Chương này thật tối quan trọng. Tại
sao tối quan trọng? Khi viết sách Sưu Giải, vào đầu sách chúng tôi có nói, khi
nghiên cứu Phật pháp, chúng tôi quyết tìm cho ra câu hỏi then chốt: "Sau
khi chết thần thức con người sẽ đi đâu?"
Đây là ý chúng tôi muốn biết, do
đâu từ là con người lại có thể rơi vào Địa -ngục, Ngạ -quỷ, Súc -sanh? Hoặc làm
sao từ một người bình thường tức phàm phu, thần thức có thể lên cõi Phật?
Chúng tôi đã nói, chúng tôi quyết tìm hiểu điều này, phải hiểu rõ chúng tôi mới
tin. Chúng tôi nghiền ngẫm nhiều năm tìm hiểu sự thật đó. Chứ không mù quáng
tin theo ai. Đức Phật cũng dạy như vậy.
Do không bị ảnh-hưởng của bất cứ vị
thầy nào, chúng tôi dựa vào Kinh làm điểm tựa; vị thầy nào giảng đúng pháp
chúng tôi coi như thầy của mình. Cho nên, tuy nói rằng tu không thầy, nhưng
thật sự chúng tôi có rất nhiều vị thầy.
Khi viết đến chương này chúng tôi
may mắn được đọc "Kinh Kiến Chính" cũng gọi là kinh "Sinh Tử
Biến-Thức " do Sa-môn Trí-Hải dịch (chùa Quán Sứ).
Trong Kình này, Đức Phật giảng đặc
biệt về câu hỏi "Khi sanh từ đâu đến? Lúc chết sẽ về đâu?"
Cho nên chúng tôi mới dám nói, chương này tối quan-trọng. Vì nếu tất cả Phật tử
chúng ta đều được đọc Kinh Kiến -Chính, thì đường tu của chúng ta sẽ vô cùng
chính xác và mọi người đều phải lo tu. Vì tất cả đều sẽ hiểu rõ thêm rằng:
"Tại sao trước đây Đức Phật nói rằng: bỏ thân này, được lại thân người là
khó?."
Mấy chương trước, chúng tôi có đề
cập đến việc có vị xuất gia cho rằng quí vị ấy nguyện, sau khi chết sẽ trở lại
tu tiếp, để độ chúng sanh. Đọc hết Kinh chúng tôi càng thấy rõ: "Chuyện ấy
khó thành".
Vì chương này chúng tôi nói về việc
hướng dẫn thần -thức một người sắp chết, hay đã chết, để thần-thức ấy được Vãng
Sanh Cực-Lạc. Chúng tôi không có khả năng dạy việc này. Nhưng Kinh Phật và sách
Liễu Sanh Thoát Tử có viết, chúng tôi làm việc sưu tầm và sắp xếp để chúng ta
cùng thấy rõ ràng.
Đây xin nói vấn-đề Đức Phật dạy về
thần thức sau khi chết. Chuyện này hơi dài, nhưng nếu không hiểu sẽ uổng phí
cuộc đời tu hành. Chúng tôi cố gắng trình bày cho dễ hiểu, nhưng chư vị cũng
ráng vận dụng trí, để dễ hội thông lời Phật dạy.
Kinh này tên là Kinh Kiến-Chính, do
một đệ tử tên Kiến-Chính hỏi, Phật dạy nên lấy tên làm Kinh.
Pháp nội này diễn ra dưới gốc một cây lớn, rễ sâu, gốc to, cành lá um tùm, hoa
quả đỏ ối. Tên cây là Hương Cảm. Khi ấy Kiến-Chính có một mối nghi và muốn hỏi
Phật rằng:
-Phật thường nói, hết đời này rồi,
lại còn có sanh sang đời sau nữa. Như thế mà từ xưa đến nay biết bao nhiêu
người chết đi không hề thấy một người nào trở về nói cho biết rõ mọi sự, vậy
làm sao hiểu rõ việc ấy? Nay ta cần phải đem hỏi Phật mới được.
Ông ta chưa kịp hỏi, Đức Phật đã
biết và bảo đệ tử rằng:
-"Hởi các đệ tử! Cái cây này,
trước kia chỉ có một hạt giống, sau nhờ tứ đại (đất, nước, gió, lửa) và mọi
duyên ngoại giúp cho, dần dà nở ra lớn lên, thành cây to cao, che cho được cả
bấy nhiêu người. Lúc nó còn là hạt giống, chưa hề ai trông thấy thân thể cành
lá hoa quả đâu cả, đến lúc nhờ đủ mọi duyên giúp cho không ngớt, liền nở ra
mầm, cho đến sanh ra dọc lá cành cây, hoa hột nhiều gấp mấy cũ. Kể từ khi thành
cây này có rất nhiều sự biến chuyển đổi đời. Như mới lúc đầu, chỉ mới là hạt
giống, hạt giống ấy nở thành mầm, mầm nẩy ra dọc, dọc sanh ra lá, cành lá nở ra
hoa, quả; hoa quả kết lại thành hạt, vòng quanh biến đổi, mổi lúc mỗi khác hình
thể trước sau, không lúc nào giống nhau, duy không lìa bỏ chất cũ mà thôi, cả
cái tên đó cũng không là cái hạt, vẫn thường gọi mà thành ngay cái cây cao lớn
ấy. Cây lại sanh ra quả, quả lại có hạt nở thành cây, cứ theo năm, tháng, thêm
dần mãi mãi lên, như thế đến vô-lượng, vô-số, không biết bao nhiêu mà kể".
Phật lại bảo:
- "Này các đệ tử. Nay muốn dồn
tất cả các thứ hoa, quả, cành, gốc rể lại cho thành hạt giống có được không?"
Các đệ tử đều nói:
- "Bạch Phật không thể được.
Vì nó đã biến chuyển nhiều rồi, không thể nào lại quay trở lại như cũ nữa, có
ngày còn bị mục nát hết, còn hạt giống lại sanh ra cây khác, cứ thay đổi như
thế mãi, không biết đến đâu là cùng cực. Mỗi lần biến -chuyển lại một lần thân
cây bị mục nát, không bao giờ lại trở lại thành hạt giống cũ được".
Phật bảo:
- "Này các đệ tử! Sanh tử cũng
như thế đấy, thần thức là pháp khởi đầu tiên, mà sanh ra pháp ấy lại chính là
Si, nghĩa là vì ngu si sanh ra say đắm. Vậy Si cũng như hạt giống của cây kia,
hạt nó tuy nhỏ nhưng đủ sức thành cây lớn. Do gốc ở ngu si mà sanh ra không
biết bao nhiêu nhân duyên".
Tỳ-Kheo Kiến-Chính nêu ra điều hồ
nghi và Xin Phật cho biết, tại sao người chết, không thấy thần thức trở về đối
diện, bảo cho biết rõ những nghiệp thiện ác là sao?
Phật nói: "Thần thức không có
hình tướng nhưng mỗi khi dời chuyển là phải theo với hành nghiệp. Sinh thời làm
Thiện, thì chuyển sanh đi đến chỗ Phước. Thần-thức dời chuyển ở trong thân
Trung ấm cũng như quặng nấu thành sắt, từ Trung ấm chuyển sang thân khác, cũng
như sắt đã chế thành đồ, hình cũ tiêu đi, thể chất đổi khác. Vậy cái biết (Thần
thức) lúc đó thay đổi rồi, không còn nhớ những việc trước nữa".
Như lời Phật dạy, cái biết tức là
Thần thức, từ giai đoạn thân Trung ấm chuyển sanh thân khác, hình tướng tức
thân xác tiêu mất, thể chất đổi khác, bởi phải theo với nghiệp thiện ác của
mình đã tạo ra như thế nào thì phải theo đấy để hưởng thụ lấy quả báo, hoặc
tội, hoặc phước, không còn nhớ những việc trước nữa.
Thần thức chuyển dời đi theo với
nghiệp, để mang lấy thân, như đất nung lâu biến thành sành; người không có đạo
hạnh, không có thần thông sáng suốt hoàn toàn, không thể nào biết được các việc
trước, không thể nào báo cho nhau biết mọi việc được.
Đối với một kẻ đã có tu, Đức Phật
nói:
-"Người nào chưa tu chứng được
đạo quả, không có mắt trong sáng suốt, thì lúc thân chết đi, thần thức phải
theo nghiệp mà biến hoá đổi dời, mang lấy thân khác, khi đã qua thân đổi khác,
lại phải chịu ở trong bào thai, tất nhiên mọi sự thấy biết cũng đều khác hết,
nên không còn nhớ đến những việc cũ nữa".
Đức Phật nói tiếp:
-Thần thức vốn không có hình tướng,
ví như nước đựng trong cái bình tròn, thì thể nó theo hình tròn, nếu chuyển đổi
sang cái bình hình vuông, thì cái thể nó đổi ra vuông, lớn nhỏ cong thẳng, đều
là theo ở chỗ đổ vào.
Xin đọc tiếp dưới đây để hiểu về
Thần-thức, và nó có thể mang tất cả hình-tướng; thí dụ như mang hình thú, hình
quỷ v.v...Hãy nghe Đức Phật nói:
- Này các đệ tử! Sinh tử cũng như
thế đấy, Thần-thức vốn nó như hư-không, không có hình tướng nhứt định, chỉ tuỳ
theo nghiệp thiện ác, hễ tạo nên nghiệp gì thì mang thân ấy...biến đổi đều theo
với nghiệp mà đi, cũng như hình thể của nước tuỳ theo ở đồ đựng.
Nếu như trong khi làm người, làm
những việc trái phép (ác), lúc chết thần thức sẽ phải sa vào làm kiếp súc-sanh
hay địa-ngục, mang thân xấu xa ngu dốt, quên hết mọi việc trước....
Về quả địa-ngục hay súc -sanh, Đức
Phật nói thêm như sau:
- Người ta ở đời, nếu lòng nghĩ ác,
miệng nói ác, thân làm ác, thì lúc chết, thần thức biến chuyển, đi theo với
nghiệp làm thân địa-ngục, thân súc-sanh, hoặc thân tôm cá, sâu bọ tuỳ theo chỗ
ở...
Đọc Kinh Kiến-Chính, hiểu rõ về
Thần thức khi lâm chung chúng ta mới thấy điều lo sợ đến hãi hùng. Như chúng
tôi đã trình bày theo lời Đức Phật dạy, Thần-Thức đều tuỳ theo nghiệp gì thì
mang thân nấy. Như trong bài Kinh A-Hàm mà chúng tôi đã đăng nơi trang 23 sách
Sưu Giải, một người Ba-la-Môn hỏi một đệ tử của Phật rằng:
- Thưa Tôn giả, có phải Sa-môn
Cù-Đàm dạy người tu Thập Thiện, sau khi mạng chung được sanh lên cõi trời?
Vị đệ tử đáp:
- Vâng, Thế Tôn dạy đúng như vậy.
Sau khi trả lời, vị đệ tử thấy ái
ngại trong lòng, về tịnh xá trình mọi sự với Phật, và hỏi:
- Bạch Thế Tôn, con xác nhận như
vậy có phỉ báng Thế Tôn không?
Đức Phật trả lời:
- Ông nói như vậy là phỉ báng ta!
Và Đức Phật phân tích:
- Tu Thập Thiện là cái nhân sanh
lên cõi trời. Nhưng nếu người tu Thập Thiện đến giờ phút lâm chung gặp những
điều bất như ý, khởi tâm bất mãn sân giận. Cận tử nghiệp của người đó ác, không
đủ phước sanh lên cõi trời, nên khi mạng chung họ không lên cõi trời, hoá ra ta
nói dối sao? Lại nữa, nếu người đó quá khứ tạo nghiệp ác nhiều, mà hiện tại họ
tu Thập Thiện mới năm ba năm, nghiệp ác quá khứ chưa hết, nên khi chết họ chưa
đủ phước sanh lên cõi trời. Ông nói như thế không phỉ báng ta là gì?
Theo chúng tôi, tất cả Phật tử nên chú
tâm thật kỹ về lời Đức Phật dạy "đến giờ phút lâm chung gặp những điều bất
như ý, khởi tâm bất mãn sân giận Cận tử nghiệp người đó ác...". Thưa chư
Liên-hữu, theo Kinh Kiến-Chính, Cận tử nghiệp ác, Thần-thức phải sa vào
địa-ngục.
Như trên đây, một đệ tử Phật nghe
Phật giảng xong, ra ngoài trả lời một Bà-la-môn, đã trả lời sai, bị Phật nói:
"Ông nói như thế không phỉ-báng ta là gì?"; vậy mà thời này có người
không theo kinh điển mà dẫn dạy người khác, tránh sao khỏi tội phỉ báng Phật
pháp?
Đọc đoạn kinh trên đây, và nghe lời
Trí-Húc Đại-sư nói: "Nếu nghiệp ác của chúng sanh có hình thể thì nghiệp
ác của mỗi chúng sanh chất chồng đầy kính cả hư không".
Vậy thì, dựa theo sự kiện chúng tôi
vừa nêu và theo sách Liễu Sanh Thoát Tử, chúng sanh chúng ta sống ở các nước
Tây Phương, thí dụ như ở nước Mỹ, sau khi lâm chung dễ sa vào đường dữ.
TẠI SAO ĐÁNG SỢ VẬY?
Đây là sự thật, chúng tôi nói ra để
mọi người trong chúng ta cần hiểu và suy nghĩ điều chúng tôi trình bày dưới đây
cho thật rõ ràng, tường-tận:
Sách Liễu Sanh Thoát Tử viết:
"Sau khi lâm chung trong vòng tám giờ chớ nên động đến thân thể người
chết". Vì nếu động đến thân thể, thì thần thức sẽ đau đớn nổi sân giận.
Cận tử nghiệp sẽ ác, đây là cái nhân xấu.
Chúng tôi đã tìm hiểu nhiều
trường-hợp của những người chết ở Mỹ. Trừ những người chết tại nhà thương, đa
số người chết ở nhà, có người đã trên 80 tuổi nhiều bịnh hoạn, vậy mà sau khi
chết, cảm sát vẫn đến chở xác đi khám-nghiệm vì họ sợ người chết bị giết, bị
đầu độc. Thân thể bị chuyển động và còn bị mổ xẻ khám nghiệm. Thần thức người
chết cảm thọ sự đau đớn, nhân đó mà sanh ra sân hận, phải đoạ vào ác đạo.
Từ hai năm qua, tâm chúng tôi cứ bị
thôi thúc phải nói lên sự thật này, nhưng rồi lại ngại ngùng.
CÁI GÌ THÔI THÚC? NHƯNG TẠI SAO CÒN NGẠI?
Điều thôi thúc phải nói lên sự thật
là, từ lâu nay đa số người tự cho mình là người theo đạo Phật, Phật pháp cũng
hiểu khác; nhưng về vấn -đề sanh tử trọng đại thì hoàn toàn chẳng quan tâm gì,
hay nói rõ hơn là chẳng hiểu gì cả. Thí dụ: trong một gia-đình có người vừa
chết, như ở trên chúng tôi vừa hé lộ, nếu thân nhân thật sự là người biết về
đạo Phật và biết đạo đầy đủ, thì chẳng phải chỉ biết lo chôn cất theo thông lệ
từ lâu nay, mà phải biết lo sao cho thần thức, tức hồn người chết, được thoát
khỏi các đường dữ là Địa-ngục, Ngạ-quỷ, Súc-sanh; mà phải biết chu toàn làm sao
giúp cho Thần thức của người chết không rời vào đường dữ, mà còn có thể thoát
khỏi Tam-giới lên cõi Phật.
Ngày nào đọc báo gần như cũng thấy
cáo phó, và cuối tuần có nhiều người được chôn cất. Đó là điều thôi thúc chúng
tôi nên nói với thân nhân các gia-đình người theo đạo Phật phải hiểu rằng, nếu
các vị có cha mẹ, anh em chết mà không lo trợ niệm đúng theo nghi thức Phật
dạy, vô tình các vị gây hại cho thân nhân mình!
Vì sao?
Đây là điều khiến chúng tôi ngại
ngùng. Vì nếu nói thẳng ra hết, là cả một sự đảo lộn lớn lao. Cho nên chúng tôi
bị ray rứt vô cùng. Biết mà không nói, lòng không an; mà nói ra người ta có tin
theo hay không, có can đảm thực hành để cứu vãn thân nhân quý vị ấy không?
Như những trang trước đây, chúng
tôi đã trình bày, một người không hiểu đạo, khi chết thần thức (tức linh hồn)
rất dễ rơi vào ba đường dữ, bởi một trong sáu điều sau đây:
1. Chết tại nhà thương - Theo đạo
Phật, một người chết phải để yên không được động thân-xác trong 8 tiếng đồng
hồ, trong thời-gian này không thể tắm rửa thay quần áo; vì nghiệp thức chưa
hoàn toàn rời thân, bị xúc động phải cảm thọ sự đau đớn, sanh sân hận, thần
thức người đó phải đoạ vào ác đạo.
2. Chết tại nhà - Trừ trường-hợp
đặc biệt, cảnh sát sẽ cho chở đi khám-nghiệm, phải bị mổ xẻ. Thân xác bị động
nhiều sẽ gây nhiều đau đớn hơn, cũng giống như điều một.
3. Thần-thức theo nghiệp thọ sanh -
Bình thường một người sống ở đời hay làm nhiều việc thiện hay việc ác. Sau khi
chết, thần thức của người này sẽ tuỳ theo nghiệp cảm mà thọ báo. Cận tử nghiệp
vào giờ chót sẽ tuỳ theo duyên nghiệp lúc lâm chung. Như kinh nói, trong đời
người ấy làm thiện nhiều hơn ác, nhưng mà nghiệp ác quá khứ vẫn còn nhiều,
chẳng may khi chết gặp duyên không tốt, khiến người đó sanh sân giận, Cận tử
nghiệp ác mạnh hơn, vì sanh tâm sân giận, thần thức biến chuyển đi theo với
nghiệp ác làm thân địa-ngục. Đại sư Trí-Húc nói: "Nghiệp ác của một chúng
sanh nếu có hình tướng, nó sẽ chồng chất đầy cả hư không". Theo ý Đại-sư:
"Một người biết tu niệm Phật cầu Vãng Sanh Cực-Lạc, một câu niệm Phật sẽ
được trừ tám mươi ức kiếp sanh tử. Dù vậy, nếu người ấy niệm Phật liên tiếp một
trăm năm cũng chưa hết nghiệp ác đã tích trữ từ Vô-lượng Vô-số kiếp".
Cho nên nghiệp ác của bất cứ một
chúng sanh nào cũng đầy dẫy như vậy, nếu người ấy không biết tu đúng cách, thì
khi lâm chung rủi "sơ sảy" dễ bị rơi vào ba đường dữ (chỉ có niệm
Phật mới thoát được thôi!)
4. Oan gia đòi nợ - "Nhà Phật
thường dạy cho chúng sanh biết về luật nhân quả. Và như luật thế-gian cũng vậy,
giết người phải đền mạng". Mấy mươi năm chiến tranh Việt-Nam, quân-nhân
hai miền Nam Bắc đã giết nhau vô số. Bên nào cũng đều nhơn danh đất nước mà
giết nhau. Người giết nhiều, được lập công khen thưởng. Nhưng sau khi chết,
người giết nhiều phải vay trả nhiều.
Trong bài giảng của Pháp sư
Tịnh-Không: "Nhạc Phi và cả gia-đình đều là bực trung quân ái-quốc nêu
danh sử nước Tàu; nhưng sau khi chết, đến nay thần thức vẫn còn sống trong Quỷ
đạo mà vẫn chưa được trở lại làm người".
Những người cựu quân-nhân Việt-Nam,
nếu chẳng biết cách tu đúng, để dọn đường trước cho lúc lâm chung, vẫn phải
theo luật nhân quả, và cũng phải như Nhạc-Phi.
Người dân thường, làm ác giết người
cũng phải tuỳ theo nghiệp ác mà thọ quả.
5. Giết để ăn, cũng phải đền mạng!
Đức Phật thường dạy để tự về
tham-sân-si. Con người do lòng tham mà thường xảy ra tranh-chấp, chiếm lấy, mà
có chấp -tranh. Đó toàn là nghiệp ác, và cũng là kết quả của ngu-si, sân giận.
Trong các cái tham có sự tham dục.
Con người thì tham lam nhiều lắm,
song chỉ cần nói về tham dục, trong đó có thực dục, những đòi hỏi về ăn. Những
con vật mà chúng ta giết để ăn như gà vịt, bò dê, tôm cá, cua, rắn cũng đều từ
thần thức của những con người có Phật tánh. Theo luật nhân quả, gieo nhân xấu
gặt quả xấu, giết ăn thì phải trả mạng. Nếu ai đọc sách nhà Phật, thì đều nhớ
các chuyện oan hồn đòi mạng. Phạm vi sách này không thể đăng lại đầy đủ, nhưng
chúng tôi nhắc đến trường-hợp gia đình bà Huỳnh-Ngọc-Tuyết trong sách
Lưu-Xá-Lợi.
Sở dĩ chúng ta không thấy nhan nhãn
trước mắt những vụ đòi mạng bởi các lý do:
a. Như Kinh Kiến-Chính nói,
thần-thức người chết không về báo cho biết được, dù đã bị đòi mạng.
b. Những con vật bị giết có thể không đòi mạng ngay trong một kiếp, vì chúng
phải làm kiếp thú hàng triệu triệu năm, trong khi chúng ta cũng luân hồi lặn
hụp trong các nẻo; nhưng khi thuận duyên ta liền bị chúng đòi mạng lúc nào ta
cũng không hay biết được. Điều này nói ra nhiều người không thể tin. Đây là chỗ
chúng tôi ngần ngại, nếu không nói hết điều mình biết thì không được, mà nói
thì mang tiếng hù thiên hạ hay sẽ bị nói: "Ông già này điên rồi",
hoặc sẽ bị nói: "ông già này mê tín dị đoan!" Tuy nhiên, chúng tôi
thấy cần nói thẳng ra trong lần này, vì chúng tôi không cần tự lo cho mình,
muốn danh thì giờ để tu, nên sẽ không viết nữa. Dù mang tiếng ông già điên cũng
viết, vì ít ra cũng giúp được vô số người. Những ai chịu tin và áp dụng
"Pháp môn Niệm Phật", dựa vào oai-thần và nguyện -lực của Đức Phật
A-Di-Đà mà tránh được sự đòi mạng, vĩnh viễn không còn lo sợ nữa. Bấy nhiêu đó
cũng đủ làm vui chúng tôi.
c. Như đã nói, sự đòi nợ của oan-gia trái chủ không xảy ra trong một đời, mà có
khi nhiều kiếp, như trường-hợp Quốc sư Ngô Đạt, mà Hoà-Thượng Tịnh-Không kể;
Ngài Ngô ĐẠt tu tới bực cao vẫn còn bị oan gia theo đuổi bào thù trong mười
kiếp. Cho nên, nếu chúng ta còn luân hồi ở trong Tam-giới này là còn bị oan-gia
trái chủ đòi nợ. Bởi vậy Đức Phật mới dạy: "Là Phật tử tu phải vượt
Tam-giới."
6. Ung-thư cũng là hình thức báo
thù?
Thêm một điều nữa, trong cuộc đời
chúng ta, hẳn ta đã giết vô số kiến, dán, ruồi, muỗi và những con vật bé nhỏ
khác như bò chét. Chúng thường gây hại, hay cắn chích ta...Nhưng giết chúng vẫn
là sát sanh, là giết mạng. Giết mạng người hay giết con vật thật nhỏ, vẫn là
sát sanh, tức giết sanh mạng. Chúng ta đọc kinh sách Phật thường thấy có những
vị Sư không bao giờ đập muỗi, giết dán kiến, kẻ cả bị muỗi chích cũng không
đập.
Xin hãy đọc một bài giảng của
Hoà-Thượng Tuyên-Hoá đăng trong sách Khai Thị quyển bốn, trang 154:
"Trong sự mông lung của đời
sống, chẳng biết từ đâu và do đâu, ta sẽ thấy nhân quả kiếm tới, có thể ta sẽ
mắc một quái tật, hay sẽ bị bịnh hành hạ, đó là một thí-dụ về sự báo cừu có
tính -cách tiêu cực. Như ngày nay, những người mắc bịnh ung thư, phần đông do
kiếp trước, hay kiếp này, đã tạo nghiệp trọng về sát sanh, nên mới gặp loại
bịnh không có thuốc chữa này".
Chúng tôi cho rằng rất đúng. Khi
viết sách Lưu-Xá-Lợi, chúng tôi đã nghĩ rất nhiều về những vị bị ung thư do
nhứt tâm niệm Phật được Vãng Sanh, còn lưu Xá-lợi. Do nhân quả nào, do sự báo
cừu nào mà những oan-gia nhỏ xíu như loài bọ chét, kiến, muỗi đã trở thành
những loại vi-khuẩn, vi-trùng nhỏ xíu xâm nhập vào cơ thể chúng ta, gây nên các
loại ung thư, yeast, v.v..., tác hại trong cơ thể chúng ta? Yeast là một loại
nấm thật nhỏ, phải là nhà chuyên môn dùng kính hiển-vi mới thấy được; nhưng khi
nó gây ra bịnh Candida, thì còn người sẽ bị suy nhược cùng cực. Tuy nó không
phải nguy hiểm như ung thư; nhưng vẫn là sự gây hại đáng kể.
Thời này có nhiều căn bịnh là lùng,
cho nên Hoà-Thượng Tuyên Hoá mới nói: "Trong sự mông lung của đời sống,
chẳng biết từ đâu, do đâu, ta sẽ thấy nhân quả kiếm tới, có thể ta sẽ mắc một
quái tật..."
Thật đúng, Hoà-Thượng dùng chữ
"mông lung" rất hay và "nhân quả kiếm tới chẳng biết từ đâu và
do dâu mà chúng sanh ngày nay mắc quái tật"?
Thật đúng, Hoà-Thượng dùng chữ
"mông lung" rất hay và "nhân quả kiếm tới chẳng biết từ đâu và
do đâu mà chúng sanh ngày nay mắc quái tật"?
Phật dạy tất cả chúng sanh đều có
thể thành Phật, do chúng sanh đều có Phật tánh. Chúng ta đã giết và ăn thịt
những vị Phật tương lai, khiến họ phải đau đớn. Họ sẵn có từ tâm, bỗng vì đau
đớn thành sân hận và nuôi lòng trả thù báo hận. Nhà Phật gọi những sanh vật này
là oan gia trái chủ, do chúng ta ham vui đi săn bắn, giết chết; ham câu, giăng
lưới bắt một lần vô số; hoặc thích ăn ngon đã dùng tiền mua gà, vịt, ếch, rắn,
cua sò v.v.... về đập đầu, mổ bụng hoặc dùng nước sôi luộc, khi họ còn sống
giẫy tê tê. Đổi lại, nếu chúng ta là những sanh vật ấy, chúng ta có oán hận
không?
Cho nên Đức Phật nói: "Ăn
giết, giết ăn, chẳng biết bao giờ mới dứt"?
Một kiếp súc sanh kéo dài hàng tỷ,
hàng triệu năm. Sự báo hận của chúng kéo dài có khi hàng 10 kiếp và mỗi kiếp là
16 triệu 800 trăm ngàn năm. Họ chờ đến lúc chúng ta già nua bịnh hoạn, kiệt lực,
thân xác rã rời; họ chờ chực đúng lúc, thì trả thù. Khi còn sống, chúng ta
thiếu nợ oan gia trái chủ vô số và đủ loại, do ngu mê mờ mịt, chẳng biết lo tu
đúng cách để hoá giải hận thù, hầu siêu thoát oan gia và tự độ cho mình, thì
đành theo nghiệp thọ sanh, để trả nợ oan gia.
Chúng ta có thể hoá giải những hận
thù này hay không?
Dĩ nhiên chúng ta có thể hoà giải
những hận thù này. Chúng sanh chúng ta đã và đang bị nhiều hình thức báo oán.
Phương thức đối trị hữu hiệu vẫn là danh hiệu Nam-Mô A-Di-Đà Phật. Những điều
chúng tôi trình bày dưới đây, xin chư liên-hữu suy gẫm xem có đúng hay không?
Bình thường, một người không biết
Pháp môn Niệm Phật, khi chết thần thức phải nghiệp đi thọ sanh. Như Đức Phật
nói trong Kinh Kiến-Chính, thần-thức không có hình tướng, nếu cận tử nghiệp ác,
thần thức biến chuyển ác, đi theo với nghiệp ác làm thân địa-ngục, thân
ngạ-quỷ, thân súc-sanh, thân tôm cá, sâu, bọ....thân đó giống như cái bình mà
Đức Phật đưa thí dụ. Bình tròn thì thần thức mang hình tròn, bình hình con tôm,
thì thần thức thành hình tôm.
Đó là sự biến đổi thần-thức của một
con người sau khi chết. Thần-thức ra khỏi xác không có hình tướng con người
nữa. Lúc đó thần thức được gọi là hồn ma, nó có thể đi ngang qua tường vách mà
không bị trở ngại.
Nếu trước khi lâm chung, người đó
bị các oan hồn đến đòi mạng, giai-đoạn này chỉ có khủng bố tinh thần. Nếu người
biết rành về Pháp môn Tịnh-Độ thì người đó có thể làm các việc như sau:
1. Không ngừng xưng niệm danh hiệu A-Di-Đà Phật.
Như đã nói ở trước, sự báo oán
không phải hoàn toàn xảy đến ngay cho tất cả mọi người. Có người gặp, có người
không gặp tuỳ duyên đúng lúc nó tới. Cho nên Hoà-Thượng Tuyên Hoá nói:
"Trong sự mông lung của đời sống chẳng biết từ đâu và do đâu, ta sẽ thấy
nhân quả kiếm tới, có thể ta sẽ mắc một quái tật, hay sẽ bị bịnh hành hạ, đó là
sự báo hiệu về sự báo cừu có tánh cách tiêu cực...."
Đây là sự báo thù có tính cách tiêu
cực, mà kẻ báo cừu không lộ hình-tướng, nhưng rất nhỏ bé lại ngu si. Còn có
những loại khác có hình tướng, lúc biến lúc hiện, có thể hiện hình tướng đe doạ
đòi mạng. Nhưng Phật A-Di-Đà có oai thần, nên khi niệm danh hiệu của Ngài, hồn
ma hay quỷ quái gì đều phải tránh xa bốn mươi dặm. (Kể cả Thần-thức của người
đoạ vào Địa-ngục, nếu thân nhân ở trên trần thế, như trường-hợp cô gái Bà-La-Môn,
tiền thân của Địa Tạng Bồ-Tát, muốn cứu mẹ đã niệm danh hiệu Đức Giác-Hoa Định
Tự-Tại Vương Như-Lai một ngày, một đêm, thình lình mộng thấy mẹ ở Địa-ngục, sau
đó nhờ Phật lực đi xuống tận nơi, gặp Quỷ Vương tên là Vô-Độc. Quỷ Vô-Độc gọi
người niệm Phật là Bồ-Tát. Sau khi hỏi han, Quỷ Vô-Độc cho biết: "Chẳng
những thân mẫu của Bồ-Tát nhờ phước của niệm Phật và cúng dường, đặng sanh lên
cõi Trời Đạo Lợi đã ba ngày rồi; cho đến những người đồng thọ tội ở đó cũng nhờ
duyên phước ấy mà đồng sanh lên Thiên đàng trong ngày đó").
Theo lời Kinh Bi Hoa, Quỷ Vô-Độc
gọi cô gái Bà-La-Môn là Bồ-Tát.
Tại sao có thể gọi là Bồ -Tát? Hãy
nhớ đến Kinh Niệm Phật Ba-La-Mật, Đức Thích Ca nói: "...nếu có chúng sanh
nào chí thành xưng niệm danh-hiệu Nam-Mô A-Di-Đà Phật, thì uy-lực
bất-khả-tư-nghị của danh- hiệu khiến cho tâm-thể thanh-tịnh mà chúng sanh ấy
không hề hay biết, tự nhiên chứng Sơ-phần Pháp Thân...".
Đây là lời dạy tối quan trọng trong
kinh, mà chúng tôi đã chứng minh, nếu người chí -thành xưng niệm danh-hiệu Phật
tới trình độ "Tâm thể thanh-tịnh",, thì tự-nhiên chứng Sơ-phần Pháp
Thân, tức là bực Sơ-địa Bồ-Tát.
Chúng ta hãy nhớ lại, cô gái
Bà-la-môn-tiền thân của Địa-Tạng Bồ-Tát - đã niệm Phật một ngày một đêm
liên-tục. Nếu chúng ta có thể niệm Phật một ngày đêm không ăn, không ngủ, thì
tâm thể sẽ thanh-tịnh, nhờ vào uy-lực bất-khả tư-nghị của danh-hiệu Phật, tự
nhiên chứng nhập Sơ-phần Pháp-thân mà cô gái Bà-La-môn không hề hay biết. Cho
nên, khi cô gái Bà-la-môn xuống đến địa-ngục, Quỷ Vô-Độc là một chúa ngục đã
gọi nàng là Bồ-Tát.
Đây là kinh nói, nếu chúng ta niệm
Phật đúng lời kinh dạy, thì chẳng những oan-gia không thể báo hận, mà ta tự
nhiên chứng Sơ Phần Pháp thân, chắc chắn được Vãng Sanh.
Từ ba năm nay chúng tôi nắm vững
câu Kinh Niệm Phật Ba-La-Mật, nhắc nhở chư liên-hữu, ráng "Niệm Phật sao
cho tâm thể được thanh-tịnh", thì chắc chắn được Vãng Sanh.
Trong các Pháp môn khác, Đức Phật
cũng dạy tu sao cho được thanh-tịnh. Khi tâm được thanh-tịnh thì hành giả sẽ
được tịnh, mà được tình thì trí tuệ liền hiện đến. Đây cũng là lý do tại sao
người niệm Phật được tịnh, khi đắc quả Vãng Sanh đều lưu lại Xá-Lợi.
2. Bày tỏ lòng Sám-hối và
Hồi-Hướng!
Trên đây chúng tôi nói hơi dài dòng.
Nhưng nếu không nói thật rõ, có vị không quan tâm, chỉ niệm Phật lấy có, thì chẳng
được kết quả gì, thành ra chúng tôi hại người.
Khi ra khởi tâm niệm Phật, liền
phải phát tâm ăn năn sám-hối, nhận rõ rằng hành động trong quá khứ của chúng ta
đều sai lầm. Khi chúng ta sám-hối tội liền được giảm; nhưng đối với oan gia
trái chủ thấy chúng ta chưa biểu thị hành động có lợi cho họ. Có người chủ
-trương cúng kiến. Chúng tôi cho rằng như vậy chưa đủ, chúng ta phải có hành
-động thiết -thực hơn. [b]Nghĩa là chúng ta phải có hành động, đem công-đức
niệm Phật của chúng ta, trao tặng lại cho oan-gia trái chủ bằng phương pháp
chính do Đực Phật dạy. Đó là hồi hướng công-đức, Sám hối và hồi hướng công đức
phải đi liền với nhau. (Bởi lý do này, chúng tôi đã biên soạn sách Sám Nguyện
Vãng Sanh).
Những oan-gia đều là chúng sanh từ
ba đường dữ, còn nhiều sân hận. Nếu họ biết chúng ta cầu nguyện cho họ giảm
nghiệp, thoát kiếp các đường dữ tức nhiên họ sẽ bỏ thù hận vậy.
Cho nên trong nhà Phật, có
trường-hợp người ta "vô-tình" đạp chết một con vậy, người hiểu về
nhơn quả liền niệm Phật mười biến hay nhiều hơn, hoặc niệm chú Vãng Sanh bảy
biến đến hai mươi mốt biến; rồi hồi hướng công-đức và nguyện cầu cho con vật
được Vãng Sanh Cực -Lạc.
Đây là cách đối trị hay nhứt.
Thần thức người niệm Phật sẽ đầu
thai vào hoa-sen
Nhân Đức Phật nói về thần-thức của
một chúng sanh, sau khi lâm chung thần thức ấy phải theo nghiệp đi thọ sanh, mà
có nhiều cao tăng bảo coi chừng bị đội sừng, mang lông, tức là trở thành
súc-sanh. Vậy, người tu niệm Phật, khi lâm chung vẫn còn ác-nghiệp, làm sao
khỏi theo nghiệp thọ sanh?
Đây là chỗ thù-thắng nhứt của Pháp
môn Niệm Phật. Người không biết niệm Phật phải theo nghiệp mà thọ sanh. Còn
người niệm Phật đúng cách, sẽ mang nghiệp mà Vãng Sanh, gọi là Đới nghiệp Vãng
Sanh. Khi lâm chung, nghĩa là lúc đó vẫn còn sống, Phật A-Di-Đà và Thánh chúng
tới đón. Pháp môn Tịnh-Độ gọi là tiếp dẫn, có nghĩa là tiếp đón và hướng dẫn.
Do đó Phật và Bồ-Tát hiện diện,
oan-hồn trái chủ khiếp sợ oai thần của Phật và Bồ-Tát, nếu muốn đến đòi mạng
cũng không dám đến gần. Phật và Đại Bồ-Tát Quấn-Thế-Âm và Đại-Thế-Chí cùng vô
số Thánh Chúng với hào quang rực trời, quỷ ma đều tránh xa muôn ngàn dặm.
Hẳn chư vị còn nhớ chuyện lễ phát
giới-điệp của Hoà-Thượng Hư Vân cho quý vị Thọ Tỳ-Kheo. Có một vị thần cổ-thụ
cũng thọ Tỳ-Kheo. Lúc Hoà-Thượng Hư Vân cung thỉnh Phật và Bồ-Tát đến chứng lễ.
Vị Tỳ-Kheo thần cây cổ-thụ khiếp sợ trước hào quang, phải tránh xa chẳng dám
vào thọ lãnh giới-điệp.
Cho nên, khi Phật A-Di-Đà và Thánh
Chúng đến tiếp dẫn người Vãng Sanh, thì oan-gia trái chủ đều lánh xa, còn thần
thức người Vãng Sanh sẽ theo Phật và Thánh Chúng đầu thai vào hoa sen. Chúng
tôi nói điều này có chứng minh.
Theo Kinh Bi-Hoa, vua Vô-Tránh-Niệm
(tức tiền thân của Đức Phật A-Di-Đà), đã quy y với Phật Bảo-Tạng. Trong lời
nguyện có câu "Chúng sanh được về cõi Phật của tôi, thần thức sẽ đầu thai
vào bông sen." Nguyên văn như sau:
"Tôi nguyện tất cả chúng sanh
được về cõi Phật của tôi, đều thành đàn ông tươi tốt vô cùng, không còn thọ báo
sắc thân đàn bà và cũng chẳng còn có danh hiệu của người đàn bà nữa - Hết thảy
chúng sanh khi về đó, thần thức đầu thai trong bông sen, lúc bông nở thì căn
thân xinh tốt, thọ mạng lâu dài, không kể xiết đặng.
Tôi nguyện cho chúng sanh trong cõi
ấy, ai nấy cũng đều đặng ba mươi hai tướng tốt, sáu phép thần thông..."
Chúng tôi cần nói rõ thêm một chút
ở chỗ này. Khi thành Phật Vô-Lượng-Thọ tức A-Di-Đà Như-Lai, tiền thân của Ngài
là Tỳ-Kheo Pháp-Tạng, tu với Đức Phật Tự-Tại Thế-Vương có 48 Đại nguyện. Nhưng
trước đó trải qua vô số hằng hà sa kiếp, tiền thân của Tỳ-Kheo Pháp-Tạng (tức
Đức Phật A-Di-Đà) là vua Vô-Tránh-Niệm. Vào dạo ấy, tiền thân của Phật A-Di-Đà
đã phát tâm Bồ-đề với Phật Bảo-Tạng và phát tâm trang-nghiêm xây dựng cõi
Cực-Lạc của Ngài.
Như vậy mới biết, từ vua
Vô-Tránh-Niệm, kế tiếp đến Tỳ-Kheo Pháp-Tạng, trải qua hai lần được hai vị Phật
dùng oai-thần cho thấy tất cả cõi Phật ở mười phương. Đức Phật A-Di-Đà tu lâu
vô số kiếp mới thành Phật, để rồi lập nguyện: "Ai niệm danh-hiệu ta mười
niệm liên-tục, khi lâm chung sẽ được tiếp-dẫn về nước ta." Đức A-Di-Đà qua
hai tiền thân đều phát đại nguyện xây dựng một nước Cực-Lạc, mà không một cõi
Phật nào sánh bằng. Cõi đó không có ba đường dữ. Đặc biệt thần thức của người
về cõi Cực-Lạc đều đầu thai trong hoa sen.
Chắc chắn chư liên-hữu thân ái của
chúng tôi đều sẽ được đầu thai trong hoa-sen. Hoa-sen nở đã có được ba mươi hai
tướng tốt và có thần thông rồi.
Hiểu đến đây chư Liên-hữu đã rõ,
cõi Tịnh-độ, Cực-Lạc hoàn toàn không giống cõi Tịnh-Độ nào khác, vậy mà có
người dám nói: "Tâm tịnh là cõi Phật tịnh, để ví cõi Tịnh-độ của Đức Phật
A-Di-Đà". Đó là mang tội phỉ báng Kinh Phật, coi địa-ngục là chỗ đùa giỡn.
Từ mở đầu chương này, chư liên-hữu
đã mệt tinh thần vì thấy toàn chuyện thần thức đi theo nghiệp thọ sanh, và thọ
Địa-Ngục. Những điều ấy không phải dành cho chư liên-hữu đâu. Chúng tôi nói ra
hết để chư liên-hữu có đủ dữ kiện trình bày với thân bằng, quyến thuộc, gồm
những người chưa hiểu nhiều về Pháp môn Niệm Phật. Chúng tôi chắc chắn chư
liên-hữu sẽ phát Bồ-đề Tâm và sẽ niệm Phật Vãng Sanh. Thần thức chư vị sẽ đầu
thai vào hoa sen. Phần dưới đây chúng tôi dành cho những người không nắm chắc
phần được Vãng Sanh. Chư liên-hữu sẽ dùng nó
để hướng dẫn, hầu giúp họ được Vãng Sanh Cực-Lạc.
Làm sao cứu Thần-thức của người
không biết niệm Phật?
Thần-thức tức là linh-hồn. Nói
rằng, chúng ta sẽ cứu được thần-thức của những người không biết niệm Phật, nghe
qua như là chuyện hoang đường; nhưng đây là sự thật.
Chúng ta có thể cứu được, nếu chúng
ta đọc rõ Kinh Quán Vô-Lượng-Thọ và sách Liễu-Sanh Thoát-Tử, chúng ta thật sự
có thể thành tựu. Có 3 cách cứu thần-thức:
1. Theo Quán Kinh, một người suốt
đời làm ác, đáng đoạ đường dữ, may mắn được bực Thiện-Tri-Thức nói pháp mầu dạy
quán tưởng Phật. Người nọ quán tưởng không nổi: Thiện-Tri-Thức bảo: Nếu ngươi
không thể tưởng Phật kia, thì nên xưng danh Phật Vô-Lượng-Thọ. Người nọ hết
lòng niệm chẳng dứt tiếng để đủ mười niệm "Nam-Mô A-Di-Đà Phật".
Nhờ xưng-danh Phật nên trong mỗi
một niệm trừ tội sanh tử tám mươi ức kiếp, khi vừa tắt hơi thấy hoa sen vàng
như vừng mặt trời ở trước người ấy, trong khoảng phút chốc liền được Vãng Sanh
Thế-giới Cực-Lạc.
Đây là cách thứ nhứt.
Một người suốt đời làm ác, chưa
từng biết niệm Phật. Như vậy chắc chắn khi lâm chung, thần-thức sẽ theo nghiệp
đi thọ sanh, tức là sẽ đoạ Địa-ngục.
Trong sách Lưu-Xá-Lợi mới, chúng
tôi có thuật chuyện em trai chúng tôi. Em trai chúng tôi suốt đời không làm ác,
không đi quân đội bắn giết nhưng cũng không biết niệm Phật nhứt tâm. Lúc lâm
chung, em chúng tôi vẫn còn tỉnh biết, khi vợ và con của em chúng tôi nói bên
tai, em chúng tôi đều nghe biết cả. Trong những ngày ấy, chúng tôi bèn nghĩ
rằng, mình đã viết sách Lưu-Xá-Lợi, phải thực hiện việc cứu thần thức của em
mình.
Trước tiên, chúng tôi dặn đứa con
trai vận động y tá xin phép bác sĩ, nếu khi em trai tôi chết, cho được để yên 8
tiếng đồng hồ sau mới cho nhà quàn lấy xác. Đây là lý do tôn giáo. Một mặt,
chúng tôi xin phép đặt một máy niệm Phật cạnh tai em trai chúng tôi; dạy vợ con
em tôi và bạn bè cùng chắp tay niệm Phật. Hiền nội thì luôn luôn kề sát bên tai
em nhắc nhở hãy niệm Phật không ngừng. Đồng thời, nhờ thân hữu của em trai
chúng tôi, mời Thiện-Tri-Thức đến khai thị, nhắc nhở niệm Phật.
theo sách "Chết và Tái
Sanh" do Đại Đức Nguyên Tạng ở Úc dịch, Ngài Dilgo Khyentse Rinpoche, một
Lạt ma tái sanh viết:
"Thông thường khi một người
đang hấp hối, chúng ta đọc một kinh cầu nguyện hoặc nhắc nhở, họ đều nghe thấy,
thậm chí người bất tỉnh cũng nghe". Đối với vong linh trong cõi trung ấm
cũng có khả năng nghe, cảm nhận và hiểu được...Vì thế, trong bảy tuần lễ đầu
(tức 49 ngày), sau khi chết là thời-gian hết sức quan-trọng để người sống làm
mọi việc để giúp...cho người chết".
Đọc sách Vãng Sanh Lưu-Xá-Lợi, hẳn chư vị đều biết, tám giờ sau khi em tôi mất,
trên trán vẫn còn hơi ấm. Theo sách Liễu-Sanh Thoát tử, trường hợp vậy là được
Vãng Sanh Cực-Lạc.
Dựa vào kinh-nghiệm này, chúng tôi
nghĩ rằng, ngoài những vị nắm phần chắc rằng mình đã niệm Phật tới nhứt tâm;
chư liên-hữu khác, nếu chưa hoàn toàn tin tưởng mình sẽ giữ được chánh niệm khi
lâm chung, thì nên sanh hoạt với người nhà và bạn đạo chuẩn bị trước, như chúng
tôi đã lo cho em trai chúng tôi.
Thật sự trước khi em trai chúng tôi
chưa mất, chúng tôi cũng lo ngại cho riêng mình. Nhưng bây giờ thì chúng tôi an
tâm, vì vợ con chúng tôi đều hiểu, đều biết phải làm sao khi chúng tôi từ giả
cõi đời này. Chắc con cháu chúng tôi sẽ không ai khóc và đám tang sẽ cử hành
trong lặng lẽ, đúng theo nghi thức thanh-tịnh của Phật-giáo.
Dưới đây là một bài học kinh
nghiệm.
Chúng tôi có một người bạn rất nổi
danh, dã trên 80 tuổi, lúc chết cảnh sát đến mang xác đi khám nghiệm. Đây là
điều kỵ thứ nhứt. Ngày đưa đám, em cháu, bạn bè khóc lóc kêu réo buồn thảm. Vậy
thần thức của anh ấy làm sao mà đi cho đành? Đây là điều kỵ thứ hai. Chữ
"tình" này thật quá lớn, tô thật đậm nét. Những người đang hiện diện
lúc đó đều không hiểu rằng: "đến đưa đám là giúp cho linh hồn người chết
đi đến nơi an lạc". Thêm nữa, người ta còn mở máy, hát một bản nhạc mà anh
thích nhứt trong đời. Thử hỏi làm sao thần-thức bạn tôi siêu-thoát được? Đây là
điều đại kỵ thứ ba của Phật giáo.
Chúng tôi viết những lời này ra
dây, để chư liên-hữu hiểu tường-tận hầu sanh hoạt trước trong gia đình, chuẩn
bị cho ngày ra đi của mình, tránh không cho kẹt chữ "tình" này.
Đừng nên vì một chút rằng buộc của
lễ nghĩa, của thói quen thế gian, nó chỉ là của ngoại đạo, khiến bị kẹt lại
trong luân hồi vô số kiếp nữa.
Chúng ta nên học tập thực hiện đúng
một đám ma thuần tuý Phật giáo, thì việc Vãng Sanh Cực-Lạc dễ thành tựu.
Một người suốt đời làm ác làm sao
được Vãng Sanh Cực-Lạc?
Như chúng tôi đã trình bày ở trước,
một người Vãng Sanh được Phật A-Di-Đà và Bồ-Tát đến rước đi, khi thân tứ đại
vẫn còn sống. Nhưng, khi một người sau khi chết rồi, mà chưa được Vãng Sanh,
Thần thức của người ấy lập tức rơi vào địa-ngục, nếu suốt đời làm ác. Có nghĩa
là, nếu được Vãng Sanh thì đi thẳng về Cực-lạc khi Phật đến rước, lúc ấy thân
còn sống, thần thức đầu thai vào hoa sen.
Dựa theo Kinh Phật, với một người
được Vãng Sanh Cực-Lạc so với một người không được Vãng Sanh, chúng ta nhìn vào
gương mặt thấy có sự khác biệt.
Một người được Vãng Sanh, gương mặt
trông thanh thản vui tươi như đang cười; còn người không được Vãng Sanh thì
gương mặt như nhăn nhó, xấu-xí dường như đã trải qua sự đau đớn.
Tại sao vậy?
Theo Kinh Phật, người sắp chết phải
trải qua giai đoạn tuần tự của trạng thái tứ đại tan rã. Cơ thể sẽ cảm thọ sự
đau đớn không thể tả.
Lúc đầu, lóng chân lóng tay cảm thọ
đau đớn, tay chân gân mạch co rút, run rẩy. Kế tiếp, hơi lạnh xâm nhập, nội
tạng rung động, gan ruột đều lạnh buốt, hơi thở khò khè, nhan sắc nhợt nhạt,
run rẩy. Thứ ba, hết lạnh đến nóng. Lục phủ ngũ tạng như bị thiêu đốt, tứ chi
như bị cắt, chặt, đau đớn quá nên cứng đơ, thở ra thì nhiều, hít vào thì ít.
Lúc này hơi thở chỉ còn thoi thóp. Sau cùng, lúc đó thân thể cảm thọ sự tan
nát, hết sức đau đớn rã-rời. Đây là lúc tứ đại phân ly, sáu căn tàn hoại, chỉ
còn nghiệp thức.
Hiểu được sự diễn tiến tan rã đau
đớn này, tại sao chúng ta không tu tập Pháp môn Niệm Phật thật nghiêm mật
tinh-chuyên? Vì người được Vãng Sanh Cực-Lạc không hề bị đau đớn vào giờ phút
chót. Ai đã có dịp được xem cuốn phim "Hoa Nở Thấy Phật" của cụ bà
Triệu-Vinh-Phương đều chứng kiến tận mắt những giờ phút bà niệm Phật Vãng Sanh
Cực-Lạc. Cụ bà an nhiên niệm Phật, mặt không đau đớn, bình thản đến khi thấy
Phật và lặng lẽ ra đi vĩnh viễn, không một tiếng nấc lên. Rồi thấy hình ảnh cụ
bạ được thiêu và thấy Xá-Lợi trước mắt mình.
Xem phim này rồi, mọi người đều
chung một cảm nghĩ: "Nhiều người chết đau đớn quá, sau đó phải theo nghiệp
mà thọ báo trong vô số kiếp, nếu như may mà được làm lại thân người, thì cuộc
sống cũng chẳng được bao nhiều vui sướng hạnh phúc, lại phải chịu tám thứ khổ
như: Sanh khổ, Lão khổ, Bịnh khổ, Chết khổ, Ái biệt-ly khổ, Khổ khi gặp
oan-gia, Khổ vì cầu không được như ý và Khổ về năm ấm hưng thạnh nên sanh ra
bạo hành".
Khi sống, thời gian niệm Phật chẳng
đòi hỏi quá lâu dài, mà khi chết lại được an vui tự tại và sau cùng, đến đất
Phật được yên vui lâu dài.
Trái lại, nếu khi sống chỉ biết lo
hưởng thụ, mà hưởng cũng chẳng thật sự sướng vui; khi chết thì đau đớn tận
cùng, mặt mày đau đớn nhăn nhó, rồi thần thức phải theo nghiệp mà luân hồi
triền miên hàng triệu tỷ năm nữa.
Vậy chúng ta nên chọn lối sống nào??
Trường-hợp chưa được Vãng Sanh làm
sao đưa họ về Cực-Lạc?
Điều này, theo sách Liễu-Sanh Thoát
Tử, vẫn có thể thực hiện được. Nếu chúng ta thật sự thương ông bà, cha mẹ, con
cái, anh em thì chúng ta nên chịu khó nghiên cứu kinh điển, sách vở, và đem áp
dụng khi gặp trường hợp một người chết mà không được Vãng Sanh.
Sách này chúng tôi chỉ viết vắn tắt
để giúp ý, chư vị nên tìm đọc hoặc nghe băng đọc về sách Liễu-Sanh Thoát Tử do
Thầy Thích-Quang-Phú-dịch.
Một người chết mà chưa được Vãng
Sanh Cực-Lạc, chưa thoát luân hồi. Phật dạy: "Họ phải đi vào giai đoạn
thân trung ấm", sẽ tuỳ theo nghiệp lực mà thọ sanh. Thời-gian này kéo dài
khoảng 49 ngày. Trừ người được Vãng Sanh ngay và người cực ác phải đoạ liền.
Tuy nhiên, như đã nói: "Người cực ác lúc lâm chung vẫn còn hy vọng được
Thiện-Tri-Thức khai thị nói Pháp mầu và dạy niệm mười câu danh hiệu Nam-Mô
A-Di-Đà Phật cũng được Vãng Sanh".
Thần -thức của người chết có được
cứu hay không, trước tiên phải do sự hiểu biết phương-cách cứu độ hay không của
cha mẹ hay con cái. Người biết cách, phải tự tích cực lo lắng ngay, khi đang
lâm bịnh nặng và được Phật đến rước khi còn sống. Biết lo lắng sớm thì cầm chắc
như được thành công. Còn không biết gì cả, khi chết rồi, người nhà mới chạy hỏi
Thầy, hỏi người biết chuyện; nếu gặp duyên không tốt, người biết chuyện không
tìm ra, đành bó tay, thật oan uổng cho một người phải gánh chịu trong vô số kiếp.
Trong đời này đã xảy ra hàng triệu triệu vụ người chết bị bỏ mặc, vì cha mẹ con
cháu không hiểu Phật pháp. Nhiều người thương cha mẹ con cái, nhưng vì chẳng
hiểu đạo một cách đúng đắn và đầy đủ, mà trở nên ân hận suốt đời, vì đã bỏ lở
dịp cứu anh em, cha mẹ, con cái; giúp họ được Vãng Sanh. Nếu có đọc sách
Liễu-Sanh Thoát Tử, chắc chắn chúng ta sẽ thấy rõ điều hối tiếc này.
Cho nên, nếu thật sự thương cha mẹ
con cái, khi người chết nằm xuống, biết người ấy chưa được Vãng Sanh, tức tốc
phải lo vô số việc.
Người có tiền, nhà dư giả thì lo
theo dư giả; người không tiền thì lo theo không tiễn. Có tiền hay không, căn
bản là lòng thương yêu thật sự. Có tiền mà không thật sự muốn cứu thân nhân
mình, chỉ là một đám ma nhà giàu bằng hình thức; thì sẽ thua người không tiền.
Người nghèo này không khả năng thỉnh thầy làm lễ một ngày đôi lần, nhưng họ
luôn luôn túc trực bên quan tài, luân phiên thành kính niệm Phật không ngừng;
luôn luôn thành tâm lễ lạy, cầu Phật và Thánh chúng tiếp độ thân nhân mình.
Thành tâm vì người chết niệm Phật, rồi hồi hướng công-đức cho họ, thì người
chết chắc chắn được Vãng Sanh.
Trong vòng 49 ngày, thần thức người
chết thường hiện diện, mình nói với họ hiểu; nhưng họ nói thì mình không nghe
biết; nên tâm họ thường giận tức. Cho nên tránh nhắc nhở quá khứ của người
chết. Chỉ nên thắp nhang liên tục, niệm Phật không ngừng là tốt nhứt. Phải
thành tâm và kiên trì ở bên người chết. Sau khi chôn, nếu cả nhà cố gắng chia
nhau ở bên bàn thờ niệm phật, lúc nào cũng kêu gọi nhắc nhở người chết niệm Phật,
đó là tạo điều kiện cho người chết được Phật và Bồ-Tát đến tiếp dẫn. Còn như
thân nhân bỏ bê, bà thờ người chết nhanh khói tiêu điều, đèn đuốc không có, thì
người chết sẽ vô cùng lạnh lẽo đau khổ. Đừng tưởng chúng ta làm tuần bảy ngày
một thất là đủ. Thần thức sẽ đau buồn, chán nản hay giận hờn, dễ rơi vào đường
dữ.
Nếu là một người biết dạo, bình
thường hay lui tới các chùa và tiếp xúc thường xuyên với các ban hộ niệm; lúc
hữu sự, nếu quý Tăng Ni không rảnh để đến nhà tụng kinh Cầu Siêu cho, thì bạn đạo
ở ban hộ niệm luân phiên đến nhà tụng kinh niệm Phật, thì cũng tốt vậy. Nhà
Phật thường nói đến chữ duyên. Thì cái duyên đến trợ niệm cho nhau là thù thắng
nhứt.
Chúng tôi tha thiết và thành tâm
xin chư liên-hữu ở mỗi chùa, mỗi vùng nên dành thì giờ lập ban hộ niệm. Giúp
cho một người được Vãng Sanh Cực-Lạc, không công-đức nào sánh bằng. Như Phật
nói: "Vãng Sanh tức là thành Phật". Vậy chúng ta ở trong ban hộ niệm,
đến trợ niệm cho một người Vãng Sanh tức là giúp cho người ấy sẽ thành Phật.
Nhiều chùa có ban hộ niệm lúc đầu,
nhưng nhơn số quá ít, lâu ngày như không còn nữa. Vậy nên lập ban hộ niệm toàn
vùng, với nhơn số lớn, thì lúc nào cần, vẫn có người đến trợ niệm. Vậy xin chư
liên-hữu hãy phát Bồ-Tát tâm, đứng ra lập ban hộ niệm toàn vùng cho các địa
phương người Việt sanh sống.
Có một điều khá quan trọng, chúng
tôi muốn lưu ý chư liên-hữu. Trong sách Liễu-Sanh Thoát Tử có nói: "Không
nên gấp rút động đậy như dọn dẹp mền nệm, chùi rửa thay đổi quần áo, cần để yên
độ tám tiếng đồng hồ...Nếu không theo như thế, thì nghiệp thức chưa hoàn toàn
rời bỏ thân, bị xúc-động phải cảm thọ sự đau đớn nhân đó mà sanh ra sân hận,
tức phải đoạ vào ác đạo".
Dựa vào sách Liễu-Sanh Thoát Tử
chúng tôi nói 8 tiếng. Nhưng trogn sách Chết và Tái Sanh của Đại Đức
Thích-Nguyên-Tạng dịch, các vị Lạt Ma Tây Tạng còn nói lâu hơn, như sau:
Kirti Tsenshab Rinpoche viết:
"Tốt nhứt là đừng nên đụng
chạm đến thể xác họ trong thời điểm ấy (thiền-định). Ngay cả một người thường
(người không có tu tập) cũng không được đụng đến thi thể của họ đến ba ngày
sau".
Ngoài ra người Tây Tạng còn dặn
không nên rờ vào hạ bộ, tức là phần chân, Lạt ma Garje Khamtul Rinpoche viết:
"Khi một người vừa chết, chúng
ta có thể sờ chạm đỉnh đầu của họ, đó là vùng huyệt đạo tốt nhứt để thần thức
thoát ra, mà ngài Lama Je Tsong Khapa gọi là 'chiếc cổng vàng'. Do đó, bạn nên
kích thích vào vùng đỉnh đầu, nếu thần thức của người chết thoát ra ngoài bằng
đường này thì chắc chắn họ sẽ thác sinh vào cảnh giới an lành". Nhưng nếu
thần thức thoát ra các đường ở hạ bộ, từ lổ rốn trở xuống, người ấy sẽ ác sanh
vào ác đạo, như cõi ngạ-quỷ hay loài cầm thú. Vì thế, người Tây Tạng không bao
giờ tiếp xúc hạ bộ của thi thể người chết, nếu ta chạm vào chỗ nào của họ thì
thần-thức sẽ tụ lại chỗ ấy mà thoát ra".
Đây là điều khá quan trọng, xin chư
liên-hữu lưu ý điều vừa nói, và xin ghi nhớ thêm điều này nữa. Nhiều người đã
chết, thân nhân không hiểu cứ muốn lưu giữ lại. Xin hãy đọc Lama Dilgo Khyentse
Rinpoche viết:
"Bốn mươi chín ngày là
thời-gian chung cho tất cả mọi người; nhưng có một số người khác cứ vất-vưởng
trong thế-giới trung ấm này một thời-gian khá lâu, có lúc đển bảy năm mới đi
tái sanh. Nếu trường-hợp họ bị kẹt lại trong thế giới trung gian này, họ sẽ trở
thành ma quỷ".
Cho nên nếu chúng ta không biết
tổ-chức một đám ma thanh-tịnh, không biết trợ niệm để thần thức người chết được
vãng sanh thì thần thức ấy dễ thành ma quỷ. Người Việt chúng ta ở Mỹ và các
nước Âu Úc, trừ người chết ở nhà thương, còn đa số người khác dù đã trên 80
tuổi, đau nặng, sau khi mất, cảnh sát vẫn đến chở xác đi khám-nghiệm, ba bốn
ngày sau mới trả xác lại.
Như vậy là xác bị động đậy và bị mổ
xẻ sẽ khiến cho thần thức người chết sanh sân hận.
Đây là điều chúng tôi lo lắng và e
ngại nhứt. Nói ra điều này chúng tôi cố ý khuyên chư liên-hữu nên quyết tâm tu
niệm Phật đạt đến trình độ kết thành phiến, tịnh niệm nối tiếp. Khi lâm chung,
chúng ta chưa chết mà đã đi Vãng Sanh Cực-Lạc.
Nhân đây chúng ta cũng nên lập lại
về trường hợp những người ở Âu Mỹ chết tại nhà. Thường thì thân nhân phải cho
cảnh sát báo tin cho lấy xác, rồi nhà quàn đến chở xác. Như vậy phải mất từ ba
đến bốn ngày, khoảng thời -gian này thần thức hết sức hoang mang, đau đớn, bơ
vơ...
Theo Hoà-Thượng Tịnh-Không, một người được Vãng Sanh Cực-Lạc thì đã đi ngay khi
còn sống. Theo Quán Kinh: "Có chúng sanh huỷ phạm năm giới, huỷ pham tám
giới và Cụ túc giới v.v...bởi nghiệp ác nên đáng đoạ địa -ngục. Khi sắp mạng
chung, lửa địa-ngục cùng lúc hiện đến...". Như vậy, người phải đoạ
địa-ngục, lúc sắp chết lửa địa ngục hiện đến ngay, liền đoạ vào địa-ngục, không
qua giai-đoạn thân trung ấm.
Một người Việt ở Âu Mỹ, nếu chết
tại nhà, phải bị chở đi mổ xẻ khám nghiệm; thần thức sẽ đau đớn sanh sân-hận,
thì hoả địa-ngục sẽ hiện đến chăng? Chúng tôi đã ngồi suy-nghĩ luôn ba ngày,
tìm hiểu thần -thức ấy sẽ ra sao? Chúng tôi xin chư liên-hữu nào có cao khiến,
vui lòng cho được thỉnh ý.
Bây giờ nói về việc trợ niệm để cứu
độ Thần-thức của người đang ở trong giai-đoạn thân trung ấm.
Sách Liễu-Sanh Thoát Tử viết:
"Xét ra thì trong lúc đó,
người chết không tự biết rằng mình đã chết hay chưa, thì những thân thuộc nên
mỗi ngày ba phen vì họ mà luân phiên niệm Phật, để nhờ oai lực của Phật A-Di-Đà
dắt dìu họ được sanh về Cực-Lạc. Như thế thì dù có nghiệp duyên cũng không trở
ngại được...."
Như vậy rất rõ ràng oai lực của Đức Phật A-Di-Đà sẽ dắt dìu người chết về cõi
Cực-Lạc. Vấn-đề quan trọng là thân nhân của người chết có tận lực và chí thành
vì người chết mà lao khổ niệm Phật hay không?
Chúng tôi có thể nói, đây là những
giây phút hết sức tối hệ trọng của một con người: "sơ sẩy" trong
thời-gian này thay vì được cứu giúp để vượt thoát về cõi Phật A-Di-Đà, thì
thần-thức kia có thể luân hồi về một cõi bất định nào đó không ai có thể đoán
biết được.
Đoạn này chúng tôi viết xong, xóa
bỏ, rồi viết lại ở nhiều chỗ. Chúng tôi muốn viết sao mà người đọc đều thấy rõ,
phải ráng tự lo tu tập để được Vãng Sanh. Chứ đừng để lúc rời vào trung ấm,
muốn cứu thật là khó.
Đó là nói chung đối với những người
tu theo Pháp môn niệm Phật. Cho nên, đừng chờ lúc rơi vào thân trung ấm, hy
vọng muốn được thân nhân cứu độ thật là muôn vàn khó khăn.
Bây giờ trở lại vai trò của
thân-nhân lo việc trợ niệm người chết. Xin hãy nghĩ nhớ điều này, từ lâu nay
thế-gian ít có - nhưng không phải không có - người biết tích cực trong việc trợ
niệm. Chúng ta không tích cực lo việc trợ niệm là vì lầm tưởng "chết rồi
thì thôi lo chỉ cho mệt nhọc".Nhưng nếu chúng ta hiểu rõ, chúng ta vẫn còn
nhiều hy vọng, cứu vãn tình thế của một người sẽ phải luân hồi vô số kiếp, bỗng
nhiên người đó từ trong trạng thái thân trung ấm liền được hoa sen đỡ chân tay
về Cực-Lạc, "đầu thai vào hoa sen".Từ lúc đó người ấy - tức là thân
nhân chúng ta - không còn một giây phút sợ hãi, đau khổ; chúng ta tuy mệt nhọc
vài ngày đến vài chục ngày, là vợ chồng, cha mẹ, con cái, đã thương yêu nhau
mấy chục năm, bây giờ chẳng ráng vài ngày đêm lo trợ niệm cho họ được sao?
Chúng tôi phải cố nói thật rõ những
điều qua, thì lời khai thị mới thật sự thành hữu ích. Sách Liễu-Sanh Thoát Tử
ấn tống đã lâu, nhưng chắc chắn ít có người dùng nó để cứu độ thận nhân. Chúng
tôi hy vọng trong tương lai sẽ có nhiều người áp dụng.
Bài Khai Thị dưới đây, chúng tôi
phỏng theo nguyên bản sách Liễu-Sanh Thoát Tử, dùng cho việc trợ niệm người đã
chết, gồm có Thiện-Tri-Thức là các bạn đồng tu và đại diện gia-quyến. Tất cả
đều nên tuỳ theo vai vế trong gia-quyến hoặc khỗ quên biết của người đồng tu mà
soạn thành bài Khai-Thị khác. Cứu độ thần thức một người là điều hết sức quan
trọng, xin mọi người hãy thận trọng nhiên cứu và học tập trước.
Lời Khai Thị
(Thí dụ một người mẹ nói với con đã
chết)
Mỹ Lan ơi! Mỹ Lan con! Mẹ đây, con
có nghe rõ tiếng mẹ gọi không? Bây giờ con không còn ở trên thế-gian này nữa.
Con đã chết rồi! Con thật sự chết rồi! Con hãy đến trước một tấm gương nào
trong nhà, con nhìn xem sẽ không thấy mặt mũi con nữa. Bây giờ con sống trong
thân trung ấm, đó là linh hồn chớ không phải sắc thân tự đại do huyết nhục tạo
ra.
Những giờ qua, con đã trải qua
nhiều hãi hùng; con thấy thân con nằm đó mà con muốn nhập vào chẳng được, khiến
con lo âu, giận dữ. Con càng giận càng bất lợi cho con. Con nhìn xem, những
người trong gia-đình mình không ai khóc lóc, đó là muốn cho con đừng quyến
luyến gia-đình mà chẳng chịu rời đi. Nếu con vẫn còn ở thế-gian này, con sẽ
thành hồn ma lạc lõng. Khi đã chết là không thể ở lại đây nữa. Mọi người đều
phải theo luật nhơn quả, tuỳ theo nghiệp tốt xấu của mình mà cảm thọ quả xấu
tốt. Nhưng dù quả tốt hay xấu, con người rồi vẫn phải sanh rồi chết; chết rồi
sanh. Tất cả vui và khổ lẫn lộn, Khổ thì nhiều vui lại ít.
Vậy con hãy chọn con đường:
"Nương theo danh-hiệu Nam-Mô-A-Di-Đà Phật và ánh sáng của Phật mà được cứu
độ, về noi vui sướng vĩnh-viễn, không còn sanh tử nữa. Đó là cõi Cực-Lạc".
Mỹ-Lan ơi! Đức Phật A-Di-Đà đã có
lời nguyện "Ai mà niệm danh hiệu của Ngài, dù đang ở bất cứ nơi đâu, ở
khắp mười phương thế-giới, Ngài đều dùng nguyện lực, oai thần và thần lực để
tiếp dẫn người đó. Con sẽ được ánh sáng Phật A-Di-Đà hướng dẫn con về Cực-Lạc.
Con sẽ được đầu thai trong hoa sen, khi hoa nở con sẽ thấy Phật. Ngay khi hoa
sen nở, con có đủ ba mươi hai tướng tốt như Phật, sáu phép thần thông, trong
một giây phúc con có thể đi dạo khắp các cõi Phật mười phương dặng cúng đường
và nghe pháp. Con sẽ được thọ mạng lâu dài như Phật A-Di-Đà.
Này Mỹ Lan! Hoa sen vừa nở là con
đã đổi khác rồi. Đó là do lời nguyện của Đức Phật A-Di-Đà. Đó là do niệm Phật
mà hoa sen vừa nở, con đã được thân người nam đẹp đẽ, đủ ba mươi hai tướng tốt
như Phật, lại có cả ngay sáu thần thông.
Mỹ Lan con! Con thường oán trách
thân nữ, khi con về cõi Cực-Lạc, hoa sen nở con đã được thân nam ngay rồi. Hoa
sen vừa nở, con có đủ điều kiện thành Phật ngày trong đời, vì con đã cao lớn
ngay; có ba mươi hai tướng tốt như Phật ngay; con có thần thông ngay, thì ngay
trong đời con sẽ thành Phật.
Vậy Mỹ Lan con, con hãy nghe lời chỉ
dạy, căn cứ vào kinh sách Phật mà làm cho đúng, thì con sẽ được Phật A-Di-Đà
cứu con.
Mỹ Lan con! Tất cả cảnh tượng trước
mắt con, đều là giả tạm. Con đừng nghĩ gì nữa, đừng lo sợ bất cứ điều thấy nghe
trước mắt con. Đó là do nghiệp lực của con chiêu cảm. Cuồng phong, lửa cháy,
sấm sét đó là huyễn cảnh đều do ác-nghiệp đời trước của con kết thành.
Con hãy nhắm mắt lại, tâm nghĩ đến
Đức Phật A-Di-Đà; miệng niệm rõ ràng "Nam-Mô A-Di-Đà Phật" thì mọi
cuồng phong, lửa dữ, sấm sét sẽ ngưng cả.
Hãy tiệp tục niệm "Nam-Mô
A-Di-Đà Phật". Hãy niệm không ngừng. Ráng niệm Phật cho đủ mười niệm.
Nếu con ngưng niệm "Nam-Mô
A-Di-Đà Phật" thì cuồng phong, sấm sét, lửa cháy sẽ nổi lên.
Này Mỹ Lan, hãy nghe mẹ dặn:
"Nếu bỗng nhiên con thấy ba cái hố: một đen, một trắng, một đỏ. Con đừng
sợ và cũng đừng đến gần. Ba hố đó không thật có. Nó chỉ là ba độc tánh căn bản
kết luỹ từ vô số kiếp trong tâm con. Đó là Tham-dục, Sân-nhuế và Ngu si mà
thôi. Ba cái hố ấy rộng lớn nhiều hay ít là do nghiệp ác của con. Nhưng bây giờ
con biết niệm Phật, mỗi tiếng niệm Phật của con được giảm-trừ tám trăm ngàn
kiếp tội-nghiệp sanh tử.
Vậy con hãy định tâm, đừng sợ gì cả.
Hãy tiếp tục niệm Phật, bà cái hố đó sẽ biến mất, vì nghiệp chướng của con giảm
dần khi con niệm Phật. Nhưng nghiệp chướng của con không thể hết được đâu. Con
cứ yên tâm. Khi con được Đức Phật A-Di-Đà rước, con sẽ mang theo những nghiệp
thức ấy đi Vãng Sanh. Khi con đậu thai trong hoa sen, thì nghiệp ấy sẽ hết.
Bây giờ nghe mẹ dặn tiếp:
Hiện con không còn điều gì phải lo,
phải sợ nữa. Con hãy chú ý các luồng ánh sáng hiện ra trước mắt con. Không thể
cẩu thả đi vào các luồng ánh sáng ấy. Con hãy nghe mẹ phân-tách các luồng ánh
sáng và nhớ thật kỹ:
- Ánh sáng của đạo trời thì hơi
trắng.
- Ánh sáng của đạo người thì hơi
vàng.
- Ánh sáng của đạo A-tu-La thì hơi
xanh lục.
- Ánh sáng của đạo Địa-ngục thì như
khói đen.
- Ánh sáng của đạo Ngạ-quỷ thì hơi
đỏ.
- Ánh sáng của đạo Súc-sanh thì hơi
sanh.
Chữ đạo đây có nghĩa là con đường
của ánh-sáng dẫn tới sáu cõi Trời, Người, A-Tu-La, Địa-ngục, Ngạ-quỷ, Súc-sanh.
Mỹ Lan con! Tất cả ánh sáng này con
đừng đi tới nó, dù rằng màu sáng êm dịu. Chỗ con nên đi thẳng tới là ánh sáng
chói lòa của Phật A-Di-Đà. Nhưng ánh sáng chói loà không làm mắt con khó chịu.
Đây hãy nghe mẹ nói về ánh sáng của
Đức Phật A-Di-Đà. Con nên nhớ, do 48 Đại nguyện mà ánh sáng của Đức Phật
A-Di-Đà sáng chói nhứt, so với mười phương chư Phật. Đây là hào quang sắc vàng
chói loà rực rỡ. Mới thấy ánh sáng này con sẽ sợ, Nhưng hào quang ấy rất ấm áp,
đầy tánh bác ái, từ bi và cứu độ khắp chúng sanh.
Mỹ Lan con. Khi thấy ánh sáng này
con hãy trụ tâm xưng niệm danh-hiệu Nam-Mô A-Di-Đà Phật quyết liệt, rõ ràng. Đó
là ánh sáng cứu độ, ánh sáng giải thoát. Con hãy đi thẳng vào đó. Hãy đi thẳng
vào ánh sáng sắc vàng chói loà rực rỡ. Con sẽ được Phật A-Di-Đà và Bố-Tát
Quán-Thế-Âm hoá thân và Đại-Thế-Chí tiếp dẫn.
Xin chú ý: Bài khai thị này dùng
chung cho Thiện -Tri-Thức tại gia và gia quyến, có thể là cha mẹ, chú bác, anh
em con cái. Tuỳ vai vế gia đình và người chết là ai. Nhưng chúng tôi vẫn chú
trọng đến người thân trong gia đình nhiều hơn. Người trong gia đinh phải thương
yêu và vì nhau mà khổ cực. Thời-gian của việc khai thị này kéo dài cho đến hết
49 ngày. Người ngoài dù thương, nhưng không có ai có thời gian làm công việc
trợ niệm một ngày ba lần vào các buổi cúng cơm (bằng thức chay) trong suốt bảy
tuần lễ.
Và dưới đây bài khai thị của
Thiện-Tri-Thức xuất gia. Bài này của Đại Thích-Thông-Hoàng (thuộc Thiền Tông)
đọc khai thị cho cụ Diệu-Hỷ ở Úc trước lúc lâm chung. Chư Tăng Ni Tịnh-độ, có
thể đọc bài khai-thị theo Tông môn.
KHAI THỊ CHO NGƯỜI LÚC LÂM CHUNG
Nay tôi xin khai thị cho cụ Diệu-Hỷ
để được sáng suốt, tỉnh táo mà nương nhờ oai thần lực của mười phương chư Phật,
chư Pháp và chư hiền thánh Tăng gia bị cho cụ, mà cụ Diệu Hỷ sẽ luôn luôn tưởng
nhớ đến mười phương chư Phật và giữ vững tâm nguyện chí thành niệm danh hiệu
Đức Phật A-Di-Đà để được Đức Phật A-Di-Đà và Thánh chúng đến rước cụ Diệu Hỷ
được Vãng Sanh về cõi Tây-Phương Cực-Lạc.
Cái thân tứ đại này do huyễn duyên
hoà hợp, nhân huyễn mà có, nó là huyễn hoá nên không thật, do đó cụ Diệu Hỷ
không nên luyến ái cái thân giả dối này. Cụ Diệu Hỷ nên luôn luôn giữ chánh
niệm mà chuyên tâm niệm hồng danh của Đức Phật A-Di-Đà để Vãng Sanh về cõi Phật
A-Di-Đà.
Cũng như những cảnh duyên đều phát
xuất từ tâm mình, nên cụ Diệu Hỷ không nên đắm trước hay lo sợ, vì các cảnh đều
do huyễn duyên hoà hợp, nên đều là huyễn hóa không thật. Nên trong kinh Kim
Cang Phật nói:
Tất cả pháp hữu vi
Như mộng huyễn bọt bóng
Như sương cũng như điện
Nên khởi quán như thế.
và cùng trong kinh Phật nói:
Tất cả pháp chẳng sanh
Tất cả pháp chẳng diệt
Nếu hay hiểu như thế
Chư Phật thường hiện tiền.
Còn pháp danh Diệu Hỷ đời đời kiếp
kiếp cho đến khi thành Phật quả, con xin phát nguyện luôn luôn nương tựa quy-y-Phật,
quy-y Pháp, và quy-y Tăng.
Nam mô Tam thế Phật
Nam mô Tu-đà-la
Bồ-Tát, Thanh văn Tăng
Thánh chúng như vị trần
Chẳng bỏ lòng từ bi
Nhiếp thọ loài quần sanh
Hàm thức khắp hư không
Quy y Phật Pháp Tăng
Lìa khổ thoát tam đồ
Mau được siêu tam giơi
Đều phát tâm Bồ-đề
Ngày đêm hành Bát –nhã
Đời đời siêng tinh tấn
Như cứu lửa cháy dầu
Lúc đắc đạo Bồ-đề
Thệ nguyện độ tất cả
Tôi hành đạo lễ bái
Tôi tụng kinh niệm Phật
Tôi tu giới định tuệ
Nam mô Phật Pháp Tăng
Nguyện khắp các chúng sanh
Thảy đều thành Phật đạo
Tôi cùng các hàm thức
Kiên cố cầu Bồ-đề
Đảnh lễ Phật Pháp Tăng
Nguyện sớm thành Chánh giác.
Nay tôi xin trì tụng Tâm Kinh Bát
-nhã để trợ lực cho cụ Diệu Hỷ được sáng suốt, tỉnh táo giữ vững chánh niệm và
nương nhờ oai thần lực của mười phương chư Phật, chư Pháp và chư hiền thánh
Tăng gia bị cho cụ, mà cụ Diệu Hỷ sẽ luôn luôn tưởng nhớ đến mười phương chư
Phật và giữ vững tâm nguyện chí thành niệm danh hiệu Đức Phật A-Di-Đà để được
Đức Phật A-Di-Đà và Thánh chúng đến rước cụ Diệu Hỷ được Vãng Sanh về cõi Tây-Phương
Cực-Lạc.
Nam mô Tây Phương Cực-Lạc thế-giới đại từ đại bi A-Di-Đà Phật.
(Tụng ba biến Tâm Kinh Bát-nhã rồi lại lập lại từ đầu).
Tỳ-Kheo Thích-Thông-Hoàng
(Xin xem bài tường thuật về Chuyện
Niệm Phật Vãng Sanh Lưu-Xá-Lợi của bà Diệu-Hỷ ở phần phụ đình).
Xin chư liên-hữu đọc tiếp phần kế
dưới đây nói về việc niệm Phật cứu người từ trong địa-ngục, chúng ta sẽ thấy rõ
tiền thân của Địa-Tạng Bồ-Tát đã gian lao khổ cựu cứu mẹ như thế nào để chúng
ta học hỏi.
Bây giờ, chúng tôi muốn trở lại với
chư liên-hữu một sự việc cũng khá quan-trọng. Ở trên, nơi trang trước nói rõ về
người chết ở Mỹ, chết ở tại nhà sẽ bị mang xác đi mổ xẻ khám-nghiệm, chúng tôi
đã xin chư liên-hữu suy nghĩ cho cao kiến. Nhưng nghĩ lại, vô tình sẽ làm nhiều
vị lo ngại thắc mắc, nên nói rõ ở đây.
Chúng ta phải tin về lời Phật dạy.
Như trường hợp do duyên, thân xác bị mổ xẻ hoặc khám nghiệm làm động đậy, Thần
thức đau đớn tức phải nỗi sân hận; đó là cái nhơn đoạ vào địa-ngục.
Đối phó với trường-hợp thân xác bị mang đi khám nghiệm động đậy
Điều nên làm là thân nhân nên lập
bàn thờ ở nhà, con cháu tề tựu suốt ngày đêm luân phiên niệm Phật hồi hướng
công-đức và dùng lời khai thị vừa đăng ở trên. Đừng chờ cảnh sát trả xác, giao
cho nhà quàn lo việc tẩm liệm; rồi mới rước Thầy tụng kinh, như thế đã muộn
rồi, vì trong thời gian chờ đợi, thần-thức sẽ hoang mang khổ sở vô cùng.
hãy khai thị nhắc nhở người chết
niệm Phật. Danh-hiệu A-Di-Đà Phật có sức mạnh vạn năng, cứu độ tất cả mọi
người, mọi trường-hợp và ở bất cứ nơi nào. thân nhân phải lo lắng nhắc nhở niệm
Phật cho kịp thời.
Xin nhắc lại, câu viết ở sách
Liễu-Sanh Thoát Tử như sau:
Sách Liễu-Sanh Thoát Tử viết:
Xét ra thì trong lúc đó, người chết
không tự biết mình đã chết hay chưa, thì những thân thuộc nên mỗi ngày ba phen
vì họ mà luân-phiên niệm Phật, để nhờ oai lực của Phật A-Di-Đà dắt dìu họ được
sanh về Cực-Lạc. Như thế thì, dù có nghiệp duyên cũng không trở ngại
được".
Xin chư vị để ý câu cuối ở trên:
Như thế thì, dù có nghiệp duyên cũng không trở ngại được".
Chư liên-hữu hãy lưu ý đến chữ
"nghiệp duyên". Nếu người chết có nhiều nghiệp ác, gặp cái duyên
khám-nghiệm khiến thần thức đau đớn sanh sân hận thì người ấy phải đoạ ngay.
Cho nên khi ấy, thân nhân niệm Phật hồi hướng và khai thị nhắc nhở niệm Phật,
thì nghiệp duyên cũng không trở ngại được.
Tóm lại, nếu là thân nhân, gặp
trường-hợp như vậy mà chúng ta sợ thức khuya, than bận đi làm, than mệt nhọc,
trách nhiệm là ở chúng ta vậy.
Niệm Phật một ngày một đêm được gọi
là Bồ-Tát....!
Đây lý do tại sao chúng tôi khuyên
nên niệm Phật và cầu nguyện cho thân nhân khi vừa chết. Đọc kinh sách nói về sự
tích của Bồ-Tát Địa Tạng, tiền thân của Ngài là một cô gái Bà-la-môn. Khi mẹ
mất, cô gái Bà-la-môn này dậm đất kêu trời, ăn không ngon, nằm không ngủ, luôn
luôn tìm nghĩ cách cứu mẹ. Nàng bán hết nhà cửa ruộng vườn, rồi mua sắm đủ thứ
hương hoa, vất quí báu đem đến chùa và tháp Phật để dâng cúng. Nàng đứng trước
tượng Phật nhìn sững thầm cầu nguyện. Sự thành tâm của nàng làm động lòng Phật
Giác-Hoa Định Tự-Tại Vương. Ngài dạy nàng hãy niệm danh hiệu của Ngài một ngày
một đêm. Nàng thực hành đúng lời Phật dạy, bỗng nhiên nằm mộng đi đến tận
địa-ngục, hỏi chúa ngục thì biết mẹ nàng đã sanh lên cõi trời. Những người khác
đồng thọ tội như mẹ nàng đều được thoát.
Qua một tiền thân khác, Địa-Tạng
Bồ-Tát cũng là một người nữ tên Quang-Mục. Nhờ một vị A-la-hán nhập định báo
cho biết rằng, mẹ nàng đoạ vào chỗ ác thú. Nàng bèn bán hết nữ trang và có bao
nhiêu tiền của đều đem mướn người tạo tượng Phật Thanh-Tịnh Liên-Hoa-Mục, đức
Phật ở kiếp đó. Nàng Quang-Mục ngày đêm cầu nguyện cho mẹ, liền được Phật báo
mộng, mẹ nàng đã thoát khỏi súc-sanh đạo.
Nếu chúng sanh chúng ta biết lo
lắng cho cha mẹ như tiền thân của Địa Tạng Bồ-Tát, chắc chắn tất cả đều sẽ được
toại-nguyện.
Chúng tôi, Tịnh-Hải, mất hết cha mẹ
khi vừa mười bốn tuổi, thuở đó gia-đình có chùa, nên được chư Sư lo việc cúng
kiến, song vẫn tự hỏi việc trợ niệm khi ấy có đầy đủ chưa? Cho nên bây giờ
chúng tôi vẫn lo nghiên cứu và không ngừng niệm Phật để hồi hướng công-đức cho
cha mẹ. Và chúng tôi tha thiết muốn tất cả chư liên-hữu nào còn hay đã mất cha
mẹ đều nên lo thật chu đáo trước.
Đọc chuyện về tiền thân của
Địa-Tạng Bồ-Tát, chư liên-hữu hẳn đồng ý với chúng tôi về hai điểm:
1. Lòng yêu thương hiếu kính mẹ của cô gái Bà-la-môn và nàng Quang-Mục đã xúc
động lòng hai vị Phật: Giác-Hoa Định Tự-Tại Như-Lai và Thanh-Tịnh Liên-Hoa-Mục
Như-Lai.
2. Cô gái Bà-la-môn theo lời dạy
của Ngài Giác-Hoa Định Tự-Tại Như-Lai niệm Phật một ngày một đêm, khi xuống
địa-ngục, chúa ngục tên Quỷ Vô-Độc liền lễ phép gọi là Bồ-Tát (xin chư vị lưu ý
chồ này, phần sau chúng tôi sẽ trình bày lại).
Sau hai đời làm người nữ, đến đời
thứ ba tiền thân của Bồ-Tát Địa-Tạng tái sanh làm một vị Vua yêu thương thần
dân đúng mức và sau cùng phát-nguyện: "Nay tôi nguyện xuất gia tu hạnh
Bồ-Tát; nếu tôi không độ những loại chúng sanh bị tội khổ ấy cho được mọi điều
an lạc và chứng quả Bồ-Đề nữa, thời tôi chưa chịu thành Phật". Do đó tới
nay Bồ-tát Địa-Tạng vẫn chưa thành Phật, vì còn vô số chúng sanh đoạ vào ba
đường dữ.
"Đời Đường có ông Trương-Thiện-Hoà
làm nghề hàng trâu, khi sắp chết, thấy bầy trâu đòi thường mạng cho nó. Lúc ấy
ông hoảng sợ, kêu vợ nói:
- Mau rướt Thầy niệm Phật cho tôi.
Nhà sư đến dạy:
- "Kinh nói, khi lâm chung
tướng ác hiện ra, nên chí tâm niệm Phật, thì sẽ được Vãng Sanh".
Ông Trương-Thiện-Hoà nói:
- Địa-ngục đến gấp, mau đem lư
lương ra đây!
Rồi tay hữu bưng lửa, tay tả cầm
hương đốt, day mặt về hướng Tây, chuyên thiết niệm Phật, chưa đầy 10 niệm, ông
tự nói: "Phật đến rước ta; dứt lời liền tắt thở".
Chúng tôi xin trích đăng một chuyện
trong Kinh A-Di-Đà Sớ Sao của Ngài Vân-Thê như sau:
Đọc chuyện này chư liên-hữu biết
rõ, khi ông Trương-Thiện-Hoà thấy lửa địa-ngục hiện đến; ông đốt hương, miệng
vừa niệm Phật chưa đầy 10 niệm, thì Phật A-Di-Đà hiện đến rước ông đi ngay.
Thật vô cùng nhanh! Tại sao mà nhanh dữ vây? Vì khi Phật nghĩ đi, là đã đến
ngay rồi.
Hiểu như vậy sẽ tạo cho chư
liên-hữu một niềm tin mãnh liệt. Càng đầy đủ lòng tin, thì niệm Phật càng sẽ có
kết quả như ý vậy.
Rước được Thầy thì tốt, tại địa
phương không Thầy thì thân nhân cũng có thể thay Thầy làm Thiện-Tri-Thức, miễn
sao biết cách nhắc nhở và dạy người sắp chết niệm Phật là được.