Tội
nghiệp
Trên
thế gian này, chúng ta từng chứng kiến các cảnh phiền
não khổ đau, nhiều hơn là bình yên vui sướng. Ngay trong cuộc
đời của chúng ta, những sự bất trắc, bất như ý, bất
toại nguyện, cũng nhiều hơn những việc vui vẻ, vừa ý,
toại nguyện.
Cho nên, nhận định
cuộc
đời "khổ nhiều vui ít", đó là sự thực rõ
ràng, nhưng trong chúng ta ít người dám mạnh dạn nhìn nhận.
Con người vì mãi mê đấu tranh, vật lộn với cuộc sống
hằng ngày, nên không có thời giờ để suy tư, tìm hiểu.
Có người không muốn nhìn nhận sự thực đó, tự kỷ ám
thị, tự lừa dối mình, cho rằng cuộc đời là vui đẹp,
là đáng hưởng thụ, với mục đích tạm quên đi những
đau khổ, bất hạnh trong cuộc sống, không biết ngày mai
mình sẽ ra sao, không biết làm sao cho đời bớt khổ, cho đời
hết khổ.
Khi gặp hoàn cảnh
khổ
đau, khi có điều bất trắc, bất như ý, bất toại nguyện,
con người chỉ biết than trời trách đất, hoặc trách cứ
tổ tiên, trách cứ ông bà cha mẹ, ăn ở bất nhơn thất đức,
cho nên cháu con mới ra nông nổi này!
Ðôi khi, có người
chỉ
biết đặt niềm tin nơi đấng thiêng liêng nào đó, để cầu
nguyện, van xin, khấn vái cho được tai qua nạn khỏi, cho
được bình an, mà không chịu tìm hiểu hư thực, không chịu
tìm hiểu Chân Lý, không chịu học hỏi Chánh Pháp, cho nên
những người biết lợi dụng lòng mê tín dị đoan dễ gạt
gẫm, dễ lợi dụng, dễ sai khiến, hậu quả khó mà lường
trước được.
Thường thường khi
thấy
người nào gặp hoàn cảnh không may, gặp điều bất hạnh,
bất như ý, đau khổ hoặc ngộ nạn, có người xúc động,
tỏ lòng thương xót, thốt lên: "Tội nghiệp quá!".
Ðiều này có nghĩa là khi ở trong trạng thái "tâm bình
thường", con người ai cũng có sẵn "tâm từ bi bác
ái", thấy người đau khổ thì động lòng trắc ẩn,
xót thương.
Cũng trong trường
hợp
đó, người khác lại nói: Ðáng đời chưa! Gieo gió thì gặt
bảo! Làm tội thì phải đền tội! Cũng có người nói:
Nghiệp của họ nặng quá, nên họ mới khổ nạn như vậy!
Hoặc có người khác nói: Trời phạt họ đó! Những sự
suy nghĩ như vậy do tập quán, thói quen mà thốt nên lời.
Vậy chúng ta hãy
thử
tìm hiểu: "Tội" là gì, "Nghiệp" là gì?
"Tội báo, Nghiệp báo" là gì? Làm gì mà phải
"tội nghiệp"? Làm sao cho hết "tội nghiệp"?
Làm sao "dừng nghiệp và chuyển nghiệp"?
* * *
Theo luật nhân quả,
chúng ta biết rằng: "gieo nhân nào thì gặt quả nấy".
Thí dụ như gieo nhân là hạt cam, chúng ta sẽ đư?c cây cam
và gặt quả cam. Khoa học đã thí nghiệm và chứng minh điều
này rõ ràng, không có gì đáng nghi ngờ cả. Nghĩa là làm
thiện gặp thiện, làm ác gặp ác, ở hiền gặp lành, gieo
gió gặt bão, có lửa có khói, sinh sự sự sinh.
Tuy nhiên, cũng có
thắc
mắc: Tại sao có người gieo thật nhiều gió mà chẳng thấy
họ gặt bão, hay nói cách khác, những người đó làm nhiều
điều bất thiện, gây nhiều tội ác, mà tại sao họ vẫn
bình yên, an ổn, ăn nên làm ra, sống trong cảnh giàu có
sung sướng? Trái lại, có người làm thật nhiều việc phước
thiện phước đức, như bố thí cúng dường, hùn công góp
của ấn tống kinh sách, quyên góp cho các hội từ thiện,
xây cất chùa chiền, lập nhà thương trường học, đắp
đường xây cầu, mà tại sao chẳng thấy phước báo đâu,
chỉ thấy quả báo xấu, gặp nhiều nạn tai, gặp nhiều
điều bất trắc, bất như ý, bất toại nguyện?
Chúng ta biết rằng:
có những hạt giống gieo trồng, thì gặt được quả sớm,
nhưng cũng có những hạt giống gieo trồng xong, phải đợi
một thời gian sau, hay một thời gian lâu sau, mới gặt được
quả. Cũng vậy, có những việc chúng ta làm đời trước,
đời này mới nhận kết quả hay hậu quả. Có những việc
chúng ta làm đời này, đời sau mới có kết quả hay hậu
quả. Do làm ác đời trước, nên con người gặp khổ đau
đời này, chớ có oán hận, than trời trách đất, bởi l? "mình
làm mình chịu", không có ông trời nào, thượng đế
nào trừng phạt mình, một cách tùy tiện, một cách vô căn
cứ cả.
Chúng ta thường có
tánh đổ thừa kẻ khác, kể cả ông bà cha mẹ, đã tạo
nghiệp, rồi cháu con phải lãnh hậu quả, chứ không bao giờ
chịu nhìn nhận "chính mình đã làm", đã gây
ra những lỗi lầm trong kiếp trước, cho nên kiếp này "chính
mình gánh chịu".
Còn những việc
phước
thiện, phước đức mình làm trong đời này, vì quá ít quá
nhỏ, chưa kịp có kết quả. Hoặc đôi khi việc phước thiện,
phước đức đã có kết quả, đã làm cho nhẹ bớt đi những
nạn tai, mà mình phải gánh chịu, chỉ tại mình không biết
đó thôi. Nếu không biết làm những việc thiện tạo phước
báu như thế, để bù đắp những tội lỗi đã gây ra trước
kia, con người có thể đã gặp nhiều phiền não khổ đau
hơn, nhiều tai nạn nặng nề hơn. Nếu việc phước thiện
đã làm nhiều hơn tội lỗi đã tạo, chắc chắn con người
được hưởng sự sung sướng, sự may mắn. Nghĩa là sự
sung sướng, sự may mắn do phước báo chính mình đã tạo
ra, từ nhiều kiếp trước hay kiếp này, chứ không do ông
trời, hay thượng đế nào thương mình, mà ban cho cả.
Như vậy, chúng ta
phải
hiểu luật nhân quả được áp dụng trong ba thời: quá khứ,
hiện tại và vị lai. Cũng có những quả báo nhãn tiền, tức
là kết quả hay hậu quả có ngay trước mắt, gieo nhân đời
này, gặt quả cũng trong đời này. Thí dụ như ăn trộm thì
bị bắt, ở dơ thì sanh bệnh, làm biếng thì nghèo khó, đánh
người thì người đánh, hại người thì người hại, kiện
thưa thì tốn tiền, tiết kiệm thì có dư, chăm học thì đỗ
đạt, siêng năng, chăm chỉ, cần cù, nhẫn nại, nếu không
thành công thì cũng thành nhân.
* *
Chúng ta thữ nghĩ
xem: Tội
là gì?
Tội lỗi là những
điều
bất thiện, những việc ác do chính mình nói, chính mình
làm, chính mình suy nghĩ, chính mình gây ra, chính mình tạo
tác, do thân khẩu ý của chính mình. Tội lỗi cũng do sự
sai khiến, xúi giục, chỉ dẫn, bày cách cho người khác
làm, thi hành, thực hiện những điều bất thiện, những việc
ác. Tội lỗi cũng do sự vui mừng, tán đồng, khen ngợi,
khi thấy kẻ khác làm những điều bất thiện, những việc
ác.
Nghĩa là: "Nhược
tự tác, nhược giáo tha tác, kiến tác tùy hỷ", đều
tội lỗi như nhau. Tại sao vậy? Bởi vì chính mình làm, chỉ
bảo người khác làm, hay thấy người khác làm mà vui theo,
những điều bất thiện, những việc ác, thì tâm của
chúng ta đều bị náo động, đều bị hoen ố, đều ghi nhận
chủng tử sanh tử luân hồi như nhau.
Ðạo Phật luôn luôn
chú trọng đến "tâm", chính là cái "thực tướng"
bất sanh, bất diệt, bất cấu, bất tịnh, bất tăng, bất
giảm của con người, chứ không quan trọng đến cái giả tướng
khác biệt bên ngoài của mỗi người. Cái giả tướng khác
biệt đó chỉ là cái thân tứ đại sanh diệt, nay còn mai mất,
chúng ta đang mượn tạm, trong kiếp sống này mà thôi. Bởi
vậy cho nên, đọc kinh điển của đạo Phật, muốn hiểu
được pháp vô lượng nghĩa, pháp vô thượng thậm thâm vi
diệu, chúng ta hãy tìm hiểu qua lăng kính của một chữ, đó
là chữ: "TÂM".
Chư Tổ có dạy: "Tâm
tức Phật, Phật tức Tâm", chính là nghĩa đó vậy.
Ðức Phật là bậc vô
thượng y vương, vô thượng dược vương chuyên trị "tâm
bệnh" của tất cả chúng sanh, chứ không phải
"thân bệnh". Ðức Phật hiểu rõ tâm bệnh của
tất cả chúng sanh, vì sao con người trôi lăn trong sanh tử
luân hồi, cho nên Ðức Phật chỉ dẫn con đường thoát ly
sanh tử luân hồi. Ðó mới chính là trọng tâm cốt yếu của
đạo Phật.
Sách có câu: "Tướng
tự tâm sanh, tướng tùng tâm diệt".
Bất cứ ai giải
quyết
được tâm bệnh, thì thân bệnh có còn gì đáng nói nữa
đâu. Cái thân tứ đại giả tạm này chỉ có tuổi thọ một
trăm năm hay hơn chút đỉnh là nhiều. Còn cái tâm bất sanh
diệt của tất cả mỗi chúng ta có tuổi thọ vô lượng mà
Ðức Phật đã chỉ bày trong các kinh điển thì ít người
hiểu thấu!
Người nào chỉ hiểu
kinh điển nhà Phật qua nghĩa đen: cầu bình an, cầu siêu
sanh, là những người chỉ đứng bên ngoài cổng rào, chứ
chưa vào được đến trong sân chùa, nói chi đến ngưỡng cửa
nhà Phật. Người nào chỉ hiểu đạo Phật qua các hình thức
cúng kiến, lễ nghi thường thấy, là người chưa hiểu đạo
Phật là gì cả!
Thậm chí, có người
đến với đạo Phật, vì muốn cầu gì được nấy, muốn
vạn sự như ý, muốn tùy tâm mãn nguyện, muốn buôn may
bán đắc, muốn nhất bổn vạn lợi, muốn thi đâu đậu đó,
muốn sở cầu như nguyện, muốn tình duyên may mắn, muốn
đủ thứ chuyện trên trần đời, thì than ôi, đạo Phật còn
gì là Phật đạo nữa! Thật đáng thương xót! Thật đáng
"tội nghiệp" lắm thay!
Trong Kinh Hoa
Nghiêm, Ðức
Phật có dạy: "Nhất
thiết duy tâm tạo".
Nghĩa là chúng ta
nên
biết tội lỗi nặng hay nhẹ tùy theo tâm trạng, tâm tánh của
con người khi tạo tác. Thí dụ như một người nghèo khó
đi câu con cá, để ăn qua ngày, tội nhẹ hơn người no đủ,
đi câu con cá vì thú vui. Con người vì si mê nên cảm thấy
vui thích trên sinh mạng của chúng sanh! Khi xưa, những người
có quyền thế, xem việc giết người, giết dân chúng hay giết
tù nhân, như thú vui tiêu khiển. Ngày nay, ở các nước gọi
là văn minh, con người xem việc săn bắn thú vật như là
môn thể thao, coi cảnh đấu bò giết bò như là trò giải
trí!
Thật đáng "tội
nghiệp" lắm thay! Con người đang hưởng phước ở các
xứ văn minh, lại tìm cách tạo tội tạo nghiệp vì vô
minh. Một người giết một con thú dữ để tự vệ trong hoàn
cảnh sợ hãi, tội nhẹ hơn một đứa bé tay cầm cây cầm
roi, thi đua với các đứa bé khác, đánh đập một con gà,
rụng lông tơi tả, máu đổ dầm dề, cho đến chết, một
cách nhanh nhứt, để được khen thưởng, để được lãnh
giải, trong cuộc thi do người lớn tổ chức!
Dĩ nhiên, kẻ chủ
tâm
cố ý giết người vì tư thù, vì quyền lợi, tội nặng hơn
kẻ sát nhân trong cơn điên loạn, hãi hùng hay vô ý thức.
Kẻ giết con vật lớn như trâu bò, tội nặng hơn kẻ giết
côn trùng, con gián, con kiến. Giết người, giết con vật lớn,
con vật có nhiều linh tánh hơn, tức nhiên, kẻ giết phải
có chủ ý, dụng tâm, dụng công, dụng sức nhiều hơn, nên
tội nặng hơn. Giết côn trùng, con gián, con kiến không do cố
ý, không do thích thú, bởi vì con người không thể sống
chung với những sinh vật này được, theo phép vệ sinh chung
của xã hội, nên nhẹ tội hơn. Tuy nhiên, tìm giết vô cớ
con gián, con kiến ngoài đồng, ngoài đường lại là chuyện
khác.
Việc trộm cắp cũng
vậy.
Người trộm cắp vì nghèo túng, phải giúp gia đình qua cơn
đói khổ, vì tạm thời, không còn phương cách nào khác, tội
nhẹ hơn một kẻ cố ý chủ tâm dùng thủ đoạn, dùng luật
pháp, để chiếm đoạt tài sản, sang đoạt bản quyền của
người khác, thưa kiện người khác với mục đích kiếm tiền,
muốn mình sung sướng, làm giàu nhanh chóng, người khác thì
đau khổ vì sạt nghiệp! Việc nói dối để an ủi, giúp đỡ
tinh thần người đang bị bệnh, người đang khổ đau, khủng
hoảng, sợ hãi, không thể đem so sánh với việc nói dối
để gạt gẫm người khác vì ích kỷ, vì tư lợi, vì thù
oán hại người, vì muốn kết bè kết đảng.
Càng tệ hại hơn nữa
vì tự ái, vì tự lợi, vì danh dự hão, vì chính nghĩa cuội,
vì công lý một chiều, vì lẽ phải phiến diện, vì mê
tín dị đoan, vì quá khích, có người đặt điều vu cáo vu
khống, phỉ báng mạ lỵ người khác, lộng giả thành chơn,
nước lã khuấy nên hồ, để ám hại người khác, viết
bài đả kích, khen mình khinh người, lôi kéo phe phái, thì
những người đó làm sao tránh khỏi luật nhân quả, làm
sao thoát khỏi "lưới trời" lồng lộng, tuy thưa mà
không lọt, tuy không thấy mà chẳng sai chạy! Trong nhà Phật,
"lưới trời" đó chính là "quả báo" con người
phải lãnh, vì các việc đã làm, đã nói, đã nghĩ, trước
đây.
* *
Chúng ta thường
nghe nói
đến chữ "nghiệp" trong cuộc sống hằng ngày, cũng
như trong đạo Phật, như là: nghề nghiệp, tội nghiệp,
nghiệp báo, nghiệp chướng, nghiệp nhân, nghiệp quả.
Vậy chúng ta thử
tìm
hiểu: "Nghiệp" là gì?
Nghiệp là
thói quen
hành động, nói năng hay suy nghĩ hằng ngày của chúng ta
trong cuộc sống, trong khi làm việc, trong khi giao tiếp, ở tại
nhà, ở tại sở làm hay bất cứ nơi đâu.
Nghĩa là
nghiệp do
thân hành động, khẩu nói năng và ý suy nghĩ, nên thường
được gọi là tam nghiệp: thân nghiệp, khẩu nghiệp và ý
nghiệp.
Theo nguyên tắc, có
hai
loại nghiệp: thiện và bất thiện. Tuy nhiên, khi nói đến
chữ "nghiệp", người ta thường nghĩ đến những
nghiệp ác hay nghiệp bất thiện.
1) "Thân
nghiệp"
là những thói quen hành động, do thân tạo tác hằng ngày.
Có người luôn luôn thích giúp đỡ kẻ khác, làm việc phước
thiện, làm việc xã hội. Có người luôn luôn thích đi chùa,
lễ Phật, tụng kinh, đi nhà thờ xem lễ, cầu nguyện. Cũng
có người luôn luôn thích đánh nhau, đánh đập súc vật,
giết hại sinh mạng chúng sanh, chơi đấu bò, đi câu cá,
đi săn bắn, như thú vui tiêu khiển. Có người luôn luôn
thích hút thuốc, uống rượu, bài bạc. Có người luôn
luôn thích việc trộm vặt dù họ không túng thiếu. Có người
luôn luôn thích kiện tụng, thích xúi người khác thưa kiện
để thủ lợi. Có người luôn luôn thích hăm dọa người
khác, theo thói chưa đậu ông nghè đã đe làng tổng, họ gửi
bài đăng báo, tòa báo không đăng nguyên văn, sửa bản thảo,
họ bảo xin lỗi, viết thư dọa làm con kiến đi kiện củ
khoai!
2) "Khẩu
nghiệp"
là những điều mình thường nói ra hằng ngày, có khi ngọt
ngào dễ nghe, có khi chanh chua chát khế, kinh khủng khiếp
luôn! Cổ nhơn có dạy: "Lời nói chẳng mất tiền
mua. Lựa lời mà nói cho vừa lòng nhau". Có người
luôn luôn thích nói chuyện đạo lý, chuyện ích lợi cho người.
Có người luôn luôn thích thuyết pháp, tụng kinh, niệm Phật.
Có người luôn luôn thích an ủi, khuyên lơn, đem sự an ổn
tâm thần đến cho người khác. Có người luôn luôn nói lời
hòa nhã, êm ái, dịu dàng, ai ai cũng thích nghe, thích gặp mặt,
thích trò chuyện. Ðó là những người lựa lời mà nói cho
người an vui, và đang tu theo hạnh Ðức Quán Thế Âm Bồ
Tát, hay tu theo hạnh Nhứt Thiết Chúng Sanh Hỷ Kiến Bồ
Tát.
Cũng có người luôn
luôn thích nói suốt ngày, không biết mệt, không ngừng nghỉ.
Có người luôn luôn thích nói chuyện thị phi, chuyện thiên
hạ, chuyện phải quấy, chuyện hơn thua, chuyện tranh chấp,
chuyện kiện tụng, chuyện thưa gửi, chuyện phiền não,
chuyện khổ đau. Có người luôn luôn thích văng tục, chửi
thề, bới móc người khác, kê tủ đứng vào miệng người
khác, móc họng cho người ói ra, mỗi khi khai khẩu, mỗi khi
mở miệng. Có người thốt xong một lời, người nghe phải
đi xức dầu cù là, hoặc uống thuốc nhức đầu, thậm chí
ngất xỉu, hay giã từ luôn cõi đời. Có người thốt xong
một lời, người khác phải đi tù, gia đình xào xáo, vợ
chồng chia ly, lục đục, cãi vã, nghi ngờ lẫn nhau, tiêu
tan hạnh phúc.
Bởi vậy, chúng ta
mới
biết khẩu nghiệp nặng nề biết bao, lời nói độc hại
đến chừng nào, lời nói có khả năng hại người còn hơn
vũ khí. Ðó là lời nói của những kẻ "lựa lời mà
nói cho người giết nhau", hoặc là những kẻ "lựa
lời mà nói cho người tiêu luôn"!
Những người biết tu
tâm dưỡng tánh rất dè dặt với khẩu nghiệp, không dám
phát ngôn bừa bãi, luôn luôn nhớ lời cổ nhơn dạy:
"Lời nói là bạc, im lặng là vàng". Có người bèn
áp dụng tu pháp môn "tịnh khẩu", suốt ngày
không muốn nói bất cứ chuyện gì, với bất cứ ai. Tuy
nhiên, bên ngoài phẳng lặng, mà trong lòng dậy sóng, thì cũng
như không! Có khi nói năng để truyền bá Chánh Pháp, lời
nói đầy pháp vị, nói lời chuyên chở đạo lý. Có khi sự
im lặng cũng đúng Chánh Pháp, cũng đượm nhuần đạo lý.
Cổ nhơn có dạy: "Ngữ ngôn đạo đoạn".
Nghĩa là còn phải
dùng lời nói, thì không thể diễn tả được đạo lý một
cách tột cùng, khi lên tiếng thì đạo mất rồi. Người hiểu
đạo là người có tâm cảm thông sâu sắc, không cần dùng
lời nói, có thể thấu hiểu mọi sự mọi việc một cách
dễ dàng, không có gì ngăn ngại. Trong kinh sách có câu:
"Ðạo cảm ứng giao nan tư nghì" chính là nghĩa đó
vậy.
Cũng có câu: "Ðạo
bổn vô ngôn".
Nghĩa là gốc của
đạo
không thể dùng lời lẽ của thế gian mà diễn tả được.
Ðạo là chỗ cứu kính tuyệt đối bất khả tư nghì, đạo
cảm thông không thể nghĩ bàn được. Ðó chính là chỗ im
lặng của Cư sĩ Duy Ma Cật thời Ðức Phật còn tại thế,
đó chính là sự lặng thinh của Nhị Tổ Huệ Khả, khi
trình kiến giải lên Sơ Tổ Bồ Ðề Ðạt Ma vậy.
3) Tuy
nhiên, quan trọng
hơn cả chính là "ý nghiệp".
Chính ý nghiệp chủ động điều khiển thân nghiệp và khẩu
nghiệp. Tại sao vậy? Bởi vì nếu như tư tưởng luôn luôn
có ý nghĩ thế nào thì hành động và lời nói sẽ y theo đó
mà ra, không sai khác chút nào. Chính tư tưởng phát xuất ra
hành động và lời nói. Thí dụ nếu trong tâm ý chúng ta
nghi ngờ người nào ăn cắp đồ, thì từ hành động cho đến
lời nói của người đó đều có vẻ khả nghi, đáng ngờ,
và hành động cũng như lời nói của chúng ta đều không
bình thường đối với người đó.
Thí dụ nếu chúng ta
luôn luôn có tư tưởng, có ý nghĩ là kẻ nào ác thì phải
bị tiêu diệt, phải bị đọa địa ngục, phải bị trừng
phạt nặng nề, cho nên khi có cơ hội, có phương tiện, có
quyền hành, có thế lực, chúng ta sẽ dễ dàng mắng chửi,
mạt sát, giết hại, trừ khử, thanh toán kẻ đó không
chút xót thương, không chút bận tâm! Nghĩ như vậy, nói như
vậy, làm như vậy, tâm của chúng ta không từ bi, không bác
ái chút nào, và như vậy chúng ta có khác gì kẻ ác kia đâu?
Giết người phải đền mạng, có luôn luôn hẳn là lẽ
công bằng tuyệt đối chăng, có giúp nạn nhân sống lại
chăng, có giúp xã hội an ninh, trật tự chăng, có giúp tình
người thêm tốt đẹp chăng? Con người thường nhân danh
cái thiện, nhân danh thế thiên hành đạo, để thi hành, thực
hiện việc ác, việc trả thù ngay sau đó. Chính vì vậy mà
oan oan tương tục không biết đến bao giờ mới dứt được.
Thiệt là "tội nghiệp" thay!
Trên thế gian này,
sân
hận không bao giờ dập tắt sân hận. Duy có tình thương, tâm
từ bi mới diệt được tâm sân hận. Ðó là định luật
trường cửu. Cho nên, trong Kinh Pháp Cú, Ðức Phật có dạy:
Lấy oán báo
oán, oán
nghiệp chập chùng.
Lấy ân báo oán, oán nghiệp tiêu tan.
Ðây là cách dừng
nghiệp
và chuyển nghiệp hữu hiệu nhất. Thí dụ vì nghiệp duyên
đời trước, có người nào đó khi gặp chúng ta, liền
không có cảm tình, không ưa thích, có thái độ thù nghịch,
chống đối. Nếu như chúng ta không hiểu luật nhân quả,
bèn có thái độ tương ứng đáp lại, thì càng ngày quan hệ
giữa chúng ta và người đó càng tệ hại thêm mà thôi.
Còn nếu như khi họ gặp hoàn cảnh không may nào đó mà
mình có thể giúp được và thực tâm giúp đỡ họ, thì
có phải "oán nghiệp" trước đây tiêu tan hay
không?
Thí dụ trong gia
đình,
nếu người cha hay người mẹ, vì tức giận người con đối
xử tệ bạc với mình, không như mình mong ước, nên cũng
đối xử lạnh lùng, hằn học, bực dọc đáp lại, thì thử
hỏi câu chuyện sẽ đi đến đâu, sẽ kết thúc ra sao? Nếu
cha mẹ có lòng từ bi, không chấp chặt những điều đó, vẫn
thương yêu, chăm sóc người con, như lúc con còn nhỏ dại,
thì ít ra còn hy vọng người con chuyển đổi tâm ý, gia đình
hòa vui trở lại.
Chuyện này "nói
ra thì dễ, làm được mới khó". Nhưng thử hỏi
chuyện gì trên đời này mới là chuyện dễ làm đây ?
* *
Bây giờ, nói về vấn
đề: "dừng nghiệp và
chuyển nghiệp".
Chúng ta đã biết
rằng
chính ba nghiệp thân khẩu ý là động cơ dẫn dắt chúng
sanh vào vòng trầm luân sanh tử luân hồi nhiều đời nhiều
kiếp. Cho nên, muốn thoát ly sanh tử luân hồi, con người
phải biết dừng nghiệp và chuyển nghiệp. Nghĩa là chúng
ta phải dừng tất cả những nghiệp ác, nghiệp bất thiện,
từ thân khẩu ý của mình, chuyển ba nghiệp thân khẩu ý bất
thiện, thành ba nghiệp thiện lành. Ðó chính là trọng tâm
tu hành của đạo Phật, chứ không phải những hình tướng
bên ngoài, những nghi lễ rườm rà, những van xin cầu khẩn.
Người có nghiệp cờ
bạc thì luôn luôn tìm tới các sòng bài bạc để vui chơi
trong chốc lát, rồi sau đó đau khổ dài dài. Người có
nghiệp hút thuốc thì đi đâu cũng luôn luôn để ý đến
ch? nào bán thuốc lá và giá cả ra sao. Người mang nghiệp nào
thì sẽ bị dẫn theo con đường ấy, cũng như kim loại bị
nam châm hút vậy. Con người khi chết đi, thân xác, danh vọng,
của cải, thân bằng quyến thuộc, tất cả mọi thứ đều
phải bỏ lại thế gian, chỉ mang theo cái "nghiệp
báo" tái sanh kiếp sau. Chính cái nghiệp báo này là
nguyên nhân làm cho chúng ta sung sướng hay đau khổ vậy. Khi
biết được điều đó, liễu tri được điều đó, giác ngộ
được điều đó, chúng ta cần phải tìm cách dừng nghiệp,
tìm cách chuyển ba nghiệp bất thiện thành ba nghiệp thiện.
Trong kinh sách,
Ðức Phật
dạy pháp môn để dừng nghiệp và chuyển nghiệp, chính là
"Pháp Sám Hối".
Người biết ăn năn
sám
hối mới thực là người biết tu chân chính, không cần phải
có hình tướng như thế nào, chỉ cần chúng ta kiên trì, cố
gắng tu tâm dưỡng tánh, đúng theo Chánh Pháp, thì đạt
được kết quả mỹ mãn. Kết quả đó là cảnh giới an lạc
và hạnh phúc hiện đời, kết quả đó là cảnh giới tây
phương cực lạc hay thiên đàng sau này. Chánh Pháp không
dành riêng cho những người theo đạo Phật hay bất cứ ai.
Chánh Pháp là chân lý cứu kính mà bất cứ ai có "tâm
bình thường" cũng có thể tìm hiểu được và thực
hành được, một cách bất tùy phân biệt.
Nếu không có "pháp
sám hối chơn thực" thì không có thánh nhơn trên đời,
không có thiên đàng, hay cảnh giới tây phương cực lạc.
Biết bao nhiêu bậc thánh hiền xưa nay có quá khứ bất thiện,
xấu ác, gian tà, nhưng nhờ các ngài giựt mình tỉnh thức,
qua được cơn mê, quày đầu hướng thiện, cho nên trở
thành đại đức thánh nhơn. Bởi vậy, chúng ta noi guơng các
ngài, chỉ nên quán xét chính mình, không cần thiết phải bận
tâm biết quá khứ của người khác ra sao. Người ta trước
đây tạo nghiệp xấu thiệt, nhưng nay đã biết sám hối,
đã biết dừng nghiệp và chuyển nghiệp, còn mình thì sao,
vẫn đi soi mói việc riêng của người khác để làm gì?
Trong kinh sách,
Ðức Phật
có dạy:
Tội tùng tâm khởi
tương
tâm sám.
Tâm nhược diệt thời tội diệc vong.
Tội vong tâm diệt lưỡng câu không.
Thị tắc danh vi chơn sám hối.
Nghĩa là muốn tội
lỗi
thực sự không còn nữa, thì chúng ta phải tiêu diệt cái
nguyên nhân chính gây ra tội lỗi, xúi giục mình làm bậy
nói bậy nghĩ bậy, đó là vọng tâm lăng xăng, lộn xộn,
loạn động, suy nghĩ, tính toán, suy lường, hằng ngày của
chúng ta. Một khi đã thực tâm sám hối thì không còn tâm
muốn làm, muốn nói, muốn nghĩ những chuyện bậy đó nữa.
Mỗi khi vọng tâm khởi lên, xui khiến mình làm chuyện bậy,
bất cứ chuyện gì lợi mình hại người, bảo mình nói lời
bậy, bất cứ lời nào gây phiền não cho người khác, giục
mình nghĩ ý bậy, bất cứ ý nghĩ nào khen mình khinh người,
thì chúng ta phải nhận biết ngay, dừng lại, không theo.
Lâu dần, vọng tâm đó lặng đi rồi, thì tội lỗi cũng không
còn gây ra nữa. Cũng giống như mỗi lần trong đầu nhớ tới
bản nhạc nào quen thuộc, nếu chúng ta ư ử hát theo thì sẽ
nhớ hoài nhớ lâu, còn nếu chúng ta không hát theo, thì ít
lâu sau, sẽ quên bẳng đi, không còn nhớ nữa. Ðó mới thực
là "chơn sám hối", tức là sám hối chơn chính, chơn
thực, thực lòng vậy.
* * *
Pháp sám hối chơn
chính
có hai phần: Lý Sám Hối và Sự Sám Hối.
Trước hết, chúng ta
nói về "Sự Sám Hối". Khi tâm của
chúng ta còn mê mờ, chưa được giác ngộ Chân Lý, chưa hiểu
biết Chánh Pháp, chúng ta phải hành theo sự sám hối. Nghĩa
là đối trước tôn tượng chư Phật, chư Bồ Tát, chúng ta
phải hành lễ bái, tỏ bày sám hối, mong diệt nghiệp chướng,
tội chướng, siêng năng tinh tấn, mỗi tháng hai lần.
Mỗi lần như vậy,
chúng
ta đọc bài kệ như sau:
Ngã tích sở tạo
chư
ác nghiệp.
Giai do vô thủy tham sân si.
Tùng thân khẩu ý chi sở sanh.
Nhứt thiết ngã kim giai sám hối.
Nghĩa là chúng ta
đã tạo
không biết bao nhiêu ác nghiệp từ xưa đến giờ, đều do
ba điều độc hại: tham lam, sân hận và si mê, thể hiện
qua ba hình thức: thân hành động, khẩu nói năng, ý suy nghĩ.
Tất cả những tội lỗi đó, những nghiệp bất thiện, những
nghiệp ác đó, chúng ta đều thành tâm thực lòng, ăn năn sám
hối, quyết tâm chừa bỏ, không dám tái phạm, cố gắng
gìn giữ tam nghiệp thân khẩu ý cho được thanh tịnh.
Trong kinh sách có
câu: "Ngã
thân ảnh hiện chư Phật tiền", tức là: "Trước
bảo tọa thân con ảnh hiện".
Nghĩa là đối trước
tôn tuợng chư Phật, chúng ta hiện nguyên hình con người thực
của mình, phản ảnh đúng nội tâm của mình, để thành
tâm phát lồ sám hối, không che dấu bất cứ điều gì cả.
Chúng ta có thể che dấu tội lỗi, che dấu tật xấu, đối
với người đời, chứ đối với chư Phật, đúng ra đối
với Phật Tâm của chúng ta, chúng ta chẳng thể giấu giếm
bất cứ điều gì. Ngày xưa, để cho mọi người dễ hiểu,
cổ nhơn giải thích đó chính là lúc chúng ta đứng trước
gương chiếu yêu, trước diêm vương cảnh đài, bất cứ việc
gì chúng ta đã làm, đã nói, đã nghĩ, trong suốt cuộc đời
đều hiện ra hết tất cả.
* * *
Nay nói về "Lý
Sám Hối". Trong Kinh Hoa Nghiêm, Ðức Phật có dạy:
"Nhất thiết duy tâm tạo". Nghĩa là muôn việc
trên thế gian này đều do tâm của chúng ta tạo ra tất cả.
Tâm của chúng ta tạo ra thiên đàng. Tâm của chúng ta tạo
ra địa ngục. Thí dụ chúng ta phát triển các tâm lượng rộng
lớn, tốt đẹp như từ bi hỷ xả, tức là chúng ta phát
triển cảnh giới thiên đàng, cực lạc và sống an lạc
trong cảnh giới đó.
Nếu chúng ta chấp
chặt
những thành kiến, định ki?n, thiên kiến, biên kiến, tà kiến,
ác kiến, thường kiến, đoạn kiến, phát triển những tâm
lượng hẹp hòi, ích kỷ, đố kỵ, ganh tị, tham lam, sân hận,
si mê, khen mình khinh người, lợi mình hại người, tức là
chúng ta phát triển cảnh giới địa ngục và sống bất an
trong cảnh giới đó vậy.
Sự sám hối ví như
chiếc xe đạp. Nghĩa là người chỉ biết sự sám hối
thôi, không hiểu rõ lý lẽ, thì đường tu tiến chậm. Ði
chùa lạy Phật, tụng kinh bái sám, từ lâu lắm rồi, mà
sao vẫn còn bực mình nhiều chuyện quá, phiền não vẫn
còn y nguyên, có khi còn nhiều hơn lúc trước nữa.
Lý sám hối ví như
động
cơ. Nghĩa là người chỉ biết lý sám hối thôi, không chịu
hành sự, thì đường tu cũng không tiến. Hiểu rõ lý sám hối
và năng hành sự sám hối, nghĩa là "lý sự viên
dung", lý sự đầy đủ vẹn toàn, thì đường tu tiến
được rất nhanh, cũng như đi xe có gắn máy thì chạy nhanh
hơn xe đạp vậy.
Tu tiến có nghĩa
là:
giảm bớt phiền não và khổ đau, sống được cảnh giới
an lạc và hạnh phúc ngay hiện đời.
Dù theo bất cứ tôn
giáo nào chăng nữa, thực ra vị giáo chủ cũng không thể
ban phước cho chúng ta được bình an, sung sướng hay an lạc
và hạnh phúc. Các ngài chỉ cho chúng ta bản đồ, chỉ cho
chúng ta phương pháp, để chúng ta tự thực hành, tự đi đến
cảnh giới an lạc và hạnh phúc mà thôi. Như vậy mới thực
là chí công vô tư vậy.
Vì thế cho nên,
những
người có trí tuệ bát-nhã, luôn luôn giữ gìn tam nghiệp
cho thanh tịnh, tinh tấn tu tâm dưỡng tánh, phát tâm bồ đề,
tiến tu đạo nghiệp, chứ không phải chỉ biết cầu nguyện,
van xin, cầu khẩn, khấn vái. Tại sao vậy? Bởi lẽ chẳng
được lợi ích gì, chỉ thêm phiền não, vì cầu nguyện
hoài mà không được đáp ứng gì cả!
Cầu không được, khổ
là cái chắc.
Cầu bất đắc, tức khổ không sai.
Có nhiều cách tu,
nhiều
phương pháp, nhiều pháp môn để giúp chúng ta dừng nghiệp
và chuyển nghiệp, cho nên Phật giáo có nhiều tông phái. Tịnh
độ tông dùng câu niệm Phật, dùng cách quán tưởng, dùng
thời khóa tụng kinh, để dừng tất cả các nghiệp. Mật
tông dùng câu thần chú đà-la-ni để dừng tất cả các
nghiệp. Thiền tông dùng pháp khán thoại đầu, dùng công
án nhà thiền, hay dùng "pháp đối cảnh vô tâm",
hay "pháp tri vọng", để dừng tất cả các nghiệp.
Dừng được một phần
của "ba nghiệp", chúng ta bớt được một phần
"chướng nạn" của cuộc đời. Dẹp được một phần
"nghiệp chướng" của bản thân, chúng ta hưởng
được một phần cuộc sống an lạc và hạnh phúc ngay hiện
đời. Thí dụ như bớt được chút lòng tham lam, chúng ta bớt
được chút khổ nạn, bởi vì tham thì thâm. Thí dụ như bớt
chút lòng sân hận, chúng ta bớt được chút phiền não nhức
đầu, bởi vì sân thì sinh sự. Thí dụ như bớt chút lòng
si mê, chúng ta bớt được chút khổ đau, bởi vì mê thì mất
tiền, mất của, mất tất cả!
* * *
Ðến đây, chúng ta
cần
hiểu rõ, phân biệt rõ: thế nào là "tội và nghiệp",
và thế nào là "tội báo và nghiệp báo". Sau một
thời gian tu hành nào đó, khi tâm được thanh tịnh, ba nghiệp
không còn, thân khẩu ý hoàn toàn thanh tịnh, "tội và
nghiệp" không còn nữa, bởi vì chúng ta không còn tạo
nghiệp, không còn tạo tội.
Do thành tâm sám
hối, "tội
và nghiệp mới" không còn tạo ra nữa, nhưng tội báo
và nghiệp báo, nói chung là quả báo, từ "tội và
nghiệp cũ" vẫn còn. Chúng ta đã tạo "nghiệp
nhân" thì nhứt định phải nhận "nghiệp quả",
không thể chạy đâu cho khỏi. Người đời thường gọi đó
là "số trời đã định", hay "định mệnh đã
an bài", hoặc "chạy trời không khỏi nắng",
chính là nghĩa đó vậy.
Trong Kinh Pháp Cú,
Ðức
Phật có dạy:
Dù cho lên non,
xuống biển vào hang,
nghiệp báo đã mang,
vẫn theo con người,
như hình với bóng,
không ai có thể,
tránh được thoát được.
Các bậc thánh thiện
là những người đã thanh tịnh được tam nghiệp nên có cuộc
sống an nhàn, tự tại trong nội tâm, trong tâm thức. Tuy
nhiên, trên hình thức bên ngoài, chúng ta thấy cuộc sống của
các vị giáo chủ, của các bậc thánh nhơn không phải là
không có sóng gió, không phải là không có chuyện bất trắc
xảy ra. Có khi các ngài vẫn bị vu cáo, nhục mạ, phỉ
báng, xét xử, kết án và thậm chí, bị hành hình như những
tội phạm hình sự.
Tại sao vậy? Bởi
vì,
các ngài tuy đã dứt hết các "tội và nghiệp" đời
này, nhưng tội báo và nghiệp báo, nói chung là "quả
báo", từ nhiều đời và nhiều kiếp trước vẫn còn,
các ngài vẫn phải trả. Các ngài, cũng như bất cứ ai, không
thể đứng ngoài luật nhân quả được.
Chẳng hạn như: Vào
cuối
thế kỷ thứ ba, vị tổ thứ hai mươi bốn là Aryasimha tuy
đã đắc đạo, nhưng vẫn bị vua Kế Tân chém đầu. Vào
đầu thế kỷ thứ bảy, vị tổ thứ hai mươi chín, là Tổ
Sư Huệ Khả, bị vu cáo và bị giam đến chết trong ngục,
thọ 107 tuổi! Tổ Bá Trượng Hoài Hải trong một buổi thuyết
giảng, có gặp một ông lão, nguyên là một vị Hòa Thượng,
vì hiểu sai và giảng sai luật nhân quả, cho là một khi con
người đắc đạo rồi, thì không phải trả quả báo,
thoát ngoài luật nhân quả, cho nên phải bị đọa 500 kiếp
chồn.
Chúng ta cũng
thường
hay nghĩ như vậy, cho là sám hối xong thì sạch tội và sẽ
được bình an, không tai nạn gì nữa cả, không phải trả
quả báo! Hiểu như vậy là sai! Chúng ta thường lầm lẫn "tội
nghiệp mới" với "quả báo cũ". Chúng
ta cần nên biết rằng chúng ta không thể nhờ bất cứ ai
tha tội, xóa tội, miễn tội, gánh tội thay thế cho chúng
ta được. Tại sao vậy? Bởi vì như vậy trái với luật
nhân quả, lẽ công bằng và không hợp tình, hợp lý chút
nào.
Trong tam tạng kinh
điển,
Ðức Phật chỉ dạy rất rõ ràng vấn đề "tội và
báo" này. Khi nào chúng ta không còn tâm si mê muốn quịt
nợ, chúng ta sẽ nhận biết được dễ dàng hơn, thấu đáo
hơn, không còn bị dối gạt, không còn lầm lẫn nữa.
Chúng ta thử xét
thí dụ
sau đây, để hiểu biết thêm về "tội báo, nghiệp
báo, quả báo, và phước báo". Theo luật nhân quả, do hậu
quả của tội lỗi đã làm, gọi là "nghiệp nhân",
con người gặp những bệnh tật, những tai nạn, những bất
trắc ở đời, gọi là "nghiệp quả hay nghiệp
báo". Con người phải gánh chịu "quả báo hay tội
báo" như vậy, ví như phải ăn một nắm muối. Phải
ăn một nắm muối thì khổ biết là bao nhiêu. Nếu như con
người có thể bỏ nắm muối vào tô nước rồi uống thì
có lẽ dễ chịu hơn chút đỉnh. Nếu như con người có thể
bỏ nắm muối vào lu nước rồi uống thì dễ chịu hơn chút
nữa. Nếu như con người có thể bỏ nắm muối đó vào hồ
nước lớn rồi uống thì chắc là câu chuyện không thành vấn
đề nữa rồi.
Nắm muối bị bắt
buộc
phải ăn tượng trưng cho "tội báo, nghiệp báo, hay quả
báo", do những tội lỗi chúng ta đã làm từ nhiều đời
trước hay đời này. Nước trong tô, trong lu, trong hồ tượng
trưng cho "phước báo" ít hay nhiều, chúng ta đã tạo
được từ những việc làm phước thiện, phước đức,
trong các đời trước hay đời này. Như vậy, nếu con người
phải đền trả hoàn toàn đầy đủ những tội lỗi do chính
mình gây ra, đời trước hay đời này, thì có khi phải tán
gia bại sản, bệnh tật ngặt nghèo, nguy hại tánh mạng. Nhưng
nhờ đã làm các việc phước thiện, nên có "phước báo"
để bù đắp, cho nên hoàn cảnh khổ đau, tai nạn có thể
được giảm bớt hay hóa giải đi. Chuyện lớn hóa nhỏ,
chuyện nhỏ hóa không. Ví như con người có tiền tiết kiệm
để dành, có thể đem trả, trừ bớt nợ hay trừ dứt nợ
xưa v?y.
Bởi vậy, làm việc
phước
thiện, tạo phước đức, có phước báo, để tiêu trừ tội
nghiệp là thái độ tích cực và hợp đạo lý, đối với
bất cứ ai trên thế gian này, hơn là việc cầu nguyện thượng
đế để xin xá tội, để chạy tội, hoặc đổ hết tội
lỗi của mình cho thượng đế gánh giùm! Thật là thảm thương
thay cho thượng đế do con người đặt ra, tưởng tượng
ra, để gánh vác hết tội lỗi của nhân loại trên thế
gian này! Con người vốn hay muốn quịt nợ, muốn trốn tránh
trách nhiệm, không sợ nhân chỉ sợ quả, không bao giờ
nhìn nhận những việc sơ sót, sai trái, tội lỗi, lỗi lầm,
chính mình đã làm, chỉ biết trách cứ người khác, đổ
thừa tại người này, đổ thừa tại việc kia, không bao giờ
dám nhận là "tại mình", không bao giờ chịu nhận
là "lỗi tại tôi mọi đàng". Tại sao vậy? Bởi
vì con người không hiểu thấu đáo, không biết tin sâu luật
nhân quả vậy.
* * *
Tóm lại, trong kinh
sách, Ðức Phật có dạy:
Tam nghiệp hằng
thanh
tịnh.
Ðồng Phật vãng tây phương.
Nghĩa là nếu như
lúc
nào ba nghiệp của chúng ta đều thanh tịnh, lặng yên, trong
sáng, thân không sát sanh, trộm cắp, tà dâm, khẩu không
nói dối, không nói lời thị phi, không đâm bị thóc thọc
bị gạo, không xuyên tạc phỉ báng, không vu khống cáo
gian, ý không còn tham lam, sân hận, si mê, thì chắc chắn
chúng ta sẽ được an lạc và hạnh phúc hiện đời, sẽ cùng
chư Phật về cõi tây phương cực lạc sau này. Những người
không thấu hiểu lẽ này, nên nghĩ là có thể "đới
nghiệp vãng sanh", tức là còn mang nghiệp mà vẫn có thể
vãng sanh tây phương, nhờ vào câu niệm Phật A Di Ðà. Ðó
là một sự suy nghĩ sai lầm lớn lao của người tu đạo,
không đúng Chánh Pháp.
Trong Kinh Hoa
Nghiêm, Ðức
Phật có dạy:
Tất cả nghiệp
chướng
đều do vọng tưởng, nếu muốn sám hối, hãy ngồi tĩnh tâm
quán sát thực tướng.
Nghĩa là khi quán
sát
thực tướng, nếu người nào biết được tánh chúng sanh
là tánh Niết-bàn thì người ấy cùng cực giải thoát.
Trong kinh sách có
câu:
"Phật và
chúng
sanh tánh thường rỗng lặng",
hay: "Năng lễ sở lễ tánh không tịch", chính
là nghĩa này vậy.
Xét cho đến ngọn
nguồn,
tội nghiệp đều do vọng tưởng điên đảo mà sinh ra. Nhưng
tâm vọng tưởng điên đảo ấy cũng như luồng gió giữa
chốn hư không, chẳng có chỗ nào trụ, chẳng có chỗ nào
dính mắc.
Khi chưa thấu hiểu
chân
lý, mang mang mờ mờ mịt mịt, cho nên chúng ta mới gây tội
nghiệp, nhưng lại chỉ thấy tội nghiệp của người khác.
Ðến khi rõ lý lẽ, tất cả tội lỗi trước đây thảy đều
tiêu diệt, bởi chúng ta đã thấy tội nghiệp của chính
mình. Lúc ấy mới biết một cách rốt ráo, tất cả đều
là không: không có tội lỗi gì để mà tiêu diệt, không
có tội nghiệp gì để mà tạo tác, không thấy có nghiệp
báo gì để mà gánh chịu, cũng không còn sanh tử luân hồi
nữa vậy.
-ooOoo-
Cư Trần
Lạc Ðạo
Cư-sĩ Chính-Trực
Hiện tiền đời đau
khổ
ở chỗ tranh hơn thua
tiền tài cùng danh lợi
cho đến lúc tuổi cao
tuổi cao mau thức tỉnh
biết đủ tự nhiên giàu
giác ngộ liền giải thoát
vui đạo để sống đời
sống đời nên vui đạo
không đa mang phiền não
hành từ bi hỷ xả
mọi chuyện thảy đều không.
Sám hối
chuyển nghiệp
Cư-sĩ Chính-Trực
Lỗi tại
tôi tại
tôi
mọi đàng lỗi tại tôi
nên sống đời nổi trôi
nhận tội nên không chối
nhứt định xin sám hối
trước sau Tam nghiệp tội
thảy đều thanh tịnh hóa
chuyển nghiệp thoát luân hồi
-ooOoo-