Chữ
Tâm trong đạo Phật
Nương theo giáo
pháp
Phật Ðà
Chữ Tâm Phật dạy giúp ta độ đời.
Ðến bờ giác ngộ thảnh thơi
Thoát ly phiền não cuộc đời an vui.
Trong
nhà Phật, tam tạng kinh điển ghi lại lời dạy của chư Phật,
chư Bồ Tát và chư vị Tổ Sư. Ðó là thiền lâm bảo huấn,
nghĩa là: trong rừng thiền, có nhiều lời dạy vô cùng quí
giá. Người phát tâm tu theo Phật thật khó khăn khi phải chọn
lựa kinh sách nào để đọc trước, sao cho có thể hiểu biết
chánh pháp rõ ràng và áp dụng được vào đời sống hằng
ngày.
Trong khi đọc tụng
kinh sách, người tu học Phật cũng gặp khó khăn với các từ
ngữ chuyên môn, dù là tiếng Việt, tiếng Hán Việt, hay
các ngôn ngữ khác, cần phải tìm hiểu thấu đáo, qua tự
điển, hay nhờ các bậc thiện tri thức giảng giải, giúp
đỡ. Sau khi cố gắng lắm mới tạm vượt qua được sự
khó khăn này, người tu tập thường gặp phải ngưỡng cửa:
dù đã học hiểu rành rẽ giáo lý, nhưng vẫn chưa vào được
đạo!
Thế nào là: vẫn
chưa
vào được đạo? Người tu hành nhiều năm, dù tại gia
hay xuất gia, nếu chưa đủ duyên, nếu chưa gặp được hoàn
cảnh để sáng đạo, ngộ đạo, thấy đạo, vào được đạo,
thì người đó vẫn lòng vòng bên ngoài cửa đạo, vẫn dậm
chân tại chỗ ban đầu, vẫn công phu tu tập chậm chạp,
vì các nghi lễ nặng phần hình thức, vì các việc làm mong
cầu phước báo, vì tâm chấp chặt nhị biên, những định
kiến đúng sai phải quấy, vì tâm mong cầu bình yên sung sướng,
vì tâm chưa thanh tịnh, còn quá lăng xăn lộn xộn bên
trong, còn bị trần duyên bên ngoài chi phối.
Thực ra, dù đạo
Phật
có một rừng kinh điển, sách vở, thích ứng cho đủ mọi
căn cơ, trình độ, giới thiệu tất cả các pháp môn tu tập
tự cổ chí kim, trình bày các kinh nghiệm tu hành từ xưa đến
nay, nhưng tất cả những kinh điển, sách vở đó đều nhằm
mục đích duy nhất là: khai mở và chỉ bày cho tất cả mọi
người thấy rõ cái "bản tâm thanh tịnh" của
chính mình. Còn bổn phận của chúng ta là: ngộ và nhập
được bản tâm thanh tịnh đó. Nếu không ngộ được điều
này, tức là không sống được với bản tâm thanh tịnh, người
tu tập dụng công phu nhiều, nhưng thu lượm kết quả chẳng
được bao nhiêu. Người nào ngộ và nhập được bản tâm
thanh tịnh, tức là giữ được tâm bình thường, là người
thấy đạo, vào được đạo.
Cho nên, Thiền sư
Phổ
Nguyện Nam Tuyền có dạy: "Bình Thường Tâm Thị Ðạo",
chính là nghĩa như vậy.
Nói một cách khác,
tất
cả kinh điển giáo lý của đạo Phật có thể tóm gọn
vào một chữ, đó là chữ TÂM, mà thôi. Nắm vững
được chìa khóa quan trọng này rồi, người tu học Phật có
thể mở toang đuợc tất cả các cánh cửa của nhà Phật,
thấu hiểu những lời dạy của chư Phật, chư vị Tổ sư
trong các kinh điển, sách vở, mục đích thấy được con
đường giác ngộ và giải thoát, để xây dựng đời sống
hiện tại được an lạc và hạnh phúc.
* * *
Trong phạm vi bài
viết
này, chúng ta sẽ tìm hiểu chữ TÂM qua các kinh điển và
kinh nghiệm tu tập thực tế của các bậc tôn túc cổ kim.
Mỗi đề mục đều có công năng giải bày bản tâm thanh tịnh,
hay tóm gọn vào một chữ, chỉ rõ đó là: chữ TÂM trong Ðạo
Phật.
A-
Chữ
TÂM qua lời dạy của chư Phật:
1) Trong Kinh Hoa
Nghiêm,
Ðức Phật có dạy: "Nhứt
thiết duy tâm tạo".
Nghĩa là: Mọi sự
mọi
việc đều do tâm tạo ra tất cả. Công đức cũng do tâm tạo,
nghiệp chướng cũng bởi tại tâm. Ðó chính là tâm sanh diệt,
lăng xăng lộn xộn, thay đổi luôn luôn, thường do tham sân
si chi phối, thúc đẩy, điều khiển, cho nên con người thường
tạo nghiệp bất thiện nhiều hơn là nghiệp thiện. Chúng
ta đã thấu hiểu lý lẽ chân thật của cuộc đời là: vô
thường, không có gì tồn tại vĩnh viễn, không có gì là tự
nhiên sanh mà không có nguyên nhân.
Luật nhân quả áp
dụng
trong ba thời: quá khứ, hiện tại, vị lai. Sinh sự thì sự
sinh. Nhân nào thì quả nấy. Gieo gió thì gặt bão. Có lửa
thì có khói. Cầu nguyện với tâm lăng xăn lộn xộn, chỉ
đem lại sự bình an tâm trí tạm thời. Bình an thực sự chỉ
có cho người thiện tâm. Thiên đàng, địa ngục, tuy là hai
tâm trạng khác nhau, nhưng thực sự, tất cả chỉ là các
trạng thái ở trong tâm của chúng ta mà thôi.
Bởi vậy cho nên, có
bài kệ như sau:
Tội từ tâm khởi đem
tâm sám
Tâm đã diệt rồi tội cũng vong
Tội vong tâm diệt cả hai không
Ðó chính thực là chân sám hối.
Nghĩa là: Tất cả
những
tội lỗi gây ra, đều do tâm chúng ta chủ động, thì phải
thành tâm mà sám hối, tự trong thâm tâm. Từ đó, chúng ta
phát nguyện không tái phạm, cho nên mỗi khi tâm tham, tâm
sân, tâm si khởi lên, chúng ta liền biết ngay, dừng lại,
không làm theo sự điều khiển, sai khiến của tham sân si,
thì tội lỗi sẽ không còn tái phạm nữa. Khi tội lỗi
không còn, tâm sanh diệt cũng lặng mất, con người sống
trong trạng thái tịch tịnh, bình yên của tâm trí. Ðó mới
thực là sự sám hối chân chánh.
* * *
2) Trong Kinh Thủ
Lăng
Nghiêm, Ðức Phật có dạy: "Tùy
tâm biến hiện".
Nghĩa là: Mọi sự
mọi
việc trên thế gian này như thế nào, tốt hay xấu, lành hay
dữ, đúng hay sai, phải hay quấy, được hay không, đều do
vọng tâm của chúng ta biến hiện ra cả. Sự cảm thọ tùy
theo tâm trạng, tùy theo cá nhân, không ai giống ai, không
lúc nào giống với lúc nào, không thời nào giống với thời
nào, không nơi nào giống với nơi nào.
Trong sách có câu:
"Tâm buồn cảnh
được vui sao".
"Tâm an dù cảnh ngộ nào cũng an".
Nghĩa là: Cùng một
cảnh
vật như vậy, nếu có tâm sự buồn phiền áo não, chúng ta
không thấy cảnh vui chút nào. Còn nếu chúng ta có tâm trạng
hân hoan vui vẻ, dù cây khô trụi lá, cảnh vẫn đẹp vui
như thường. Cái tâm hân hoan vui vẻ là chúng ta, hay cái
tâm buồn thảm lê thê là chúng ta? Cùng một câu nói như vậy,
nếu tâm an ổn, vui vẻ mát mẻ, chúng ta cũng cho là: nói đúng
nói phải, nói sao cũng được, nói ngược cũng xong. Trái lại,
tâm đang bực bội, ai nói câu nào, chúng ta cũng cho là: nói
sai nói bậy, nói xiên nói xỏ, nói bóng nói gió, nói hành
nói tỏi, nói quấy nói quá.
Ðối với người thân
thương yêu, tâm ý của mình tốt, mặc dù chưa chắc lúc
nào cũng tốt được y như vậy. Còn như đối với kẻ thù
người oán, tâm ý mình không tốt, sẵn sàng gây phiền não
khổ đau cho họ. Họ càng khổ đau nhiều chừng nào, mình
càng khoái chừng đó! Vậy, hãy thử nghĩ xem, chúng ta là người:
có tâm thực tốt, hay tâm không tốt? Chẳng hạn như là: nếu
chúng ta đang cần sự giúp đỡ khẩn cấp, khi gặp tai biến,
thì viên cảnh sát chính là ân nhân. Còn nếu chúng ta đang
vi phạm luật pháp, làm chuyện mờ ám, làm ăn phi pháp, thì
bóng dáng viên cảnh sát thực chẳng đáng ưa chút xíu nào
cả. Cùng một câu chuyện, chúng ta ưa thích thì cho là đúng,
ngược lại không ưa liền cho là sai. Cái tâm sanh diệt, lăng
xăng lộn xộn, thay đổi bất thường như vậy, thực không
phải là chúng ta.
* * *
3) Trong Kinh A
Hàm, Ðức
Phật có dạy: "Tam giới tâm tận, tức thị Niết-bàn".
Nghĩa là: Khi nào
dứt
sạch tâm trong ba cõi, lúc đó chúng ta mới thấy được Niết-bàn.
Ba cõi, còn gọi là tam giới, đó là: dục giới, sắc giới
và vô sắc giới.
Khi tâm tham nổi
lên,
chúng ta sống trong dục giới, tức là cảnh giới đắm nhiễm
tham dục, cảm thấy đau khổ triền miên vì lòng tham của
con người không đáy, không bao giờ thỏa mãn được. Con
người sống trong dục giới lúc nào cũng cảm thấy khao khát,
thiếu thốn, được bao nhiêu cũng không thấy đủ, cho nên
luôn luôn chạy đôn chạy đáo, tìm kiếm ngũ dục: tiền tài,
sắc đẹp, danh vọng, ăn uống và ngủ nghỉ.
Khi tâm sân nổi
lên,
ngay lúc đó, chúng ta sống trong sắc giới, tức là cảnh giới
chấp chặt sắc tướng, lòng như thiêu đốt, sắc mặt tái
xanh, vì sự tức giận, vì sự bất mãn. Dù tâm tham không
còn, tâm sân cũng tai hại vô cùng.
* * *
4) Trong Kinh Hoa
Nghiêm,
Ðức Phật có dạy:
Nhất niệm
sân tâm khởi,
bách vạn chướng môn khai.
Nghĩa là: Một khi
tâm
niệm tức giận, sân hận khởi lên mà chúng ta không tự kềm
chế, không tự khắc phục, thì biết bao nhiêu, trăm ngàn vạn
chuyện khó khăn, đau khổ, chướng ngại tiếp nối theo sau
đó.
Khi tâm si nổi lên,
chúng ta sống trong vô sắc giới, tức là cảnh giới vô
minh, rất dễ lầm đường lạc nẽo, mê tín dị đoan, rất
dễ dàng tạo tội tạo nghiệp bằng cách: hãm hại trả
thù, lập mưu tính kế, vu khống cáo gian, thưa gửi kiện tụng,
không cần biết hậu quả khổ đau đối với các người khác
và gia đình họ. Những giây phút ngu si, lầm lẫn thường là
nguyên nhân của những sự hối tiếc, đau khổ sau đó, cho
mình và cho người khác, có khi kéo dài triền miên suốt cả
cuộc đời.
Bởi vậy cho nên,
phải
dẹp trừ tận gốc các tâm tham sân si, trong kinh sách gọi
đó là: tam độc, chúng ta thoát ly tam giới gia, cuộc sống
mới an lạc và hạnh phúc.
* * *
5) Trong Kinh A Di
Ðà, Ðức
Phật có dạy:
"Người nào giữ
được nhứt tâm bất loạn, trong một ngày cho đến bảy ngày,
khi lâm chung giữ tâm không điên đảo, thì người đó được
vãng sanh Tây phương".
6) Trong Kinh Ðại
Tập,
Ðức Phật có dạy:
"Nếu thường xuyên
giữ được chánh niệm, tâm không loạn động, dứt trừ
được phiền não, thì chẳng bao lâu đắc thành quả vô thượng
bồ đề".
Nghĩa là: Người tu
tập
phải luôn luôn quán sát tâm chính mình, luôn luôn giữ gìn
chánh niệm, luôn luôn niệm Phật, khi vọng tâm vọng tưởng
vọng thức vọng niệm khởi lên, liền biết, không theo. Nhờ
đó tâm được an nhiên tự tại, không loạn động, dứt trừ
được phiền não, gọi là: nhứt tâm bất loạn. Nhờ
công phu tu tập đó, chẳng bao lâu đắc thành quả vô thượng
bồ đề. Khi lâm chung giữ được tâm không điên đảo, cho
nên được vãng sanh cảnh giới tịnh độ. Muốn làm được
điều này, muốn giữ được tâm trí nhứt như không loạn
động, con người phải thấu hiểu và thực hành quán tứ
niệm xứ, gồm có: thân, thọ, tâm, pháp.
Quán thân bất tịnh,
nghĩa là quán tưởng tấm thân mấy chục ký lô của mình
chỉ là một tập hợp những thứ không sạch, được bọc
bên ngoài bởi lớp da cũng chẳng mấy gì sạch sẽ cho lắm,
con người thấy rõ: tấm thân này không phải là mình, đừng
bận tâm chuyện còn hay mất, chết rồi cũng bỏ lại, chẳng
ai dám đến gần. Cho nên khi sống đừng quá chăm sóc và
nuông chìu, khi chết đừng bận tâm chuyện đem chôn hay đem
thiêu.
Quán thọ thị khổ,
nghĩa là quán tưởng sự cảm thọ, thọ nhận là khổ, con
người thấy rõ: càng chấp chặt chuyện đời, chuyện thị
phi phải quấy, càng thọ nhận nhiều cảm giác, càng đau khổ
nhiều mà thôi. Cho nên ai nói điều gì không đúng chánh
pháp, thì cho qua luôn, đừng nhớ làm chi vô ích, đừng
nghĩ suy gì cả. Nói vắn tắt là: Thọ nhiều thì khổ nhiều,
chấp nhiều thì mệt nhiều. Buông xả thì thanh thản, tha thứ
thì thư thái. Tuy chuyện rất đơn giản, thực hành không dễ
dàng, nhưng không phải bất khả.
Quán tâm vô thường,
nghĩa là quán tưởng cái tâm nhỏ hẹp của mình luôn luôn
thay đổi, sanh diệt liên miên, mới nghĩ thế này liền nghĩ
thế khác, lúc thương yêu đắm đuối lúc thù hận ngập
tràn, lúc thân lúc thù, lúc vui lúc buồn, lúc thương lúc
ghét, lúc hiền thiện lúc gian tà. Tâm của chúng ta luôn
luôn dính với cảnh trần bên ngoài, kinh sách gọi là: tâm
phan duyên. Cảnh trần bên ngoài đẹp mắt, vừa tai, thuận
ý, thì sanh tâm vui thích. Cảnh trần bên ngoài chói tai gai mắt,
nghịch ý, thì sanh tâm tức tối. Nếu cứ theo sự sai khiến
của cái tâm vô thường như vậy, chúng ta tạo tác không biết
bao nhiêu nghiệp chướng, cho nên trôi lăn, trầm luân trong
sinh tử không biết bao nhiêu đời, bao nhiêu kiếp! Ngày nay
tâm mình hay tâm người khác chưa thiện, ngày mai tâm mình
hay tâm người khác sẽ thay đổi tốt hơn, nhờ có công phu
tu tập.
Quán pháp vô ngã,
nghĩa
là quán tưởng các pháp trên thế gian này đều không có bản
thể nhứt định, gọi là: vô ngã. Các pháp, tức là tất cả
sự sự vật vật trên đời, không có cái gì cố định, không
phải tự nhiên sanh ra, không phải tự nhiên diệt đi. Tất
cả chỉ là một dòng chuyển biến không ngừng. Con người
thấy đó mất đó. Chuyện gì rồi cũng đổi thay, rồi
cũng qua mau. Ðừng phí sức, đừng bận tâm với các pháp
sanh diệt của thế gian.
* * *
7) Trong Kinh A
Hàm, Ðức
Phật có dạy:
"Chư pháp tùng
nhân duyên sanh".
"Chư pháp tùng nhân duyên diệt".
Nghĩa là: Muôn sự
muôn vật trên đời tùy theo nhân duyên mà sanh ra, cũng tùy
theo nhân duyên mà diệt đi. Không có việc gì, vật gì, có
thực tướng, tồn tại vĩnh viễn. Người ta chửi mình do
mình gây nghiệp bất thiện cảm với người. Người ta chửi
mãi mỏi miệng thì cũng ngưng thôi, tức giận làm chi cho mệt!
Ðừng đưa cái bản ngã của mình, tức là cái tôi, cái ta,
Tây phương gọi là "EGO", ra hứng những ngọn lửa
của thế gian, thì mình đâu có bị đốt cháy, đâu có bị
nhiệt não, đâu có bị khổ tâm, đâu có bị ngày ăn không
ngon, tối ngủ chẳng yên. Ngọn lửa không thể đốt hư không
được, sẽ tự dập tắt thôi. Vô ngã đơn giản là như vậy
đó, an lạc là như vậy đó!
* * *
8) Trong Kinh Thủ
Lăng
Nghiêm và Kinh Ðại Bát Niết Bàn, Ðức Phật có dạy:
"Sanh diệt
ký diệt,
tịch diệt hiện tiền".
"Sanh diệt diệt dĩ, tịch diệt vi lạc".
Nghĩa là: Khi nào
các
tâm sanh diệt, tức là tâm tham sân si, nổi lên rồi lắng
xuống, sanh khởi rồi diệt đi, không còn nữa, gọi là:
sanh diệt, thì tâm trí bình yên lặng lẽ, không xáo trộn,
gọi là: tịch diệt hiện tiền, hay tịch diệt vi lạc, tức
là cảnh giới an lạc, Niết-bàn tự tại, hiện ngay trước
mặt. Tâm trạng bất an vì những niệm sanh diệt, gọi là:
tâm chúng sanh. Tâm sanh diệt diệt rồi, không còn lăng xăng
lộn xộn nữa, trở nên tâm không tịch, trống không và tịch
tịnh, hoàn toàn thanh tịnh, gọi là: bản tâm thanh tịnh,
hay: tâm bình thường, chính là: tâm Phật.
Ðiều này thực dễ
hiểu,
ví như khi cặn cáu lắng xuống hết, ly nước đục trở thành
ly nước trong. Mặt biển sóng động trở thành mặt biển
thái bình. Tâm loạn động trở thành tâm thanh tịnh. Không
cần phải tìm tâm Phật đâu xa. Nhưng thực hiện được
điều này là cả một đời tu tập, tu tâm dưỡng tánh, giữ
gìn giới luật, lánh dữ làm lành, quán sát tâm ý. Chúng ta
cần phải hành trì các pháp môn, dù thiền tông, tịnh độ
tông, hay mật tông, tức là: thiền quán, tọa thiền, thiền
hành, tứ oai nghi thiền, tụng kinh, niệm Phật, trì chú, cho
đến mức rốt ráo, đạt được trạng thái: nhứt tâm bất
loạn.
* * *
9) Trong Kinh Thủ
Lăng
Nghiêm, Ðức Phật có dạy:
"Lục căn
chính là
cội gốc của sanh tử luân hồi".
"Lục căn cũng là cội gốc của giải thoát Niết-bàn".
Tại sao vậy? Bởi
vì,
lục căn của chúng ta, tức là sáu giác quan, gồm có: nhãn,
nhĩ, tĩ, thiệt, thân và ý, khi tiếp xúc với lục trần, tức
là sáu trần cảnh bên ngoài, gồm có: sắc, thanh, hương, vị,
xúc và pháp, mà không đắm nhiễm, không dính mắc, không
sanh lục thức, trong kinh sách gọi là: lục tặc, thì chúng
ta đâu có bị phiền não, trong lòng đâu có nổi sóng gió,
gọi là: tam bành. Dù hằng ngày vẫn tiếp xúc với mọi người,
mọi cảnh trong cuộc đời, chúng ta không tham, không sân,
không si. Giữ gìn được như vậy tức là chúng ta giải
thoát khỏi phiền não khổ đau, sống trong cảnh giới Niết-bàn
an lạc, ngay hiện đời vậy.
Mắt trông thấy hình
sắc
thì nhận biết rõ ràng người nào là người nào, món nào
là món nào, nhưng tâm không khởi niệm thương hay ghét, ưa
hay không ưa. Tai nghe thấy tiếng thì nhận biết rõ ràng đó
là tán thán hay phê phán, nhưng tâm không khởi niệm khoái
chí hay bực bội. Mũi ngửi thấy mùi thì nhận biết rõ
ràng là mùi hương gì, nhưng tâm không khởi niệm thích hay
không thích. Lưỡi nếm vị thì nhận biết rõ ràng là vị
gì, nhưng tâm không khởi niệm khen ngon hay chê dở. Thân
xúc chạm thì biết rõ ràng là tốt hay xấu, nhưng không khởi
niệm dễ chịu hay khó chịu. Tâm ý nghĩ suy thì nhận biết
rõ ràng là đúng hay sai, phải hay quấy, nhưng tâm không khởi
niệm kỳ thị, đố kỵ, so sánh, hơn thua, tranh chấp. Do đó,
chúng ta đâu có bị kéo lôi, đâu có bị cột trói vào chuyện
thương thương ghét ghét, đấu tranh tranh đấu, lặp đi lặp
lại, nói tới nói lui, nói xuôi nói ngược, được mất
khen chê, nghĩa là chúng ta đã thoát khỏi vòng trầm luân
sanh tử khổ đau đó vậy.
* * *
10) Trong Kinh Thủ
Lăng
Nghiêm, Ðức Phật có dạy:
"Căn bản của
sanh
tử luân hồi là: Vọng tâm".
"Căn bản của Bồ-đề Niết-bàn là: Chân tâm".
Nghĩa là: Chúng
sanh sở
dĩ bị trầm luân sanh tử, bởi vì suốt ngày này qua ngày nọ,
luôn luôn sống với vọng tâm, tức là tâm lăng xăng lộn xộn,
luôn luôn thay đổi, khi vui khi buồn, khi thương khi ghét, khi
khen khi chê, khi tán thán khi phê phán. Muốn tâm trí sáng suốt
thanh tịnh, an nhiên tự tại, chúng ta cần quán sát tâm
chính mình: Khi các vọng tâm nổi lên, chúng ta liền biết,
không theo, như vậy vọng tâm lắng xuống, diệt mất, chân
tâm hiện ra rõ ràng.
Bản tâm thanh tịnh,
hay chân tâm bất sanh bất diệt, không sanh không diệt, thường
hằng, vĩnh viễn, luôn luôn hiện hữu. Chỉ có vọng tâm:
tham lam, sân hận si mê, mới có sanh và diệt, mà thôi. Chẳng
hạn như khi gặp chuyện bất như ý, tâm liền khởi sanh bực
tức oán giận. Lúc đó, chúng ta quên mất bản tâm thanh tịnh
của mình, tức là quên mất mình là ai, chỉ biết tức tức
giận giận. Lâu sau nguôi dần, tâm trở lại trạng thái
bình thường, tâm sân hận diệt đi, không còn nữa. Sanh diệt
có nghĩa là như vậy.
Chân tâm, tức là
bản
tâm thanh tịnh mà người nào cũng có, không phân biệt tôn
giáo, nam nữ, màu da, sắc tộc, ngôn ngữ, học thức, giàu
nghèo, địa phương, quốc gia, thời gian hay không gian. Giáo
lý của đạo Phật cao siêu mầu nhiệm ở chỗ chỉ bày rõ
ràng chân lý không phân biệt, không kỳ thị, tất cả mọi
người đều có thể hiểu một cách rõ ràng.
Muốn làm được điều
này, muốn chân tâm hiển hiện, chúng ta cần phải thấu hiểu
và tu tập bốn tâm rộng lớn, trong kinh sách gọi là tứ
vô lượng tâm, đó chính là: từ, bi, hỷ, xả. Khi có tâm từ
và tâm bi, chúng ta sẽ dễ cảm thông với muôn loài, nhứt
là với loài người, với những người chung quanh, gần như
cha mẹ, vợ chồng, con cháu, xa hơn như bà con, láng giềng,
bạn bè. Do đó tâm giận tức, tâm sân hận có thể giảm bớt,
nhẹ bớt đi. Khi có tâm hỷ và tâm xả, chúng ta sẽ bớt
được các tâm ganh tị, tâm đố kỵ, tâm hơn thua, tâm cố
chấp. Cho đến khi nào tứ vô lượng tâm tròn đầy, vọng
tâm tan biến, tâm ý trở nên an nhiên tự tại, chân tâm hiển
hiện. Ðây mới chính là ý nghĩa thiết yếu của việc tu tâm
dưỡng tánh theo đạo Phật:
Trong
tâm khởi niệm,
nếu giác kịp thời,
liền biết không theo,
đó là: chân tâm.
Trong
tâm khởi niệm,
nếu còn mê muội,
không giác kịp thời,
liền theo niệm đó,
trở thành: vọng tâm.
Cũng ví như là:
Khi có gió
thổi,
mặt biển nổi sóng,
gọi là biển động,
ví như cái tâm
lăng xăng lộn xộn.
Mặc dù
gió thổi,
mặt biển vẫn yên,
là biển thái bình,
cũng ví như là:
bản tâm thanh tịnh,
hay: tâm bình thường.
Ðiều đáng quan
trọng
không phải là vọng tâm thay đổi bất chợt, bất thường
nói trên, mà chính là cái chân tâm, không sanh không diệt,
không dơ không sạch, không tăng không giảm, của tất
cả chúng ta vậy. Hiểu được, nhận được: thế nào là
chân tâm, chính là mục đích cứu kính của đạo Phật,
được Ðức Phật giảng giải rõ ràng trong Kinh Thủ Lăng
Nghiêm, Kinh Tâm Ðịa Quán, Bát-nhã Tâm Kinh, và trong nhiều
bộ kinh khác.
* * *
11) Trong Bát-nhã
Tâm
Kinh, Ðức Phật có dạy:
"Chiếu kiến ngũ uẩn giai không độ nhứt
thiết khổ ách".
Nghĩa là: Khi ngộ
được
bản tâm thanh tịnh, soi xét thấy rõ năm uẩn đều không,
tâm không còn ngăn ngại, không còn sợ hải, chúng ta sẽ vượt
qua được tất cả mọi khổ ách, xa lìa điên đảo mộng
tưởng, đạt được cứu kính Niết-bàn. Thế nào là:
"Xét thấy năm uẩn đều không"? Năm uẩn gồm có:
sắc, thọ, tưởng, hành, thức. Phần thân xác, có hình tướng,
nhận thấy được bằng mắt thường, gọi là: sắc. Phần
tinh thần, hay tâm linh, không hình tướng, không nhận thấy
được bằng mắt thường, gồm có: thọ, tưởng, hành, thức.
Chúng ta nên biết rằng: nguồn gốc của mọi sự đau khổ
trên thế gian này đều do tâm cố chấp mà ra. Chúng ta cố
chấp điều gì? Chúng ta cố chấp rất nhiều thứ.
* * *
12) Trong Kinh Viên
Giác,
Ðức Phật có dạy:
Con người vì vô
minh
cho nên có hai thứ chấp: chấp ngã và chấp pháp. Ðó là
hai nguyên nhân chính gây ra phiền não và khổ đau của cuộc
đời.
Khi nào hiểu được
một
cách rõ ràng và phá trừ được hai nguyên nhân chính gây ra
khổ đau này, chúng ta sẽ tìm được an lạc và hạnh phúc
thực sự, ngay trong cuộc sống hiện tại.
Chấp ngã có nghĩa
là:
Con người thường chấp cái sắc thân giả tạm và cái vọng
tâm vô thường, trong kinh sách gọi chung là: ngũ uẩn, lại
cho là thực lại tưởng chính là mình, cho nên mới phiền
não và khổ đau. Cái sắc thân giả tạm nặng mấy chục
ký lô này của con người bao gồm bốn thứ: đất, nước,
gió, lửa, trong kinh sách gọi đó là: thân tứ đạikhông
phải là thực. Tại sao vậy? Bởi vì nếu sắc thân tứ đại
này thực là của con người, thì nó phải tuân lệnh và
tùy thuộc quyền xử dụng của con người. Con người ai ai
cũng muốn cái thân tứ đại này trẻ mãi không già, khỏe
mãi không đau, còn mãi không hoại. Nhưng, từ xưa đến nay,
từ đông sang tây, từ hoàng gia đến dân chúng, từ giàu
sang đến nghèo hèn, từ học thức đến bình dân, có ai
được toại nguyện như vậy đâu? Vậy mà ai động đến nó,
con người liền nổi xung, nhứt định ăn thua đủ, nhứt định
vác đơn kiện, nhứt định đòi bồi thường, nhứt định
làm tới luôn, cho hả giận cho đã nư, không thể nhịn nổi,
chỉ nhằm bảo vệ cái thân tứ đại vốn giả tạm, vốn
không thực này, để rồi một ngày kia, dù-muốn-hay-không,
mọi người đều phải bỏ lại, để đi sang thế giới khác,
để tái sinh kiếp khác, với cả một đống nghiệp báo bất
thiện chẳng lành chồng chất!
Ở ngoài nghĩa
trang, đâu
phải chỉ có mộ phần các cụ trăm tuổi mà thôi! Khi hiểu
được sắc thân tứ đại không thực, thì những thứ phụ
thuộc như: nhà cửa, tiền bạc, danh vọng, địa vị, còn
có ý nghĩa gì nữa đâu, mà ham muốn tranh chấp, đấu đá
sát phạt, hơn thua được mất, cho đời thêm đau khổ? Cái
thân tứ đại còn phải bỏ lại, thì có thứ gì đem theo
được chứ? Có đem theo chăng, chẳng qua là tội, là nghiệp,
đã tạo trong đời mà thôi.
Sắc thân tứ đại mấy
chục ký lô là như vậy đó, còn vọng tâm thì sao? Cái vọng
tâm thì lăng xăng lộn xộn, thay đổi liên miên. Con người
bị khổ đau nhiều đời nhiều kiếp, bởi vì, chấp lầm vọng
tâm lăng xăng lộn xộn, thay đổi liên miên, cho đó là
mình, rồi nương theo đó, chợt vui chợt buồn, chợt cười
chợt khóc, suốt ngày suốt đêm, suốt tháng suốt năm, suốt
cả đời này, và những đời sau! Vọng tâm gồm có: tâm thọ,
tâm tưởng, tâm hành, tâm thức. Cái tâm nghĩ suy, tính toán
hơn thua, lăng xăng lộn xộn, suốt ngày suốt đêm, lúc sanh
lúc diệt, không phải thực là chúng ta, đó chỉ là vọng
tâm. Xét thấy năm uẩn đều không, sắc tướng và vọng
tâm đều không thực, con người phá được sự quan trọng
của bản ngã, dẹp được tự ái, thoát được phiền não,
không còn khổ đau, cho nên tâm trí an nhiên tự tại. Ðó
là giáo lý vô ngã của đạo Phật.
Chấp pháp nghĩa là:
Ðối
với tất cả các pháp trên đời, bao gồm mọi sự mọi việc
thế gian, con người chấp chặt ý kiến cá nhân, thành tích
khả năng, suy nghĩ hiểu biết, kiến thức sở học, kinh
nghiệm bản thân, không muốn thay đổi, không muốn cải thiện,
không muốn sửa chữa, không muốn chuyển hóa, không muốn
nghe ai, bịt cả hai tai, chỉ mở cái miệng. Thậm chí biết
rằng mình đã nghĩ sai, làm sai nói sai, tin bậy hiểu lầm,
cũng vẫn chấp chặt!
Ðời người chẳng qua
chỉ là hơi thở, khi thở hơi ra mà chẳng hít vào được nữa,
thì ô hô tử vong! Ðời người chỉ là tạm vay mượn đất,
nước, gió, lửa, từ bên ngoài, để bồi bổ cho đất, nước,
gió, lửa, bên trong thân, từng ngày từng giờ, từng phút từng
giây. Khi không vay mượn nữa, con người không tồn tại
được. Chỉ vì cuộc sống quay cuồng, con người mãi lo kiếm
tiền, bận lo hưởng thụ, bo bo giữ gìn của cải, mặt mũi,
danh vọng hão huyền, lúc nào cũng tưởng: "đời còn
dài mà", cho nên hơn thua từng câu từng lời, kiếm
chuyện đấu tranh, chiếm đoạt tài sản, danh lợi phù du,
giành giựt miếng ăn, dựng chuyện thưa kiện, đòi hỏi bồi
thường, tiền bạc phi nhân, chỉ biết lợi mình, bất kể
hại người, đem lại khổ đau, cho bao người khác. Bởi vậy
chính mình cũng chịu đau khổ phiền não, tâm trí luôn luôn
bất an.
* * *
13) Trong Kinh Tịnh
Danh,
Ðức Phật có dạy:
Mặt trời mặt
trăng vẫn
thường sáng tỏ, tại sao người mù lại chẳng thấy? Cũng
vậy, bởi vì nghiệp thức che đậy, chúng sanh thường biết
mà cố phạm, cho nên chẳng thấy thế giới Như Lai thanh tịnh
trang nghiêm, chẳng nhận ra bản tâm thanh tịnh thường hằng.
14) Trong Kinh Ðại
Bát
Niết Bàn, Ðức Phật có dạy:
Tất cả chúng sinh
đều
có bản tâm thanh tịnh. Chúng sinh chẳng nhận thấy được,
vì bị vô minh che lấp.
Nghĩa là: Con người
ai
ai cũng có bản tâm thanh tịnh, cũng như mặt trời mặt
trăng luôn luôn sáng tỏ. Chỉ vì tâm tham lam của cải tiền
bạc, hoặc vì tâm sân hận tự ái cao độ, hoặc vì tâm si
mê cố chấp, ví như mây đen che lấp mặt trời mặt trăng,
cho nên con người mới tạo tội tạo nghiệp, làm cho tâm
trí loạn động, thường xuyên bất an, điên đảo loạn cuồng,
để rồi trôi lăn vào vòng sanh tử luân hồi, đã muôn kiếp
trước, và sẽ tiếp tục trôi lăn, muôn kiếp về sau, nếu
như không chịu dừng nghiệp và chuyển nghiệp. Với số tiền
nho nhỏ, quyền lợi không đáng kể, con người còn có thể
tỉnh thức, dừng được nghiệp, dẹp tâm tham, không thưa
kiện người khác, không gây não loạn cho người, và gia đình
của họ. Nhưng khi kiện thưa đòi tiền bồi thường vài
triệu đô la, con người thành ma, tối tăm mặt mũi, liều mạng
đưa chân, hết biết lẽ phải, nhắm mắt làm càng, tới đâu
cũng được. Mãnh lực của đồng đô la quả thực là vạn
năng, thượng đế chẳng bằng, đã lôi kéo không biết bao
nhiêu chúng sanh u mê, vào vòng tội nghiệp, từ xưa đến
nay!
Chính vì biết mà cố
phạm, nghiệp thức che đậy, vô minh che lấp, con người chẳng
thấy được thế giới Như Lai trang nghiêm, bản tâm thanh tịnh.
Chúng ta là người tỉnh thức, đang tu học chánh pháp, đang
muốn trở về nguồn cội, đang muốn chuyển hóa cuộc đời
của mình, đang muốn thoát ly sanh tử luân hồi, càng phải
nên hết sức cẩn trọng, cẩn trọng và cẩn trọng!
* * *
15) Trong Kinh Kim
Cang, Ðức
Phật có dạy:
Quá khứ tâm bất khả đắc,
hiện tại tâm bất khả đắc,
vị lai tâm bất khả đắc.
Nghĩa là: Chuyện
quá
khứ qua rồi đừng luyến tiếc, đừng nhớ nghĩ làm gì cho
bận tâm, chỉ gieo thêm nghiệp chướng chứ chẳng ích lợi
gì. Muốn làm được điều này, ở trong gia đình hay ngoài
xã hội, chúng ta cần phải có tâm vị tha, độ lượng, biết
tha thứ, biết cảm thông, nói chung là tâm từ bi. Chuyện hiện
tại rồi cũng qua mau, cố níu kéo cũng chẳng được, có lo
âu phiền muộn cũng chẳng ích lợi gì. Chuyện tương lai
chưa đến, lo lắng, ưu tư, sầu muộn cũng chẳng ích lợi
gì. Chi bằng chúng ta giữ gìn tâm trí được như như, bình
tĩnh, thản nhiên, có phải khỏe hơn không? Chuyện gì phải
tới nó sẽ tới, lo sợ cũng chẳng ngăn cản được đâu.
Ðó chính là nghiệp quả, nghiệp báo, còn gọi là: quả
báo.
Hiểu sâu được luật
nhân quả, chúng ta sẽ bình tĩnh thản nhiên chấp nhận quả
báo xảy đến. Nếu không muốn có quả báo xấu, chúng ta
phải chấm dứt gây nghiệp nhân xấu, tức là chấm dứt
tâm tham sân si, tức là dừng ba nghiệp thân khẩu ý bất
thiện. Trong kinh sách gọi là: dừng nghiệp và chuyển nghiệp.
* * *
16) Trong Kinh Tịnh
Danh
và Kinh Tâm Ðịa Quán, Ðức Phật có dạy:
"Tâm tịnh thì độ
tịnh".
"Tâm địa bình thì thế giới bình".
Nghĩa là: Khi những
vọng
tâm vọng tưởng, vọng thức vọng niệm đã dứt sạch, người
tu tập không còn tham, không còn sân, không còn si. Ðến đây,
người tu tập đạt được cảnh giới bất nhị, tức là
không còn kẹt hai bên, không còn thị phi, không còn phải quấy,
không còn tranh chấp, không còn hơn thua, không còn tạo tội,
không còn tạo nghiệp, không còn cố chấp. Trong kinh sách gọi
đó là cảnh giới: vô tâm vô niệm, hay là cảnh giới: nhứt
tâm bất loạn.
Lúc đó, tâm tịnh,
tâm địa bình, tâm vô quái ngại, vô hữu khủng bố, viễn
ly điên đảo mộng tưởng, tức là tâm an nhiên tự tại,
không còn điều gì có thể ngăn ngại được, gây lo sợ khủng
khiếp được. Do đó, chúng ta xa rời những thứ điên đảo,
lìa bỏ được mộng tưởng, đạt được cứu kính Niết-bàn.
Mọi người chung quanh cảm thấy an ổn, yên tâm, khi sống gần
người tu tập có tâm tịnh, tâm địa bình. Thế giới chung
quanh thanh bình, quốc độ an ninh, chính là nghĩa như vậy.
* * *
17) Trong Kinh Di
Giáo, Ðức
Phật có dạy:
"Chủng chủng hý
luận kỳ tâm tắc loạn".
"Nhược đắc định giả tâm tắc bất tán".
Nghĩa là: Người nào
bàn luận một cách vô ích những chuyện thị phi, đúng sai
phải quấy, tranh đua hơn thua, tâm ý của người đó tức
nhiên loạn động. Còn người nào khắc chế được tâm niệm
của mình, người đó đắc được cảnh giới thiền định,
dù là sơ thiền, nhị thiền tam thiền, hay được tứ thiền,
tức nhiên tâm ý không còn tán loạn nữa. Khi tâm địa, hay
tâm thức của con người, hoàn toàn không tịch, trống rỗng
lặng lẽ, lẵng lặng thanh tịnh, không còn chứa chấp những
vọng tâm, vọng tưởng, vọng thức, vọng niệm nào cả,
thì trí tuệ bát-nhã tự bừng sáng. Tâm được thanh tịnh
thì cảnh vật cũng thanh tịnh, chúng sanh chung quanh cũng được
bình yên.
* * *
18) Trong Kinh Vị
Tằng
Hữu, Ðức Phật có dạy:
Tâm trước nghĩ ác,
như
đám mây đen che khuất mặt trời.
Tâm sau ăn năn nghĩ thiện, như ngọn đuốc sáng tiêu trừ hắc
ám.
Nghĩa là: Cái tâm ý
điên đảo đảo điên, cái vọng tưởng lăng xăng lộn xộn,
tạo tội tạo nghiệp này, luôn luôn nghĩ đến các điều
ác, điều bất thiện, lợi mình hại người, là nguyên
nhân chính dẫn chúng sanh vào vòng sanh tử luân hồi, vào cảnh
giới đen tối, như đám mây đen che khuất mặt trời. Khi giác
ngộ chánh pháp con người biết ăn năn sám hối, bỏ ác
làm thiện, tâm trí bình yên sáng suốt, tam đồ ác đạo lánh
xa, con người gần với cảnh giới Niết-bàn hơn, như ngọn
đuốc sáng tiêu trừ hắc ám. Cho
nên làm sao hàng phục và an trụ được cái tâm ý này
chính là trọng tâm của đạo Phật.
* * *
19) Trong Kinh Pháp
Cú,
Ðức Phật có dạy:
"Thắng vạn quân
không bằng tự thắng mình".
"Tự thắng tâm mình là điều cao quí nhứt".
Thắng được vạn
quân,
con người tóm thu được quyền lực, danh vọng, tiền tài,
của cải vật chất, đủ mọi thứ trên trần đời. Nhưng
tâm người đó vẫn sống trong tam giới: dục giới, sắc giới,
và vô sắc giới, cho nên vẫn còn phiền não khổ đau, vẫn
còn sanh tử luân hồi. Muốn xuất được tam giới gia, chúng
ta phải luôn luôn quán sát tâm chính mình: Khi nào tâm tham,
tâm sân, tâm si nổi lên liền biết, không theo. Lúc đó
chúng ta đã tự thắng mình: tức là tự kềm chế hành động,
ngôn ngữ, ý nghĩ của chính mình. Người ta công kích,
khích bác, vu khống, phỉ báng, phê phán, mạ lỵ, sỉ nhục,
mắng nhiếc, người nào phản ứng nhanh, trả đũa nặng nề
thì dễ quá, thường quá. Người nào tự thắng tâm mình,
nhẫn nhịn được mà không thấy nhục nhằn, nhịn mà
không nhục, tâm trí vẫn an nhiên tự tại, mới đáng kính
phục, mới là điều cao quí nhứt.
Muốn làm được như
vậy,
tức là muốn tự thắng tâm mình, chúng ta cần phải tu tập
ba môn học giải thoát, còn gọi là tam vô lậu học, đó
là: Giới, Ðịnh, Tuệ. Giới là ranh giới, là hàng rào ngăn
ngừa chúng ta tạo tội tạo nghiệp. Phật Tử tại gia có 5
giới phải giữ, đó là: sát, đạo, dâm, vọng, tửu. Tức
là: không sát sanh, không trộm cắp, không tà dâm, không nói
dối, không uống rượu. Phật Tử phát tâm xuất gia, trở
thành tu sĩ, phải giữ 10 giới, 250 giới, hay 348 giới, tùy
theo thời gian và công phu tu tập. Nhờ giữ gìn nghiêm ngặt
các giới luật, cho nên không tạo tội tạo nghiệp, tâm mới
được an nhiên tự tại, trong kinh sách gọi là: tâm thiền
định. Khi tâm an định được bao nhiêu, trí tuệ bát-nhã
phát sanh bấy nhiêu, nhờ đó chúng ta thêm tinh tấn, thấu
rõ chánh pháp, tiến nhanh trên con đường giác ngộ và giải
thoát.
* * *
20) Trong Kinh A
Hàm, Ðức
Phật có dạy:
"Không hạnh phúc
nào có thể so sánh với sự yên tĩnh của tâm trí".
Nghĩa là: Trên thế
gian, con người cảm thấy hạnh phúc dưới nhiều khía cạnh
khác nhau. Có người cho rằng: giàu sang quyền thế, nhiều
tiền lắm của, danh vọng địa vị, đó là hạnh phúc. Thực
sự, những người như vậy vẫn còn khổ đau phiền não và
sanh tử luân hồi, vẫn sống với vọng tâm điên đảo,
trong tâm trí không thực sự được an lạc. Cho nên, hạnh
phúc tối thượng chính là sự yên tĩnh của tâm trí. Tại
sao vậy? Bởi vì, sự yên tĩnh của tâm trí có thể giúp đỡ
con người đạt được giác ngộ và giải thoát.
* * *
21) Trong Kinh A
Hàm, Ðức
Phật có dạy:
"Tâm khẩu
nhứt như".
Nghĩa là: "Tâm khẩu
không khác".
Tâm nghĩ sao, miệng
nói
vậy. Miệng thường nói tốt, tâm nên nghĩ tốt. Như vậy,
cuộc sống mới được an lạc. Ngược lại, tâm nghĩ một
đàng, miệng nói một nẻo, miệng nói như vậy, tâm không
như vậy, nên sách có câu: Miệng thì nói tiếng nam mô.
Trong lòng chứa cả một bồ dao găm. Ở trên đời này, đố
ai lấy thước để đo lòng người. Trong sách có câu: Tri
nhân tri diện bất tri tâm, nghĩa là: biết người chỉ
biết mặt, không biết được tâm địa. Cho nên chư Tổ có
dạy: Phản quan tự kỷ, nghĩa là: hãy quay lại, quán
sát tâm chính mình, để giữ tâm khẩu nhứt như.
* * *
22) Trong Kinh Di
Giáo, Ðức
Phật có dạy:
"Chế tâm nhứt xứ,
vô sự bất biện".
Nghĩa là: Khi khắc
chế
được tâm ý, trụ tâm ở một chỗ, bằng cách tụng kinh,
niệm Phật, thiền quán, qua sự hiểu biết chánh pháp, tâm
trí bình tĩnh thản nhiên, không còn chuyện gì để cãi vã
nữa, để tranh chấp nữa, cho nên không có sự việc gì người
tu tập không hiểu biết sáng tỏ, rõ ràng, không biện luận
được một cách thông suốt. Ðiều này giải thích rằng:
không có vị Phật nào không biết thuyết pháp độ sanh.
* * *
B-
Chữ TÂM
qua lời dạy của chư tổ:
1) Trong Kinh Pháp
Bảo
Ðàn, Lục Tổ Huệ Năng có dạy: "Tâm thông thì thuyết
thông".
Hành giả nào thực
tâm tu học, không phân biệt tại gia cư sĩ, hay xuất gia tu
sĩ, tâm trí thông suốt, đạt được đến đâu, thuyết giảng
thông suốt, đến mức độ đó, lợi ích chúng sanh. Ví như
trước có học hành nghiêm túc, chân tu thực học, sau đó mới
có thể làm thầy chỉ dạy người khác.
* * *
2) Thiền sư Bá
Trượng
Hoài Hải có dạy: "Tâm
địa nhược không, tuệ nhựt tự chiếu".
Nghĩa là: Khi tâm
địa,
hay tâm thức, hoàn toàn trống rỗng, lặng lẽ, lẵng lặng,
thanh tịnh, không còn chứa chấp những vọng tâm, vọng tưởng,
vọng thức, vọng niệm nào cả, thì trí tuệ bát-nhã tự bừng
sáng. Cũng như mây đen tan biến hết, t?c là phiền não
không còn nữa, tâm thức không tịch, thì mặt trời trí tuệ
tự chiếu sáng. Tâm được thanh tịnh thì cảnh vật cũng
thanh tịnh, chúng sanh chung quanh cũng được bình yên.
Một căn phòng tăm
tối
ngàn đời, nhưng chỉ cần bật điện một cái, hay đem vào
một ngọn đèn, thì liền sáng tỏ ngay, đâu cần đợi ngàn
năm sau nữa, mới chịu sáng lại. Cũng vậy, khi con người
chịu mồi ngọn đuốc trí tuệ của mình với ngọn đuốc
chánh pháp của chư Phật, chư Tổ, thì ngọn đuốc trí tuệ
của mình cũng bừng sáng lên ngay. Giây phút bừng sáng đó,
trong thiền tông, gọi là: ngộ đạo.
* * *
3) Thiền sư Bá
Trượng
Hoài Hải có dạy: "Tâm
cảnh không dính nhau là: giải thoát".
Nghĩa là: Chúng ta
vẫn
thấy, vẫn nghe, vẫn hiểu, vẫn biết tất cả các cảnh
trên trần đời, trong kinh điển gọi là: kiến văn giác
tri, nếu tâm không dính mắc, thì không phiền não. Không phiền
não tức là giải thoát. Thật là hết sức đơn giản! Lý lẽ
tuy cao siêu vi diệu, nhưng hết sức thực tế. Bất cứ ai
cũng có thể làm được, không cần phải thờ lạy, cúng kiến,
không phân biệt tôn giáo, sắc tộc, ngôn ngữ, nghề nghiệp,
xuất xứ, học thức, nam nữ, già trẻ, bé lớn, giàu
nghèo, sang hèn. Tâm không phan duyên theo cảnh trần là: giải
thoát!
* * *
4) Sơ Tổ Thiền phái
Trúc Lâm Trần Nhân Tông có dạy: "Ðối
cảnh vô tâm mạc vấn thiền".
Nghĩa là: Khi nào
đối
trước cảnh trần, tâm không còn dính mắc, không khởi bất
cứ tâm niệm gì, trong kinh sách gọi là: vô tâm vô niệm, tức
là không còn khởi tâm tham sân si, thản nhiên trước sự thịnh
suy, thăng trầm của đời sống, bình thản trước những lời
khen tiếng chê, vượt qua được sóng gió của cuộc đời,
tức nhiên tâm sẽ được khinh an, tự tại, đó là: thiền
định Niết-bàn.
Con người sống trên
đời, mắt, tai, mũi, lưỡi, thân và ý, thường xuyên tiếp
xúc với các cảnh trần: hình ảnh, âm thanh, mùi hương, mùi
vị, xúc chạm và ký ức. Khi con người tiếp xúc với các
trần cảnh, mà bị dính mắc, tức là: trong tâm khởi niệm
thương hay ghét, khen hay chê, ưa thích hay tức giận, đều gọi
là: loạn tâm vọng tâm. Không khởi bất cứ tâm niệm nào
cả, gọi là: định tâm, hay: tâm thiền định. Ðây chính
là cốt tủy, là mục đích cứu kính của đạo Phật vậy.
* * *
5) Chư Tổ có dạy:
"Lục căn tiếp xúc
lục trần, không sanh lục thức, là: giải thoát".
Nghĩa là: Thường
ngày,
khi sống trong cõi đời này, sáu căn tiếp xúc với sáu trần,
mà không sanh tâm dính mắc, không sanh tâm loạn động vì
tham sân si, trong kinh sách gọi là: lục thức hay lục tặc,
thì chúng ta sẽ được tự tại, giải thoát ngay hiện đời.
Mắt trông thấy sắc, tai nghe thấy tiếng, mũi ngửi biết mùi,
lưỡi nếm biết vị, nhưng mà đừng khởi niệm thương
hay ghét, thích hay không thích, nếu như có khởi niệm rồi
thì cũng đừng theo. Như vậy chúng ta đâu có gì gọi
là phiền não, khổ đau nữa, tức là được giải thoát.
* * *
6) Thiền sư Mã Tổ
Ðạo
Nhất có dạy: "Tức Tâm thị Phật ", hay: "Phật
tức Tâm, Tâm tức Phật".
Nghĩa là: Tâm của
chúng ta chính là Phật, Phật chính là tâm của chúng ta. Khi
chúng ta hành động, nói năng hay suy nghĩ bất thiện, lợi mình
hại người, tức là tam nghiệp không thanh tịnh, tâm Phật
ẩn mất. Khi chúng ta hành động, nói năng hay suy nghĩ hiền
thiện, lợi mình lợi người, tức là tam nghiệp thanh tịnh,
tâm Phật hiển hiện. Thực là đơn giản!
Vì không chịu học
hiểu
giáo lý, biết bao nhiêu người gọi là Phật Tử, tại gia
hay xuất gia, tin theo đạo Phật, không khác gì ngoại đạo.
Ngoại đạo nghĩa là: tuy vẫn thờ tượng Phật, tại gia
hay là tại chùa, nhưng vẫn thường ngày ngoài tâm cầu
đạo, chỉ biết lo chuyện cúng kiến lễ nghi, dâng sớ
cầu an, cúng sao giải hạn, cầu khẩn van xin, cầu nguyện
khấn vái, đủ thứ mọi điều, nhưng không hiểu không biết
Phật ở nơi đâu?
Ngoài tâm không có
Phật,
cầu Phật ngoài tâm, là nghĩa lý gì? Phật không ở trong
chùa, không ở trong các pho tượng, bằng vàng hay bạc, bằng
đồng hay cây. Phật không ở trên mây, trên non hay trên
núi. Phật không ở dưới suối, dưới sông hay dưới biển.
Chúng ta không cần phải đi đến xứ Ấn Ðộ xa xôi, hay bất
cứ nơi đâu, mới thấy được Phật. Phật đang ở ngay
trong tâm của chúng ta.
Khi thấy người nào
vào chùa, van xin cầu khẩn chư Phật ban cho điều này điều
kia, chư Tổ thường dạy: Ngươi cõng Phật đi tìm Phật!
Nghĩa là: chư Phật đã bỏ những điều phiền não, chỉ dạy
pháp môn tu tập để giải thoát, để thành Phật, chúng ta
không chịu tu học, để tự mình thoát ly phiền não khổ
đau, trái lại chúng ta van xin cầu khẩn những điều phiền
não, chẳng hạn như: tiền tài, danh vọng, ước gì được
nấy, nhứt bổn triệu lợi, buôn may bán đắt, thi đâu đậu
đó, bình yên vô sự, nhà cao cửa rộng, điều cuối cùng
là: cầu vãng sanh cực lạc quốc!
Cầu không được, khổ
là cái chắc!
Cầu bất đắc, tức khổ không sai!
* * *
7) Chư Tổ có dạy: "Tâm,
Phật, chúng sanh, tam vô sai biệt".
Nghĩa là: Tâm, Phật
và chúng sanh, cả ba không khác, không sai biệt. Trong kinh nhựt
tụng có câu: Năng lễ sở lễ tánh không tịch, nghĩa là:
Phật và chúng sanh tánh thường rỗng lặng. Tâm của người
nào không chất chứa bất cứ hình ảnh của chúng sanh trong
ba cõi, sáu đường, hoàn toàn trống rỗng, tĩnh lặng, tâm
người đó chính là tâm Phật.
Trong Kinh Hoa
Nghiêm, Ðức
Phật có dạy: "Nhứt thiết chúng sanh giai hữu Phật
tánh", nghĩa là: tất cả chúng sanh đều có Phật
tánh, Phật tâm, chính nghĩa như vậy.
* * *
8) Chư Tổ có dạy:
Tam nghiệp
hằng thanh tịnh.
Ðồng Phật vãng tây phương.
Nghĩa là: Khi nào
ba
nghiệp thân khẩu ý thanh tịnh hoàn toàn, tâm của chúng ta
đồng với tâm chư Phật ở tây phương. Biết sống với bản
tâm thanh tịnh thường hằng, ngay hiện tại, đó là cảnh
giới Niết-bàn an lạc. Nói một cách khác: khi ba nghiệp chưa
thanh tịnh, con người sống đau khổ trong tam giới, khi ba
nghiệp hằng thanh tịnh, con người sống an lạc trong Niết-bàn,
như khi Ðức Phật còn tại thế, chứ không phải đợi sau
khi chết mới vãng sanh tây phương.
Mỗi người đều có
một
kho tàng tâm thức, chứa đầy những hình ảnh âm thanh từ
ngày xưa cho đến bây giờ, những chuyện thị phi phải quấy,
những định kiến đúng sai, những người thương kẻ ghét,
những lời nói dễ nghe khó nghe, do tam nghiệp thân khẩu ý
gây ra, cho nên tâm trạng lúc nào cũng bất an, chưa được
thanh tịnh, luôn luôn phiền não khổ đau và trầm luân sanh
tử. Nếu phát tâm tu tập, chúng ta phải cố gắng dọn sạch
cái kho tàng tâm thức của mình, mới có thể giác ngộ được
chân lý, giải thoát khỏi tam giới khổ đau. Kho tàng tâm thức
đã được dọn sạch, trống trơn, trong kinh sách gọi là:
Như Lai Tạng.
* * *
9) Chư Tổ cũng có
dạy:
"Nội cần khắc niệm chi công".
"Ngoại hoằng bất tranh chi đức".
Nghĩa là: Bên trong
tâm, người tu tập cần khắc chế tạp niệm, tức là
không theo các tâm niệm hổn tạp, lăng xăn lộn xộn, đó mới
chính thực là: công phu tu tập. Bên ngoài, người tu tập giữ
gìn đức độ bằng cách không tranh cãi, nói năng luôn luôn
đúng chánh pháp, im lặng cũng luôn luôn đúng chánh pháp.
* * *
10) Chư Tổ có dạy:
Tác vô nghĩa sự.
Thị
cuồng loạn tâm.
Tác hữu nghĩa sự. Thị tỉnh ngộ tâm.
Nghĩa là:
Làm việc vô nghĩa:
đem lại phiền não khổ đau, lợi mình hại người. Là tâm
cuồng loạn.
Làm việc có nghĩa: đem lại an lạc hạnh phúc, cho mình và
cho người. Là tâm tỉnh ngộ.
* * *
Tóm
lại, trên cuộc đời này, dù giàu sang hay nghèo khó, dù
trí thức hay bình dân, dù nam phụ lão ấu, dù da trắng da
đen hay da màu, dù vua chúa hay dân chúng, nói chung, bất cứ
người nào cũng có hai thứ bệnh: thân bệnh và tâm bệnh.
Ðối với thân bệnh, chẳng hạn như đau răng, nhức đầu,
sổ mũi, cảm cúm, đau tim gan tì phế thận, con người cần
tới khả năng trị bệnh của các vị thầy thuốc, dù đông
y hay tây y. Ðể phòng ngừa thân bệnh, có những phương pháp
tập thể dục, những cách dưỡng sinh khoa học, những chế
độ ăn uống thích ứng với từng lứa tuổi, và tình trạng
sức khỏe cá nhân.
Còn đối với tâm
bệnh,
chẳng hạn như tâm tham sân si, tâm ganh tị đố kỵ, tâm hơn
thua phải quấy, tâm thành kiến cố chấp, tâm lo âu sợ sệt,
tâm loạn động b?t an, con người cần phải tìm hiểu chánh
pháp và áp dụng trong đời sống hằng ngày. Ngay đến Ðức
Phật là bậc toàn giác, trí tuệ sáng ngời, phước báu vô
biên, vẫn CÓ thân bệnh, nhưng KHÔNG phiền não và khổ
đau, tâm trí vẫn an nhiên tự tại, trong mọi hoàn cảnh.
Nói một cách khác: Ðức Phật không có tâm bệnh. Bất cứ
ai sống trên đời này, còn mang thân xác con người, là còn
khổ vì thân bệnh, nếu không giác ngộ được chân lý vi
diệu nhiệm mầu. Các vị giáo chủ của các tôn giáo cũng
có thân bệnh và rồi cũng chết như mọi người mà thôi.
Khi đứng trong một
căn phòng, cầm đèn rọi ra bên ngoài, thì mình sẽ thấy
rõ, biết rõ cảnh vật bên ngoài, còn bên trong căn phòng
thì tối thui. Ngược lại, khi xoay ngọn đèn vào bên trong căn
phòng, dĩ nhiên căn phòng sáng tỏ, một cách rõ ràng, con người
có thể thấy mọi thứ đồ đạc và đi đứng không bị vấp
ngã. Cũng vậy, khi phóng tâm quán sát bên ngoài, con người
có thể phê phán người này đúng, người kia sai, chuyện này
phải, chuyện kia quấy.
Con người có thể
biết
chuyện khắp năm châu bốn biển, chuyện thời sự khắp thế
giới, chuyện văn chương kim cổ đông tây, muôn sự mọi việc
bên ngoài đều biết rõ ràng rành mạch. Trái lại, chuyện
bên trong tâm trí của chính mình thì mù tịt, chẳng biết
tí gì cả! Mình thực sự là ai, chẳng biết! Mình thực sự
đang muốn gì, chẳng biết! Mình thực sự đang làm thiện
hay bất thiện, chẳng biết! Mình thực sự đang nghĩ thiện
hay bất thiện, chẳng biết! Mình thực sự sống trên đời
để làm gì, chẳng biết! Mình sau này sẽ đi về đâu, nếu
vẫn cứ tạo tội tạo nghiệp hằng ngày, chẳng biết! Chuyện
gì thuộc về bên trong, thuộc về nội tâm, chúng ta cũng đều
chẳng biết! Cái tâm ý điên đảo đảo điên, cái vọng tưởng
lăng xăng lộn xộn, tạo tội tạo nghiệp này, là nguyên
nhân chính dẫn chúng ta vào vòng sanh tử luân hồi.
Làm sao hàng
phục và
an trụ được cái Tâm Ý này chính là trọng tâm của đạo
Phật. Ðiều quan trọng trong đạo Phật chính là:
Tâm trí
có dính mắc
hay không dính mắc cảnh trần.
Nếu tâm dính mắc, gọi là: tâm phan duyên, tâm loạn động.
Nếu tâm không dính mắc, chính là: bản tâm thanh tịnh vậy.
-ooOoo-
Phê phán và
tán dương
Cư-sĩ Chính-Trực
Khi nghe lời nói
phê phán phỉ báng
khởi tâm tức giận,
tức là châm ngòi
cho người gièm pha .
Khi nghe lời nói
khen ngợi tán dương
khởi tâm mừng rỡ,
tức là làm mồi
cho người nịnh hót.
-ooOoo-