Tứ
nhiếp pháp
Trong
vô lượng pháp môn tu theo đạo Phật, không pháp môn nào không
nhằm "mục đích lợi sanh". Hạnh lợi sanh luôn luôn
là hạnh chủ yếu của mười phương chư Phật, chư vị
Bồ Tát thị hiện ra đời, thực hành, để đem lại ích
lợi, đem lại lợi lạc, cho tất cả chúng sanh.
Cho nên, trong tất
cả
phương tiện giáo hóa, khuyến tu, chúng ta cần tìm hiểu
một cách tường tận pháp môn gọi là "Tứ Nhiếp Pháp".
Ðó là pháp môn thực hành để dẫn dắt chúng sanh tồi tà
phụ chánh, tức là bỏ việc gian tà sai trái, theo đường
ngay lẽ phải, đi vào chánh đạo. Tứ nhiếp pháp là pháp môn
nhiếp hóa chúng sanh, căn cứ vào lòng từ bi để khuyến hóa
chúng sanh bỏ tà theo chánh, có công năng nhiếp phục và giác
ngộ chúng sanh.
* * *
Tứ nhiếp pháp gồm
bốn điều là: bố thí, ái ngữ, lợi hành, đồng sự. Pháp
môn này không những dành cho Phật Tử xuất gia là các bậc
tu sĩ, hay dành cho các Phật Tử tại gia cư sĩ, mà bất cứ
ai cũng có thể áp dụng, tu tập, thực hành, để có cuộc
sống an lạc và hạnh phúc hiện đời, để được giác
ngộ và giải thoát. Tứ nhiếp pháp có giá trị cao đẹp,
biểu lộ ý chí cao thượng của chư Phật, chư Bồ Tát.
I.- Trước
hết là Bố
thí. Bố thí có nghĩa là
cho một cách rộng rãi. Cho một cách rộng rãi có hai nghĩa:
một là, cho tất cả mọi thứ đến tất cả mọi người và
hai là, cho với tất cả tấm lòng rộng rãi, bất tùy phân
biệt. Tại sao chúng ta phải tu hạnh bố thí? Tu hạnh bố
thí là để kiến tạo một kho tàng phước báu, là tu tập
nghiệp lành. Phước báu có công năng tiêu trừ đau khổ, làm
cho tâm trí được an vui, thảnh thơi, hạnh phúc. Tu hạnh
bố thí được người đời thương mến, dễ thu phục lòng
người, phát triển lòng từ bi. Bố thí là gốc rễ của
tất cả các thiện pháp. Bố thí là pháp tu mà những người
kém phước đức và trí huệ cần noi theo. Chư vị hiền thánh
nhơn kim cổ đều trải qua các hạnh tu bố thí.
Chúng ta sống trên
thế gian này gặp nhiều phiền não và khổ đau từ nhiều
nguyên do, trong đó lòng tham lam là yếu tố hàng đầu. Do lòng
tham lam, con người không bao giờ thấy đủ. Có được chín
đồng thì con người cố kiếm cho đủ mười đồng, nói
rằng để dành khi hữu sự cần dùng, hay để dưỡng lão
mai sau. Ðến khi có được chín trăm ngàn thì con người
vẫn cố làm việc, cố dành dụm, cố đấu tranh, cố giành
giựt, bất chấp thủ đoạn, để có nhiều thêm nữa, dù
rằng lúc đó tuổi tác đã già nua, gần đất xa trời. Ðó
là lòng tham tiền tài, lợi lộc.
Lòng tham danh, háo
danh
cũng thúc đẩy, sai khiến nhiều ông bà già tiếp tục bon
chen trên đường đời, tiếp tục giở những thủ đoạn
bất chánh, những tuyệt chiêu điêu luyện, những kinh
nghiệm hại người, để đoạt cho kỳ được, giữ cho
thực lâu các chức vụ hay danh vị nào đó trong các tổ
chức bất vụ lợi trá hình, đôi khi đó chỉ là các chức
dõm, danh hàm, danh hão mà thôi, chẳng có chút giá trị nào
cả. Lòng tham lam luôn luôn thúc đẩy con người đấu tranh,
giành giựt, bất chấp thủ đoạn, thì làm sao cuộc sống
thực sự được an lạc và hạnh phúc?
Người biết tri túc,
biết an phận với những gì đang có, biết cần kiệm,
biết sống một cuộc sống đơn giản, an nhàn, trong sạch là
người được an lạc và hạnh phúc lớn nhất. Nếu chúng
ta không có những gì mình thích thì chúng ta hãy thích
những gì mình đang có. Ðược như vậy thì cuộc đời đâu
còn gì gọi là khổ đau.
Trong Kinh Di Giáo,
Ðức
Phật có dạy:
Tri túc chi nhơn
tuy
ngọa địa thượng du vi an lạc.
Bất tri túc giả thân xử thiên đường diệc bất xứng ý.
Nghĩa là: Người
biết
thế nào là đủ, tuy nằm trên đất cũng thấy an vui, lạc
thú. Nguời không biết thế nào là đủ, tuy thân ở trên
cảnh giới thiên đường, tâm ý vẫn không thỏa mãn!
Sách cũng có câu:
Tri túc tiện túc
đãi
túc hà thời túc.
Tri nhàn tiện nhàn đãi nhàn hà thời nhàn.
Nghĩa là: Người
biết
thế nào là đủ thì tức thời thấy đủ, biết thế nào là
nhàn thì tức thời thấy nhàn. Như vậy "cái đủ, cái
nhàn" thực ra rất cần thiết, rất quan trọng cho cuộc
đời, nhưng chúng ta không bao giờ đạt được "cái đủ,
cái nhàn", nếu không có "biết đủ, biết nhàn".
Bởi vậy, cho nên Ðức Phật dạy pháp bố thí, để dẹp
bớt lòng tham lam, đòi hỏi, bỏn sẻn, keo kiệt, bần tiện
của con người. Pháp bố thí gồm có ba thứ: "tài thí,
pháp thí, vô úy thí".
1) Về tài thí, có
hai
phần: ngoại tài thí và nội tài thí. Chúng ta có thể cho
những gì bên ngoài thân thể, như là tiền bạc, của cải,
cơm gạo, quần áo, thuốc men, vật chất nói chung, gọi là
"ngoại tài thí". Khi thực hành ngoại tài thí, chúng
ta cần chú ý các yếu tố đúng người, đúng thời và đúng
lượng. Chẳng hạn như người nào cần tiền bạc, chúng ta
giúp tiền bạc; người nào cần thuốc men, chúng ta giúp
thuốc men và chỉ giúp lúc cần thiết với số lượng hợp
tình, hợp lý mà thôi. Nhiều khi giúp đỡ tiền bạc quá
nhiều, có thể làm cho người nhận sanh tâm ỷ lại, sanh lòng
lười biếng, không thích làm việc, không thích chịu cực,
không kham nỗi những khó khăn trong cuộc sống. Nhiều khi giúp
đỡ tiền bạc đưa đến chuyện hại người nếu chúng ta
không biết người nhận xử dụng số tiền đó với mục
đích sai lạc, mục đích xấu.
Chúng ta có thể đem
cho những gì thuộc về thân thể, thân mạng của mình,
hoặc các bộ phận trên cơ thể như là mắt, tim, gan, phèo,
phổi, gọi là "nội tài thí". Ðiều này, khi còn
sống thì khó thực hiện được, nhưng chúng ta có thể làm
được khi vừa mới tắt thở. Có rất nhiều người không
theo đạo Phật, không hiểu giáo lý đạo Phật, nhưng họ
đã ký sẵn giấy cam đoan cho các bộ phận trên cơ thể
của họ hoặc cho luôn thân xác của họ, cho bất cứ ai
cần đến, hoặc cho các viện y khoa, để giải phẩu nghiên
cứu, học hỏi, tìm hiểu, ngay khi họ vừa mới tắt thở.
Ðiều này giúp chúng
ta hiểu rằng, trong tận cùng thâm tâm của mỗi con người,"thiện
tâm" đều giống nhau, ai ai cũng có, không phân biệt con
người theo bất cứ tôn giáo nào trên thế gian này.
Ngày nay chúng ta
ít người
thực hành nổi hạnh bố thí thân mạng như người xưa. Tuy
nhiên, chúng ta có thể dùng thân mạng để làm những việc
ích lợi cho người, như công quả trong chùa, góp công sức
trong các cuộc lạc quyên cứu giúp người gặp nạn bão
lụt, gặp hỏa hoạn. Thực ra, từ xưa đến nay, có biết
bao nhiêu người xả thân cứu người, nhiều khi gặp hiểm
nguy đến tánh mạng. Ðó cũng gọi là "nội tài thí".
2) Về pháp thí, có
hai
nghĩa: một là, đem cho tất cả mọi việc, đem cho tất cả
các pháp trên thế gian này và hai là, cho giáo pháp của
Phật, còn gọi là Phật Pháp. Chúng ta có thể cho tất cả
những gì khác, không thuộc phần nội tài thí và ngoại tài
thí nói trên. Chẳng hạn như chúng ta có sở học, có tài năng,
có kiến thức, có sự hiểu biết về một vấn đề nào đó,
về một phương diện nào đó, về một ngành nghề nào đó,
chúng ta có thể đem ra chỉ bảo, hướng dẫn, truyền dạy,
giúp đỡ cho người, một cách bất vụ lợi, không mong
cầu báo đáp, không kể lể ơn nghĩa. Việc này bất cứ ai
cũng có thể làm được, không tốn đồng xu cắc bạc,
chỉ cần tấm lòng vị tha, chỉ cần tấm lòng "vì người
quên mình" mà thôi.
Ðối với hàng tu sĩ
xuất gia hay cư sĩ tại gia có học hiểu giáo pháp của
Phật, đem ra giảng giải cho mọi người được biết để
áp dụng, để xây dựng cuộc sống an lạc và hạnh phúc
hiện đời. Theo nghĩa này, pháp thí là điều quan trọng
hơn cả. Tại sao vậy? Bởi vì khi chúng ta giúp người
về vật chất, như tiền bạc, cơm gạo, có thể làm cho người
được qua cơn khó khăn trong ngắn hạn, trong một thời gian
nào đó mà thôi. Khi chúng ta giúp người về tinh thần, như
dạy chữ, chỉ dạy nghề, hướng dẫn cách sống đúng phép
vệ sinh chẳng hạn, có thể làm cho người được qua cơn
khó khăn trong một thời gian nào đó, thậm chí có thể giúp
họ sống còn, sống khỏe một đời này mà thôi.
Còn nếu chúng ta có
học hiểu giáo pháp của Ðức Phật, còn gọi là Phật Pháp,
đem ra giảng giải cho mọi người được biết, để áp
dụng trong cuộc sống, thì có thể giúp con người được
an lạc và hạnh phúc ngay hiện đời, ngay kiếp này, cao hơn
nữa là giúp con người được giác ngộ và giải thoát
khỏi vòng sanh tử luân hồi khổ đau vĩnh viễn muôn kiếp.
Bởi vậy, cho nên Ðức Phật dạy hàng Phật Tử tại gia
"pháp cúng dường" chư Tăng Ni, để các vị xuất
gia yên tâm tu hành, không phải lo chuyện sinh sống, chuyên tâm
nghiên cứu kinh điển, rồi đem ra giảng giải cho mọi người
biết, để tu hành theo đúng Chánh Pháp. Pháp cúng dường như
vậy là thanh tịnh nhất, dành cho các bậc chơn tu thực
học, thanh tịnh trang nghiêm. Ðó là một dạng khác của
sự bố thí.
Tuy nhiên, không
phải
giáo pháp luôn luôn cần hơn cơm gạo, hoặc ngược lại.
Việc này chúng ta gọi là "tùy duyên". Trong một
buổi Ðức Phật thuyết pháp, có một người nghèo khó đến
dự. Ðức Phật liền bảo dọn cơm cho người đó ăn trước,
rồi mới giảng pháp cho nghe sau. Khi nghe xong thời pháp đó,
người nghèo khó ngộ đạo, chứng ngay quả dự lưu tu đà
hoàn. Do đó, ngày nay chúng ta có câu: "Có thực mới
vực được đạo". Nghĩa là phải được tạm no lòng
thì mới hy vọng hiểu được đạo lý cao siêu. Chúng ta không
thể đem giáo pháp cao siêu ra giảng dạy cho những người
đang đói khổ, đang cần cơm gạo trước hết. Cũng như không
thể đem giáo pháp cao siêu dạy ngay cho người sơ cơ, mới
học đạo. Nhu cầu tại thế gian của con người đi từ
vật chất đến tinh thần, rồi sau đó mới bàn đến
chuyện tâm linh xuất thế gian.
3) Về vô úy thí ,
thì có nhiều nghĩa rộng rãi, cao siêu hơn. Vô là không,
úy là sợ, thí là cho. Vô úy thí là đem cho sự không sợ hãi.
Hay nói cách khác, vô úy thí là làm sao giúp đỡ cho con người
bớt sự lo lắng, sợ sệt, sợ hãi, hay phiền muộn. Vô úy
thí có nghĩa là giúp người qua cơn sợ hãi mọi thứ, bớt
sự lo lắng mọi điều trong tâm trí trong các biến cố, trước
các điều hiểm nguy, và còn có nghĩa là chúng ta không nên
gây não phiền, không nên gây bực dọc cho bất cứ ai,
khiến họ được an vui, yên ổn.
Con người sống trên
thế gian này có rất nhiều điều lo âu, sợ hãi hay phiền
muộn. Nào là sợ thiếu tiền, sợ thiếu ăn, sợ thiếu
mặc, sợ bệnh hoạn, sợ thiên tai, sợ mất công ăn việc
làm, sợ mất hạnh phúc gia đình, sợ đủ mọi thứ
chuyện trên trần đời. Nhưng nỗi lo sợ lớn nhất của
con người, chính là sợ chết!
Tự cổ chí kim, từ
người
nghèo hèn cho đến người sang trọng, từ người bình dân
cho đến người học thức, từ người trẻ cho đến cụ già,
từ người thường dân cho đến vua quan hay hàng quí tộc,
từ giới phàm phu tục tử cho đến các bậc hiền triết thánh
nhơn, nào có ai tránh được cái chết đâu, mặc dù con người
vốn tham sinh úy tử, tức là ham sống sợ chết!
Con người thường
hay
nghĩ "đời còn dài", cho nên chỉ bận tâm đến
chuyện mưu sinh, chuyện tranh danh đoạt lợi, chuyện đấu
tranh tranh đấu, chuyện hơn thua, thị phi, đúng sai, phải
quấy, đủ thứ chuyện linh tinh lang tang. Ðến khi sắp từ
giã cuộc đời mới giựt mình tỉnh giấc thì đã quá
muộn màng. Thực ra, con người có thể chết bất cứ lúc nào,
bất cứ cách nào, bất cứ nơi nào. Còn đối với sự sợ
chết, chúng ta khuyến hóa mọi người tu hành, phát tâm tìm
hiểu đạo lý và cầu đạo giác ngộ giải thoát. Tại sao
vậy? Bởi vì chỉ có giáo pháp của Ðức Phật mới có
thể chỉ bày cho con người hiểu rõ ràng, tường tận
"pháp vô sanh", tức là chỉ dạy đường lối tu hành
để giác ngộ và giải thoát, không còn sanh phiền não và
khổ đau, không còn sanh tử luân hồi nữa, chứ đạo Phật
không phải chỉ có các hình thức cúng kiến, lễ nghi, cầu
nguyện mà thôi.
Thực hành hạnh vô
úy
thí còn có nghĩa là giúp chúng sanh khắc phục tư tưởng
sợ hãi, khiếp nhược yếu hèn, tự ti mặc cảm, giúp chúng
sanh hiểu được điều Ðức Phật giác ngộ dưới cội cây
bồ đề và giảng dạy khắp tam tạng kinh điển.
Ðó chính là: "Tất
cả chúng sanh ai ai cũng đều có Phật Tánh như nhau, tất
cả đều bình đẳng, và tất cả chúng sanh đều sẽ thành
Phật, giải thoát mọi khổ đau phiền não, nếu biết tu
tập, thực hành đúng Chánh Pháp".
Trong các kinh điển
Phật giáo, đó là bốn bước: khai, thị, ngộ, nhập. Nghĩa
là Ðức Phật khai mở cánh cửa giải thoát; chỉ thị cho
con người thấy được, hiểu được "pháp vô
sanh", đó là cái "bất sanh diệt", đó là
"con người chân thật" của tất cả chúng ta, chứ
không phải cái xác thân giả tạm đang có; giúp cho con người
làm sao giác ngộ được "pháp vô sanh" và cuối cùng
chỉ dạy đường lối tu hành làm sao chứng nhập được
"pháp vô sanh" đó.
Con người sở
dĩ sợ
chết, bởi vì con người sợ mất cái thân tứ đại mấy
chục ký lô giả tạm này, mà không hề biết mình có cái
không hề chết, không hề bị tiêu diệt mất, đó chính là
"con người chân thật bất sanh diệt" của
tất cả chúng ta vậy.
Chúng ta biết rằng
khi
thọ hưởng một tài sản hay của cải, vật chất nào, không
nên chỉ dùng cho riêng mình. Chúng ta nên bố thí ra, chia
xẻ với mọi người, để tạo an vui lợi ích cho những người
chung quanh và cũng tạo an vui ích lợi cho chính chúng ta
nữa. Cái gì chúng ta ăn, chỉ được nhứt thời. Cái gì chúng
ta tích trữ, dành dụm, chỉ được nhứt đời mà thôi,
chắc chắn chúng ta sẽ bỏ lại tất cả khi ra đi.
Nhưng những gì
chúng
ta cho ra, những gì chúng ta bố thí, sẽ trở lại với chúng
ta, dưới dạng quả báo lành, sự bình an, sự may mắn, còn
gọi là phước báo, giúp chúng ta được tai qua nạn khỏi.
Nói cách khác, cái
gì
chúng ta đã tiêu xài, bây giờ không còn nữa. Cái gì chúng
ta đã mua sắm, bây giờ phải để lại cho người khác,
một khi ra đi. Chỉ có cái gì chúng ta "đã cho, đã bố
thí" là vẫn còn "thuộc về chúng ta" khi
từ giã cõi đời. Ðó chính là nghiệp lành, là phước báo,
là quả báo tốt, là sự may mắn, là sự bình yên, là an
lạc và hạnh phúc, tất cả luôn luôn theo cùng với chúng
ta như hình với bóng. Danh ngôn Tây Phương cũng có câu:
"If you continually give, you will continually have".
Trong Kinh Ðịa
Tạng,
phẩm thứ mười, khi Bồ Tát Ðịa Tạng từ chỗ ngồi đứng
dậy, chắp tay cung kính và bạch Phật rằng:
"Bạch Ðức Thế Tôn,
con xem chúng sanh trong nghiệp đạo, so sánh công đức bố thí,
hiệu quả có sự nhiều ít khác nhau, có người được hưởng
phước một đời, có người được hưởng phước mười
đời, có người được hưởng phước hàng trăm, ngàn đời,
lợi lạc lớn lao. Tại sao như thế, cúi xin Ðức Thế Tôn
từ bi giảng trạch cho chúng con được biết".
Ðức Phật dạy tóm
lược
như sau:
"Bất cứ ai gặp
những người già yếu, bần cùng, hèn mạt, tàn tật, câm
ngọng, đui mù, ngây điếc, không được toàn vẹn, mà tự
tay đem bố thí với lòng từ bi, thương xót, dùng lời mềm
mỏng an ủi họ tử tế, khiến cho họ được an ổn, vui
vẻ, thì được hưởng phước báo vô lượng.
Tuy nhiên, nếu làm
được
những việc thiện như thế mà đem hồi hướng cho khắp pháp
giới chúng sanh thì những người làm công đức ấy được
hưởng những sự vui sướng nhiệm mầu hàng trăm ngàn đời,
nếu đem công đức ấy hồi hướng cho quyến thuộc nhà mình,
hay muốn tự mình hưởng những lợi ích, thì ba đời được
vui vẻ, làm một phần thì được hưởng vạn phần".
Tại sao vậy? Bởi vì
những người làm công đức đó đã phát lòng đại từ, đại
bi, lại phát tâm rộng lớn, đem "hồi hướng" cho
khắp pháp giới chúng sanh, không cứ công đức ít nhiều,
không dành riêng cho mình và người thân của mình, đó chính
là những người đã "diệt được lòng tham", cho nên
được sự "giải thoát hoàn toàn", cho nên được hưởng
quả "phước báo lớn lao" như vậy. Còn người nào
chỉ phát tâm hạn hẹp, đem công đức ấy hồi hướng cho
người thân hay cho chính mình mà thôi, thì sẽ được hưởng
quả phước báo hạn chế hơn, tùy theo tâm lượng còn nhỏ
hẹp của chính mình.
Trong Kinh Kim
Cang, Ðức
Phật cũng có dạy:
"Nhược bồ tát
ư pháp, ưng vô sở trụ hành ư bố thí. Sở vị bất trụ
sắc bố thí, bất trụ thanh, hương, vị, xúc, pháp, bố thí.
Bồ tát ưng như thị bố thí, bất trụ ư tướng. Nhược
bồ tát bất trụ tướng bố thí, kỳ phước đức bất
khả tư lượng".
Nghĩa là nếu chúng
ta
không chấp bốn tướng: ngã, nhơn, chúng sanh, thọ giả, và
không chấp sáu trần: sắc, thanh, hương, vị, xúc, pháp, mà
thực hành hạnh bố thí, thì phước đức không thể nghĩ,
không thể lường được.
Không chấp
bốn tướng:
ngã, nhơn, chúng sanh, thọ giả, có
nghĩa là: khi thực hành hạnh bố thí, chúng ta không nên
thấy có mình là người cho, để cầu mong được báo đáp,
được cám ơn, được tán thán; chúng ta không nên thấy có
người nào là kẻ nhận sự bố thí đó, để kể lể
chuyện ơn nghĩa; chúng ta không nên thấy có bao nhiêu người
đã nhận sự bố thí đó, để khoe khoang, và chúng ta cũng
không nên thấy có vật gì, điều gì đã được đem cho, để
khỏi tiếc nuối về sau, có khi tiếc của, đi đòi lại!
Nếu được như vậy, sau khi thực hành hạnh bố thí, chúng
ta sẽ an trụ được tâm của chúng ta. Chúng ta sẽ không
bực dọc khi gặp những người bội bạc, không biết ơn,
thậm chí còn trở mặt với chúng ta nữa. Lòng từ bi của
chúng ta sẽ không bị hạn chế, nếu không còn nhớ là đã
bố thí bao nhiêu tiền của, đã bố thí cho bao nhiêu người,
đã dành bao nhiêu thời giờ để làm hạnh bố thí đó.
Muốn hàng phục được
tâm ý của chính mình, chúng ta phát nguyện độ tất cả chúng
sanh, mà không thấy có chúng sanh nào được độ. Bố thí
xong rồi thì thôi, đừng nhớ nghĩ gì nữa. Khi chúng ta xả
bỏ được hết tất cả vọng niệm, các tạp niệm, để
an trụ tâm, để thanh tịnh tâm, tức là chúng ta đã thực
hành được hạnh bố thí ở mức độ cao nhất, mà ít người
hiểu được. Hàng phục được tâm ý của chính mình thì
mau tiến đến chỗ giải thoát. Cho nên Ðức Phật dạy:
thực hành được hạnh bố thí, thì phước đức không
thể nghĩ, không thể lường được, chính là nghĩa đó
vậy.
Không chấp
sáu trần:
sắc, thanh, hương, vị, xúc, pháp,
có nghĩa là: khi thực hành hạnh bố thí, chúng ta không
chấp vào sắc tướng là tốt đẹp hay không tốt đẹp, không
chấp vào âm thanh dễ nghe hay khó nghe, không chấp vào mùi hương
dễ ngửi hay khó ngửi, không chấp vào mùi vị dễ nếm hay
khó nếm, không chấp vào xúc chạm dễ chịu hay khó chịu,
không chấp vào sự việc, ý tưởng vừa ý hay không vừa ý,
thích hay không thích, ưa hay ghét.
Sở dĩ tâm ý của
chúng
ta thường hay bất an, hay loạn động, bởi vì chúng ta thường
hay dính mắc với sáu trần. Hễ mắt thấy bất cứ sắc gì
thì liền khởi vọng niệm phê phán đẹp hay xấu, hễ tai
nghe bất cứ tiếng gì thì liền khởi vọng niệm phê phán
dễ nghe hay khó nghe, hễ mũi ngửi bất cứ mùi gì thì
liền khởi vọng niệm phê phán dễ ngửi hay khó ngửi, hễ
lưỡi nếm bất cứ vị gì thì liền khởi vọng niệm phê
phán ngon hay dỡ, hễ thân xúc chạm bất cứ vật gì thì
liền khởi vọng niệm phê phán dễ chịu hay khó chịu, hễ
ý nhớ tưởng bất cứ chuyện gì thì liền khởi vọng
niệm phê phán hài lòng hay bực bội. Cứ như thế, tâm ý
của chúng ta luôn luôn bất an, loạn động.
Chúng ta thực hành
hạnh bố thí với tất cả tấm lòng rộng rãi, với tất
cả tấm lòng vì người quên mình, với tất cả tấm
lòng từ bi, cung kính, không cầu danh, không cầu báo đáp,
không vì hơn thua, không vì mê hoặc lòng người, không
chọn lựa món xấu đem cho, món tốt giữ lại, t?c là không
trụ sắc; cho rồi không cần nghe lời khen, tiếng cám ơn,
tức là không trụ thanh, v.v.. và của đem bố thí phải
thanh tịnh, chơn chánh; người nhận bố thí phải được tôn
trọng, bình đẳng. Ðó chính là sự bố thí thanh tịnh,
trong sáng, bất tùy phân biệt nam phụ lão ấu, tu sĩ hay người
đời, đẳng thí vô sai biệt, phổ đồng cúng dường, chư
Phật chư hiền thánh, hạ cập lục đạo phẩm, như vậy
sẽ đem lại phước báo vô lượng, vô biên, cho nên được
gọi là "bố thí ba-la-mật".
**
II.- Sau bố
thí là Ái
ngữ . Ái ngữ là lời nói
dịu dàng, êm ái, ngọt ngào, dễ nghe, phát xuất từ lòng
từ bi, thương người như thể thương thân, chứ không
phải là lời nói đầu môi chót lưỡi, lời nói hoa mỹ, khách
sáo, cốt sao cho đẹp lòng người nghe.
Ái ngữ có tác dụng
đem lại an vui, bình yên, thanh thản cho người nghe, có tác
dụng an ủi vỗ về những người đang bị nhiệt não, âu
lo, sợ sệt. Sách có câu:
Lời nói
không mất
tiền mua.
Lựa lời mà nói cho vừa lòng nhau.
Trong cuộc sống
trên
thế gian này, nếu mọi người đều nhớ nằm lòng câu trên
đây, thì cuộc đời hạnh phúc biết là bao nhiêu, dầu cù
là và thuốc nhức đầu chắc là không bán chạy! Trong gia
đình, vợ chồng con cái, trên thuận dưới hoà, không có
tranh cãi, không có xào xáo. Trong xã hội, không có chuyện
mất trật tự, an ninh vì những cuộc cãi vã, đưa đến
ấu đả và án mạng có thể xảy ra. Trong quốc gia, hòa bình
chắc chắn được bền vững, lâu dài.
Chúng ta cũng biết
rằng, ngoài danh và lợi, trên thế gian này con người thường
hay tranh chấp vì lời nói. Hai người nói chuyện với nhau
một lát mà không biết nhường nhịn nhau, tương nhượng
nhau, thì hay đưa tới tranh cãi.
Bởi vậy cho nên,
chư
Tổ có dạy:
Nội cần khắc niệm chi công.
Ngoại hoằng bất tranh chi đức.
Nghĩa là: Bên trong
chúng
ta cần luôn luôn khắc chế, khắc phục tâm niệm lăng xăng,
lộn xộn, đó chính là công phu tu tập của người Phật
Tử. Bên ngoài, chúng ta luôn luôn giữ hạnh nhẫn nhịn, không
tranh cãi, dù chuyện lớn chuyện nhỏ cũng vậy, đó chính là
đức độ của của người Phật Tử chúng ta vậy.
Lời nói đôi khi có
những tác dụng không thể lường trước được. Có những
lời nói có thể đem lại an vui, hạnh phúc cho người. Có
những lời nói có thể đem lại ly tán, đổ vỡ hạnh phúc
của người khác, đôi khi tan nát hạnh phúc của chính người
nói nữa. Có những lời nói làm cho người nghe mĩm một
nụ cười tươi tắn, vui vẻ, khỏe khoắn. Có những lời nói
làm cho người nghe ngất xĩu, hay đau đầu, nhức óc, nhói
tim, mất ngủ, hay ít ra cũng phải đi xức dầu cù là! Có
những lời nói có thể cứu người, cũng có những lời nói
có thể hại người một cách dễ dàng.
Thí dụ như lời nói
của một luật sư có lương tâm có thể cứu một bị cáo
thoát khỏi tội oan, hoặc lời nói của một nhân chứng trước
tòa, ngay hoặc gian, có thể làm cho người khác phải bị tù
tội. Một vị bác sĩ khéo lựa lời nói, khuyến khích, khuyên
lơn, an ủi, động viên tinh thần, có thể giúp bệnh nhân yên
tâm dưỡng bệnh, chóng qua cơn hiểm nghèo, sớm được bình
phục; bằng như ngược lại, lời nói của vị bác sĩ có
thể làm cho bệnh nhân tắt thở ngay tức thì.
Cũng như lời nói
của
các nhà ngoại giao, của các sứ thần, của các sứ giả có
thể đem lại hòa bình giữa hai nước, hoặc làm cho chiến
tranh lan tràn khắp mọi nơi. Nhiều khi lời nói của một người
có sức mạnh hơn cả một sư đoàn quân đội. Con người có
thể thương yêu súc vật như chó, mèo, chim chóc chẳng
hạn, nhưng lắm khi không thể chịu đựng được, nhịn
được người chung quanh, chỉ vì lời nói của người đó.
Tại sao vậy? Bởi vì súc vật không biết nói tiếng người,
cho nên không bị mích lòng! Người đời thường nói: hai
con gà ghét nhau vì tiếng gáy, hai con chó ghét nhau vì tiếng
sủa. Hai cô ca sĩ có bao giờ thương nhau!
Có câu chuyện của
hai
con chim như sau: Một hôm con chim cú vọ sửa soạn dọn tổ
sang nơi khác. Con chim bồ câu thấy vậy bèn hỏi thăm:
Chẳng hay chị dọn tổ đi đâu vậy? Con chim cú vọ trả
lời rằng: Con người nơi đây ác ôn quá đi, cứ hễ thấy
tôi nơi đâu, họ liền lấy đá ném, lấy cây đánh. Tôi không
chịu nổi, định dọn qua phương tây, hy vọng bên đó dân
chúng hiền lành hơn. Con chim bồ câu bèn nói: Ở chỗ hàng
xóm thân tình, tôi nói thiệt chị nghe, chị đừng giận tôi
nhé. Nếu chị không ch?u sửa tiếng kêu ghê rợn khó nghe
của chị, thì dù dọn đi đến đâu, chị cũng bị bạc đãi
mà thôi.
Bởi vậy chúng ta
mới
biết giọng nói, tiếng cười có khi gây được cảm tình
tốt đẹp, cũng có khi gây nên ác cảm, oán thù giữa con người
với nhau. Chỉ cần lỡ một lời nói có khi hư hỏng việc
lớn. Chỉ cần lỡ một lời có khi bị vạ lây, thậm chí
bị tù tội, chỉ vì người nghe không vừa tai, cho nên đi
tố cáo! Ðiều này cũng tùy người, tùy lúc và tùy cảm giác
của người nghe nữa. Sách có câu: "Hãy uốn lưỡi
bảy lần trước khi nói", chính là nghĩa đó vậy.
Trong Kinh Pháp Cú,
Ðức
Phật có dạy:
Dù nói hàng ngàn
lời
vô ích, không bằng chỉ nói một lời đúng Chánh Pháp, có
ích lợi làm cho người nghe được an tịnh.
? những xứ có nhiều
sắc dân khác nhau cùng chung sống. Người ta có thể không
hiểu người khác nói gì, vì bất đồng ngôn ngữ, nhưng người
ta có thể đoán được người khác muốn nói gì qua sắc
mặt và giọng nói. Cho nên sắc mặt và giọng nói của chúng
ta cũng đóng một vai trò quan trọng qua ngôn ngữ, trong các
cuộc giao thiệp, tiếp xúc hằng ngày. Một giọng nói êm
ả, lễ độ, ngọt ngào, từ tốn, dễ thu phục lòng người,
hơn là giọng nói ồm ồm, chanh chua khế chát, the thé khó
nghe. Lời nói từ hòa, thân mật, thành thật, ngay thẳng, rõ
ràng, sáng suốt, rất dễ cảm hóa lòng người, có thể hướng
dẫn người vào chánh đạo.
Sách có câu: "Nhất
ngôn ký xuất, tứ mã nan truy".
Nghĩa là một lời
nói
ra, bốn ngựa không thể đuổi theo kịp. Có những lời nói
nhẹ tựa lông hồng, có những lời nói nặng tựa núi non.
Có những người nói ra thì tất cả mọi người đều tin tưởng,
nghe theo. Có những người nói ra thì không một ai tin tưởng,
nghe theo cả.
Trong Kinh Hoa
Nghiêm, Ðức
Phật có dạy:
Không nên nói lời
vô
nghĩa. Phải giữ gìn lời nói. Lời nói phải chân thật, đúng
lúc, hợp Chánh Pháp, ích lợi cho mình cho người.
Sửa đổi được lời
nói, sửa đổi được giọng nói, sửa đổi được cách nói,
tức là chúng ta đã đổi được tâm tánh, giảm bớt khẩu
nghiệp, rất nhiều rồi vậy. Thực hành được "ái
ngữ" là chúng ta tăng trưởng tâm từ bi của chính mình.
Thực hành được "ái ngữ" là chúng ta dẹp được
tâm sân hận, tâm ganh ghét, tâm đố kỵ, tâm ganh tị, tâm
hiềm khích, tâm tật đố, tâm hơn thua. Thực hành được
"ái ngữ" là chúng ta tu tập theo hạnh nguyện đại
từ đại bi của Ðức Quán Thế Âm Bồ Tát, tầm thinh cứu
khổ chúng sanh. Chúng sanh đau khổ vì những lời nói của
nhau. Thực hành được "ái ngữ" là đem lại an
lạc và hạnh phúc cho mọi người chung quanh, đem nước cam
lồ trong bình thanh tịnh của Ðức Quán Thế Âm Bồ Tát, rưới
vào những tâm hồn đang nhiệt não, rót vào tai những người
đang đang phiền muộn những âm thanh dịu dàng, êm ái, có công
năng chuyển hóa tâm hồn những con người đang khỗ não, thành
tâm hồn an vui, tự tại. Nói cách khác, người không có lòng
từ bi bác ái, không thể nào có "ái ngữ" được.
Thực hành được "ái ngữ" như vậy tức là chúng
ta đang tiến trên đường giải thoát.
* *
III.- Sau ái
ngữ là
Lợi hành. Lợi hành là
hành
động có ích lợi cho người. Nếu con người có lời nói
dễ nghe ngọt ngào, có vẻ từ bi bác ái, nhưng hành động
không tốt, lợi- mình-hại-người, thì những lời nói trên
chỉ là thứ "miệng thì nói tiếng nam mô, bụng thì
chứa cả một bồ dao găm", hoặc là "năng thuyết
bất năng hành", tức là nói được mà chẳng làm được,
mà thôi, không hơn không kém.
Cổ nhơn có dạy: Những
gì mình không muốn người khác làm cho mình, thì mình đừng
làm cho người khác.
Nghĩa là mình muốn
người
khác hành động như thế nào có ích lợi cho mình, thì mình
phải nên hành động có ích lợi cho người như vậy.
Thế nào là hành
động
có ích lợi cho người? Ðó là hành động theo đúng lời Ðức
Phật dạy trong các kinh điển. Thí dụ như chúng ta khuyên
người làm lành lánh dữ, tụng kinh niệm Phật và chúng ta
cũng hành động đúng y như lời nói của chúng ta vậy. Khi
nào lời nói và hành động của con người nhất như, tương
ưng, không khác, thì người đó đã có công phu tu tập khá
rồi, trong kinh điển gọi là "ngôn hạnh tương ưng".
Sách có câu:
Ðừng nghe
những gì người
ta nói.
Hãy nhìn những gì người ta làm.
Chỉ khi nào lời nói
của chúng ta đi đôi với hành động có ích lợi cho người
về mọi phương diện thế gian và xuất thế gian như trên,
thì chúng ta mới nhiếp phục được lòng người mà thôi,
chứ nói lý thuyết suông, chẳng đem ích lợi thiết thực gì
cả.
Thiện hữu tri thức
là
người bạn hiền, có học hiểu giáo pháp, và biết khuyên
bạn mình hành động đúng như lời Ðức Phật dạy, chứ
không phải hành động theo những lời nói sai trái, xằng
bậy, phi pháp. Lợi hành trong công việc hằng ngày là hành
động trực tiếp đem lại ích lợi cho chúng sanh về vật
chất và tinh thần. Nhưng lợi hành trong việc tu hành là hành
động giúp người tiến tu, trên đường học hiểu giáo pháp,
để áp dụng trong cuộc sống hằng ngày, cho đến khi đạt
được giác ngộ và giải thoát. Nói cách khác, lợi hành có
nghĩa là chúng ta có thể hành động ích lợi cho chúng sanh,
ngay trong hiện tại, về vật chất cũng như tinh thần, và hành
động ích lợi cho chúng sanh, trong tương lai gần, trong
kiếp này, và tương lai xa, nhiều kiếp về sau, qua hành động
khuyến tu giải thoát.
* *
IV.- Cuối
cùng là Ðồng
sự. Ðồng sự có nghĩa là
cùng làm chung việc với người, để giúp đỡ người và
cảm hóa người theo lẽ phải, theo chánh đạo. Thí dụ như
muốn dạy người biết bơi, chúng ta phải xuống nước cùng
với họ, mới có thể chỉ dạy một cách dễ dàng, nhanh chóng
và hữu hiệu được. Chúng ta không thể đứng trên bờ quơ
tay, quơ chân, la hét, gào thét mà có kết quả như ý được
đâu. Cũng như những vị ch? huy xuất thân từ hàng binh sĩ,
những chủ nhân, cai thợ xuất thân từ giới công nhân, thường
thấu hiểu tâm tư, tình cảm, nguyện vọng, cảm nghĩ, tâm
lý, yêu cầu, đòi hỏi của cấp dưới, cho nên dễ dàng thành
công trong nghệ thuật lãnh đạo hơn, kết quả thường là
khả quan hơn, tốt đẹp hơn.
Chư Tổ ngày xưa vì
muốn độ hạng người bần cùng trong xã hội, các Ngài cũng
phải hòa mình sống chung cuộc sống cực khổ với họ,
mới có thể giáo hóa họ được. Cho nên, những vị tu sĩ
xuất gia từ lúc còn tấm bé, hay khi còn là đồng nam, đồng
nữ, thì rất đáng trân quí và có công phu tu tập dài lâu
hơn, nhiều năm tháng hơn, nhưng các vị xuất gia sau khi
trải qua nửa đời người với cuộc sống tại gia, thì có
thể hiểu được tâm lý của người Phật Tử tại gia hơn,
cho nên dễ cảm thông hơn, có thể dễ dàng hành đạo hơn,
dễ dàng hoằng pháp lợi sanh hơn. Nhưng điều này chỉ là
tương đối, còn tùy người, tùy hoàn cảnh, tùy sở học và
hiểu giáo pháp, tùy căn cơ, tùy khả năng giảng dạy và
tiếp thu giáo pháp, tóm lại là "tùy duyên" mà thôi,
"không có gì cố định cả". Trong kinh điển, Ðức
Phật dạy "quán các pháp vô ngã", chính là nghĩa đó
vậy.
* * *
Tóm lại, Tứ nhiếp
pháp
là một pháp môn rất cụ thể, rất thực tế, rất cần
thiết, rất dễ áp dụng, đúng với mọi hoàn cảnh, đúng
với mọi nơi, mọi thời, mọi lứa tuổi, mọi trình độ,
hoàn toàn vì mục đích hoằng pháp lợi sanh. Ðó là nền
tảng của các nghiệp lành, nghiệp thiện, giúp con người
sống trong chánh đạo, dẹp bỏ được tam độc: tham lam, sân
hận, si mê.
Những người muốn có
cuộc sống thực sự an lạc và hạnh phúc hiện đời phải
luôn luôn quán tứ nhiếp pháp một các tường tận, sâu
sắc và luôn luôn áp dụng tứ nhiếp pháp trong cuộc sống
hằng ngày, chắc chắn cuộc đời này sẽ giảm bớt nhiều
khổ đau và phiền não.
Pháp môn này, nói
chung, mọi người ai ai cũng có thể thực hành được, nhưng
muốn thực hành cho đến mức độ cao thâm rốt ráo, trong
kinh sách gọi là ba-la-mật, thì chúng ta phải phát tâm bồ
đề kiên cố, dũng mãnh, bất thoái chuyển, tức là phát tâm
lượng của các bậc Bồ Tát và Ðại Bồ Tát vậy.
-ooOoo-
Tâm thanh
tịnh
Cư-sĩ Chính-Trực
Niệm Phật hay tọa
thiền
Nên nhớ lời tổ dạy
Nhứt định không tranh cãi
Gắng giữ tâm thanh tịnh
-ooOoo-