Tu
tâm, dưỡng tánh
Trên
thế giới hiện nay, từ Âu sang Á, có rất nhiều tôn giáo,
tín ngưỡng khác nhau. Nói chung, đối với mỗi tôn giáo đều
có hai hạng người: tu sĩ và tín đồ. Trong phạm vi bài này,
để cho quảng đại quần chúng cùng theo dõi, chúng ta chỉ
nhắc đến Phật giáo. Trong phạm vi đó, chúng ta thử tìm
hiểu một vấn đề thường được đề cập đến trong
cuộc sống hằng ngày, đó là chữ "tu", nhất là
vấn đề tu hành dành cho cả hai giới tín đồ và tu sĩ,
hay nói cách khác là Phật Tử tại gia và xuất gia.
Về phương diện vật
chất, khi thấy có một công trình kiến trúc lâu năm đang
xuống cấp, hư hao, người ta đề nghị trùng tu hay tu bổ,
nghĩa là sửa chữa công trình đó cho tốt đẹp hơn, khang
trang hơn, vững chắc hơn. Về phương diện tinh thần hay tâm
linh, khi gặp một người hiền lành, biết ăn chay, tụng
kinh niệm Phật, tánh tình dễ dãi, hiền hòa nhã nhặn với
mọi người, người ta thường nói người đó "nhờ
biết tu" nên mọi người chung quanh cảm thấy dễ thở,
thoải mái. Niềm an lạc và hạnh phúc có ngay từ trong gia
đình người đó, ảnh hưởng đến ngoài xóm làng, bạn bè
và những người quen biết.
Còn đối với những
người không biết tu, bản thân họ không hưởng được an
lạc và hạnh phúc, không biết được thế nào là "pháp
vị" vi diệu tuyệt vời. Họ thường bị phiền não và
khổ đau của cuộc đời chi phối, bức bách, ngày ăn không
ngon, đêm ngủ chẳng yên, bởi những chuyện thị phi, hơn
thua, tranh chấp liên tục, không bao giờ giải quyết được
ổn thỏa. Thêm nữa, gia đình họ khó có được những ngày
thực sự êm đềm hạnh phúc, bởi ảnh hưởng những
nhiệt não tỏa ra từ con người không biết thế nào là tu
đúng theo Chánh Pháp, hoặc chỉ biết tu hình tướng và tin
theo những điều mê tín dị đoan.
Những người không
biết Chánh Pháp để tu, thường cảm thấy bất mãn, bực
dọc, thèm muốn, thích đấu tranh, thích hơn thua, thích
tiện nghi, nhàn hạ, chùa to tượng lớn, phô trương, cung kính,
ăn trên ngồi trước, nghĩa là họ thích đủ mọi thứ trên
trần đời. Họ luôn luôn nhìn thấy cuộc đời đầy
phiền não và khổ đau, mọi người trên trần đời là
bần tiện xấu xa, con người và cuộc đời đều đáng lánh
xa.
Họ không bao giờ
nghĩ
là họ chưa hoàn toàn, chưa hoàn hảo, họ cũng có một
phần lỗi trong các cuộc tranh chấp ở đời. Lúc nào họ cũng
thấy là "mình đúng người sai". Cho nên họ chạy
đi tìm thần linh, tìm thượng đế để cầu nguyện, khấn
vái, cầu khẩn,van xin, hết điều này đến điều nọ.
Nếu mọi chuyện đều được đáp ứng, toại nguyện, tốt
đẹp như ý họ mong cầu, họ cho là "trời thương".
Bằng như ngược lại, họ phiền trách, cho là "trời không
thương", hoặc "trời bất công"!
Những người không
hiểu biết Chánh Pháp thường nghĩ rằng, cho rằng đạo
Phật chỉ dành cho những người thất tình, bất đắc chí,
hay những người già cả không sống được với con cháu
trong gia đình nên cạo đầu vào chùa để "tu". Lâu
ngày cửa chùa biến thành chỗ trốn nợ đời, hay là viện
dưỡng lão, thiền môn biến thành sân khấu cải lương nam
bộ của những kẻ sầu đời, chán ngán thế thái nhơn tình!
Bởi vậy cho nên,
thiết tưởng chúng ta cũng cần tìm hiểu: "tu" nghĩa
là gì, để làm gì, có ích lợi gì? Những ai cần phải tu?
Tại sao phải tu? Làm sao tu theo Phật? Muốn tu theo Phật
phải làm gì?
* * *
Trong mọi giới Phật
Tử chúng ta hiện nay, phần đông không hiểu rõ ý nghĩa
của chữ "tu", không hiểu rõ tu để làm gì, cho nên
ứng dụng một cách đáng thương. Có người cho rằng tu là
phải cạo râu tóc, mặc áo nâu sòng, hay áo cà sa, vào ở
trong chùa, tức là phải có hình tướng nhà sư, phải là tu
sĩ mới gọi là "người tu". Hoặc rộng rãi hơn
một chút, có người cho rằng phải biết ăn chay, thường
xuyên đi chùa, tụng kinh, niệm Phật, làm công quả, làm
Phật sự, làm việc chùa, mới gọi là người tu. Không làm
như vậy thì không phải là người tu.
Hiểu như vậy không
hoàn
toàn sai, nhưng chúng ta chỉ mới chú ý đ?n phần
"sự", tức là phần hình thức, hình tướng bên ngoài
của một người tu mà thôi. Hay nói cách khác, những điều
đó chỉ là "điều kiện có" của một người tu, dù
là xuất gia tu sĩ hay tại gia cư sĩ, chứ chưa phải là
"điều kiện đủ" để thành một người tu thực
sự theo đạo Phật. Ðạo Phật không chú trọng nhiều đến
hình thức, hình tướng, nhưng không phải không cần có hình
thức, hình tướng bên ngoài. Tuy vẫn cần phải có hình
thức, hình tướng bên ngoài, một người tu đồng thời cũng
phải có chất lượng, có nội dung bên trong, gọi là phần
"lý", cả hai phải được vẹn toàn, phải "lý
sự viên dung" mới gọi là tu đúng Chánh Pháp.
Trước hết nói về
phần sự, tức là phần hình thức, hình tướng bên ngoài,
chúng ta thảy đều đồng ý là một người tu cần phải có
hình thức trang nghiêm thanh tịnh. Nghĩa là một người tu
cần phải ăn mặc tề chỉnh, đi đứng đàng hoàng, thái độ
chững chạc, cử chỉ khoan thai, nói năng lễ độ, hòa nhã
khiêm tốn. Không ai có thể chấp nhận một người ăn mặc
lôi thôi xốc xếch, đi đứng nghiêng ngửa, nói năng hồ đồ,
cử ch? thô tháo, là một người tu chơn chính, ngoại trừ
trường hợp các bậc thánh nhơn trong các chuyện cổ tích.
Cũng trong phần sự, nói chung người tu là người ăn hiền
ở lành, không làm việc gì bất thiện, khổ người hại
vật, luôn luôn giúp đỡ bất cứ ai, khi cần đ?n.
Tuy nhiên, phần
quan
trọng hơn cả chính là phần "lý", tức là phần
nội dung bên trong, phần tâm tánh chủ yếu, phần ý nghĩa
của những việc làm bên ngoài trên đây. Nghĩa là một người
tu cần phải giữ gìn giới luật, tụng kinh, niệm Phật,
thiền quán, tu tập thiền định, phát triển trí tuệ bát-nhã,
đi chùa, làm tất cả mọi công việc đem lại ích lợi cho
mình và cho người, một cách chí công vô tư, không phân
biệt, không thành kiến. Phần lý này được tóm gọn trong
bốn chữ, đó là TU TÂM DƯỠNG TÁNH vậy.
Nếu một người tu
chỉ biết lo phần sự, chỉ biết lo trau chuốt hình tướng
bên ngoài, chỉ biết lo làm những việc hình thức, không có
phần lý, không thực sự thông hiểu và không thực hành Chánh
Pháp, thì đó chỉ là cái thùng rỗng, chỉ có cái võ, không
có ruột. Một người chỉ biết tu hình thức như vậy, dù
có cạo tóc vào ở trong chùa, trong tâm vẫn còn đầy dẫy
phiền não, chỉ biết học những nghi lễ cúng kiến mà không
hiểu ý nghĩa cao siêu của các nghi lễ đó. Họ không chịu
nghiên cứu tìm hiểu Chánh Pháp, ngọn đuốc trí tuệ tắt
ngỏm, cho nên chư Tổ gọi những người như vậy là
"tu mù". Người thế gian thường gặp họ trong các
tang lễ, nên gọi họ là "thầy tụng đám ma". Một
người chỉ biết tu hình thức như vậy, không có ích lợi
gì cho chính bản thân họ, ngoài lợi dưỡng, không có ích
lợi gì cho những người chung quanh, và nhứt là không ích
lợi gì cho đạo pháp cả.
Khi đến chùa lễ
Phật, tụng kinh, cúng kiến hay thọ tam qui ngũ giới, Phật
Tử chúng ta thường nghĩ rằng: chắc là từ đây về sau,
chư Phật sẽ phù hộ độ trì cho được bình an, mọi mong
cầu được vạn sự như ý, và cuối cùng, sau khi lìa bỏ cõi
đời này, chúng ta sẽ được chư Phật rước về miền
cực lạc. Như vậy chúng ta chưa phải là Phật Tử chơn chánh.
Thọ tam qui tức là qui y Tam Bảo, gồm Phật Pháp Tăng, và
nguyện giữ năm giới là sát, đạo, dâm, vọng, tửu. Nói cách
khác, qui y Tam Bảo rồi, chúng ta không sát sanh, không trộm
cắp, không tà dâm, không nói dối, không uống rượu.
Thực ra, kể từ ngày
đó, việc chúng ta phải làm là cố gắng sửa đổi tâm tánh
của chúng ta, phải quyết chí chừa bỏ những thói hư,
tật xấu, phải chiến thắng những tâm niệm tham lam, sân
hận, si mê, phải từ bỏ những lời nói ác độc, gièm
xiểm, ganh tị, đố kỵ, phải từ bỏ những hành động
xấu xa, gian ác, bất thiện, sát nhơn hại vật, phải từ
bỏ những ý nghĩ lợi mình hại người, khen mình khinh người.
Kể từ ngày đó, chúng ta phải sống theo hạnh của chư
Phật, chư Bồ Tát, làm lành lánh dữ, làm theo những lời
dạy quí báu của chư Phật, chư Bồ Tát, chư vị Tổ sư,
giữ gìn tâm ý cho thanh tịnh. Ðó chính là tu tâm dưỡng tánh
vậy.
Chúng ta thường
nghĩ
tu là nương tựa, là cầu xin với chư Phật để thỏa mãn
mọi mong cầu và qui y Phật, theo Phật, thờ cúng Phật,
lạy Phật, sẽ được bình an suốt đời. Bởi vậy cho nên
chúng ta trở thành yếu hèn, ỷ lại, mất hết ý nghĩa cao
đẹp của chữ "tu". Do bản chất của con người là
tham lam, yếu đuối và sợ hãi, dù là Phật Tử thuần thành,
đi chùa lễ Phật, tụng kinh thường xuyên, chúng ta cũng không
tránh khỏi những tâm bệnh nói trên, cho nên không tránh
khỏi những phiền não và khổ đau của cuộc đời.
Do lòng tham lam
sâu đậm
từ vô thủy cho đến ngày nay, chúng ta qui y Phật với lòng
mong cầu thỏa mãn những ước mơ thầm kín, thường là quá
sức để thực hiện. Chúng ta thỉnh thoảng đến chùa, hay
thậm chí cạo tóc vào ở luôn trong chùa hằng chục năm dài,
nhưng không chú ý đến việc học đạo, không màng đến
những giáo pháp cao siêu trong các kinh điển, không học
hỏi các bậc thiện tri thức, để tự tu tâm dưỡng tánh
theo lời Phật dạy.
Chúng ta thường đến
chùa chỉ để cầu bình an, xin may mắn, khấn vái điều này,
van xin điều nọ, khi gặp khó khăn, lâm cảnh khổ nạn, bèn
tự kêu lên: "Phật ơi, cứu con!", người đời quen
gọi, đó là "tu hú"! Chúng ta sống lây lất cho qua
ngày tháng trong niềm mê tín như vậy, để chờ ngày được
Phật rước về miền cực lạc. Thật là vô minh, làm uổng
phí cả cuộc đời hiện tại vô cùng quí báu!
Chỉ mang đến chùa
có
một bó nhang, một nải chuối, một bình bông, đóng góp
một ít tiền ấn tống kinh sách, hoặc đăng báo lời
nguyện với hai ba câu niệm Phật và Bồ Tát, chúng ta cầu
nguyện, khấn vái, van xin, đủ thứ chuyện. Nào là thân
thể khỏe mạnh, gia đạo bình an, bệnh tiêu tật hết, con
cái giàu sang, buôn may bán đắt, nhứt bổn vạn lợi,
thắng chuyện kiện thưa, được tiền bạc triệu, tình duyên
tốt đẹp, thi đâu đậu đó, tai qua nạn khỏi, vạn sự
kiết tường, muôn sự như ý, tùy tâm mãn nguyện, quyến
thuộc siêu sanh, thân nhân trường thọ, nghĩa là chúng ta
mong cầu đủ mọi thứ trên trần đời. Với cái giá cầu
nguyện rẽ mạt như vậy, chúng ta van xin đủ những điều
mà chư Phật đã dứt bỏ, và khuyên chúng ta nên dứt bỏ,
để tu tập cho đến chỗ giác ngộ và giải thoát khỏi vòng
sanh tử luân hồi.
Vì không chịu học
đạo
cho nên chúng ta mới sai lầm như vậy. Làm như vậy, có
phải là chúng ta đã phỉ báng Phật, đã làm sai lời Phật
dạy? Chúng ta không hiểu luật nhân quả, nghĩa là ở hiền
gặp lành, gieo gió gặt bão, sinh sự sự sinh, gieo nhân nào
gặt quả nấy, cho nên chúng ta dễ dàng phạm tội tạo
nghiệp, dùng thủ đoạn thưa kiện, kiếm được nhiều
tiền, cúng Phật chút đỉnh, tự kỷ ám thị, để mong
cầu hết tội, chạy tội, xóa tội. Nếu thực tâm muốn
sạch tội, chúng ta phải biết pháp sám hối để diệt
trừ nghiệp chướng, phiền não và khổ đau, tức là phải
biết những lời dạy của chư Phật, phải học hỏi Chánh
Pháp.
Mọi phiền não khổ
đau
trên đời đều từ gốc vô minh mà ra. Muốn hết phiền não
khổ đau, muốn được giải thoát, muốn được an lạc và
hạnh phúc, chúng ta phải giác ngộ. Muốn được giác ngộ,
chúng ta phải học hỏi giáo pháp, tức là những lời Phật
dạy, để tự ứng dụng tu tập cho đúng Chánh Pháp, để
tự tu tâm dưỡng tánh. Ðược như vậy, chúng ta sẽ mở
mang trí tuệ bát-nhã với ngọn đuốc Chánh Pháp của chư
Phật, để cương quyết, can đảm, kiên trì, nổ lực, tinh
tấn tu hành, cho đến ngày giải thoát khỏi sanh tử luân
hồi. Muốn hiểu được lời Phật dạy, muốn được hưởng
pháp vị một cách thấm thía, nồng nàn, chúng ta phải tận
lực suy tư, nghiền ngẫm Chánh Pháp một cách tường tận,
tinh vi. Ðồng thời, chúng ta phải áp dụng Chánh Pháp vào
trong đời sống hằng ngày.
Trong Kinh Pháp Cú,
Ðức
Phật có dạy:
Hãy tự
thắp đuốc,
tự mình bước đi.
Thắp sáng trí tuệ,
ngọn đuốc chánh pháp.
Nghĩa là: Ðức Phật
dạy chúng ta hãy tự quán chiếu, tự soi sáng trí tuệ của
mình bằng cách học hỏi giáo pháp, để tự chuyển hóa ba
nghiệp thân khẩu ý của mình cho được thanh tịnh, hay nói
cách khác, để tự tu tâm dưỡng tánh.
Theo lịch sử, vào
thời đó, lúc Ðức Phật còn tại thế, Ngài không thể
cứu được các vị đại đệ tử của Ngài, khi nghiệp báo
của họ đến. Ngay bản thân của Ðức Phật cũng bị
những khổ nạn, cũng gặp những khó khăn do ngoại đạo gây
nên, thì thử hỏi, chúng ta không chịu tự tu tâm dưỡng tánh,
tự thắp đuốc lên mà đi, tự cứu chính mình, mà chỉ
một mực cầu nguyện, van xin, khấn vái đủ điều như trên,
liệu có được gì chăng?
Trong Kinh Pháp Cú,
Ðức
Phật có dạy:
Dù có lên non,
xuống biển vào hang,
nghiệp báo đã mang,
vẫn theo con người
như hình với bóng,
không ai có thể
tránh khỏi thoát khỏi.
Nghĩa là: nếu chúng
ta
không biết tự tu tâm dưỡng tánh, để chuyển hóa ba
nghiệp, thì dù cho có van xin, cầu khẩn đến đâu, hay thay
hình đổi dạng, làm vua hay thường dân, làm cư sĩ tại gia
hay tu sĩ xuất gia, làm tín đồ hay làm giáo chủ, dù như
thế nào đi nữa, chúng ta cũng không tránh khỏi khi nghiệp
báo đến. Ðó chính là luật nhân quả vậy. Có vị giáo
chủ đương thời khi ra tiếp xúc với công chúng, đứng ở
trên xe hơi, trong lồng kính chống đạn, vì sợ bị ám sát.
Thượng đế còn không cứu được khi con người đến lúc
phải trả nghiệp, huống gì là cái lồng kính! Cũng vậy,
tục ngữ có câu: "Chạy trời không khỏi nắng",
chính là nghĩa đó vậy.
Chắc mọi người ai
cũng
thừa nhận rằng: tất cả chúng ta đều sẵn có hai thứ tâm
địa, đó là tâm hiền lương và tâm bất lương. Tâm hiền
lương là cái nhân đem lại cái quả an lạc và hạnh phúc
cho mình và cho người, đời này và nhiều đời sau. Tâm
bất lương ác độc là nhân đem lại quả phiền não và
khổ đau cho mình và cho người, đời này và nhiều đời
sau. Tu là dẹp bỏ tâm bất lương ác độc, phát triển tâm
hiền lương. Tu là điều kiện tất yếu cho tất cả mọi
người muốn hết khổ được vui, không phân biệt bất cứ
ai, bất cứ giới nào. Người nào còn chất chứa tâm niệm
bất lương ác độc, thì cầu nguyện bình yên chỉ hoài công
mà thôi, cũng như người uống nhằm độc dược mà lại chưa
muốn chết!
Tư tưởng yếu hèn và
ích kỷ khiến chúng ta nghĩ đến việc trao gởi thân mạng
của chúng ta và của gia đình cho chư Phật, nhờ chư Phật
phò hộ, độ trì hết thảy mọi việc được bình an khi còn
sống, được về miền cực lạc khi từ giã cõi đời.
Những người này cung kính Ðức Phật như một vị thần
linh hộ mạng, tưởng như Ðức Phật có quyền năng bảo
hộ cho bản thân họ và gia đình họ suốt đời. Vì thế
khi bản thân hay gia đình họ xảy ra việc gì không may, họ
hết sức tha thiết chí thành, cầu nguyện van xin Ðức
Phật gia hộ cho được tai qua nạn khỏi. Nếu được như
ý, thì họ cho là Ðức Phật linh thiêng, tiếp tục đi
chùa lễ Phật, để cầu khẩn, van xin tiếp chuyện khác.
Họ không
hiểu rằng
do chính họ ăn ở hiền lành,
làm việc phước thiện, tạo phước đức trước đây, và
ngày nay nhờ phước báo đó đã cứu họ qua được cơn
hiểm nghèo, hoạn nạn, chứ không phải do van xin, cầu
khẩn mà được đáp ứng đâu.
Chính
phước báo đã làm
giảm thiểu nghiệp báo đó vậy.
Bằng như không được
toại nguyện, không được tai qua nạn khỏi, do thiếu phước
báo, họ dễ dàng sanh lòng phỉ báng Ðức Phật không từ
bi, không linh thiêng, và chạy theo ngoại đạo tà giáo, cúng
kiến bất cứ vị thần thánh nào, mà họ nghe đồn là linh
thiêng, là có quyền năng tối thượng, siêu việt, sẵn sàng
chịu chết thay họ, chuộc tội của họ làm, cho họ được
bình yên sung sướng. Với tâm quịt nợ, trốn trách trách
nhiệm, họ bị gạt gẫm, tiền mất tật mang, đánh mất chánh
tín, rơi vào hố sâu mê tín dị đoan, ngày càng xa rời Chánh
Pháp.
Có nhiều người cầu
nguyện van xin Ðức Phật không có kết quả, bèn đến các
lăng tẩm của những vị tướng quân bị triều đình ngày
trước bức hại, nghe đồn hiển thánh thành thần, hoặc đến
miểu ông miếu bà cốc cô nào đó, để cầu khẩn khấn vái,
ký gửi con cái bệnh hoạn khó nuôi, xin bùa hộ mạng bình
yên, xin phép làm ăn một vốn bốn lời. Thực là đáng thương
vô cùng! Tại sao như vậy?
Bởi vì những vị đó
lúc đương thời còn giữ không được cái mạng của họ,
thì làm sao mà cứu giúp ai ở đời sau được chứ! Còn
những ông đồng bà cốt, cô hai cô ba, có khả năng nào
giải tai giải nạn cho người khác, trong lúc tự lo thân
của họ còn chưa xong, ngày nào không có khách cúng tiền,
không biết lấy gì mà ăn?
Cuộc sống của chúng
ta đầy dẫy những lo âu, bất trắc. Cho nên chúng ta luôn
luôn sống trong sự sợ hãi. Khi gặp hoạn nạn chúng ta thường
tìm cách nương tựa vào một đấng thiêng liêng tưởng tượng
nào đó, để cầu nguyện, khấn vái, van xin, mong được an
tâm. Bởi vậy cho nên, chúng ta thường nghĩ rằng qui y
Phật, đi chùa lễ Phật, tụng kinh niệm Phật, hay hằng ngày
ở nhà tụng kinh, thắp hương, cúng Phật, là "tu" và
sẽ được chư Phật ban cho mọi sự như ý, mọi thứ an lành,
mọi sự sung sướng. Nếu không được toại nguyện, chúng
ta sẽ đánh mất niềm tin và lạc vào ngoại đạo một cách
dễ dàng.
Ở đây chúng ta cần
hiểu rõ ràng rằng: "Ngoài
tâm cầu đạo tức là ngoại đạo".
Tại sao vậy? Bởi vì
chư Tổ có dạy: "Phật tức Tâm, Tâm tức Phật",
ngoài tâm không có Phật, Phật ở chính ngay trong tâm của
chúng ta.
Phật không có ở
trong
chùa, không có ở trên non trên núi, không có ở dưới sông
dưới suối, không có ở trong rừng trong hang, không có ở
cội cây hòn đá. Phật không có ở trong các pho tượng hay
tranh vẽ. Những người tự xưng là Phật sống, là đại
diện Phật để dâng sớ cúng sao giải hạn, cầu an cầu siêu,
cầu đủ mọi thứ trên trần đời, hoặc thấy cội cây, hòn
đá có hình dáng lạ lùng nào đó, liền cho là Phật hiện,
đổ xô đến lạy lấy lạy để, đều không phải Chánh Pháp,
đều là mê tín dị đoan cả. Thậm chí có người tu đến
khi mãn phần, xác thân tứ đại đem thiêu, thấy có vài
chuyện lạ, liền cho là hiển linh, cho là xá lợi, rủ nhau
đến chụp hình, lễ lạy cho có phước, để cầu xin, van vái.
Thật là đáng thương cho những người gọi là Phật Tử như
vậy, dù là tại gia hay xuất gia.
Ngày xưa, Thái Tử
Tất Ðạt Ða rời bỏ hoàng cung, ra đi tìm đạo giải thoát.
Sau một thời gian tu tập thiền định, trí tuệ bát-nhã
bừng sáng, Ngài giác ngộ được Chân Lý và thành Phật.
Sau đó, Ðức Phật chỉ dạy rằng: "Nhứt
thiết chúng sanh giai hữu Phật Tánh".
Nghĩa là tất cả mọi
chúng sanh ai ai cũng có Phật Tánh, còn gọi là tánh giác
ngộ, đó là tánh sáng suốt hoàn toàn tuyệt đối. Dù là
kẻ ngu hay người trí cũng đều có Phật Tánh như nhau.
Chỉ tại sự mê ngộ chẳng đồng, cho nên mới có kẻ ngu
người trí. Người ngộ được Phật Tánh sẽ thấy cảnh
trần càng đẹp càng thuần. Phật Tánh hay tánh giác ngộ
chỉ hiện ra khi tâm phiền não không còn, cũng như khi mây
đen tan biến hết thì mặt trăng sáng hiện ra vậy. Nói
một cách khác, do công phu tu tâm dưỡng tánh, cho nên trong
khi vẫn sống ở đời, nhưng không còn bị cảnh trần chi
phối, không còn bị cảnh trần gây phiền não, thì vọng tâm
lăng xăng lộn xộn trước đây của chúng ta chuyển hóa thành
Phật Tánh, trở nên thanh tịnh trong sáng.
Tất cả mọi chúng
sanh ai ai cũng sẽ trở thành một vị Phật nếu biết tu tâm
dưỡng tánh theo đúng Chánh Pháp, không cần phải qua tận
xứ Ấn Ðộ tìm Phật, không cần phải vào rừng, trèo non
lội suối, không cần phải làm những chuyện thay đổi hình
tướng, không cần phải làm những chuyện dị hình dị tướng,
không cần phải làm những chuyện khác thường khác đời gì
cả. Tất cả mọi chúng sanh ai ai cũng có thể tu trong mọi
hoàn cảnh, ngay tại thế gian này, ngay trên cõi đời này.
Chỉ có điều là chúng ta có phát tâm muốn tu hay không mà
thôi.
Chúng ta đã biết là
tất cả ai ai cũng đều có những tâm niệm xấu ác cần
phải tu, cần phải sửa, cần phải chừa bỏ, như là tâm
tham lam, sân hận, si mê, kiêu ngạo, nghi ngờ, đố kỵ, tị
hiềm, ganh ghét, hơn thua, cố chấp, che giấu, bỏn xẻn, keo
kiệt, ích kỷ, dối gạt, lao xao, lộn xộn, lười biếng,
buông lung, phóng túng. Tại sao vậy? Tại sao chúng ta cần
phải dẹp bỏ những tâm niệm trên mới gọi là tu?
Bởi vì, trong Kinh
Thủ
Lăng Nghiêm, Ðức Phật có dạy: "Những tâm niệm đó
chỉ là vọng tâm". Nghĩa là những tâm niệm đó "tùy
duyên mà có", hết duyên thì lặng mất, chứ không
phải là tâm thực của chúng ta, không phải là "chơn tâm".
Chẳng hạn, không có ai đến quấy nhiểu, làm phiền, chúng
ta sẽ hiền lành như bụt vậy. Chỉ khi nào có người đến,
nói điều gì khó nghe, khó lọt vào tai, hay làm điều gì
bất như ý, đụng chạm quyền lợi, xúc phạm tự ái, chúng
ta sẽ nổi tam bành lục tặc ngay tức thì, do nghiệp chướng
tích lũy lâu đời nhiều kiếp, trong kinh sách gọi là
"tùy duyên" mà tâm tức giận đó nổi lên. Nhẹ thì
cãi vã, nặng thì ấu đả. Kết cuộc, một bên vào nhà thương
hay ra nghĩa địa, một bên thì vào nhà tù hay ra tòa án.
Bởi vì người đời thường cho là "nhịn thì
nhục", cho nên hể ai "cự thì đục". Thế là sóng
gió, thế là phiền não và khổ đau nối tiếp theo sau đó.
Nếu người nào hiểu
được là "nhịn chẳng có gì nhục, cự chẳng cần
phải đục" thì người đó sống cuộc đời an lạc và
hạnh phúc không nghi. Chỉ e sợ rằng chúng ta nhịn không
nổi mà thôi, chứ có gì gọi là nhục đâu. Chỉ vì tự ái
quá cao, coi mặt mũi quá trọng, nên chúng ta phản ứng mà
chẳng kịp suy nghĩ đến hậu quả xảy ra sau đó.
Thí dụ như có người
đến mắng chúng ta là đồ ngu như bò, chắc là chúng ta
sẽ nổi tức ngay. Như vậy là người đó nói đúng quá
rồi, còn gì nữa mà đôi co và cãi vã! Bởi vì nếu chúng
ta thực sự không ngu và thực sự không phải là con bò, thì
cần gì phải tức giận cho mệt. Lời nói của người đó
không có nghĩa lý gì cả, cho nên chúng ta không cần phải
chấp làm gì. Ðược như vậy, chắc chắn chúng ta sẽ
sống an lạc và hạnh phúc ngay hiện đời, không nghi. Hơn
nữa, lời chửi mắng chỉ là chuyện nhỏ, còn những
chuyện lớn hơn, chẳng hạn như bạn bè chơi thân với nhau
từ lâu, rồi sang đoạt tài sản, bản quyền sách vở,
rồi lại lôi đầu mình ra trước ba tòa quan lớn, thưa
kiện cho sạt nghiệp luôn, thì chúng ta mới phải đối phó
sao đây, cư xử sao đây, cho gọi là phải đạo?
Trong kinh sách có
câu: "Bồ
Tát sợ nhân, chúng sanh sợ quả".
Nghĩa là người có
trí
tuệ bát-nhã của bậc Bồ Tát, trước khi hành động, nói
năng, suy nghĩ, đều cân nhắc đắn đo hậu quả, còn phàm
phu tục tử, muốn làm thì làm, muốn nói thì nói, muốn nghĩ
thì nghĩ, chẳng cần biết đến hậu quả ra sao. Trong tam
tạng kinh điển, Ðức Phật có dạy: Tự ái tức là chấp
ngã, chấp ngã thì khổ đau. Muốn hết phiền não và khổ
đau thì phải đạt được "trạng thái vô ngã",
đó là mục đích cứu kính của đạo Phật. Muốn đạt
được trạng thái vô ngã, chúng ta cần phải tu học và hành
trì trong một thời gian không ngắn! Ðó chính là tu tâm dưỡng
tánh vậy.
Chấp ngã nghĩa là
gì?
Chấp ngã tức là "chấp cái ta" là thiệt, là ngon lành,
hể ai đụng tới là ăn thua đủ ngay tức thì. Chúng ta có
biết đâu rằng "cái ta" ngon lành đó, chỉ gồm có
cái xác thân hôi hám bằng xương thịt, trong kinh sách gọi
là thân tứ đại vì gồm có bốn chất là đất nước gió
và lửa, sẽ bị chúng ta bỏ lại trần thế ngay khi lìa đời.
Cát bụi sẽ trở về với cát bụi. Vậy cái gì là
"ta" thực sự đây? Có phải cái tâm suy nghĩ là
"ta" chăng? Cũng không phải! Tại sao vậy? Bởi vì cái
tâm suy nghĩ lăng xăng, lộn xộn đó "tùy duyên mà có",
hết duyên thì lặng mất, cho nên đó chỉ là "vọng tâm",
tức là cái tâm vọng động mà thôi, đâu phải thực là
"ta". Nếu đó là "ta", thì chẳng lẽ,
"ta" lúc có lúc không, lúc còn lúc mất?
Trong Kinh Thủ Lăng
Nghiêm,
Ðức Phật có dạy: "Sanh
diệt ký diệt. Tịch diệt hiện tiền".
Nghĩa là khi vọng
tâm
sanh diệt lặng mất rồi, tức là tâm trạng lúc có lúc không
lắng hết, thì cảnh giới tịch diệt, tức là chơn tâm
hiện tiền. Chơn tâm là một tên gọi khác của Phật Tánh.
Chúng ta có thể ví dụ mặt biển lúc yên lặng, bình
thản, im sóng lặng gió như là chơn tâm. Lúc có gió thổi
đến, gió nhẹ sóng nhỏ, gió lớn sóng to. Ví như vọng tâm
điên đảo, nổi sóng tham lam, giận tức, ngu si, khi đáp
ứng với những ngọn gió của đời sống, nhu bị dụ dỗ
danh lợi, bị chửi mắng nhục mạ, bị chọc tức trêu gan,
bị khen chê phê phán, bị suy sụp cơ nghiệp.
Nói một cách khác,
mặt biển tùy gió mà nổi sóng.
Tâm của chúng ta
cũng
vậy, tùy duyên mà sanh khởi những tạp niệm, sanh khởi
những vọng niệm xấu xa ích kỷ, lợi mình hại người.
Mặt biển tượng
trưng
cho tâm thể thanh tịnh của chúng ta, trong kinh sách gọi là
Chân Tâm hay Phật Tánh.
Tu tâm dưỡng tánh
nghĩa
là làm sao sửa đổi, chừa bỏ những những tâm niệm trên
đây, làm sao khi có gió thổi đến, mà mặt biển tâm thanh
tịnh của chúng ta không một chút xao động, không một chút
gợn sóng, tức là chúng ta đã đạt được mục đích cứu
kính của Ðạo Phật rồi. Ðó mới thực là một người chơn
chính tu theo đạo Phật, mới thực sự là một Phật Tử
thuần thành, dù là tại gia cư sĩ hay xuất gia tu sĩ. Ngược
lại, đó chỉ là hình tướng bên ngoài không hơn không kém
mà thôi.
Tục ngữ Pháp có
câu:
"L’habit ne fait pas le moine", tức là: "Chiếc áo
cà sa không tạo ra người tu sĩ", chính là nghĩa đó
vậy.
Tục ngữ Việt Nam ta
có
câu:
Thứ nhứt tu tập tại
gia.
Thứ nhì tu chợ, thứ ba tu chùa.
Nghĩa là tu tập tại
gia là việc dễ nhứt, bởi vì trong gia đình toàn là những
người thân thương, nên mọi việc đều được cảm thông
dễ dàng hơn, dễ tha thứ hơn, dễ bỏ qua những lỗi lầm
sai trái. Kế đến, khi ra chợ làm ăn buôn bán, mà muốn tu
thực là khó, bởi vì gặp những người ở ngoài chợ,
phần đông người lạ, ý kiến tánh tình, mỗi người mỗi
khác, biết đâu mà lường, làm dâu trăm họ, làm sao tu được?
Vào chùa tu lại càng khó hơn, bởi vì giới luật nhà chùa,
khắc khe nghiêm ngặt, thường bị kiểm soát, canh chừng
nhắc nhở, mất hết tự do.
Tuy nhiên, có người
giải thích khác hơn như sau: Tu tập tại gia là việc khó khăn
nhứt, bởi vì người trong gia đình quá quen thuộc, cho nên
lờn mặt, khó tu khó sửa, không người nhắc nhở, khuyến
khích tu tập, bụt nhà không thiêng. Hơn nữa tại gia, đủ
thứ cám dỗ, đủ thứ phiền não, khổ đau cuộc đời,
bận rộn suốt ngày, không có thời giờ, làm sao tu được?
Tu chợ thì ít khó hơn, bởi vì mỗi ngày chỉ đi chợ vài
tiếng đồng hồ là nhiều, có khi mỗi tuần chỉ đi chợ
một lần, chuyện gì tu được thì tu, chuyện gì tu không
được thì thôi! Tu ở chùa là dễ dàng nhứt, bởi vì không
phải lo chuyện sinh nhai, không ai dám xúc phạm, không bận
rộn chuyện thế gian, có thầy lành bạn tốt sách tấn đồng
tu.
Vậy quan niệm nào
mới thực là đúng? Câu trả lời tương đối là: "tùy
duyên", tức là tùy người, tùy hoàn cảnh, tùy địa phương,
tùy pháp môn, tùy thời đại, tùy giáo phái, tùy nhiều điều
kiện, không có gì nhứt định đúng hoàn toàn cả! Bất
cứ hoàn cảnh nào, dù dễ hay khó, người nào tu được, người
đó an lạc, chung quanh hạnh phúc! Thực là đơn giản!
* * *
Tóm lại, muốn "tu
tâm", nghĩa là chừa bỏ những tâm niệm xấu ác,
bất thiện trên đây, chúng ta cần phải "dưỡng tánh",
nghĩa là nuôi dưỡng, phát triển những đức tánh tốt đẹp
thay thế, như là tánh từ bi hỷ xả, tánh bình đẳng vô tư,
tánh công minh chính trực, tánh nhẩn nhịn nhu hòa, tánh
trong sạch hiền lương, tánh siêng năng tinh tấn, tánh kiên
trì bền chí. Những đức tánh tốt đẹp này thay thế
những tâm niệm bất thiện, lăng xăng lộn xộn, lâu ngày
giúp chúng ta giác ngộ, và chuyển hóa vọng tâm thành chơn
tâm, tức là chúng ta đã giải thoát khỏi sanh tử luân
hồi.
Tất cả mọi người
đều cần phải biết tu. Con người có tu mới được an
lạc, tự tại và giải thoát. Gia đình có tu mới được
hạnh phúc. Nhân loại có tu mới thanh bình. Chúng ta cũng
biết cuộc đời khổ đau, bất trắc, hay an vui, sung sướng,
là quả báo từ nhiều đời nhiều kiếp trước, do "chính
chúng ta đã làm", đúng theo luật nhân quả. Chúng ta đã
tạo "nhân" nào trước đây thì nay chúng ta nhận
"quả", kết quả hay hậu quả, tương ưng đó vậy.
Chúng ta nên nhớ chư Phật và chư vị tu hành đắc đạo cũng
không ra ngoài luật nhân quả. Các Ngài chỉ ra ngoài vòng
sanh tử luân hồi nhờ biết tu theo lời chư Phật dạy, đúng
Chánh Pháp, nên thoát khỏi mọi khổ đau, mọi ràng buộc
của cuộc đời.
Vậy, nếu muốn khỏi
khổ đau, muốn được an vui, chúng ta hãy phát tâm
"tu" ngay từ giờ phút này. Nếu muốn tu hành đúng
Chánh Pháp, chúng ta phải phát tâm cầu học Phật Pháp một
cách mãnh liệt. Chỉ có cách đó mới có thể giúp chúng ta
giác ngộ và giải thoát mà thôi. Chúng ta hãy tự kiểm điểm,
xem mình thuộc hạng nào sau đây: Nếu chúng ta thuộc hạng
đến với Phật để mong cầu bình an, van xin điều nọ điều
kia, thì hãy nên thức tỉnh, can đảm chuyển hướng tu hành
để trở thành người Phật Tử chơn chánh, tuy còn trong vòng
sanh tử luân hồi, nhưng cũng sống cuộc đời an lạc và
hạnh phúc. Nếu chúng ta thuộc hạng đến với Phật để
tu học, để tu tâm dưỡng tánh, thì nên cố gắng, nổ
lực hơn nữa, để mọi sự xấu xa, phiền não đều tan
biến, tiến thẳng trên đường giác ngộ và giải thoát,
thoát ly khỏi vòng sanh tử luân hồi.
Toàn thể chúng ta
đều
muốn là người chánh tín, không ai muốn là hạng người mê
tín dị đoan, phải biết ứng dụng Chánh Pháp để chuyển
hóa cuộc đời mình, bớt khổ thêm vui, thực sự đem ngọn
đuốc Chánh Pháp soi sáng đời mình, ra khỏi đêm tối vô
minh.
Sau hết, chúng ta
cần
nhớ lại lời chư Tổ đã dạy:
Tu mà không học,
đúng
là tu mù.
Học mà không tu, đúng là tủ sách.
Kính chúc quí vị,
nhờ học hiểu Phật Pháp, biết tu tâm dưỡng tánh nên
tạo được cảnh giới Niết-bàn, hưởng sự an lạc và
hạnh phúc ngay hiện đời, giải thoát khỏi vòng sanh tử luân
hồi, không phân biệt là tại gia cư sĩ hay xuất gia tu sĩ.
-ooOoo-