài, anh được giàu có, một đời anh tiền tài
chi dụng không thiếu thốn. Anh tu bố thí pháp, được thông-minh trí tuệ. Trong
bất cứ hoàn cảnh nào, sẽ không bị mê-hoặc điên đảo. Anh tu bố thí vô-uý, anh
nhứt định khoẻ mạnh sống lâu. Tiền tài, trí tuệ, khoẻ mạnh sống lâu, chúng ta
đều cần đến tại sao không tu?
Trước khi chưa xuất gia, tôi tạo
nghiệp sát rất nặng. Sau khi tôi xuất gia học Phật, tôi biết được nhơn quả đáng
sợ. Tôi tận tâm tận lực để tu bố thí. Khi ngày đầu tiên xin đi tu, tôi gặp
Chương-gia Đại sư, tôi nêu ra một vấn đề - vì lúc ấy đối với Phật pháp tôi có
chút ít nhận thức - rằng Phật pháp rất hay, tôi muốn học, có cách nào giúp tôi
đi nhanh vào vần-đề không?
Khi tôi đặt ra vấn-đề này, Ngài trố
mắt nhìn tôi, suốt nửa giờ một lời cũng chẳng nói. Ngài tập trung đăm đăm nhìn
tôi. Tôi cũng nhìn Ngài. Nửa giờ sau, tâm đọng lại, vọng niệm tiêu mất. Ngài
mới nói lên sáu chữ: Nhìn được thấu, buông được xuống". Mỗi chữ Ngài kéo
rất dài. Nghĩa này tôi hiểu được một tí. Tôi lại hỏi: "Xin thỉnh giáo Đại
sư, vấn-đề phải từ đâu hạ thủ?" Lần này thời gian không dài như trước.
Đại-khái cũng mất 15 phút. Rồi Ngài thốt ra hai tiếng: "Bố-Thí!"
Cho nên chiều sâu của ấn-tượng này, một đời của tôi vẫn vĩnh viễn không quên
Tôi cáo từ Ngài. Ngài rất từ bi đưa
tôi ra tận cửa. Tới cửa, Ngài vỗ nhẹ vai tôi, rồi nói: "Hôm nay, tôi dạy
ông sáu chữ, ông cố gắng học đàng hoàng trong sáu năm nhé!"
Ngài cho tôi một câu như vậy. Tôi
thật biết luân hồi. Tôi thật tình học hết sáu năm. Sáu năm đã xong thì có cảm
ứng. Cái cảm ứng bất khả tu nghì.
Anh không chịu tu thì không có cảm
ứng. Anh chịu-tu thì có cảm ứng. Sau một thời gian tu học Phật pháp, tôi liền
có ý muốn xuất gia. Lúc đó tôi ở Đài-Loan chỉ có một mình, không gia đình nhà
cửa. Tôi nói tôi theo đuổi ngành này rất thích hợp. Tôi bèn báo cáo với Đại sư.
Đại sư bảo tôi: "Ông không cần đi tìm đạo tràng, không cần tìm thầy."
Tôi nói: "Vậy tôi làm sao xuất gia?". Ngài nói: "Nếu Ông đi tìm
thầy, thầy đó không chịu thí phát, vậy chẳng sanh phiền não hay sao?. Tôi nói:
"Vậy thì làm sao"? Ngài đáp: "Cầu Phật và Bồ-Tát cảm ứng!"
Ngài chỉ điểm tôi chỗ này, cho nên
tôi bố thí sáu năm, nhơn duyên thành thục, quả nhiên sư phụ đến tìm tôi, mời
tôi xuất gia. Trong một tháng mời hết chín lần. Mời thật thành-khẩn, nên tôi
nhận lời. Tôi nhận lời xuất gia, và xin một điều kiện là phải cho tôi được đi
học Phật pháp với Thầy Lý.
Lời thêm của Tịnh-Hải:
Quả đúng là Phật pháp mầu nhiệm.
Sáu năm bố thí của Ngài cảm ứng, nên Thần Hộ Pháp đã thúc giục sư-phụ đi tìm
học trò và thành-khẩn mời tới chín lần. Câu chuyện nhắc chúng tôi nhớ đến
chuyện của chú bé Bankei ở Nhật. Khi còn nhỏ Bankei thích một tượng Phật nhỏ
của vị Hoà-Thượng ở làng kế cận. Lúc đó Bankei chưa đi tu, nghĩ rằng nếu ta
thành tâm cầu nguyện một tháng chắc chắn sẽ được như ý. Thế là Bankei bắt đầu
mỗi ngày đều ngồi cầu nguyện cho tượng Phật ấy đến với Bankei. Tới chiều thứ
hai mươi chín, Ngài nói với một người bạn rằng: "Đạo Phật chắc chẳng đáng
tin". Nhưng đến chiều hôm sau, vị Hoà-Thượng đến gõ cửa và nói: "Ta
tưởng, tượng Phật này nên ở với ngươi". Từ đó Bankei tu theo đạo Phật, trở
thành Thiền sư danh tiếng.
Cầu tức có ứng! Chư Liên hữu nên
thành tâm cầu Phật, Bồ-Tát, phải chơn thành và lâu dài, chắc chắn sẽ được như ý.
Cầu nguyện vãng sanh cũng vậy, nhứt tâm niệm Phật chắc được Vãng Sanh!
Hoà-Thượng Tịnh-Không kết luận:
Pháp thế gian không tham, mà Phật
pháp cũng không tham. Vì nếu anh tham Phật pháp thì anh sẽ không tinh chuyên.
Một đời tu học của anh, có thể nói, chỉ học được ngoài da thôi, đó là Phật pháp
thường thức mà thôi. Còn tinh hoa của Phật pháp anh nhứt định không đạt được.
Muốn học được cái tinh-hoa của Phật pháp, cổ -đức thông thường dạy chúng ta:
"Phải một môn thâm nhập, anh mới đạt được". Nếu anh hiểu rõ đạo lý
này, thì ngay đến Phật pháp cũng không tham, Phật pháp cũng phải buông bỏ. Khi
còn trẻ, tôi không biết đạo lý này. Tuy thầy thường dạy nhưng tôi cũng không
tin, vẫn cứ ưa thích học rộng nghe nhiều. Những năm về trước tôi giảng Kinh Đại
Thừa rất nhiều. Hầu như mỗi địa phương mời tôi giảng kinh, yêu cầu tôi giảng
kinh thì tôi đều có thể giảng. Nhưng những năm gần đây, lần hồi giác ngộ, công
phu cũng dùng được đắc-lực, mới thật sự hiểu rõ một câu nói của cổ đức đích
thực là "Khổ khẩu bà tâm", nhứt định không gạt người.
Vì vậy tôi đem tất cả Kinh Đại Thừa
thảy đều buông xuống; học Ngài Liên-Trì-Đại sư, Tam Tạng thập nhị bộ (tức 12 bộ
Kinh) nhường cho kẻ khác ngộ; tám vạn bốn ngàn hạnh mặc cho người khác hành.
Còn tôi thì từ nay một cuốn Kinh Vô Lượng-Thọ, một câu A-Di-Đà Phật một môn
thâm nhập.
Cho nên bảy năm nay, Kinh Vô Lượng
-Thọ tôi đã giảng rất nhiều lần. Mỗi lần giảng đều không giống nhau, cảnh giới
một lần giảng đều khác nhau. Mỗi lần tâm đắc đều khác nhau. Mỗi một lần thụ
dụng đều khác nhau. Đều là từ chuyên, từ tinh mà có được. Đây là kinh-nghiệm
trogn 40 năm tu học của chính tôi. Cho nên học quá nhiều, chưa hẳn là việc hay.
Nay Phật Học Viện mời tôi đi dạy, tôi không dám, vì tôi biết cách đó sẽ không
thể thành tựu. Vì đó gọi là "xào thập cẩm", không phải tinh-chuyên,
rất khó thành tựu.
(Điều này chúng ta nhớ đến vị Hoà
-Thượng xe buýt Việt Nam, Ngài Thích-Trí-Chơn. Hoà-Thượng quyết từ đây chỉ
giảng Kinh Niệm Phật Ba-La-Mật, và giữ chặt một câu Nam Mô A-Di-Đà Phật).
Hòa-Thượng Tịnh-Không tiếp:
"Đây là sau khi thật sự giác-ngộ rồi hạ quyết tâm: "Tâm tham đoạn
trừ". Tự mình biết được, ở thế giới Ta bà này, trong xã-hội hiện -thực này
của chúng ta; thân của ta nay gọi là thân sau cùng, lần sau không đến nữa, vì
đã vượt khỏi Tam giới luân hồi. Một phen đi rồi không trở lại nữa. Lần này tôi
đến, lần sau không đến nữa. Lần sau đi về Tây Phương Cực-Lạc Thế giới mất rồi.
Không trở lại nữa. Dù cho lần sau có đến nữa, đó là thân phận của Bồ-Tát
tình-nguyện trở lại. Tuyệt đối chẳng phải là phàm phu vì nghiệp lực mà đến đầu
thai. Như vậy là chính xác. Phải nhứt định vững vàng hạnh nguyện. Phải y giáo
phụng hành. Thoát ly tất cả chướng ngại, trong một đời này chắc chắn thành tựu.
Hoà-Thượng đọc tiếp kinh:
"Làm sao, bọn giặc cướp mượn y
phục của ta, buôn bán Như-Lai, gây các thứ nghiệp mà đều gọi là Phật pháp, lại
còn chê bai các vị Tỳ-Kheo đầy đủ giới luật xuất gia là đạo Tiểu-Thừa; do đây
làm Vô lượng chúng sanh mắc phải nghi-lầm, nên sẽ bị đoạ vào ngục vô gián
ĐỐI THOẠI GIỮA PHẬT VÀ MA BA-TUẦN
Đoạn này Thế-Tôn chỉ rõ thời kỳ mạt
pháp, cái gọi là Ma con, Ma cháu thừa lúc Phật-pháp suy vi, trà trộn vào trong
Tăng đoàn phá hoại chánh-pháp. Sự thật này, trong kinh điển, Phật từng nói qua
với chúng ta. Khi Thế-Tôn còn tại thế, Ma Vương từng nói với Phật rằng:
"Chúng tôi sẽ phá-hoại Phật pháp!"
Phật mới nói với chúng nó:
"Chư Phật Như-Lai, chỗ nói chánh-pháp bất cứ loại Ma ngoại nào cùng không
thể phá hoại được".
Ma mới nói: "Chờ đến ông vào
thời kỳ Mạt pháp, tôi sẽ bảo Ma con, Ma chúa của tôi, tất cả đều xuất gia, đều
khoát lên cà sa để phá-hoại Phật pháp".
Nghe xong, Phật chẳng nói một lời,
mà chỉ rơi nước mắt.
Đó là chỉ cho lời Phật nói trong
Kinh. Cho nên Phật nói: "Tỷ như Sư tử trùng, hoàn thực sư tử nhục"
(có nghĩa là khi con sư tử chết, không con vật nào dám ăn thịt sư tử cả. Nhưng
giòi bọ bên trong thân sư tử lại ăn thịt sư tử). Đây là người hiện nay nói,
chúng ta thâm sâu vào trong cửa Phật, chúng nó thật sự chẳng phải là đệ tử
Phật. Chúng nó là yêu ma quỷ quái, thâm sâu vào trong Tăng-đoàn. Bởi thế cho
nên Phật tử chân chánh, không chỉ là xuất gia, tại gia cũng chẳng ngoại lệ, tứ
chúng đồng tu đều phải có tuệ nhãn, đều phải phân biệt. Nhứt là tự mình thường
thường phải kiểm-điểm phản tỉnh, chúng ta có bị những yêu ma quỷ quái này làm
ô-nhiễm hay không? có bị chúng làm ảnh-hưởng không? có bị chúng lôi vào hầm lửa
không?
Bọn giặc là chỉ cho yêu ma quỷ
quái, kể cả ma quỷ phía trước đều gồm luôn trong đó; cũng gồm luôn vọng ngữ ở
phần sau.
Kinh nói: "Mượn y phục của ta,
chúng cũng xuất gia, cũng mặc áo hải-thanh, mặc áo cà sa 'Tỳ phán Như-Lai' tức
là buôn bán Như-Lai".
Hiện nay trong xã-hội cũng có một
câu nói, đối với Phật-giáo rất là khó nghe, tôi cũng từng nghe được: "Khai
miếu điếm", tức là "buôn bán chùa chiền". Đem Phật pháp coi như
là hàng hoá để buôn bán. Đây tức là tiêu-chuẩn của việc buôn-bán Như-Lai, cũng
là thâu đạo.
Lời thêm của Tịnh-Hải:
Nơi chương bảy này, Hoà-Thượng
Tịnh-Không dạy nhiều điều rất hữu ích. Đối với chúng tôi điều căn bản là, chúng
tôi phải tìm ra chỗ nào Hoà-Thượng giảng liên-quan đến câu hỏi của chúng tôi:
[b]"Niệm Phật cách' nào chắc được Vãng Sanh?"
Từ đầu sách đến đây, chúng tôi đã
lập đi lập lại ở nhiều chỗ, chỉ mong chư Liên hữu lưu ý điểm quan trọng này và
giữ nằm lòng. Nơi chương Tổng Kết-luận chúng tôi sẽ tóm tắt lại.
Hoà-Thượng Tịnh-Không tu học 40
năm, chuyên dạy rất nhiều kinh-điển Đại-Thừa. Nhưng rồi Ngài giác-ngộ, biết
rằng nếu muốn được Vãng Sanh Cực -Lạc, phải đúng lời Thầy của Ngài dạy. Thầy
của Hoà-Thượng, là Cư-sĩ Lý-bỉnh-Nam, dạy rằng: "Phải một môn thâm nhập
anh mới đạt được".
Rồi Hoà -Thượng nói:
- Vì vậy tôi đem tất cả kinh
Đại-Thừa đều buông xuống, học Ngài Liên-Trì Đại sư, Tam Tạng thập nhị bộ Kinh
nhường cho kẻ khác ngộ. Còn tôi thì nay một cuốn Kinh Vô Lượng-Thọ, một câu
A-Di-Đà Phật, một môn thâm nhập.
HIện nay tại các chùa Việt -Nam đa
số các Sư vẫn trì tụng và giảng dạy đủ các kinh Đại-Thừa. Hành sử như
Hoà-Thượng Tịnh-Không đúng hay sai Phập-pháp? Ngài đã buông bỏ tất cả, chỉ dùng
cuốn Kinh Vô Lượng Thọ có đúng không?
Thật tình mà nói, trong Kinh Niệm
Phật Ba-la-Mật dạy rõ ràng:
"Muốn Vãng Sanh Cực-Lạc chỉ
cần xưng niệm danh hiệu Phật là đủ. Vì danh hiệu. Phật chính là biểu-tướng của
Pháp Thân, cho nên niệm danh hiệu tức là niệm Pháp thân Phật, và người niệm
Phật khỏi phải kiêm thêm pháp môn nào nữa".
Lời Đức Phật dạy thật rất rõ ràng
"Muốn Vãng Sanh Cực-Lạc chỉ cần niệm danh hiệu Phật, khỏi phải kiêm thêm
pháp môn nào nữa!"
Mỗi chúng sanh chúng ta tu theo
Phật, để làm gì?
Chúng ta tu Tịnh Độ, niệm danh-hiệu
A-Di-Đà Phật để làm gì? Để Vãng Sanh Cực-Lạc? Hay để được phước báu cõi Trời,
hay để được lại thân người? Nếu chúng ta thật sự muốn Vãng Sanh nên nghe lời
dạy của Hoà-Thượng Tịnh-Không.
Chư vị nào đã đọc cuốn Đường Về Cực
-Lạc của Hoà -Thượng Thích -Trí -Tịnh chắc là nhớ chuyện Giác Minh Diệu -Hạnh
Bồ -Tát. Ngài là bậc đã Vãng Sanh Cực -Lạc, sau đó, do tâm nguyện Ngài trở lại
Ta bà để độ chúng sanh trong nhiều đời. Ngài dạy:
"Trong thất chỉ cúng một tượng
Phật, một bộ kinh, một bàn thờ, một lư hương, một bàn, một ghế. Chẳng nên để
nhiều đồ vật khác".
Tổ sử Ấn-Quang cũng chỉ có một
tượng Phật trong thất. Vì kinh nói, niệm một danh hiệu Phật, đồng như niệm mười
phương chư Phật. Cho nên Giác Minh Diệu-Hạnh Bồ-Tát nói một tượng Phật, một bộ
kinh là đủ.
Đây là thời Mạt pháp căn cơ chúng
sanh cạn cợt, tâm trí yếu kém, nếu ta tập trung vào một vị Phật, đó là Phật
A-Di-Đà thì sẽ dễ dàng hơn. Nhiều người sợ mình đã quen niệm Phật Thích-Ca,
Phật Dược-Sư, bây giờ chỉ niệm Phật A-Di-Đà chẳng rõ có bị chư Phật giận không?
Chắc chắn các Ngài không giận đâu.
Phật dạy tu đừng có chấp, cho nên các Ngài không bao giờ chấp.
Kinh sách có câu: "Cúng dường
mười phương ba đời chư Phật, không bằng cúng dường một người vô tâm!"
Người vô tâm là ông Phật của mình.
Mình niệm một danh hiệu để chắc được Vãng Sanh để được thành Phật, thì Phật đâu
có bắt lỗi. Tuy nhiên, đầu các thời khoá niệm Phật, cũng có thể niệm tất cả chư
Phật một lần.
Chúng tôi thật buồn, khi nghe một
số băng giảng, có Sư nói rằng được lên Cõi Trời là quý lắm rồi. Đây là Sư chẳng
giúp chúng sanh thoát khỏi Tam giới. Đó là sai với Chánh-pháp của Phật.
Viết sách này, mục đích chúng tôi
là xiển dương pháp môn Niệm Phật, muốn tất cả chư Liên hữu đều được Vãng Sanh
Cực-Lạc. Chúng tôi tha thiết muốn được thấy chư Liên hữu, những bạn sen của
chúng tôi đều nên hiểu, nếu muốn chắc được Vãng Sanh nên nhứt tâm niệm
danh-hiệu Phật là đủ, khỏi kiếm thêm pháp môn nào khác.
Tóm lại, theo sự hiểu biết của
chúng tôi, chẳng những Hoà-Thượng Tịnh-Không giảng về Pháp môn Vãng Sanh không
sai Chánh-pháp, mà còn thật thù thắng, thật độc đáo.
Chính vì lẽ này, mà khi chúng tôi đã viết nửa phần sách này liền bỏ đi, ra công
nghe bộ băng 10 cuốn và ghi chép thật tốn nhiều thì giờ. Nhưng bù lại, chư Liên
hữu Việt-Nam thêm được sự tin tưởng mà thực hành để chắc được Vãng Sanh.
Chúng tôi đã gặp rất nhiều vị, cũng
tu niệm Phật đi chùa thật siêng năng. Chúng tôi hỏi chư vị đến chùa hành trì
môn gì? Được đáp chúng tôi vừa tụng kinh Kim Cang xong, tuần này tụng
Hoa-Nghiêm, tháng tới tụng Pháp-Hoa.
Chúng tôi thở ra. Đây là tụng kinh
cho được phước đức. Muốn chắc được Vãng Sanh nên theo đúng Kinh Niệm Phật
Ba-La-Mật và lời dạy của chư Tổ và chư Tôn đức Tăng Ni đã dày công nghiêm cứu
các Kinh A-Di-Đà.
Xin chư Liên hữu nên xét lại, chỉ
cần bốn chữ A-Di-Đà Phật cho thời này cũng đầy đủ công đức, phước báu, oai lực,
thần lực, nguyện lực của Phật A-Di-Đà và chư Phật mà Vãng Sanh.
Thời này kiếm thêm pháp môn khác,
sợ không kịp, không đủ duyên để Vãng Sanh. Vì cái sợ nhứt là lúc lâm chúng đó.