Hoà-Thượng Tịnh-Không giảng tiếp
Kinh Thủ-Lăng-Nghiêm. Đây là Tôn Kinh, mà người tu tất cả các pháp môn đều phải
tu theo để chứng đắc, gọi là Tu Chứng Liễu -Nghĩa.
Cách giảng của Ngài thật đặt biệt
và rất hữu ích cho chư Liên hữu, nên chúng tôi nhân đây giúp cho chư Liên hữu
hiểu, tu theo Hoà-Thượng giảng chắc được vãng sanh.
Hoà-Thượng Tịnh-Không nói:
"Kinh Thủ-Lăng-Nghiêm, đối với
người tu Thiền mà nói, thật là hữu hiệu. Lý luận tuy là không sai, trên thực tế
về mặt dụng công thì quả thật chẳng phải là một việc quá dễ dàng.
Trong kinh-điển, Phật dạy chúng ta
mỗi người đều có sáu căn. Mỗi căn có sáu tiết. Vậy có tất cả 36 cái tiết. Tuy
căn, tiết nhiều như vậy, nhưng trên thực tế chỉ cần từ một căn mà hạ thủ. Nói
một cách khác, một căn được giải trừ là sáu căn đều viên thông.
(Trong Kinh Thủ-Lăng-Nghiêm này,
mỗi đệ tử của Phật hay các vị Bồ-Tát chỉ chứng được một căn viên thông).
Hoà-Thượng Tịnh-Không tiếp:
- Tuy nhiên, sáu tiết của một căn
(muốn giải trừ) thì cũng chẳng dễ gì. Vậy tôi xin đem danh xưng của sáu tiết
này nói sơ qua với quý vị.
Sáu tiết, cái thứ nhứt là động, thứ
hai là tịnh, thứ ba là căn, thứ tư là giác, thứ năm là sâu, thứ sáu là diệt.
Càng về sau càng khó.
Bây giờ không nói hết sáu cái.
Cái thứ nhứt anh có thể đạt được
không? Có thể giải toả được không?
Động là khởi tâm động niệm. Cho nên
Thiền Tông là từ thiền định mà hạ thủ. Sau khi được định rồi thì cái thứ nhất
là động. Cái tiết này giải trừ xong, họ ở trong định. Định là cảnh giới của
tịnh.
Còn giải cái tiết thứ hai thì kông
dễ dàng. Giả như cái tiết thứ hai giải không ra, trụ ở trong tịnh; quả báo của
nó là Tứ Thiền Thiên, không ra khỏi Tam giới. Tất cả sáu cái tiết đều giải
khỏi, thì mới "Minh Tâm Kiến Tánh", đại triệt đại ngộ.
Cho nên nói thì đơn giản, mà khi
làm quả thật là khó khăn.
Để chứng minh điều mà Hoà-Thượng
Tịnh-Không nói hoàn toàn đúng, Ngài nói tiếp:
- Trước trong Tông Thiên Thai, Đàm
Hư Lão Pháp sư vào thời năm đầu Dân Quốc là vị tổ sư cận đại của Tông Thiên
Thai, sau này ngụ tại Hong Kong khi Quốc Dân Đảng bỏ lục đại. Ngài tuổi thọ rất
cao, chín mươi mấy tuổi mới vãng sanh, Ngài đã từng nói: "Trong một đời
Ngài, cái mà Ngài thấy được, nghe được, những người tu Thiền được định Ngài có
thấy qua, nghe qua, như là nhập định bảy ngày, nửa tháng, một tháng mới xuất
định. Công phu thiền định rất là thâm hậu. Trong Thiền Tông nói Minh Tâm Kiến
Tánh, đại triệt đại ngộ, Ngài nói trong đời Ngài chưa thấy qua; nghe, cũng chưa
từng nghe qua".
(Chẳng rõ chư liên hữu có ai được
nghe các vị Thiền Sư Việt-Nam có ai được định bảy ngày, nửa tháng chăng?)
Ngài Tịnh-Không nói tiếp:
- Những người được đinh, căn cứ
công phu cạn sâu; quả báo là ở Tứ Thiền Thiên. Căn cứ công phu thiền định cạn
sâu mà đạt Sơ Thiền, Nhị Thiền, Tam Thiền, Tứ Thiền. Càng sâu nữa là đến Tứ
không Thiên của vô sắc giới, đi vãng sanh. Nhưng không thoát ra ngoài Tam giới.
Điều này chúng ta cần phải biết.
(Chữ Vãng Sanh trên đây có nghĩa là
sanh về một cõi khác, chứ chưa ra khỏi Tam giới. Mà tu theo Phật là phải chứng
quả, vượt khỏi Tam giới. Vì còn ở trong Tam giới là còn phải rơi vào ba đường
dữ. Cho nên Hoà -Thượng Tịnh-Không mới nhấn mạnh: "Điều này chúng ta cần
phải biết").
Hoà-Thượng Tịnh-Không nói tiếp: "Đàm Hư lão pháp sư bảo: niệm Phật vãng
sanh Tịnh-Độ thì thật sự có vãng sanh. Khi lâm chung không sanh bịnh, biết
trước ngày giờ. Đúng vãng sanh, ngồi vãng sanh. Ngài bảo trong đời Ngài, chính
mắt Ngài thấy được có hai mươi mấy người. Còn nghe kể thì nhiều lắm. Ngài không
có tính con số người vãng sanh nghe nói lại. Chính mắt Ngài trông thấy hai mươi
mấy người biết trước giờ chết, lâm chung không bịnh khổ, đứng vãng sanh, ngồi
vãng sanh. Đó là sự thật không thể nào giả dối. Cách vãng sanh này có thể nói
là sau khi chúng ta nhìn thấy. Một tí tơ hào nào nghi ngờ cũng chẳng có".
Lời của Tịnh-Hải:
Trong đời chúng tôi chưa từng thấy
đứng vãng sanh, ngồi vãng sanh. Nhưng có nghe nói ngồi vãng sanh, như trường
hợp Hoà-Thượng Quảng Khâm, Hoà-Thượng Thiền Tâm. Vừa qua, chúng tôi được Tịnh
Thất Viên Âm ở Santa Ana biếu một cuốn sách mang tựa Long Thư Tịnh Độ, do
Hoà-Thượng Quảng-Thiệp ấn tống trước khi ngài viên tịch. Tác giả của sách
Long-Thư Tịnh-Độ là Cư sĩ Vương-Nhựt-Hưu, đã đắc quả vãng sanh biết trước ngày
giờ. Ba ngày trước khi vãng sanh, Cư sĩ Vương-Nhựt-Hưu đi viếng thăm từ giã mọi
người trong làng. Sáng hôm sau ông vẫn giảng kinh cho đệ tử. Đến nửa đêm, ông
đứng trước bàn Phật chờ vãng sanh. Ông đang niệm Phật liền ngưng lại lớn tiếng
nói: "Phật đến rước tôi". Dứt lời ông đứng ngay thẳng, chắp tay mà
vãng sanh.
Hoà -Thượng Tịnh -Không nói tiếp:
- Sự thành tựu của Tịnh-Độ Tông
đích thật so với Thiền-Tông dễ dàng hơn. Vì thế cho nên, tu chứng liễu - nghĩa,
nếu theo pháp môn niệm Phật của chúng ta mà nói, tức là phương pháp mà
Đại-Thế-Chí Bồ-Tát dạy chúng ta trong bổn Kinh này, nhiếp cả sáu căn, tịnh niệm
nối tiếp.
Tám chữ này tức là tu chứng
liễu-nghĩa.
Bây giờ thì lại có vấn đề:
"nhiếp cả sáu căn tịnh niệm nối tiếp".
Vậy làm sao nhiếp cả sáu căn?
Lời thêm của Tịnh-Hải:
Để chư liên hữu dễ theo dõi và nắm
vững vấn đề, chúng tôi xin được phép trình bày cho rõ thêm một chút. Trong pháp
hội Thủ-Lăng-Nghiêm, theo lời yêu cầu của Đức Phật, hai mươi lăm vị Bồ-Tát
(Trong số này có một số vị thị hiện làm A-La-Hán) mỗi người trình bày chỗ tu
chứng của mình. Đại Bồ-Tát Đại-Thế-Chí trình bày môn Niệm Phật Viên Thông,
nguyên văn như sau:
Ngài Pháp-vương-tử Đại-Thế-Chí cùng
với năm mươi hai vị Bồ-Tát đồng tu một pháp-môn, liền từ chỗ ngồi đứng dậy,
đảnh lễ nơi chân Phật mà bạch Phật rằng: "Tôi nhớ hằng-sa kiếp trước, có
Đức Phật ra đời, tên là Vô-Lượng-Quang; lúc ấy mười hai Đức Như-Lai kế tiếp
nhau thành Phật trong một kiếp. Đức Phật sau hết, hiệu là Siêu-Nhật-Nguyệt-Quang,
dạy cho tôi phép Niệm-Phật-Tam-Muội. Ví như có người, một đằng chuyên nhớ, một
đằng chuyên quên, thì hai người ấy, dầu gặp cũng là không gặp, dầu thấy cũng là
không thấy; nếu hai người đều nhớ nhau, hai bên nhớ mãi khắc sâu vào tâm-niệm, thì
đồng như hình với bóng, cho đến đời này sang đời khác, không bao giờ cách xa
nhau.
Thập-phương Như-Lai thương tưởng
chúng sanh như mẹ nhớ con, nếu con trốn tránh, thì tuy nhớ, nào có ích gì; nếu
con nhớ mẹ như mẹ nhớ con, thì đời đời mẹ con không xa cách nhau.
Nếu tâm chúng sanh nhớ Phật, thì
hiện nay hay về sau, nhứt định thấy Phật; cách Phật không xa, thì không cần
phương tiện, tâm sự được khai ngộ, như người ướp hương, thì thân thể có mùi
thơm, ấy gọi là Hương-quang trang-nghiêm.
Bản nhân của tôi là dùng tâm niệm
Phật mà vào pháp Vô-sanh-nhẫn, nay ở cõi này tiếp dẫn những người niệm Phật về
cõi Tịnh-Độ.
Phật hỏi về Viên-Thông, tôi thu
nhiếp tất cả sáu căn, không có lựa chọn, tịnh niệm nối tiếp, được vào
Tam-ma-đề, đó là thứ nhứt.
Quý liên hữu đọc đoạn chót thấy mấy
chữ:
"Nhiếp cả sáu căn, tịnh niệm
nối tiếp".
Theo Hoà-Thượng Tịnh-Không, tám chữ
này là chỗ tu chứng liễu nghĩa và Ngài giải thích:
- "Câu tịnh niệm nối tiếp tất
phải nhiếp cả sáu căn".
Làm thế nào để được tịnh niệm nối
tiếp?
Nhiếp cả sáu căn thì là tịnh niệm
nối tiếp. Cho nên hai câu này có thể hổ-tương làm chú-giải cho nhau.
Chúng ta thật dụng công, chú trọng
ở câu sau. Chúng ta niệm Phật, người niệm Phật rất đông, mọi người đều niệm, có
phù hợp với tiêu-chuẩn này không? Tiêu-chuẩn này tức là tiêu-chuẩn của
liễu-nghĩa.
Tịnh là tâm địa thanh tịnh. Nếu
chúng ta niệm Phật mà vẫn còn tạp niệm, như vậy là không thanh tịnh, chẳng phải
tịnh niệm.
Tịnh niệm nhứt định là không hoài
nghi, không tạp niệm, không có một tạp niệm nào. Đây mới gọi là tịnh niệm.
Nối tiếp là không gián đoạn, tức là
không trung đoạn. Cổ-đức thường dạy cho chúng ta biết: "Niệm Phật phải
không hoài-nghi, không tạp nhạp, không gián đoạn". Đây tức là tịnh-niệm
nối tiếp. Niệm cách này nhứt định là nhiếp cả sáu căn.
Nhiếp cả sáu căn thì là không cần
gì hỏi, cũng không cần phải nghĩ đến nó, thì tự nhiên sáu căn đều nhiếp.
Cho nên đây là người niệm Phật tu
chứng liễu -nghĩa.
Còn chứng liễu -nghĩa cũng y theo
cách nói của Tịnh -độ Tông.
Cách nói của Tịnh -độ Tông đều áp
dụng Đại -Thế -Chí niệm Phật Viên-thông Chương.
Chứng liễu -nghĩa tức là Đại -Thế
-Chí chỗ nói đến, không mượn phương tiện, tự được tâm khai mở. Đây là chứng
liễu -nghĩa.
Một câu Phật hiệu niệm đến cùng,
không mượn phương tiện, tức là không cần mượn bất cứ một pháp môn nào để giúp
đỡ.
Chúng ta ở nhiều nơi nghe được, có
người chủ trương Thiền Tịnh song tu. Đó tức là mượn Thiền Tông để giúp đỡ. Có
người chủ trương Mật Tịnh song tu. Một mặt niệm Phật, một mặt lại còn trì chú,
mượn Mật Tông để giúp đỡ. Đây tức là mượn các phương tiện khác làm trợ tu.
Đại-Thế-Chí Bồ-Tát dạy chúng ta không cần, không dùng được. Một câu Phật hiệu
niệm đến cùng thì là được. Không mượn bất cứ phương-pháp nào để giúp đỡ.
Tịnh-Độ Tông chỗ nói đến là Chánh
trợ song tu. Chánh trợ là trì danh. Trợ tu cũng là trì danh. Liên Trì Đại-sư và
Ngẫu-Ích Đại sư đều dạy chúng ta như vậy.
Cho nên tu chứng liễu-nghĩa này kết
chặt trong pháp môn niệm Phật của chúng ta. Tức là trong Kinh Vô Lượng Thọ nói:
"Phát Bồ đề tâm một hướng chuyên niệm". Trong Kinh A-Di-Đà chỗ nói:
"Nhứt tâm bất loạn". Đây đích thật là "tu chứng liều-nghĩa của
Tịnh Độ Tông".
Lời thêm của Tịnh-Hải:
(Trong Kinh Niệm Phật Ba-La-Mật,
phẩm Thứ Hai, Đức Phật nói: "Muốn vãng sanh Cực Lạc chỉ cần xưng niệm
danh-hiệu Phật là đủ". Vì danh hiệu Phật là biểu -tượng của Pháp Thân, cho
nên niệm danh hiệu tức là niệm Pháp Thân Phật. Và người niệm Phật khỏi phải
kiêm thêm bất cứ môn tu nào nữa..."
Khi hướng dẫn người muốn tu niệm
Phật, chúng tôi thường đưa ra ví dụ: "Khi chúng ta bị giam giữ trong một
căn nhà thật kiên cố, muốn thoát ly, nếu chúng ta phá chỗ này một chút, rồi lại
chỗ kia phá một chút, thì sẽ được như ý hay là ta nên tập trung nhắm vào một
chỗ để khoan, để phá? Dĩ-nhiên ai ai cũng trả lời; tập trung vào một chỗ".
Khi nói điều này ra, chắc có người sẽ
hỏi chúng tôi, vậy tại sao ông còn nêu ra vấn đề "Niệm Phật trì chú, cứu
độ thân nhân?".
Xin trả lời, hai vấn đề hoàn toàn
khác nhau. Chúng ta ai ai cũng có nhiều ông bà cha mẹ trong nhiều đời. Đọc
kinh, chúng ta phân vân không biết những ông bà cha mẹ ấy đang luân chuyển ở
nơi nào? Khi áp dụng niệm Phật và trí chú chúng ta chỉ thực hiện một thời gian
ngắn rồi thôi, không cần phải hành trì một thời gian dài. Sau đó chúng ta nên
nhứt tâm giữ chặt một câu A-Di-Đà Phật hoặc Nam-Mô A-Di-Đà Phật. Vì nếu vừa niệm
Phật, vừa trì chú vẫn còn tán tâm.
Trước đây Hoà -Thượng Tịnh -Không
nói: " Theo đúng Kinh Thủ -Lăng -Nghiêm là Kinh dạy tu chứng liễu -nghĩa
cho hành -giả tu các pháp môn nói chung muốn chứng đắc sơ -địa Bồ -Tát phải
đoạn trừ 88 pháp lâu hoặc, rồi phải trải qua đắc chứng từng cấp trong 52 cấp.
Đầu tiên từ Sơ địa bồ -Tát tức Sơ tín Bồ -Tát rồi lên Thập Tín, Thập Trụ, Thập
Hạnh, Thập hồi hướng, Thập Đại, v.v..."
Còn tu niệm Phật, theo Kinh Niệm
Phật Ba-La-Mật, Đức Phập nói:
"Pháp môn niệm Phật chính là chuyển
biến cái Tâm thể của chúng sanh, bằng cách không để cái Tâm thể ấy duyên với
vọng niệm, với lục trần là sắc, thanh, hương, vị, xúc và pháp (đây là chỗ nhiếp
cả sáu căn của Bồ-Tát Đại-Thế-Chí).v.v... Mà chỉ đem Tâm-thể ấy duyên mãi với
danh hiệu Nam Mô A-Di-Đà Phật, thấy mình sanh vào cõi nước Cực Lạc, thân mình
ngồi trên toà sen báu, nghe Phật và Bồ-Tát nói pháp, hoặc thấy Phật lấy tay xoa
đảnh....
Lại nữa, nếu có chúng sanh nào chí
thành xưng danh hiệu Nam Mô A-Di-Đà Phật, thì uy-lực bất khả tư nghị của danh
hiệu khiến cho Tâm thể ấy thanh tịnh mà chúng sanh ấy không hề biết, tự nhiên
chứng nhập Sơ-phần Pháp thân.
Chứng Sơ-phần Pháp thân tức là
Chứng Sơ tín hay Sơ-địa Bồ-Tát.
Cho nên phải biết Pháp môn Niệm
Phật thật là thần diệu. Đức Phật nói tiếp:
"Nên biết rằng được vãng sanh
thì không bao giờ trở lại địa phàm phu với thân xác ngũ uẩn nữa. Do đó mới gọi
là Bất-thối-chuyển. Từ đó về sau lần lần thành tựu mười thứ trí lực, mười
tám-pháp bất cộng, năm nhãn, sáu thông, vô lượng Đà-ra-ni, vô số Tam-muội, thần
thông du-hí, biện tài vô ngại...đầy đủ bao nhiêu công-đức vô lậu của Đại
Bồ-Tát".
Gần 10 năm trước đây (từ 1993)
Hoà-Thượng Tịnh-Không nói, một phẩm của quả vị Sơ địa Bồ-Tát Ngài cũng không
đạt được. Còn ở đây Đức Phật nói, người niệm Phật tinh chuyên sẽ được đầy đủ
bao nhiêu công-đức vô-lậu của một Đại Bồ -Tát. Vì vậy mà Ngài Tịnh -Không quyết
tu theo Pháp môn Niệm Phật cầu vãng sanh Cực Lạc. Còn niệm Phật cách nào chặc
được vãng sanh, Hoà -Thượng Tịnh -Không đã nói rõ ràng trong Chương Niệm Phật
Viên Thông của Đại Bồ -Tát Đại -Thế -Chí: "Nhiếp cả sáu căn, tịnh niệm nối
tiếp". Niệm Phật cho tới khi tâm tình là được "đại định" và nối
tiếp "đại định" là sẽ được "đại trí tuệ".
Y cứ vào Kinh Niệm Phật Ba-La-Mật,
theo lời trình bày của Trưởng giả cư sĩ Diệu-Nguyệt chúng tôi trích lại:
"Vào thời Chánh-pháp cuối cùng
(tức thời mạt pháp này), nếu ai phát khởi tâm-chí-tu-hành, cũng không thể tu
tập các môn Giới luật, thiền định, trí tuệ...không thể tu tập bằng các phương
tiện của Quán-Trí để ngộ-nhập Phật-Tri-Kiến. Không thể tu chứng đắc Tu-đà-hoàn,
Tư-đà hàm, A-na-hàm. Không thể chứng nhật Sơ-Thiền, nhẩn đến Tứ Thiền....
Nói chung, không thể tu chứng đắc
thiền định.
Hoà-Thượng Tịnh-Không, y cứ vào
Kinh Thủ-Lăng-Nghiêm chứng minh tu thiền định phải dùng "Diệu Sa-ma-tha,
Tam-ma-địa, Thiền "Na" khi sáu căn gặp sáu trần, chỉ dùng "căn
tánh" chứ không dùng "thức", thì mới được "Minh tâm Kiến
-Tánh. Còn tu hành mà chỉ dùng thức, thì dù được "Tứ Thiền thiên" vẫn
là được cái định của phàm phu, thì chưa thoát khỏi sanh tử luân hồi.
Trái lại nếu áp-dụng pháp môn Niệm
Phật Viên Thông Chương của Ngài Đại-Thế-Chí thì, sẽ "tu chứng liễu-nghĩa
Bồ-Tát Vạn-hạnh" của các bậc Bồ-Tát mà Kinh Thủ-Lăng-Nghiêm đã dạy.
Xét lại, lời trình bày của Pháp sư
Tịnh-Không quả là thâm diệu.