Giá
trị của con người
Từ
ngàn xưa cho đến ngày nay, từ phương đông sang đến
phương tây, từ Á châu sang đến Âu châu, Mỹ châu, Phi
châu và Úc châu, khi bàn về vấn đề giá trị của con người,
người ta có vô số cách nhận định, có vô số căn cứ, có
vô số cơ sở, có vô số thước đo, có vô số tiêu chuẩn,
có vô số khía cạnh và có vô số căn bản, để bàn bạc,
để thảo luận, để tranh cãi, để thẩm định giá trị của
con người.
Không ai đồng ý với
ai. Không thời điểm nào giống thời điểm nào. Không địa
phương nào hợp với địa phương nào. Không sắc tộc nào
đồng quan điểm với sắc tộc nào. Không tôn giáo nào đồng
ý với tôn giáo nào.
Trong phạm vi xã
hội,
phải chăng con người có nhiều tài sản, tiền bạc, của cải
thì có giá trị hơn? Phải chăng con người có nhiều quyền
thế, lắm chức tước, địa vị cao thì có giá trị hơn?
Phải chăng con người có kiến thức rộng, hiểu biết sâu
thì có giá trị hơn? Phải chăng con người có nghề nghiệp
chuyên môn, bằng cấp cao thì có giá trị hơn? Phải chăng
con người có nhiều danh vọng, nhiều tiếng tăm thì có giá
trị hơn? Phải chăng con người có sắc đẹp mỹ miều, duyên
dáng thì có giá trị hơn? Phải chăng con người có nhiều
tài năng, khéo léo thì có giá trị hơn?
Trong phạm vi tín
ngưỡng
hay tôn giáo, phải chăng người tu sĩ có giá trị hơn quảng
đại quần chúng tín đồ? Phải chăng vị tu sĩ nào tu nhiều
năm, hay có phẩm trật cao thì có giá trị hơn? Phải chăng
tín đồ nào đi cúng kiến, lễ bái, xem lễ, cầu nguyện
nhiều thì có giá trị hơn? Phải chăng người nào biết
làm việc phước thiện, biết làm công quả, biết làm đồng
công, biết giúp đỡ nhiều người, biết bố thí kẻ
nghèo, biết cúng dường các bậc tôn túc, biết phân biệt
phải trái, trắng đen thì có giá trị hơn?
Trong muôn ngàn câu
hỏi
đó, trong muôn ngàn ý kiến của muôn triệu người, tự cổ
chí kim, từ đông sang tây, từ Á sang Âu, vấn đề cần suy
tư hiện nay của chúng ta là gì? Ðó chính là hai câu hỏi:
- Ðâu là
giá trị
chân thật của con người?
- Tìm hiểu giá trị chân thật của con người được ích
lợi gì?
* * *
Trong khi bàn về
vấn
đề giá trị của con người, thông thường người ta có thể
xem xét về hai phương diện: vật chất và tinh thần.
Về phương diện vật
chất, người đời thường đánh giá cao những con người
ăn mặc lịch sự, sang trọng, đúng thời trang, những con người
sống trong những ngôi nhà cao, cửa rộng, những tòa biệt
thự đồ sộ, nguy nga, tráng lệ, những con người đi trên
những chiếc xe hơi lộng lẫy, đắt tiền, đầy đủ tiện
nghi, những con người rộng rãi, hào phóng, xài tiền như
nước.
Bên cạnh đó, người
đời cũng thường đánh giá cao những con người có sắc đẹp
quyến rủ, những con người dung mạo tuyệt trần, những
con người có thân hình lực lưỡng, cân đối, những con
người khỏe mạnh, tráng kiện, những con người có uy quyền,
có thế lực, có danh vọng, những con người có địa vị
trong xã hội, những con người có tài sản kếch sù, những
con người có nhiều cơ sở làm ăn, buôn bán, kinh doanh khắp
nơi, những con người hét ra lửa mửa ra khói, những con người
tiền hô hậu ủng, những con người có kẻ ăn người ở,
có kẻ hầu người hạ, phục dịch trong ngoài, những con người
có sức mạnh vô địch, những con người có võ công tuyệt
luân.
Những con người như
vậy
sở dĩ được đánh giá cao, bởi vì đó là mục tiêu nhắm
đến, là niềm mơ ước đạt được của hầu hết mọi
người nam nữ, già trẻ, lớn bé, trên thế gian này. Bằng
đủ mọi cách, mọi thứ, mọi phương pháp, mọi phương tiện,
mọi mưu mô, mọi kế sách, mọi thủ đoạn, mọi chiến thuật,
mọi chiến lược, mọi sách lược, con người trên thế
gian này đều chỉ mong đạt được, đoạt được những
điều mơ ước đó, dù có phải chà đạp lên sanh mạng hay
nhân phẩm của người khác hay nhiều người khác. Lắm khi
con người bất chấp sanh mạng và tiền đồ của cả một
dân tộc, hay của cả nhân loại trên quả địa cầu này,
chỉ vì những tiêu chuẩn giá trị trên đây. Thật thảm thương
thay!
Về phương diện tinh
thần, người đời thường đánh giá cao những con người có
nhiều bằng cấp chuyên môn, những con người có kiến thức
rộng rãi, thông thuộc lịch sử đông tây kim cổ, những
con người có sự hiểu biết bao quát mọi vấn đề trong cuộc
sống, những con người có nhiều năng khiếu đặc biệt, những
con người đạt được nhiều thành tích trong mọi lãnh vực,
những con người có hình tướng trang nghiêm, đạo mạo, đàng
hoàng, bề ngoài đứng đắn, từ tốn, chậm rãi, những con
người thực hiện được những chuyện cao cả, những chuyện
dị thường, những chuyện huyền bí, những chuyện kinh dị,
những chuyện kinh thiên động địa, những chuyện không ai
làm nổi, những chuyện không ai tưởng tượng nổi.
Tất cả những con
người
kể trên được đánh giá là những con người có giá trị
trong xã hội. Nói cách khác, giá trị của con người trong
thế gian hiện nay được xem xét không ngoài hai phương diện:
vật chất và tinh thần. Nếu không giàu sang thì cũng phải
tài giỏi. Nếu không quyền thế thì cũng dòng dõi quý
phái, danh gia, vọng tộc. Nếu không có chức thì cũng phải
có bằng. Nếu không tốt tướng, khỏe mạnh, đẹp đẽ, mặn
mà thì cũng phải nết na, duyên dáng, thùy mị, đạo đức.
Chính vì những tiêu chuẩn qui định giá trị của con người
như trên, cho nên cuộc đời trên thế gian này đầy dẫy những
bất công, gian trá, phiền não và khổ đau.
Nếu tiêu chuẩn qui
định
giá trị của con người là tiền tài, của cải, giàu sang
thì tức nhiên những con người thuộc giới bình dân sẽ bị
khinh khi, chà đạp. Như vậy, nhân phẩm không còn được tôn
trọng, nhân quyền không còn được bình đẳng. Những con
người không có nhiều tiền tài, của cải, giàu sang thường
mang mặc cảm tự ti, thấp kém, dễ tự ái, cho nên lúc nào
cũng sẵn sàng phản ứng, đối phó, đôi co, cãi cọ, bực
bội, khi "thấy" người khác khinh dể mình, khi
"nghe" người khác khinh dể mình, khi "nghi"
người khác khinh dể mình. Ðôi khi chưa thấy ai khinh dể mình,
chỉ nghe thoang thoáng, nghe đồn đại, nghe phong thanh người
khác khinh dể mình, hoặc nghi người khác khinh dể mình,
thì mình đã nỗi trận lôi đình, nỗi giận đùng đùng,
ầm ầm, tam bành lục tặc nỗi lên cuồn cuộn. Bởi vậy mới
biết trong lòng mỗi người chúng ta, ai ai cũng đều có một
ngọn hỏa diệm sơn cả.
Tâm trạng của những
người không có nhiều tiền tài, của cải, giàu sang thường
bất an, xáo trộn. Chỉ cần một lời nói, một cử chỉ
hay một ý nghĩ "vô ý" nào đó cũng có thể làm
bùng nổ những cuộc tranh luận, những cuộc tranh chấp, những
cuộc tranh biện, những cuộc tranh đấu, những cuộc cãi
vã giữa hai người, giữa hai nhóm người, giữa hai đoàn thể.
Và như vậy thường dẫn đến chuyện ấu đả nhau, tìm
cách chơi nhau cho đến chết, cho tán gia bại sản, cho sạt
nghiệp luôn, cho dẹp tiệm luôn, cho đóng cửa báo luôn, cho
tơi bời hoa lá nhà người, cho chúng khỏi ngóc đầu lên nổi.
Hoặc con người tìm cách kiện tụng nhau, lôi nhau ra trước
ba tòa quan nhớn quan nhỏ, tóc quăn mũi lõ, nhờ phân xử những
bạn bè cũ người đồng hương, nếu như lời nói, cử chỉ
hay ý nghĩ đó là "cố ý" miệt thị người khác
nghèo hơn mình, ít tiền tài hơn mình, miệt thị nhóm người
khác ít của cải, ít vốn liếng, ít tiền bạc hơn mình,
miệt thị đoàn thể khác ít uy tín hơn đoàn thể mình.
Trái lại, những con
người
nhiều tiền lắm bạc thường kiêu căng, ngạo mạn, phách
l?i, coi trời bằng nắp vung, dễ gây ác cảm, thù hận đối
với mọi người. Những con người thừa tiền lắm của
thường có thái độ mục hạ vô nhân, họ nhìn đời bằng
nửa con mắt, họ nhìn đời bằng cặp kiếng đen; dù rằng
tiền bạc và của cải, họ đang sở hữu, không có xu?t xứ
trong sạch, không có xuất xứ rõ ràng, minh bạch và thực
là không đáng hãnh diện, không đáng khoe khoang, không đáng
tự hào chút nào cả! Chính vì tiêu chuẩn qui định giá trị
của con người là tiền tài, của cải, giàu sang, gây nên hậu
quả an ninh của xã hội cũng bấp bênh, đạo đức suy đồi,
tranh chấp triền miên. Cuộc đời đầy dẫy những phiền não
và khổ đau, cho cả hai hạng người "có hay không
có" tiền tài, của cải, giàu sang.
Nếu tiêu chuẩn qui
định
giá trị của con người là quyền thế, địa vị, chức tước,
ph?m hàm, danh giá, kiến thức, bằng cấp, tài năng, thì tức
nhiên những con người thuộc giới bình dân sẽ bị khinh
khi, chà đạp. Như vậy, nhân phẩm không còn được tôn trọng,
nhân quyền không còn được bình đẳng. Những con người
không có quyền thế, địa vị, chức tước, phẩm hàm, danh
giá, kiến thức, bằng cấp, tài năng, thường mang mặc cảm
tự ti, thấp kém, dễ tự ái, cho nên lúc nào cũng sẵn sàng
phản ứng, đối phó, đôi co, cãi cọ, bực bội, khi
"thấy" người khác khinh dể mình, khi "nghe"
người khác khinh dể mình, khi "nghi" người khác
khinh dể mình.
Tâm trạng của những
người không có quyền thế, địa vị, chức tước, phẩm hàm,
danh giá, kiến thức, bằng cấp, tài năng, thường bất an,
xáo trộn. Chỉ cần một lời nói, một cử chỉ hay một ý
nghĩ "vô ý" nào đó cũng có thể làm bùng nổ những
cuộc tranh luận, những cuộc tranh chấp, những cuộc tranh
biện, những cuộc tranh đấu, những cuộc cãi vã giữa hai
người, hai nhóm người, hai phe phái. Và như vậy thường dẫn
đến chuyện ấu đả nhau, tìm cách chơi nhau cho đến chết,
cho tán gia bại sản, cho sạt nghiệp luôn, cho dẹp tiệm
luôn, cho đóng cửa báo luôn, cho tơi bời hoa lá nhà người,
cho chúng khỏi ngóc đầu lên nổi. Hoặc con người tìm
cách kiện tụng nhau, lôi nhau ra trước ba tòa quan nhớn quan
nhỏ, tóc quăn mũi lõ, nhờ phân xử những bạn bè cũ người
đồng hương, nếu như lời nói, cử chỉ hay ý nghĩ đó là
"cố ý" miệt thị người khác ngu hơn mình, miệt
thị người khác bằng cấp thấp hơn mình, miệt thị người
khác ít tài năng hơn mình, miệt thị nhóm người khác ít
danh giá hơn mình, miệt thị phe phái khác ít quyền thế hơn
mình.
Trái lại, những con
người
quyền thế, địa vị, chức tước, phẩm hàm, danh giá, kiến
thức, bằng cấp, tài năng, thường kiêu căng, ngạo mạn,
phách lối, dễ gây ác cảm, thù hận đối với mọi người.
Những con người quyền cao chức trọng, những con người
ăn trên ngồi trước, những con người bằng này cấp kia,
những con người có chức có tước, thường có thái độ mục
hạ vô nhân, họ nhìn đời bằng nửa con mắt, họ nhìn đời
bằng cặp kiếng đen; dù rằng quyền thế, địa vị, chức
tước, phẩm hàm, danh giá, kiến thức, bằng cấp, tài năng
của họ chỉ là dõm, là hư, là giả tạm, là hão huyền,
và thực là không đáng hãnh diện, không đáng khoe khoang,
không đáng tự hào chút nào cả!
Chính vì tiêu chuẩn
qui định giá trị của con người là quyền thế, địa vị,
chức tước, phẩm hàm, danh giá, kiến thức, bằng cấp,
tài năng, gây nên hậu quả an ninh của xã hội cũng bấp bênh,
đạo đức suy đồi, tranh chấp triền miên. Cuộc đời đầy
dẫy những phiền não và khổ đau, cho cả hai hạng người
"có hay không có" quyền thế, địa vị, chức tước,
phẩm hàm, danh giá, kiến thức, bằng cấp, tài năng.
Nếu tiêu chuẩn qui
định
giá trị của con người là bề ngoài sang trọng, đẹp đẽ,
quí phái, hình tướng trang nghiêm, đạo mạo, uy nghi, thì tức
nhiên những con người thuộc giới bình dân sẽ bị khinh
khi, chà đạp. Như vậy, nhân phẩm không còn được tôn trọng,
nhân quyền không còn được bình đẳng. Những con người
không có bề ngoài sang trọng, đẹp đẽ, quí phái, hình tướng
trang nghiêm, đạo mạo, uy nghi, thường mang mặc cảm tự
ti, thấp kém, dễ tự ái, cho nên lúc nào cũng sẵn sàng phản
ứng, đối phó, đôi co, cãi cọ, bực bội, khi "thấy"
người khác khinh dể mình, khi "nghe" người khác
khinh dể mình, khi "nghi" người khác khinh dể mình.
Tâm trạng của những
người không có bề ngoài sang trọng, đẹp đẽ, quí phái,
hình tướng trang nghiêm, đạo mạo, uy nghi, thường bất an,
xáo trộn. Chỉ cần một lời nói, một cử chỉ hay một ý
nghĩ "vô ý" nào đó cũng có thể làm bùng nổ những
cuộc tranh luận, cãi vã giữa hai người, hai nhóm người,
hai tông phái. Và như vậy thường dẫn đến chuyện ấu đả
nhau, tìm cách chơi nhau cho đến chết, cho tán gia bại sản,
cho sạt nghiệp luôn, cho dẹp tiệm luôn, cho đóng cửa báo
luôn, cho tơi bời hoa lá nhà người, cho chúng khỏi ngóc đầu
lên nổi. Hoặc con người tìm cách kiện tụng nhau, lôi nhau
ra trước ba tòa quan nhớn quan nhỏ, tóc quăn mũi lõ, nhờ
phân xử những bạn bè cũ người đồng hương, nếu như lời
nói, cử chỉ hay ý nghĩ đó là "cố ý" miệt thị
người khác xấu xí hơn mình, không sang trọng bằng mình,
không oai phong bằng mình, không nỗi tiếng bằng mình, miệt
thị nhóm người khác không quí phái bằng nhóm mình, miệt
thị tông phái khác không được chính tông, chính phái,
chân truyền như mình, không trang nghiêm, đạo mạo, uy nghi,
đĩnh đạc như mình.
Trái lại, những con
người
có bề ngoài sang trọng, đẹp đẽ, quí phái, hình tướng
trang nghiêm, đạo mạo, uy nghi, thường kiêu căng, ngạo mạn,
phách lối, dễ gây ác cảm, thù hận đối với mọi người.
Những con người bộ vó trang nghiêm, những con người ra vẻ
quí phái, những con người có tướng oai phong, những con
người có tiếng có tăm, thường có thái độ mục hạ vô
nhân, họ nhìn đời bằng nửa con mắt, họ nhìn đời bằng
cặp kiếng đen, dù rằng bề ngoài sang trọng, đẹp đẽ,
quí phái, hình tướng trang nghiêm, đạo mạo, uy nghi của họ
chỉ là cái võ không ruột và thực là không đáng hãnh diện,
không đáng khoe khoang, không đáng tự hào chút nào cả!
Chính vì tiêu chuẩn
qui định giá trị của con người là bề ngoài sang trọng,
đẹp đẽ, quí phái, hình tướng trang nghiêm, đạo mạo, uy
nghi, gây nên hậu quả an ninh của xã hội cũng bấp bênh,
đạo đức suy đồi, tranh chấp triền miên. Cuộc đời đầy
dẫy những phiền não và khổ đau, cho cả hai hạng người
"có hay không có" bề ngoài sang trọng, đẹp đẽ,
quí phái, hình tướng trang nghiêm, đạo mạo, uy nghi.
Như vậy, chúng ta
phải
công nhận rằng các yếu tố, các căn cứ, các tiêu chuẩn
qui định giá trị của con người trên đây thường dẫn đến
những vụ xáo trộn, những vụ tranh cãi, những vụ tranh chấp,
những vụ tranh đấu, những vụ tranh biện, những vụ tranh
luận, những vụ tranh đua, những vụ kiện tụng, những vụ
con kiến đi kiện củ khoai, những vụ vạch áo cho người
xem lưng, những vụ vạch lá tìm sâu, những vụ đào xới
tam đại tổ tiên người khác để sỉ vả, nhục mạ, mắng
nhiếc, chửi bới, bêu riếu, những trận bút chiến, những
sự chia rẽ, những hiện tượng phân hóa, những bất công
trong xã hội. Ðồng thời, các tiêu chuẩn qui định giá trị
của con người trên đây cũng dẫn đến những phiền não
và khổ đau trong tâm tư của tuyệt đại đa số con người
trên thế gian này trong mọi hoàn cảnh.
Thí dụ như chỉ cần
nghe người nào đó chê mình nghèo, chê mình bất tài, chê
mình ngu, chê mình dốt, dù là chê trước mặt hay chê sau lưng,
thì chúng ta cũng khó mà nhịn được. Ðôi khi, chưa nghe trực
tiếp người nào nói, chỉ cần nghe đồn, nghe nói, hay tưởng
tượng người nào đó nói xấu mình điều gì đó, mình chẳng
bao giờ bận tâm dành một phút để suy xét xem mình có thực
xấu như người ta nói đó hay không, nhiều khi chưa kịp suy
nghĩ phải trái gì hết, thì ngọn hỏa diệm sơn trong lòng
chúng ta đã bùng lên dữ dội, khó mà ngăn nổi. Cho dù có
nhịn được bề ngoài, làm tỉnh ngoài mặt, chúng ta cũng
khó lòng dẹp được những niệm sân, khởi lên trong tâm
trí. Cho dù có dẹp được những niệm sân đó trong tâm
trí hôm nay, nhưng sau này, mỗi khi chúng ta nhớ lại cảm
giác bị khinh chê đó, tâm trí cũng khởi những niệm sân,
như thể câu chuyện mới vừa xảy ra vậy.
Thí dụ như chỉ cần
đọc báo, xem phim thấy tác giả hay đạo diễn nào đó viết
lách, kể chuyện, dựng phim, ngụ ý châm biếm, khôi hài, chế
giểu, đùa cợt, chê bai, khích bác, công kích những thói hư
tật xấu của một nhân vật nào đó trong truyện hay trong
phim, giống y chang như mình, hay na ná giống như mình,
thì chúng ta khó mà nhịn được, khó mà dằn được cơn tức
giận trào lên như sóng cồn ngoài biển cả, khó mà nín
được, không thể không phản ứng, không thể không viết
bài đáp lại, nhẹ thì đính chánh, thanh minh thanh nga, nặng
thì mạt sát, hèn nhát thì sáng tác thư rơi, ném đá dấu
tay, tuyên truyền rỉ tai, bươi móc đời tư, tam đại nhà
người ta cho hả hê cái lòng dạ hỏa diệm sơn lâu đời
của mình, cho đả cơn tức giận vô cùng vô tận trong
lòng mình, còn chưa chịu thôi, nữa là phải nhịn hay sao?
Nếu không làm vậy,
chúng cho là mình ngu, không biết gì cả. Chúng nó ngu chứ
mình đâu có ngu dại gì! Nhất định phải làm tới, phải
làm cho ra nhẽ mới thôi. Dại gì mà nhịn chứ! Tại sao lại
phải nhịn? Nhịn thì nhục! Cự thì đục! Có khi người ta
thực sự không có ý ám chỉ mình, nhưng mình cứ la toáng
hoáng lên và nhận bừa rằng họ ám chỉ mình, để rồi tự
mình chuốc lấy phiền não và khổ đau, ngày ăn không ngon,
đêm ngủ chẳng được!
Lúc nào mình cũng
nghi,
lúc nào mình cũng nghĩ, lúc nào mình cũng tưởng tượng và
cho rằng người ta luôn luôn chực chờ để "chơi"
mình, người ta luôn luôn muốn đè mình xuống để nâng họ
lên, người ta luôn luôn muốn tìm dịp để hại mình, người
ta luôn luôn rình rập, người ta luôn luôn soi mói, người
ta luôn luôn muốn vạch lá tìm sâu, người ta luôn luôn muốn
bới lông tìm vết, người ta luôn luôn muốn vạch áo mình
cho bàng dân thiên hạ, bá tánh trăm họ xem lưng mình cho biết
chơi!
Trong Kinh Pháp Cú,
Ðức
Phật có dạy rằng:
Không nên tìm lỗi
của
kẻ khác,
không nên xét những việc kẻ khác có làm hay không làm.
Hãy tìm lỗi của
chính mình,
hãy xét những điều đã làm hay không làm, trong hành động
của chính mình.
Thực ra, dù người
ta
nói mình ngu, mình không ngu thì thôi, hơi đâu phí sức tức
giận cho mệt. Người ta nói mình ngu, mình tức giận lên,
thì đúng là mình ngu quá rồi, còn gì nói nữa! Người ta nói
mình làm bậy, mình không có làm bậy thì thôi, hơi đâu
phí sức tức giận cho mệt. Người ta nói mình dính lọ
trên mặt, mình không có dính lọ trên mặt thì thôi, hơi đâu
phí sức tức giận cho mệt. Người ta nói mình bị mất uy
tín, mình đâu có uy tín để mất thì thôi, hơi đâu phí sức
tức giận cho mệt. Người ta nói mình nghèo đến mức không
có khố để che thân, mình không có nghèo đến mức đó
thì thôi, hơi đâu phí sức tức giận cho mệt. Người ta nói
mình ngu đến mức không có chữ nghĩa để đem bán độ nhựt,
mình không có ngu, không có dốt đến mức đó thì thôi, hơi
đâu phí sức tức giận cho mệt.
Trong Pháp Tứ Y,
Ðức
Phật có dạy: "Y nghĩa bất y ngữ ".
Nghĩa là muốn có
được
cuộc sống an lạc và hạnh phúc, chúng ta đừng cố chấp,
đừng quan tâm đến những "lời nói vô nghĩa" như
trên. Chúng ta chỉ có hai bàn tay, làm sao có thể bụm miệng
thế gian cho xuể? Thôi thì kệ họ đi. Ðược như vậy thì
khỏe quá chừng chừng! Khỏe re! Còn cố chấp thì nặng như
bò kéo xe! Trong thời Ðức Phật còn tại thế, khi Ngài đi
khất thực, có người đi theo sau quấy rầy, dùng đủ mọi
lời thô tháo, mắng nhiếc, nhục mạ. Ngài vẫn thản nhiên
bước đi trong chánh định, như không có chuyện gì xảy ra
cả. Người đó thấy Ðức Phật tiếp tục lặng thinh, nên
tức giận quá, chặn đường và hỏi: Này ông Cồ Ðàm, có
nghe ta nói gì không, có chịu thua chưa?
Lúc đó, Ðức Phật từ
tốn nói bài kệ như sau:
Người hơn thì thêm
oán.
Kẻ thua ngủ chẳng yên.
Hơn thua đều xả hết.
Giấc ngủ được an lành.
Như vậy, nếu chúng
ta
không quan tâm đến chuyện hơn thua, không chấp những lời
nói vô nghĩa, những câu văn, ngôn ngữ, bài viết xuất
phát từ lòng hận thù, ganh tị, đố kỵ, ghen ghét, ai muốn
nói gì cũng chẳng sao, ai muốn nghĩ gì cũng được, thì chắc
chắn chúng ta sẽ không phiền não và khổ đau, ngày ăn cơm
ngon lành, tối đến ngủ thẳng giấc. Chẳng hạn như khi chúng
ta đi ăn tiệc, mãn tiệc ra về, chủ nhà gói quà biếu tặng,
nhưng chúng ta không nhận, thì chủ nhà đương nhiên phải
giữ món quà đó lại.
Cũng vậy, người đời
thường "tặng" chúng ta những lời khen, tiếng chê
đầu môi chót lưỡi, chúng ta "không nhận", thì chẳng
ảnh hưởng gì, sẽ được an giấc ngủ. Nếu nhận lời
khen, dù biết là không đúng, thì cũng khoái chí quá ngủ chẳng
được. Nhận tiếng chê, tiếng chì, tiếng bấc, dù biết
là đúng, thì cũng bực dọc quá, bực bội quá, bực mình
quá, bực tức quá, tức nhiên ngủ cũng chẳng được. Như
vậy, nếu chẳng những nhận vào tâm thức những lời khen,
tiếng chê, còn quyết tâm sống để dạ chết mang theo, thì
chúng ta ngu hay không ngu? Kệ họ nói gì, nghĩ gì thì có phải
là khỏe biết mấy! Người ta nói lời khen, tiếng chê xong
rồi, họ về nhà quên mất, ngủ thẳng cẳng. Còn chúng ta
cứ nhớ mãi, nhớ mãi, còn đem san sẻ chia sớt cái tâm thần
bất an vì những lời khen, tiếng chê đó cho những người
thân trong gia đình, vợ chồng con cái, để mỗi người mất
ngủ vài đêm giống như mình vậy, thử hỏi chúng ta ngu hay
khôn?
Trong Kinh Pháp Bảo
Ðàn, Lục Tổ Huệ Năng cũng dạy:
Tắng ái bất quan
tâm.
Trường thân lưỡng cước ngọa.
Nghĩa là nếu những
chuyện thương thương ghét ghét chẳng bận lòng, chẳng đem
vào tâm thức, thì chúng ta sẽ nằm thẳng hai chân ra mà an
giấc ngủ, giấc ngủ được an lành, khỏi phải trằn trọc
suốt canh trường, nằm đếm số từ một đến vài trăm ngàn!
Thiệt là khỏe re! Khỏe ru bà rù! Trong tam tạng kinh điển,
Ðức Phật có dạy về "pháp Nhẫn ba-la-mật".
Nếu thực sự chúng ta biết được, hiểu được và thực
hành được như vậy, thì chắc chắn chúng ta sẽ thoát khỏi
phiền não và khổ đau, chúng ta sẽ sống cuộc đời an lạc
và hạnh phúc ngay trên thế gian đầy tranh chấp này.
Thế
nào là "pháp
Nhẫn ba-la-mật"?
Ðó là phương pháp
nhẫn
nhịn, kham nhẫn, chịu đựng mọi chuyện trên đời, mọi
cơn sóng gió của thế gian. Ðó là phương pháp "nhẫn
nhịn mà không thấy nhục nhã" như người đời thường
nghĩ. Bởi vì, nếu nhẫn nhịn mà còn thấy là nhục nhã,
thì chúng ta chỉ có thể nén giận để nhịn, chắc là
không lâu, không quá ba lần. Chúng ta nên nhận định một cách
sáng suốt rằng những lời thị phi "không có nghĩa"
gì cả, cho nên chúng ta "không cần chấp" làm gì.
Chúng ta không chấp vào những lời nói, phê bình, chỉ
trích, mạ lị, miệt thị, vu khống, vu cáo, thay trắng đổi
đen, lộng giả thành chơn, thì chắc chắn chúng ta sẽ an
ổn, bình yên, không ai xâm phạm được.
Thí dụ như khi
người
ta đưa lửa tới đốt, chúng ta đưa bổi ra đón, lửa có
điều kiện cháy lớn hơn. Nếu chúng ta không đón ngọn lửa
do người ta đem tới, thì ngọn lửa đó chỉ đốt hư không
mà thôi, hư không không có gì để đốt cháy được, lúc
nào đó lửa cũng sẽ tắt queo, không gây thiệt hại gì! Cũng
vậy, khi bị người khác công kích, chỉ trích, mạ lị, miệt
thị, chúng ta không chấp vào đó, coi chuyện đó là những
chuyện "đương nhiên phải có" ở thế gian đầy
tranh chấp, ganh tị, đố kỵ, chúng ta sẽ an ổn, bình yên,
không ai xâm phạm được.
Trong Kinh Diệu
Pháp
Liên Hoa, gọi tắt là Kinh Pháp Hoa, Ðức Phật dạy: đó là
"thập như thị", tức là mười thứ như thị, gồm
có: như thị tánh, như thị tướng, như thị thể, như thị
lực, như thị tác, như thị nhơn, như thị duyên, như thị
quả, như thị báo, như thị bản mạt cứu cánh.
Nghĩa là: do tâm
tánh của
con người như vậy cho nên hình tướng của con người là
như vậy; do bản thể của con người như vậy cho nên nghiệp
lực của con người là như vậy; do tạo tác của con người
như vậy gây ra nghiệp nhơn như vậy cộng thêm nghiệp
duyên như vậy cho nên nghiệp quả của con người là như vậy;
vì nghiệp báo của con người như vậy cho nên từ xưa đến
giờ cứu cánh của con người cũng là như vậy. Hiểu được
mười điều đương nhiên như thị, như thế, như vậy, tức
là chúng ta đã thấy tột chơn tướng của mọi pháp trên
thế gian này. Ðược như vậy, được như thế, được nhu
thị, chúng ta sẽ sống đời an lạc và hạnh phúc, bởi
vì chúng ta đã giác ngộ và giải thoát. Nhưng làm thế nào
thực hành được pháp nhẫn ba-la-mật?
Câu trả lời đó là: "Người
muốn thực hành được pháp Nhẫn ba-la-mật, phải đạt
được trạng thái vô ngã".
Trước hết, người
đạt
được "trạng thái vô ngã" là người không còn chấp
"cái ta" tầm thường, như mọi người trên thế
gian này thường chấp. Người đời thường chấp, thường
cho rằng, tấm thân tứ đại mấy chục ký lô chính là
"mình", chính là "ta". Khi được hỏi mình
là ai, người đời thường chỉ ngay ngực, hay chỉ vào tấm
thân tứ đại nặng nề và trả lời: Ta đây nè! Cho nên, hể
ai đụng đến "ta", thì phải phản ứng ngay, phải
đối phó ngay, nhịn không nổi, nín không được.
Trái lại, người đạt
được "trạng thái vô ngã" là người hiểu rõ
ràng: tấm thân, do đất nước gió lửa hợp thành này,
không phải là "ta" thực sự. Ðó chỉ là cái trạm
dừng tạm thời của kiếp này, trong vô số kiếp, của
"ta" mà thôi. Ðến khi mãn kiếp này đời này,
"ta" sẽ bỏ lại cái tấm thân đó mà ra đi, tìm
cái thân xác khác, trong sáu nẻo luân hồi. Nếu không khéo,
do lòng tham lam lâu đời dẫn dắt, "ta" lại chọn
nhằm cái thân con heo, hoặc do lòng sân hận lâu đời dẫn
dắt, "ta" lại chọn nhằm cái thân con rắn
mãng xà, hay do lòng si mê lâu đời dẫn dắt, "ta" lại
chọn nhằm cái thân con bò, thì khốn khổ biết là bao
nhiêu. Sở dĩ gọi đó là "tấm thân tứ đại", do
"đất nước gió lửa" hợp thành, bởi vì nếu
không có những chất từ đất ra như thức ăn, những chất
từ nước như thức uống, những chất từ gió như dưỡng
khí, những chất từ lửa như hơi ấm, bồi bổ liên tục mỗi
giây, mỗi phút, mỗi giờ, mỗi ngày, thì chúng ta đã vong mạng
từ lâu rồi vậy. Ðó chỉ là "tấm thân tứ đại",
không phải thực là "ta" vậy.
Thứ đến, người đạt
được "trạng thái vô ngã" là người hiểu rõ
ràng: tâm trạng của mình luôn luôn thay đổi trong từng sát
na, trong từng giây phút. Những tâm niệm, những suy tư,
nghĩ tưởng trong giây phút trước đây, bây giờ đã khác
đi hay không còn nữa. Tâm tánh của mình có khi hiền thiện
như thánh nhơn, cũng lắm khi độc hại còn hơn ác quỉ.
Mình chỉ thấy mọi người khác gian ác, mọi người khác
nguy hiểm, mọi người khác sai lầm, đáng bị trừng phạt,
đáng bị bỏ tù, đáng bị xử tử, để cho xã hội này,
cho thế gian này, trong đó có mình, được sống bình
yên, được hưởng sung sướng!
Con người thường
thấy
là mình đúng, khi đòi hỏi phải trừng phạt thật nặng,
đòi hỏi phải bỏ tù rục xương, đày đọa địa ngục, xô
xuống hỏa ngục, những người khác phạm tội ác. Con người
thường suy nghĩ, sáng chế, yêu cầu thi hành những hình phạt
ghê rợn nhất để trừng phạt, trừng trị đích đáng những
phạm nhân đã sát hại thân nhân mình và nghĩ rằng người
quá cố sẽ vui lòng nơi suối vàng. Thực ra, đó là tâm trạng
của chính mình muốn như vậy mà thôi. Người đã chết có
nói gì đâu, có yêu cầu gì đâu, có đòi hỏi gì đâu? Bởi
vậy có câu: "Suy bụng ta ra bụng người... chết!
".
Mấy ai nghĩ được
rằng:
nếu làm như vậy, cả hai gia đình phạm nhân và nạn nhân
cũng đều thiệt hại một nhân mạng, đều cùng đau khổ
như nhau. Thỉnh thoảng báo chí cũng có đăng các tin rất cảm
động, gia đình nạn nhân xin giảm tội, xin xử nhẹ tội,
hay xin tha tội cho phạm nhân.
Trong Kinh Pháp Cú,
Ðức
Phật có dạy:
Lấy oán báo oán,
oán
nghiệp chập chùng.
Lấy ân báo oán, oán nghiệp tiêu tan.
Con người thường
nhân
danh công lý, nhân danh tôn giáo, nhân danh lẽ phải, nhân
danh thượng đế, nhân danh đủ các thứ có thể nhân danh
được, để kết án, kết tội, trừng trị tất cả mọi
người khác. Còn nếu mình phạm tội thì đáng được tha
thứ, phải được tha thứ, người khác thì không đáng được!
Cái chỗ bất công này là nguyên nhân chính, đưa tới xáo
trộn, biến loạn trong xã hội là như vậy.
Cuối cùng, người
đạt
được "trạng thái vô ngã" chính là người không
còn chấp "cái ta" tầm thường như mọi người
trên thế gian này thường chấp. Người đạt được"trạng
thái vô ngã" là người hiểu rõ ràng rằng:
"ta" không phải là cái thân tứ đại nặng nề, và
cũng không phải là cái tâm suy nghĩ lăng xăng lộn xộn thường
ngày, bởi vì những thứ đó bị vô thường chi phối, nay còn
mai mất, chợt hiện chợt biến, không tồn tại vĩnh viễn.
Như vậy, "cái
gì" tồn tại vĩnh viễn, không bị vô thường chi phối,
"cái gì" bất cấu, bất tịnh, bất tăng, bất giảm,
theo như Ðức Phật chỉ dạy trong Bát-nhã Tâm Kinh? Ðó
chính là "cái ta chơn thật", đó chính là "con
người chơn thật" của tất cả chúng ta. Mục đích cứu
kính rốt ráo tột cùng của Ðạo Phật chính là nhằm khai
mở, chỉ bày "con người chơn thật" đó cho mọi người
biết được, hiểu được, ngộ được, nhập được, sống
được. Người nào được như vậy tức là được giác ngộ
và giải thoát, được an lạc và hạnh phúc hiện đời.
Trong kinh sách,
Ðức Phật
có dạy: "Thiên thượng
thiên hạ duy ngã độc tôn".
Nghĩa là trên trời
dưới
đất chỉ có "cái ta chơn thật" là điều độc nhứt
đáng tôn trọng, đáng trân quí mà thôi. Cũng trong Bát-nhã
Tâm Kinh, Ðức Phật có dạy:
Tâm vô quái ngại,
vô
quái ngại cố, vô hữu khủng bố, viễn ly điên đảo mộng
tưởng, cứu cánh Niết-bàn.
Nghĩa là: Nếu chúng
ta
ngộ được, nhập được, sống được bằng "con người
chơn thật" không tướng mạo, nên không dơ, không sạch,
không tăng, không giảm, không kẹt nhị biên, thể nhập bất
nhị pháp môn, thì tâm chúng ta không bị bất cứ cái gì
có thể khủng bố, nên không còn sợ hãi, do không còn sợ
hãi nên không có gì có thể khiến cho mình kinh khiếp hoảng
sợ, chúng ta xa lìa được tất cả các chuyện điên đảo
đảo điên, các chuyện mộng mơ mơ tưởng, các chuyện
không thực ở thế gian, cuối cùng đạt được cảnh giới
Niết-bàn vô sanh, không còn phiền não khổ đau, không còn
sinh tử luân hồi. Ðó mới chính thực là mục đích cứu
kính của người theo đạo Phật bằng trí tuệ bát-nhã.
Trong Kinh Pháp Cú,
Ðức
Phật dạy rằng:
Người nào ôm ấp tâm
niệm nó mắng tôi, nó chửi tôi,
thì không phải là người trí, chỉ chuốc khổ vào thân
thôi.
Người nào không ôm
ấp những tâm niệm như vậy,
thì người đó dẹp được lòng sân hận.
Nghĩa là chúng ta
đã
thấy rõ như trên, bất cứ ai dù bị mắng chửi, bị mạ lỵ
hay không bị mắng chửi, không bị mạ lỵ, mà cứ ôm ấp
tâm niệm đó trong lòng, thì chỉ chuốc lấy phiền não và
khổ đau cho chính mình, có khi còn đem lại bất an cho gia đình,
cho những người chung quanh nữa mà thôi.
Trong suốt những
năm dài
thuyết pháp độ sanh, Ðức Phật luôn luôn khuyến khích mọi
người nên thực hành hạnh nhẫn nại, nhẫn nhịn đến mức
rốt ráo, cao tột, trong kinh điển gọi là "pháp Nhẫn
ba-la-mật". Ðức Phật luôn luôn hành pháp nhẫn nại,
dù lắm khi Ngài cũng bị chỉ trích, bị chửi mắng, thậm
chí bị tấn công. Nhẫn nại không bao giờ là dấu hiệu của
sự yếu đuối, ươn hèn, kém cỏi, chủ bại, đầu hàng,
nhục nhã. Trái lại, nhẫn nại là sức mạnh bất khuất, sức
mạnh vạn năng, sức mạnh vô song của người tự chủ, của
người đã ngộ được và sống được với "cái ta chơn
thật", cho nên không còn sợ bị chúng khinh khi, không
còn sợ chúng "được đằng chân lân đằng đầu",
không còn sợ chúng "được nước làm tới". Tại
sao vậy? Bởi vì "cái ta chơn thật" không phải là
tấm thân tứ đại, không có tướng mạo, cho nên không ai
có thể xâm phạm được. Ðiều nên sợ, đáng sợ chính
là mình không thể kham nhẫn được, không thể chịu đựng
nỗi, không thể tự thắng mình, không thể tự chủ được
bản thân và bản tâm mình trước những thử thách, trước
những sóng gió của cuộc đời mà thôi.
Trong Kinh Pháp Cú,
Ðức
Phật có dạy:
Chiến thắng
trăm ngàn
quân không bằng tự thắng mình.
Tự thắng tâm mình là điều cao quý nhứt.
Nghĩa là chúng ta
kham
nhẫn được, thực hành được "pháp nhẫn ba-la-mật"
là chúng ta đã "tự thắng tâm mình" rồi vậy.
Trong Kinh Pháp Bảo
Ðàn, Lục Tổ Huệ Năng có dạy:
Hãy dứt trừ hết các
tâm xấu của chính mình: tâm ghen ghét, tâm tà vạy, tâm vị
ngã, tâm giả dối, tâm ngạo mạn, tâm khinh người, tâm tà
kiến, cùng tất cả những hạnh bất thiện trong mọi thời
mọi lúc, hãy luôn luôn thấy lỗi mình, không nói chuyện tốt
xấu của người.
Thấu hiểu được và
thực hành được lời dạy trên đây của Lục Tổ thì
không cần phải hỏi làm sao để cuộc sống được an lạc
và hạnh phúc. Ðó chính là an lạc và hạnh phúc vậy. Trong
vô lượng pháp môn tu theo đạo Phật, chỉ cần tu hạnh
"nhẫn nhục ba-la-mật", nghĩa là "nhẫn mà
không thấy nhục", thì cũng đạt đến chỗ cứu kính gọi
là "vô sanh pháp nhẫn".
Vô sanh pháp nhẫn
là
công phu tu chứng do sức kham nhẫn, sức chịu đựng được
muôn pháp trên thế gian xảy đến, mà chúng ta không sanh khởi
một niệm nào cả trong tâm trí. Tâm trí luôn luôn thanh tịnh,
an ổn, tự tại, không xáo trộn, không lay động. Muôn pháp
trên thế gian này không ngoài tám thứ, chia làm bốn cặp,
đó là: "lợi và suy, hủy và dự, xưng và cơ, khổ và
lạc". Tám thứ đó còn gọi là "Bát Phong", hay
tám ngọn gió của thế gian, không bao giờ ngừng thổi, hết
cơn gió này lại đến cơn gió khác.
Khi gió thổi hiu
hiu,
nhè nhẹ, chúng ta có thể kham nhẫn nổi một cách dễ
dàng. Thí dụ như những lúc tai họa xảy tới chút đỉnh,
gặp vài chuyện xui xẻo nho nhỏ, bị các chuyện thị phi
không đáng kể, nhưng nhờ có những phước báo đã làm từ
nhiều đời trước và ngay cả đời này, cho nên chúng ta
có thể lướt qua dễ dàng. Hoặc là những lúc được lợi
lộc nho nhỏ tới, được những lời khen tặng tán dương,
hay những chuyện vui nho nhỏ xảy ra, chúng ta cũng bị động
tâm, khó giữ được sự thanh thản bình yên.
Khi gió thổi thành
những
trận cuồng phong, gây tổn thất không thể lường được.
Ðó là những lúc tai họa lớn xảy đến dồn dập, họa vô
đơn chí, nhẹ thì tan nhà nát cửa, nặng thì mất mạng. Chẳng
hạn như vừa bị bệnh hoạn, vừa mất công ăn việc làm,
vừa gặp tai nạn xe cộ, vừa gặp hỏa hoạn thiêu rụi
nhà cửa, vừa bị chúng kiện đòi bồi thường bạc triệu!
Hoặc những lúc tán gia bại sản, làm ăn thua lỗ, những lúc
bị chúng bêu xấu, làm nhục trước công chúng, làm mất
thanh danh, gây tai tiếng, bị chúng phỉ báng, vu khống, vu
cáo, vu oan giá họa. Trong những trường hợp như vậy, chắc
chắn chúng ta thế nào cũng bị động tâm, loạn tâm, điên
cuồng, chán đời, bi quan, yếm thế, không thể giữ được
sự thanh thản, bình yên, thanh tịnh được.
Người đạt được
"vô sanh pháp nhẫn" là người kham nhẫn, chịu đựng
nổi "bát phong" của cuộc đời, còn gọi là người
"bát phong xuy bất động". Nghĩa là con người trải
qua tám gió nói trên mà vẫn như như bất động. Ðó mới
chính thực là con người có giá trị chơn thật, bất tùy
phân biệt, nam nữ, học thức, địa vị, tướng mạo, dung
nghi, xuất xứ, tôn giáo, tuổi tác, sắc tộc, địa
phương, thời gian, tu sĩ, cư sĩ, đồng cư trên thế giới
ta bà này.
* * *
Tóm lại, con người
tuy có tiền của nhiều, tài sản to, địa vị tốt, bằng cấp
cao, kiến thức rộng, danh vọng lớn, tài năng giỏi, đến
khi bị suy sụp, đến khi bị hủy báng, đến khi bị phê
phán, đến khi bị khỗ nạn, nhưng không giữ được tư cách,
không giữ được nhân phẩm, tâm hồn không giữ được bình
thản, thanh tịnh, thì ắt không phải là con người có giá
trị rồi. Hơn nữa, những thứ như tiền của, tài sản, địa
vị, bằng cấp, kiến thức, danh vọng, tài năng, sắc đẹp,
hình tướng, phẩm trật, đều là những thứ giả tạm, vô
thường, không cố định, luôn luôn biến dịch, luôn luôn
thay đổi, cho nên tất cả đều không thể dùng để thẩm
định giá trị của con người.
Theo giáo lý của
Ðạo
Phật, con người ở trên thế gian này không được đánh
giá qua các cách nhận định, các thước đo, các tiêu chuẩn,
các khía cạnh và các căn bản trên đây về cả hai phương
diện vật chất và tinh thần. Con người có giá trị là con
người biết ngắm nhìn cuộc đời, biết lắng nghe cuộc đời,
biết kham nhẫn và can đảm nhìn thẳng những phiền và khổ
đau, biết chuyển hóa tam chướng thành tam nghiệp thanh tịnh.
Con người có giá trị là con người biết chấp nhận tất
cả những gì xảy đến với mình từ cuộc đời, từ lúc
sống cho đến lúc chết, không mong cầu, không van xin, không
sợ hãi, sẵn sàng đón nhận phiền não hay khổ đau, an lạc
hay hạnh phúc.
Con người có giá
trị
là con người biết hàng phục tâm mình bằng cách độ vô
biên chúng sanh trong tâm thức mình vào Niết-bàn, mà không
thấy có chúng sanh nào được diệt độ và biết an trụ
tâm mình bằng cách bố thí, xả bỏ không chấp bốn tướng
ngã, nhơn, chúng sanh, thọ giả, không dính sáu trần sắc,
thinh, hương, vị, xúc, pháp, như lời Ðức Phật dạy trong
Kinh Kim Cang.
Con người có giá
trị
là con người biết chiến đấu và chiến thắng nội tâm của
chính mình, biết trưởng dưỡng tứ vô lượng tâm từ bi hỷ
xả, biết lấy ân đức đáp hận thù, như lời Ðức Phật
dạy trong Kinh Pháp Cú.
Con người có giá
trị
là con người biết sống với "tâm bình thường".
Kinh sách có câu: "Bình thường tâm thị đạo". Con
người có giá trị là con người "đối cảnh vô
tâm", tức là con người vẫn sống trong cuộc đời
như bao nhiêu người khác, nhưng không có tâm tham sân si, cho
nên tâm không loạn động.
Con người có giá
trị
là con người dám bước chân lên con thuyền không đáy,
trôi giạt giữa trời nước mênh mông. Con thuyền đó chính
là con thuyền bát-nhã, trời nước mênh mông chính là cảnh
giới trầm luân, khổ hải vạn trùng ba. Con người có giá
trị theo quan niệm của nhà Phật là con người giác ngộ
được bản ngã chân thật, bên ngoài không chấp trước, dính
mắc chuyện trần đời, mắt trông thấy sắc rồi thôi, tai
nghe thấy tiếng nghe rồi thì không, cho nên bên trong không
có niệm khởi và giải thoát được những phiền não và khổ
đau.
Con người có giá
trị
là con người bát phong xuy bất động, là con người có cuộc
sống an lạc và hạnh phúc hiện đời. Ðó chính là đại sự
nhân duyên mười phương tam thế chư Phật thị hiện ở đời,
để khai thị cho con người ngộ nhập vào chân lý bất biến
của vũ trụ vậy.
-ooOoo-
Sám hối
tam nghiệp tội
Cư-sĩ Chính-Trực
Lỗi tại
tôi mọi đàng
chuyện phiền não đa mang
chịu tai tiếng thế gian
Lỗi đã
làm tôi nhận
nhận rồi xin sám hối
tam nghiệp tội liền tiêu
Trong
tâm trí vắng lặng
trăng sáng tỏ hư không
hư không thường vô biên
đau khổ với lụy phiền
không chỗ nào dính mắc
chứng đắc quả Niết-bàn
-ooOoo-