Hòa-Thượng Tịnh-Không giảng tiếp
tới đoạn Đức Phật dặn Ngài A-Nan:
"Ông dạy người đời tu pháp
Tam-ma-địa, thứ nữa, phải đoạn lòng Sát. Ấy gọi là lời dạy rõ ràng thanh-tịnh,
quyết định thứ hai, của các Đức Như-Lai Tiên-Phật Thế-Tôn.
Tu học Tam-ma-địa là chơn chánh tu
hành. Hành là hành vi. Tu là tu chính - Tư tưởng hành vi của chúng ta có sai
trái, phải đem nó tu chỉnh trở lại. Tam-ma-địa, Thiền na là tiêu-chuẩn hành vi
của chư Phật Bồ -Tát, anh y theo đây mà tu chính, tức là chính mình cũng như
một vị Phật. Đây là Phật dạy Ngài A-Nan phải chỉ dạy những người tu hành trên
thế gian, phải dạy họ đoạn hết sát sanh. Kinh dạy tiếp:
"Vậy nên A-Nan, nếu người ấy
không đoạn lòng Sát, thì cũng ví như bảo người bịt tai lại, rồi cả tiếng kêu
to, mà trông mong người khác không nghe."
Bọn này gọi là muốn dấu mà càng lộ.
Ở đây, Phật đưa ra một thí dụ:
Không đoạn dứt Sát sanh mà tu thiền
định có thể thành tựu không? Không thể thành tựu. Ở chỗ này các bạn đồng tu nên
biết rõ một sự thật. Chúng ta không cần nói đến trong cửa Phật. Trong thế gian
pháp, người xưa thường nói: "Học vấn thâm thời ý khí bình", có nghĩa
là "người càng có học vấn thì càng hàm dưỡng", người càng có
"đạo đức thì càng có thể bao dung". Hoà -Thượng thí dụ: Khi ta ra
đường gặp một vị xuất gia tu hành được gọi là đạo đức cao, nhưng nếu vị ấy còn
có tâm ngạo nghễ, keo kiệt, khinh người thì đó là thứ giả không phải thiệt. Cho
nên một vị Đại Đức chơn chánh khi anh gần họ nhất định ôn-hoà từ bi, tuyệt đối
không ngạo nghễ kinh người. Đây là nói rõ, kẻ tu thiền định còn có tâm sân
nhuế, vừa hơi phật ý một tí là nổi giận, nếu làm phật ý họ, họ liền có niệm trả
thù; đây là thứ giả.
Đây là loại người gì? Thì ra là quỷ
La-sát. Cho nên trong thời kỳ mạt pháp, yêu ma quỷ quái rất nhiều. La-sát cũng
mặc áo cà sa, cũng đội lốt chiêu bài của Phật huỷ diệt Phật pháp, gạt gẫm chúng
sanh, chúng ta không thể không nhận biết. Ở đây, Phật dạy chúng ta nguyên tắc
phân biệt đó. Hàng Tỳ Kheo thanh-tịnh và các vị Bồ-Tát đi trong đường rẽ không
dám cỏ non, huống nữa là lấy tay nhổ cỏ, thì tại sao lấy máu thịt chúng sanh mà
làm đồ ăn? Trong giới Kinh dạy cho chúng ta, một vị xuất gia trì giới
thanh-tịnh, Bồ Tát có hạng tại gia, có hạng xuất gia, đi đường còn không đạp
lên cỏ non, huống là lấy tay để nhổ. Đối với thực vật còn thương tiếc cỡ đó,
thì đối với loại động vật càng thương tiếc hơn; làm sao có thể giết nó, ăn thịt
nó?
Kinh dạy:
"Nếu các Tỳ Kheo không mặc đồ
tơ lụa, là-lượt phương Đông và không dùng giày dép, áo cừu, áo len hay các thứ
bơ sữa, phó mát, đề hồ, thì những Tỳ Kheo như thế, đối với thế gian, đây thật
là giải-thoát trả hết nợ cũ xong, thì không vào ba cõi nữa".
Đây là nói đời sống hàng ngày, sự
ăn mặc của chúng ta. Chúng ta không ăn thịt, không kết oán thù với chúng sanh.
Nếu như còn mặc da của chúng sanh, thì cùng với Sát Sanh không khác chi cả.
Giống như Sát Sanh. Thuở xưa Trung Quốc với các nước có một con đường thông
thương buôn bán. Người ta vận chuyển tơ tằm đi buôn bán. Đây là người ta giết
tằm để lấy tơ, còn tại Ấn Độ có giày làm bằng da bò, quần áo làm bằng lông cừu.
Những thứ này cũng đều là phải sát sanh mới có được. Những lạc, đề hồ làm bằng
sữa, tuy không Sát Sanh, nhưng cũng giựt lấy đồ ăn của bò con, cũng không nên
làm.
Cho nên trong các giới luật nghiêm
khắc cấm chỉ, không những không ăn thịt, cũng không được mặc đồ bằng da....Phật
bảo: "Tỳ Kheo này mới thật là thanh-tịnh" thì mới thật là giải-thoát,
thì không vào trong ba cõi nữa.
Trong Kinh này, từng câu từng câu
Phật nói với chúng ta đều là lời nói thật. Kinh nói:
"Dùng những bộ-phận thân thể
chúng sanh, thì đều bị ảnh-hưởng chúng sanh, cũng như người ăn giống bách cốc
trong đất, thì chân không rời khởi đất".
Trong Kinh, Phật cho biết, Tổ Tiên
chúng ta tữ cõi trời Quang Âm đến. Nói một cách khác, chúng ta từ một tinh cầu
khác di dân đến đây. Hiện nay chúng ta là người Thái Không, Tổ Tiên chúng ta từ
Thái Không đến. Sau khi đến đây, ăn những thứ mọc trên đất, sau đó năng lực mất
hết, không trở về lại được. Nên đoạn trên Kinh nói: "Ăn giống bách cốc
trong đất, thì chân không rời khỏi đất!"
Phật nói, Tổ Tiên chúng ta từ đây
mà có. Kinh dạy tiếp:
"Quyết phải khiến cho thân
tâm, đối với thân thể hay bộ-phận thân thể của chúng sanh, đều không ăn không
mặc, thì những người như thế, tôi mới gọi là chơn thật giải-thoát. Như lời tôi
nói đây, gọi là lời nói của Phật; không như lời nói đó, tức là lời của ma
Ba-tuần".
Hoà-Thượng Tịnh-Không giảng xong về
giới Sát. Ngài trình bày thêm ba vấn đề liên hệ đến Sát Sanh, tức là có liên hệ
đến việc vãng sanh Cực-Lạc.
1. Phá Thai Có Tội Không?
Nhiều người đến hỏi Hoà-Thượng rằng
phá thai có tội không? Ngài đáp chẳng những có tội mà còn có tội nặng nề, và
giải thích: "Quan hệ giữa cha mẹ có 4 thứ chuyện: 'báo ơn, báo oan, đòi
nợ, trả nợ". Trong đời quá khứ anh kết duyên với nó, đời này gặp lại nó.
Nếu là ác duyên là nó đến đòi nợ, nó đến để báo oán. Anh đem nó giết chết, mối
oán hận của nó kết càng sâu. Sau này khi gặp lại, mối oán thù mạnh không biết
là bao lần. Cho nên không nên phá thai. Nếu như nó đến báo ân trả nợ là việc
tốt, nhưng nếu anh giết hại, mối ân thành thù. Điểm này người không học Phật,
không hiểu rõ sự lý, không biết sự lợi hại. Người biết học Phật, nhất định phải
biết cái Sát Sanh này, so với giết hại các loài động vật, thậm chí so với Sát
Sanh một người, mối oán thù nầy kết lại càng sâu hơn. Tương lai quả báo càng
thảm khốc hơn.
Cho nên phá thai là một điều đáng
sợ, muôn ngàn lần không thể làm được. Điều này các vị đồng tu nên biết.
Lời của Tịnh-Hải:
Như Hoà -Thượng Tịnh -Không nói,
người không hiểu Phật pháp không rõ sự lý, không biết rõ sự lợi hại. Dù rằng
bào thai còn nhỏ, chưa tượng hình người. Nhưng đứng về tâm linh thì, thần thức
(hay linh hồn) khi nhập vào thai đã có mạng căn rồi. Phá thai là giết một mạng
người. Theo sách Liễu Sanh Thoát Tử, Thần thức, tức Thân Trung-Ấm của người
chết được thác sanh làm người, cảm thấy hai thân nam nữ giao hợp, liền dấy tà
niệm. Khi cảm thọ sự dục lạc liền bị tối tăm mất cả tri-giác và thân trung-ấm
bị diệt. Nhưng thọ mạng chưa thành hình mà bị giết. Nỗi đau đớn kịch liệt không
kể xiết, oan hồn không tiêu tan cứ lẫn quẩn theo cha hoặc mẹ, đợi lúc vận người
ấy xấu, liền báo thù. Nếu có sự phát nguyện vãng sanh, việc Vãng Sanh có thể
không thành, vì sát nghiệp của việc quyết định phá thai quá nặng.
2. Bịnh Người Già
Hiện nay trong xã hội có trường hợp
thứ hai là bịnh người già, cũng gọi là người thực vật. Trong Phật giáo gọi là
bịnh nghiệp chướng. Có nhiều người chủ-trương cái chết an lạc. Có người hỏi
tôi, khi người này trí giác không còn gì, chỉ có hơi thở chưa dứt. Không những
chính mình rất đau khổ còn làm liên luỵ cả nhà không bình an. Thì giờ càng kéo
dài, người nhà càng vô cùng buồn chán. Sự việc chẳng biết xử trí ra sao? Trong
tình trạng này bảo họ phải chết an lạc. Vậy có tội hay không?
Tôi trả lời: theo đạo lý, Phật dạy
trong Kinh, nhứt định có tội. Phải nên biết, con người thực vật tuy tất cả
tri-giác đều mất hết; nhưng hơi thở chưa dứt. Là nguyên nhân gì? Hoặc giả, tuy
thọ mạng của họ không còn nữa, nhưng phước báu của họ chưa hưởng hết. Đời của
họ phước báu quá lớn, chưa hưởng tận, thọ mạng đã hết, nhưng còn lại hơi thở để
hưởng phước. Đến khi hưởng hết thì họ sẽ đi, bởi thế không thể giết họ, giết
chết họ nhứt định có tội.
3. Có nên quyên góp bộ phận cơ thể?
Có người hỏi tôi: Những người niệm
Phật chúng ta có thể quyên góp bộ phận cơ thể (khí quan) không?
Tôi trả lời: nếu quả đã vãng sanh, thì đây không thành vấn đề. Vãng sanh là lúc
còn sống mà vãng sanh. Điều này quí vị nên biết, chẳng phải chết mới vãng sanh.
Những người Vãng Sanh Tây Phương Cực-Lạc Thế giới khi hơi thở họ chưa dứt. Đầu
óc họ còn rất tỉnh táo. Phật A-Di-Đà, Bồ-Tát Quán-Thế-Âm Đại-Thế-Chí đến tiếp
dẫn họ. HỌ hoan hỹ vui mừng theo Phật mà đi. Theo Phật đi, rồi mới tắt thở. Cho
nên vãng sanh toàn là sống mà vãng sanh. Thần thức của họ đã đi đến Tây Phương
Cực Lạc Thế giới, thân thể còn lại đem quyên góp thì không có vấn-đề chi cả.
Nếu như họ chưa vãng sanh thì việc
đó phiền phức lớn lắm.
Phật dạy: "Con người sau khi
tắt thở, Thần thức của họ còn 8 tiếng đồng hồ mới rời khỏi thể xác". Trong
vòng 8 tiếng nếu anh đụng vào họ, họ cảm thấy đau đớn. Vậy thì, dù khi sống họ
đã phát nguyện hiến tặng khí quan, lúc chết người ta đem thây đi mổ xẻ, lúc ấy
họ không chịu được sự đau đớn hối hận vậy làm sao đây?
Lúc tâm sân hận này vừa động thì
lập tức lọt vào Tam ác đạo! Thế là một việc rắc rối. Người học Phật chúng ta
không thể không quan tâm lo sợ, không thể không hiểu rõ chơn tướng của sự thật
này.
Trên sự là một việc làm tốt. Nếu
anh có công phu tu hành chơn chánh có thể được. Còn nếu không có công phu tu
hành này, anh phải dự phòng kẻo lúc đó thì sẽ hối hận.
Điều này không thể hỏi người khác.
Người khác không thể hiểu được. Phải hỏi đương sự. Cho nên đời sau của họ, đi
về đường nào có quan hệ mật thiết, điều này xin quý vị thức tỉnh và lưu ý.
Lời của Tịnh-Hải:
Hoà -Thượng nói: "Nếu anh có
công phu tu-hành chơn chánh có thể được". Thế nào gọi là "công phu
tu-hành chơn chánh?"
Người tu Thiền cao có thể đưa thần
thức mình ra khỏi thể xác. Các vị đại Lạt-ma Tây Tạng khi biết mình sắp hết thọ
mạng, thường nhập thất, rồi các Ngài xuất hồn tức thần thức ra khỏi xác, đi tìm
một gia-đình có phước đức, chọn để nhập thai.
Có khi thần thức đi xa qua một nước
khác để lựa chọn, vì phước đức của cha mẹ tương lai rất ảnh hưởng đến đời sau
của vị sư ấy. Chọn gia-đình xong, thần thức ghi nhận nhà ấy đang ở hướng nào,
có đặc điểm gì trước nhà; sau đó trở về nhập vô xác trở lại.
Vị Sư bèn ghi xuống giấy, nói trước
hướng tái sinh của mình, rồi sau đó mới viên tịch. Về sau người ta theo hướng
mà tìm ra vị tái sanh.
Trường hợp một người có công phu tu
hành như vậy, trước khi chết hồn đã ra khỏi xác. Khi đem thây đi mổ xẻ, cưa,
thần thức không bị đau đớn, vì thần thức của vị Lạt ma kia đã nhập thai mẹ rồi.
Trái với trường hợp này, người bình
thường chết, thân xác bị đem đi mổ xẻ, khiến cho thần thức trông thấy, nổi sân
giận. Tâm sân giận vừa nổi lên thì lập tức lọt vào Tam-ác-đạo. Như chúng tôi đã
nói, dù kiếp này một người không hề làm ác, nhưng nghiệp-ác từ muôn kiếp trước
vẫn chứa đầy trong Tàng thức của người ấy. Khi chết, gặp duyên xấu, thí dụ một
người chết bình thường, do lời hứa hiến tặng một bộ phận cơ thể, người ta đem
thây đi mổ xẻ, thần thức trong vòng 8 tiếng đồng hồ chưa ra khỏi thân thể,
chứng kiến người ta mổ xẻ xác mình, liền cảm thấy bị đau đớn nổi tâm sân giận
(đây là duyên xấu) thì các nghiệp ác từ lâu (dù đời này không làm ác, thí dụ
như vậy) nổi lên, khiến người ấy phải lọt vào Tam-ác-đạo tức ba đường dữ. Đây
là trường hợp trả lời cho những ai nói đời này tôi không làm ác đâu cần gì tu.
Về duyên xấu không phải chỉ có thí dụ sau khi chết bị đem đi mổ xẻ như nói ở
trên, mà còn vô số duyên xấu khác; chư vị tìm hiểu sẽ thấy rõ ràng. Cho nên,
người không tu niệm Phật để nương nhờ thần lực của Phật mà đi vãng sanh, những
trường hợp gặp duyên xấu dễ đoạ vào Tam-ác-đạo.
Trở lại bài giảng của Hoà-Thượng Tịnh-Không. Tại sao Hoà-Thượng nói; "Anh
có công phu tu hành chơn chánh có thể được?".
Có công phu tu hành là đủ rồi, tại
sao còn nói công phu tu hành chơn chánh? Vì đời này có người dùng lối Thiền
xuất hồn, cũng giống như các vị Lạt-ma Tây Tạng. Nhưng có người xuất hồn không
chơn chánh như, dùng cách này để thoả mãn thú tánh, xem các cặp vợ chồng đang
giao hoan.
Trường hợp xuất hồn này dễ làm cho
điên loạn.
Thiết tưởng cũng cần nói thêm. Các
vị Lạt ma có công phu tu như đã nói thường đã đắc quả cao. Kinh sách có nói, dù
là Bồ-Tát sau khi cách ấm (tức từ thân trung ấm này qua thân khác) thường bị
ngu mê quên hết quá khứ. Phải là bực Đại Bồ -Tát đắc được Vô-sanh pháp nhẫn thì
nhập vào thai mẹ mới không bị ngu mê. Những vị Đại Lạt-Ma, như Ngài To Mo, mà
chúng tôi thường nhắc tên, khi tái sanh, vừa biết nói là nhớ lại hết quá khứ,
mới 7 tuổi đã đậu bằng Tiến sĩ Phật học.
Sở dĩ Phật-giáo Tây Tạng áp dụng
được là vì họ có sự truyền thừa, học tập đúng pháp Phật. Còn tu Thiền khác, dù
là biết xuất hồn đều bị coi là Thiền ngoại đạo. Người tu chẳng có lợi gì, vì
lối Tu không được Đức Phật công nhận.
Quý vị Lạt-ma Tây Tạng muốn đem
Phật pháp truyền sang các nước Âu Mỹ, trước khi tịch đã chuyển thần thức của
mình nhập thai vào một người mẹ, người khác giống ở Mỹ và Tây-Ban-Nha.
Đó là trường hợp của Lạt-ma tái sanh Sanggyal Dorje Rinpoche tại Victorville
(California), và Lạt-ma tái sanh Osel Rinpoche ở Tây-Ban-Nha.
Còn thêm hai trường hợp Lạt-ma Tây
Tạng tái sanh tại Mỹ. Nhưng phạm vi sách không phải nói về các vụ tái sanh, mà
muốn nói lên rằng người có công phu tu hành trước khi chết thần thức đã Vãng
sanh Cực-Lac; cho nên sau đó, dù thân xác bị đem đi mổ xẻ cũng không nguy hại
cho người chết, vị họ dã vãng sanh rồi.
(Về các chuyện Tái sanh của Lạt-ma
Tây-Tạng, chư vị muốn rõ nên tìm xem cuốn Sự Tái-Sanh của các Lạt-ma Tây Tạng
của cô Phương-Dung).
Vấn đề làm nhiều người khổ!
Hoà-Thượng Tịnh-Không giảng tiếp:
Trong nhà chúng ta, những loại như
dán, kiến, ruồi, muỗi, giết chúng có bị oán thù hay không?
Nếu anh không giết nó, nó làm nhiều loạn đời sống của anh. Huống hồ dán và ruồi
còn mang đến môi trường của bịnh truyền nhiễm. Những thứ này, thật là chán ngấy.
Nếu giết nó thì phạm giới sát sanh, tạo nghiệp không giết nó thì sẽ không yên.
Anh vì học Phật không sát sanh, cả
nhà đều chửi anh. Cả nhà đều phỉ báng Phật pháp.
Tôi tuy không sát sanh, nhưng khiến
cả nhà mang tội phỉ báng Phật pháp, khiến họ tạo tôi nghiệp thì sao đành?
Sự việc này thật là nỗi khổ tâm
lớn. Cho nên người học Phật, sanh hoạt phải có quy luật, hoàn cảnh gia đình nên
ngăn nắp sạch sẽ. Ngăn nắp sạch sẽ tự nhiên những thứ này sẽ giảm-thiểu, tìm
biện pháp đuổi chúng nó ra ngoài, đừng nên giết hại chúng.
Như muỗi chúng ta có thể thắp nhang
xông muỗi. Nhưng nhớ mở hết cửa ra, cho chúng bay ra ngoài. Nếu các cửa đóng
hết thì lại giết hại chúng.
Còn loài kiến, tìm cách dụ nó ra
ngoài. Dùng một ít bánh kẹo dụ chúng nó đi. Chỉ là tốn thì giờ một ít mà thôi.
Chúng ta có thể dùng nhiều phương-tiện mà làm.
Ngoài ra, còn có một cách làm thù
thắng nhứt nữa. Điều này có thể làm cả nhà anh cảm động. Với một tấm lòng chơn
thành, tấm lòng đại từ bi, ta tụng Kinh niệm Phật hồi hướng cho chúng nó. Lại
truyền thọ quy y cho chúng nó. Sau đó ra lịnh cho chúng phải dọn nhà. Điều này
có thể làm được. Thật chứ không phải giả. Chúng sẽ dọn đi.
Chúng ta hãy xem truyện ký của Ấn
Quang Đại Sư. Trước khi trong phòng Ngài ở có nhiều rệp, muỗi. Thị giả của Ngài
muốn đuổi chúng đi, Ngài lắc đầu. Bảo đừng động đến chúng nó. Ngài nói với thị
giả rằng: "Sự tu trì của ta đức độ chưa đủ. Cứ tuỳ nơi chúng, nếu ta thật
sự có đạo hạnh, chúng nó sẽ tự nhiên di chuyển". Ấn Quang Đại Sư sau 70
tuổi, căn phòng Ngài ở, ruồi, muỗi, kiến, một con tìm cũng không ra. Kẻ khác
vừa ở thì có, Ngài vào ở thì không có. Anh xem chúng nó có linh tánh đấy. Chúng
nó chẳng phải là vô-tri. Đối với người có đại đức, chúng nó rất tôn trọng.
Tổ Ấn-Quang có đại đức, chúng ta
không có đức hạnh đó thì chúng ta dùng tâm chơn thành. Thành tức linh. Chí thành
cảm thông, có thể được cảm ứng.
Đây là khi nãy dạy quý vị tụng
Kinh, niệm Phật, hồi hướng, truyền thọ Tam Quy cho chúng nó; sau đó khuyên
chúng di chuyển: "Chúng bây cũng có lợi, ta tránh được vừa sát sanh, vừa
phá giới, chúng bây lại mất mạng. Chúng bây dọn đi, chúng ta hai bên đều có
lợi". Rất có hiệu quả, xin cứ thử xem.
Nên tụng Kinh siêu độ Cho oán thân
trái chủ
Vẫn còn một việc nữa, điều này
chúng ta cần nên làm. Đặc biệt là thời đại hiện nay, chúng sanh tao nghiệp ác
rất nặng, quả báo quá nhiều lần, khổ không thể tả sao cho xiết! Những đồng tu
học Phật chúng ta phải có lòng từ bi, phải có lòng thương xót; phải thường giúp
đỡ chung sanh đã tử nạn.
Chúng ta mỗi ngày tu trì, tụng Kinh
niệm Phật, làm việc thiện, đem những công đức này chơn thành vì họ mà hồi
hướng, nếu như đạo tràng tiện lợi. Như tôi, ở Đài-Bắc có một ngôi đạo tràng
nhỏ, ở trên lầu. Đó là Hoa Tạng thư viện của chúng tôi. Mỗi tháng vào tuần lễ
cuối, chúng tôi làm một Pháp Hội Tạm Thời Hộ Niệm. Những đồng tu ngày thường
đến nghe Kinh thường tham gia, độ chừng một hai trăm người, để tụng Kinh siêu
độ tất cả chúng sanh trên toàn thế giới. Cũng tức là đem những oán thân trái
chủ trong nhiều kiếp đến nay có thể hoá giải. Chúng tôi thành tâm thành ý để
làm. Mức độ cảm ứng thật bất khả tư-nghị.
Chúng ta trong sanh hoạt hằng ngày
làm thế nào đối diện với những sanh hoạt này, làm thế nào hoá -giải những oan
nghiệp của đời quá khứ và hiện tại.